Đan viện Cát Minh - Bình Triệu: Hồng ân vĩnh khấn

Đan viện Cát Minh - Bình Triệu: Hồng ân vĩnh khấn

WGPSG -- Lúc 09g30 ngày 17/9/2011, Thánh lễ tạ ơn và vĩnh khấn được cử hành tại nhà nguyện dòng kín Cát Minh Bình Triệu do Đức Hồng y Gioan Baotixita Phạm Minh Mẫn, Tổng Giám mục Giáo phận Thành phố Hồ Chí Minh chủ tế. Đồng tế với ngài có một số quý cha trong và ngoài Giáo phận.

Đến hiệp dâng Thánh lễ còn có quý tu sỹ nam nữ, gia đình, quý thân nhân của khấn sinh cùng đông đảo cộng đoàn Dân Chúa.

Thánh lễ kết thúc lúc 11 giờ cùng ngày trong tâm tình tri ân Thiên Chúa, vì từ nay Giáo hội đã có thêm chị Mary Jacinta Chúa Giêsu Thánh Thể Nguyễn Thị Hiền, dâng hiến đời mình cho Chúa. Xin cho những bước đi mới với ước nguyện Chúa Giêsu Thánh Thể và Mẹ Maria rất thánh gìn giữ và nâng đỡ chị trong suốt cuộc hành trình hôn ước.

Sau Thánh lễ, thân nhân và gia đình đã đến chúc mừng, chia sẻ niềm vui với khấn sinh tại nhà thăm viếng riêng biệt theo quy định của nhà kín Cát Minh Bình Triệu và dùng bữa cơm thanh đạm.

GIỚI THIỆU ĐÔI NÉT VỀ ĐAN VIỆN CÁT MINH BÌNH TRIỆU

1. Tên chính thức của Hội Dòng: Dòng Đức Trinh Nữ Maria Núi Cát Minh

2. Năm thành lập tại Việt Nam: 1861

3. Châm ngôn Dòng: “Tôi nhiệt thành vì vinh quang Thiên Chúa” (1V 19,14a). “Vạn tuế Thiên Chúa hằng sống, Đấng tôi hằng chiêm ngưỡng” (1V17,1).

4. Mục đích Dòng: Sống đời cầu nguyện liên lỉ và yêu mến để cầu nguyện cho Giáo hội, cùng mọi đấng bậc trong Hội Thánh và nên nhân chứng cho Thiên Chúa Tình Yêu.

5. Biểu tượng của Dòng: Chú thích “Zélo zelátus sum pro Dónimo, Deo execituum” (Tôi nhiệt thành vì vinh quang Thiên Chúa).

6. Linh đạo và Đoàn sủng của Dòng

Ơn gọi Dòng Cát Minh là một ơn huệ của Chúa Thánh Thần, nhằm mời gọi các nữ đan sĩ sống kết hiệp thân tình với Thiên Chúa trong tình thân hữu với Đức Kitô và sự mật thiết với Đức Maria, qua sự cầu nguyện và chiêm niệm các thực tại thần linh, nhờ việc thực hành các lời khuyên Phúc Âm trong một cộng đoàn huynh đệ nhỏ, được thiết lập trên nền tảng cô tịch, nguyện gẫm và khó nghèo triệt để. Do vậy, việc tông đồ của Dòng Cát Minh là việc tông đồ thuần tuý chiêm niệm hệ tại ở cầu nguyện và hy sinh với Giáo hội và cho Giáo hội, không có các hình thức hoạt động bên ngoài.

Đúng theo lý tưởng Mẹ Thánh Têrêsa - Đấng cải tổ Dòng - các nữ đan sĩ sống đời chiêm niệm hướng về Giáo hội trong sự hài hoà giữa bầu khí cô tịch và thinh lặng, lấy lòng mến Chúa làm trung tâm và lấy tình bác ái huynh đệ hiệp với sự từ bỏ quảng đại theo tinh thần Phúc Âm làm quy luật.

7. Lễ Bổn Mạng chính của Hội Dòng

Ngày 16/7 – Kính Đức Mẹ Núi Cát Minh.

Thánh Kinh luôn ca tụng vẻ đẹp núi Cát Minh, nơi tiên tri Êlia đã chiến đấu bảo vệ niềm tin của dân Israel đối với Thiên Chúa hằng sống. Ở đó, bên dòng suối mang tên của vị Tiên Tri, bắt đầu từ thế kỷ XII trở đi, một số đan sĩ đã đến lập Dòng và xây cất một nguyện đường kính nhớ Mẹ Thiên Chúa và đã xin Giáo chủ Giêrusalem một quy luật để sống. Chính vì thế mà họ được gọi là đan sĩ Dòng Đức Trinh Nữ Maria Núi Cát Minh. Các đan sĩ này đã chọn Đức Maria làm quan thầy, chẳng những cho thánh đường mà còn cho cả cộng đoàn, coi Người như Mẹ và gương mẫu hướng dẫn đời sống tu trì. Lễ này được cử hành đó đây từ thế kỷ XIV, lần hồi đã lan rộng ra cả Dòng ở khắp nơi như biểu hiện lòng tri ân của con cái trong Dòng về bao phúc lộc mà Mẹ Thiên Chúa đã ban cho gia đình Cát Minh của Người.

Ngoài lễ kính Đức Mẹ Núi Cát Minh là lễ chung cho cả Hội Dòng, mỗi Đan viện còn có một thánh quan thầy riêng:

- Đan viện Sài Gòn: Thánh Cả Giuse
- Đan viện Bình Triệu: Đức Mẹ Núi Cát Minh
- Đan viện Nha Trang: Chúa Kitô Vua
- Đan viện Huế: Mẹ Thánh Têrêsa

8. Đôi nét lịch sử Dòng

- Đời sống đan sĩ có nguồn gốc từ thời tiên tri Êlia sống trên núi Carmel (năm 854 trước Công Nguyên).

- Đến năm 1247, Đức Giáo hoàng Innocente IV đã phê chuẩn quy luật tiên khởi Dòng Đức Trinh Nữ Maria Núi Cát Minh.

- Sau cơn dịch, tiếp đến chiến tranh đói kém tại Châu Âu năm 1347, sức khoẻ con người suy yếu, dần dà đời sống tinh thần trong Đan viện cũng lỏng lẻo, nên các đan sĩ đã sống theo Luật Dòng Cát Minh giảm chế.

- Đến thời Thánh Têrêsa vào thế kỷ XV, vì muốn hoàn toàn thuộc về Chúa và sống cho Ngài, để cầu nguyện cho hàng Giáo phẩm đã thoái hoá và chống lại nhóm ly khai, nên Thánh Têrêsa đã cùng một số chị em say mê lý tưởng tu kín đi thành lập Dòng Cát Minh Cải Tổ đầu tiên tại thành Avila ngày 24 tháng 8 năm 1562.

- Đến năm 1585, nhóm Cải tổ đã tách ra thành Tỉnh Dòng tự trị với tên: “L’Ordre Des Carmes Déchaussées” (OCD).

- Năm 1604: Dòng Cát Minh cải tổ được thành lập tại Pháp.

- Carmel Lisieux (Pháp) đã lập Dòng Cát Minh Sài Gòn là Đan viện Cát Minh đầu tiên tại Việt Nam năm 1861, do Mẹ Philomène de L‘Immaculée Conception.

- Sau đó, Dòng Cát Minh Sài Gòn đi lập Dòng Cát Minh Hà Nội (1895).

- Dòng Cát Minh Hà Nội lập Dòng Cát Minh Huế (1909) và Dòng Cát Minh Bùi Chu (1923).

- Dòng Cát Minh Huế lập Carmel Jalo Iloilo (1923) ở Philippines, Carmel Cholet (1925) ở Pháp và Dòng Cát Minh Thanh Hóa (1929) tức là Dòng Cát Minh Nha Trang bây giờ.

Tháng 04/1975, hoàn cảnh đất nước biến động. Các Dòng tu ở Huế đều di tản vào Nam để tránh bom đạn. Dòng Cát Minh Huế cũng vào Sàigòn và định cư tại giáo xứ Bình Triệu. Vì thế, Dòng được gọi là “Đan viện Cát Minh Huế – Bình Triệu”. Nhờ hồng ân Chúa, ơn gọi ngày càng phát triển theo dòng thời gian. Năm 1996, Đan viện có gần 40 nữ tu.
Các Bề trên trong thời gian ở Bình Triệu:

Ngày 17-04-1996, Mẹ Bề trên M. Thérèse Consolata đã đưa 12 nữ tu trở về Huế để tái thiết Đan viện Huế. Trong thời gian này, Đan viện đã nhận thêm nhiều ơn gọi.

Tháng 3 năm 1998, khi Đan viện Cát Minh Huế đã ổn định, Toà Thánh gởi sắc chỉ công nhận Đan viện Cát Minh Bình Triệu được chính thức thiết lập qua sự chấp thuận của Đức Tổng Giám mục Tp. Hồ Chí Minh (ĐHY Gioan Baotixita Phạm Minh Mẫn). Từ nay, Đan viện Cát Minh Huế và Cát Minh Bình Triệu là hai đan viện khác nhau. Ngày 4/6/1998 Đan viện Cát Minh Bình Triệu được chính thức thiết lập với danh hiệu “Đan viện Đức Mẹ Núi Cát Minh”, gồm 23 nữ tu, dưới sự điều hành của Mẹ Bề trên M. Thérèse Consolata du Saint Esprit Nguyễn Thị Thu Hương.

Nhờ sự hiệp nhất trong bác ái, tất cả chị em luôn sống vui tươi và bình an trong Tình Yêu Chúa. Ơn gọi ngày càng thêm đông, chị em càng sống kết hiệp thâm sâu hơn với Thiên Chúa trong tình thân hữu với Đức Kitô và Mẹ Người, qua cuộc sống tầm thường đơn sơ bé nhỏ mà việc cầu nguyện và hy sinh được nối kết với một tình yêu dành cho Thiên Chúa, Giáo hội và các linh hồn.

Hiện nay, Đan viện Cát Minh Bình Triệu có 40 nữ tu, Dòng không được phép quá số nói trên.

Được sự chấp thuận của Toà Thánh, Đức Hồng y Gioan Baotixita Phạm Minh Mẫn và Đức cha Đaminh Nguyễn Chu Trinh, Mẹ Bề trên M. Thérèse Consolata đã đưa 7 nữ tu lên một cơ sở mới của Đan viện tại giáo xứ Bình Minh, thuộc giáo hạt Gia Kiệm, Giáo phận Xuân Lộc. Từ nay, một cộng đoàn chiêm niệm đã khởi sự, bén rễ sâu trong cầu nguyện và hy sinh, trong cô tịch “một mình với một mình Chúa”, trong thanh vắng của chốn thâm u, dưới bóng Hiền Mẫu của Đức Maria, Mẹ và Nữ Vương Dòng Cát Minh.

9. Thánh Têrêsa Avila – Đấng cải tổ Dòng Cát Minh

Ngày mừng: 15/10

Thánh nữ Têrêsa sinh ngày 18-03-1515 tại Avila nước Tây Ban Nha, trong một gia đình quý phái.

Vào Dòng Cát Minh năm 1535, Người đã tiến xa trên đường trọn lành và được nhiều mặc khải thần bí. Người khởi công cải tổ lại Dòng Cát Minh với tinh thần nhiệm nhặt. Người thành lập Đan viện đầu tiên tại Avila, rồi tiếp tục lập nhiều đan viện nam nữ khác nữa. Người đã gánh chịu nhiều khốn khó và can đảm vượt qua tất cả. Người để lại những tác phẩm thiêng liêng giá trị và khúc chiết, đúc kết chính kinh nghiệm sống của Người: Sách tự thuật (1569), Đường hoàn thiện (1570), Lâu đài nội tâm (1577). Người được mệnh danh là “Mẹ của giới chiêm niệm”. Thánh nữ qua đời tại Đan viện Alba ngày 4-10-1582, hưởng thọ 67 tuổi.

Năm 1614 Đức Thánh Cha Phaolô V đã tôn phong Người lên bậc Chân phước. Người được vinh thăng Hiển Thánh vào năm 1622 dưới triều Đức Thánh Cha Grêgoriô XIV.
Ngày 27-9-1970 Đức Thánh Cha Phaolô VI đã công bố Thánh Têrêsa là Tiến sĩ Hội Thánh.

10. Hoa trái của Dòng:

Đã có rất nhiều vị thánh nam nữ trên thế giới, như chị thánh Têrêsa Hài Đồng Giêsu đã sống 9 năm trong Dòng Kín Lisieux, được phong thánh năm 1925, được tuyên xưng là quan thầy các xứ truyền giáo năm 1927, được phong Tiến sĩ Hội Thánh năm 1997.

11. Hoạt động chính của Dòng: Hy sinh cầu nguyện

bài liên quan mới nhất

bài liên quan đọc nhiều

Top