Gợi ý suy niệm Phúc Âm Chúa Nhật 4 Mùa Chay – năm B (song ngữ)

Gợi ý suy niệm Phúc Âm Chúa Nhật 4 Mùa Chay – năm B (song ngữ)

4th Sunday of Lent
Reading I: 2 Chronicles 36:14-17,19-23

Reading II: Ephesians 2:4-10

Chúa Nhật 4 Mùa Chay
Bài Đọc I:
Sử Biên Niên 36,14-17.19-23
Bài Đọc II: Êphêxô 2,4-10

Gospel
John 3:14-21

14 And as Moses lifted up the serpent in the wilderness, so must the Son of man be lifted up,
15 that whoever believes in him may have eternal life."
16 For God so loved the world that he gave his only Son, that whoever believes in him should not perish but have eternal life.
17 For God sent the Son into the world, not to condemn the world, but that the world might be saved through him.
18 He who believes in him is not condemned; he who does not believe is condemned already, because he has not believed in the name of the only Son of God.
19 And this is the judgment, that the light has come into the world, and men loved darkness rather than light, because their deeds were evil.
20 For every one who does evil hates the light, and does not come to the light, lest his deeds should be exposed.
21 But he who does what is true comes to the light, that it may be clearly seen that his deeds have been wrought in God.

Phúc Âm
Gioan 3,14-21

14 Như ông Mô-sê đã giương cao con rắn trong sa mạc, con người cũng sẽ được giương cao như vậy,
15 để ai tin vào người thì được sống muôn đời.
16 Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một để ai tin vào Con của Người thì khỏi phải chết, nhưng được sống muôn đời.
17 Quả vậy Thiên Chúa sai Con của Người đến thế gian, không phải để lên án thế gian, nhưng là để thế gian, nhờ Con của Người, mà được cứu độ
18 Ai tin vào Con của Người, thì không bị lên án; nhưng kẻ không tin, thì bị lên án rồi, vì đã không tin vào danh của Con Một Thiên Chúa.
19 Và đây là bản án: ánh sáng đã đến thế gian, nhưng người ta đã chuộng bóng tối hơn ánh sáng, vì các việc họ làm đều xấu xa.
20 Quả thật, ai làm điều ác, thì ghét ánh sáng và không đến cùng ánh sáng, để các việc họ làm khỏi bị chê trách.
21 Nhưng kẻ sống theo sự thật , thì đến cùng ánh sáng, đẻ thiên hạ thấy rõ: các việc của người ấy đã được thực hiện trong Thiên Chúa.

Interesting Details - Chi Tiết Hay

- Verses 14 to 21 constitute the second part of the conversation between Jesus and Nicodemus when he came to seek out Jesus during the night. In the first part of the conversation (3:1-13), Jesus told Nicodemus that man has to be reborn through the Spirit to enter eternal life.

+ Câu 14 đến 21 là phần nhì của cuộc đối thoại giũa Đức Giêsu và Nicôđêmô khi ông đến tìm Đức Giêsu giữa đêm khuya. Trong phần trước (3:1-13), Đức Giêsu giảng cho Nicôđêmô là con người phải được sinh lại bởi Thần Khí để đạt đến đời sống vĩnh cữu.

- (v.14) The reference of the bronze serpent is from the book of Numbers 21:4. As the bronze serpent was the symbol of salvation for the Israelites who believed in God, the crucifixion of Jesus on the cross is the sign of God's salvation for all mankind.

+ (c.14) Chuyện con rắn đồng là từ sách Dân số 21:4. Như xưa con rắn đồng là đấu hiệu cứu độ cho những người Do thái biết tin vào Thiên Chúa, cuộc tử nạn của Đức Giêsu trên thập giá là dấu chỉ cứu độ của Thiên Chúa cho nhân loại.

- (v.14) "Lifted up" implies both being lifted off the earth (being crucified on the cross), and being lifted onto the glory of God (the resurrection).

+ (c.14) "Được giương cao" bao gồm hai ý nghĩa: (1) nâng lên khỏi mặt đất (khổ nạn trên thập giá), và (2) nâng lên trong vinh quang của Thiên Chúa (sự sống lại từ cõi chết).

- (v.16) God's love is the single principle of his salvation for the world, and humankind in particular. It is of this Love that God gifted the world with His Son so that He would come, not to condemn, but to lead mankind to eternal life.

+ (c.16) Tình yêu là căn bản của công trình cứu độ cho thế giới nói chung , cho nhân loại nói riêng. Bởi vì Tình yêu này, Thiên Chúa đã ban cho thế giới Con Một của Ngài đến, không phải để lên án, nhưng dẫn nhân loại đến đời sống vĩnh cữu.

- (v.18) Mankind must participate actively to obtain salvation by following the path of the cross laid down by Jesus. By his own action of believing in God and His salvation, mankind will determine his own salvation or condemnation.

+ (c.18) Nhân loại phải tham gia một cách cựu thể để đạt được ơn cứu độ bằng cách đi theo con đường thập giá Đức Giêsu đã dọn trước. Qua việc tin tưởng vào Thiên Chúa và ơn cứu độ của Ngài, nhân loại sẽ quyết định sự cứu rỗi hay sự kết án.

- (v.21) With the theme of darkness versus light, John repeated the same theme in the prologue (1:4) that Jesus is the light of the human race. People who are not willing to come to the light which is Jesus, they do not see the evil of their own disbelief.

+ (c.21) Qua cùng một đề tài bóng tối và ánh sáng trong lời tựa (1:4), Thánh Gioan đã nhắc lại Đức Giêsu là ánh sáng thế gian. Những ai không muốn tới gần ánh sáng, là Chúa Giêsu, họ sẽ không nhận thấy được sự nguy hại của sự bất tín.

- Faith is a question of "works" rather than "deeds." "Works" is a personal response in faith through which the believer enters into a communion with God through Jesus. Rejecting Jesus is to alienate oneself from a life-giving communion with Jesus.

+ Đức tin là một vấn đề của "hành động" hơn là "thành quả". "Hành động" là sự đáp lại trong đức tin mà người tín hữu kết hợp được với Thiên Chúa qua Đức Giêsu.

One Main Point - Một Điểm Chính

Because of His love for mankind, God gifted the world with His only Son, Jesus. Because of His love for mankind, Jesus laid down the path for salvation with His own blood and life for man to follow to obtain eternal life. Love and faith in God are the keys to eternal life.

Vì tình yêu của Ngài cho nhân loại. Thiên Chúa đã ban cho thế giới Con Một của Ngài là Đức Giêsu. Vì tình yêu cho nhân loại, và với chính mạng sống và máu của Ngài, Chúa Giêsu đã đem đến cho nhân loại con đường cứu độ để đạt đến đời sống vĩnh cữu. Tình yêu và tín thác vào Thiên Chúa là chìa khóa để đạt đến đời sống vĩnh cữu.

Reflections - Suy Niệm

1. Let us reexamine our attitude and mentality during our life of the past month. Let us be honest to ourselves and reflect the priority we have given to Christ and His will. Is Christ the "light" in our life, or is He just one of the "lights", such as the "light" of arrogance, the "light" of acquired wealth, the "light" of power, the "light" of hatred, etc.. Are we ready to bet our life on the "light" of Christ?.

1.  Chúng ta hãy xét lại thái độ và tâm tánh của chúng ta trong cuộc sống trong tháng vừa qua. Hãy trung thực với chính mình và suy niệm về ưu tiên chúng ta dành cho Thiên Chúa và thánh ý Ngài. Chúa Kitô là "ánh sáng" trong cuộc sống của tôi, hay Ngài chỉ là một trong những "ánh sáng" khác, chẳng hạn như là "ánh sáng" của tự kiêu, "ánh sáng" của giàu sang tiền của, "ánh sáng" của quyền thế, "ánh sáng" của căm hờn, vân vân...Tôi có sẵn sàng đánh đổi mạng sống của mình vì "ánh sáng" của Chúa Kitô chưa?

2. Let us reflect on the true motives that keep us from embracing the "light" of Christ in our life. Does it make us loving someone that we want to hate? Does it make us realize that we have our own priority? Or is that because we are afraid that it will make clear the evil of our ways?

2. Chúng ta hãy suy niệm xem những gì là nguyên do ngăn cản tôi đón nhận "ánh sáng" của Chúa Kitô vào cuộc sống? Có phải là vì tôi phải thương những người tôi muốn căm hờn? Có phải vì tôi nhận ra là tôi có những ưu tiên của riêng tôi? Hay là vì tôi sợ "ánh sáng" đ'o sẽ cho tôi thấy rõ ác tâm của mình?

3. "God so loved the world that He gave His only Son" is a declaration of God's love to humankind. The agony of rejection is rather a common human experience. Contemplate over the agony that God has to bear over the way we use our freedom - a gift from God - to reject His love and His desire to restore goodness in mankind.

3. "Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một" là tuyên ngôn của tình yêu Thiên Chúa cho nhân loại. Đau khổ khi bị chối từ là tâm trạng thông thường mà con người chúng ta không ai tránh khỏi. Hãy dùng kinh nghiệm bản thân và chiêm niệm nỗi đau xót của Thiên Chúa phải gánh lấy khi thấy chúng ta dùng sự tự do - một món quà Thiên Chúa ban - để từ chối tình yêu của Ngài và lòng khát khao của Ngài muốn đem lại thiên tâm trong lòng nhân loại.

4. Salvation is belief in God accompanied by works done in God. "Belief in Jesus" and "works done in God" must go together. Let us reflect on the occasions when we lost our faith in God, and ask ourselves how often our works were done in God.

4. Ơn cứu độ là sự tín thác vào Thiên Chúa cùng với hành động theo thánh ý Chúa. "Tín thác vào Chúa Giêsu" và "hành động theo thánh ý Thiên Chúa" phải đi đôi với nhau. Hãy suy niệm những khi chúng ta mất lòng tin nơi Thiên Chúa, và tự hỏi tôi có thường xuyên hành động theo thánh ý Chúa không?

Top