Giá trị của giáo xứ ngày nay
WGPQN (24/9/2025) - Đây là bài chia sẻ của Cha Louis Hồ Trọng Hưng trong Khóa Thường huấn Linh mục Giáo phận Qui Nhơn với chủ đề "Giá trị của giáo xứ ngày nay" vào ngày 24/9/2025.
Dẫn nhập
Trong đợt thường huấn năm nay, Ban thường huấn giáo phận muốn linh mục đoàn của giáo phận Qui nhơn cùng nhau học hỏi Huấn thị cải tổ mục vụ cộng đoàn giáo xứ để phục vụ sứ vụ loan báo Tin mừng của Giáo hội. Ngay từ chính tiêu đề, huấn thị đã xác định một cách minh nhiên “giáo xứ hay cộng đoàn giáo xứ” chính là chủ thể (đối tượng) mà ngay chính những hoạt động của nó sẽ ảnh hưởng một cách mạnh mẽ đến sứ vụ loan báo Tin mừng. Như thế, giáo xứ là gì? Đâu là những giá trị của nó ngay chính trong ơn gọi của mình?
Trong bối cảnh phát triển nhiều mặt của xã hội ngày nay, một trong những về vấn đề lớn làm thay đổi bộ mặt xã hội đó là vấn đề toàn cầu hoá. Thế giới nhân loại không còn bị chia cách, xa lạ nhưng hoàn toàn xích gần lại với nhau. Điều này làm cho nhân loại dễ dàng chia sẻ cho nhau các giá trị trong cuộc sống.
Bên cạnh đó, là những cuộc di dân trong con đường tìm kế sinh nhai cũng góp phần làm nên một sự thay đổi lớn trong xã hội loài người. Kẻ đến người đi đã làm cho xã hội con người không còn đóng khung trong những bức tường làng xã – các lũy tre làng, nơi ôm lấy những giá trị độc đáo, riêng tư nữa mà là một sự hoà trộn lẫn nhau. Tất cả đã làm nên một sự thay đổi phong phú và đa dạng trong đời sống.
Với sự hiệp thông trọn vẹn như cành nho với thân nho, cộng đoàn giáo xứ và các sinh hoạt của nó cũng không thể né tránh được sự hoà trộn và thay đổi này. Vì thế, vấn đề “Phải nhìn nhận và thay đổi” có lẽ là điều cấp bách mà Giáo hội phải làm khi đối diện với “những cái chuyển mình của xã hội”. Ngày 20/07/2020, Bộ Giáo sĩ đã ban hành Huấn thị về việc “hoán cải mục vụ của cộng đồng giáo xứ để phục vụ cho sứ vụ loan báo Tin Mừng của Giáo hội” như một câu trả lời và khẳng định với nhân loại: “Giáo hội đi trong nhân loại”.
Huấn thị đã được Đức Thánh Cha Phanxicô phê chuẩn vào ngày 27/06 và được Bộ Giáo sĩ ký ngày 29/06 cùng năm. Huấn thị mở rộng các hướng dẫn trước đây về giáo xứ, bắt đầu bằng tài liệu Ecclesia de mysterio (1997) và Linh mục, mục tử và người hướng dẫn của cộng đoàn (2002). Huấn thị không đưa ra bất kỳ luật mới nào nhưng đưa ra những cách thức để áp dụng các quy tắc giáo luật hiện hành cho có hiệu năng hơn, với mục đích cổ võ sự đồng trách nhiệm của những người đã lãnh nhận Bí tích rửa tội và thúc đẩy việc chăm sóc mục vụ dựa trên sự gần gũi và hợp tác giữa các giáo xứ.[1]
Huấn thị đề cập đến rất nhiều vấn đề. Thế nhưng trong giới hạn, bài viết sẽ chỉ đề cập đến phần III của Huấn thị, trình bày về: “Giá trị của giáo xứ ngày nay”. Với cụm từ “ngày nay”, đề tài đã mở ra một sự so sánh cần được làm sáng tỏ, đó là: sự khác biệt giữa các “Giá trị của giáo xứ ngày nay” và “Giá trí của giáo xứ ngày xưa”. Như thế, đâu là sự khác biệt, và từ những sự khác biệt đó, nó ảnh hưởng như thế nào đến sứ vụ truyền giáo của giáo xứ. Và để đạt được những kết quả tốt trong sứ vụ của mình, giáo xứ cần phải có những cải tổ như thế nào?
Xuất phát từ câu chuyện vui: có hai người, mỗi người đứng ở mỗi đầu của một con số. Hai người tranh cãi với nhau về điều mình thấy. Người thì cho là số 6, người thì cho là số 9. Cuộc tranh cãi không hồi kết. Từ câu chuyện, để có thể đưa ra quan điểm “xưa” hay “nay” cho tình trạng của một giáo xứ thật là khó nếu không dựa vào một hệ quy chiếu nào đó. Có thể là một móc thời gian xác định nào đó để làm khởi điểm.
Trong đời sống Giáo hội, “Biến cố Vaticanô II” có thể được coi là một thời móc quan trọng vì lẽ, Công đồng Vaticanô II cùng với những chỉ dẫn cụ thể của nó là: các Hiến Chế, Sắc Lệnh và Tuyên Ngôn đã làm nên một bộ mặt mới cho Giáo hội; một cuộc hiện xuống mới; một cú chuyển mình để Giáo hội bước sang một trang sử mới (x. Lumen Gentium, số 4).
Vì thế, xin được đề nghị dựa vào Biến cố Vaticanô II như là một xuất phát điểm cho phần trình bày này.
1. GIÁO XỨ NGÀY XƯA - GIAI ĐOẠN TRƯỚC VATICANÔ II
1.1 Một cái nhìn về giáo xứ[2]
Trong những thế kỷ đầu tiên, đơn vị căn bản trong tổ chức Giáo hội là cộng đoàn dưới sự lãnh đạo của giám mục. Các giám mục thường cư ngụ các thành phố, và chủ sự các buổi cử hành phụng vụ. Các linh mục sống chung với giám mục tại các nhà thờ chánh toà. Đến thế kỷ IV, với sự gia tăng các tín hữu, các nhà thờ cũng được xây dựng nhiều. Để bảo đảm đời sống các bí tích cho giáo dân, một số linh mục được giám mục sai đến các nhà thờ để cử hành các bí tích hoặc cư trú thường xuyên.
Sang thời Trung cổ, người ta chứng kiến một sự “hỗn độn” trong cách tổ chức Giáo hội. Giám mục đã mất quyền kiểm soát trên các nhà thờ trong lãnh thổ của mình. Thực vậy, không kể những vùng đất mới được các đan sĩ đến truyền giáo (như vậy, trực thuộc các đan viện), còn có các nhà thờ do các lãnh chúa lập ra trên đồn điền của họ (và ngoài tầm kiểm soát của các giám mục), kể cả các cha sở ở thôn quê cũng phần nào cũng trở thành tự trị bởi vì dựa trên bổng lộc chứ không lệ thuộc các giám mục. Các công đồng vào thời Trung cổ tìm cách giải quyết các vấn nạn này. Và việc hình thành các vùng lãnh thổ được giao cho từng giám mục được coi là cần thiết. Và cũng chính việc xác định rõ ràng ranh giới này thì việc thành lập các giáo xứ bắt đầu xuất hiện.
Công đồng Trentô (1545-1563) nhận thấy cần phải có một sự chỉnh trang cần thiết trong việc quản trị tại các vùng lãnh thổ. Vì thế, trong phiên họp thứ 14 (25.11.1551), các nghị phụ đã quả quyết: “việc phân chia các giáo phận và giáo xứ là điều hết sức cần thiết, khi mà mỗi đàn chiên đều được giao cho các mục tử riêng, và mỗi nhà thờ đều có linh mục cai quản, để mỗi người chăm sóc đàn chiên của mình dưới quyền của giám mục – nhằm gìn giữ trật tự giáo hội, tránh sự lẫn lộn và để một nhà thờ không cùng lúc thuộc về hai giáo phận khác nhau – điều này sẽ gây ra nhiều rắc rối nghiêm trọng cho các tín hữu trực thuộc.” [3]
Sau đó, Bộ Giáo luật 1917 (Codex Iuris Canonici 1917) đã chắt lọc lại những điều cơ bản từ Công đồng Trentô và đã xác định nội dung về giáo xứ như sau: “Lãnh thổ của mỗi giáo phận phải được chia thành các phần lãnh thổ riêng biệt; mỗi phần được thiết định bởi một nhà thờ cụ thể, với một số giáo dân nhất định, và được bổ nhiệm với cha sở là mục tử, người chịu trách nhiệm chăm sóc các linh hồn.”[4]
1.2 Nhận định và một vài giá trị
1.2.1 Nhận định
Từ cái nhìn trên, kể từ năm 1551 (Công đồng Trentô) đến năm 1917 (Bộ Giáo luật), Giáo hội dần dần hình thành, phát triển và hoàn thiện về khái niệm và cơ cấu tổ chức của một giáo xứ. Giáo xứ có thể được coi như một đơn vị hành chính của giáo phận. Và nó được xác định bởi ba yếu tố rõ ràng: 1. Ranh giới địa lý; 2. Số giáo dân; 3. Coi sóc do bởi một cha sở.[5]
Bên cạnh đó, Công đồng và Bộ Giáo luật còn đề cập đến các quyền lợi và nghĩa vụ của những người được thiết định trong phạm vi của giáo xứ. Cụ thể là trách nhiệm về giảng dạy và cử hành các bí tích dành bởi các cha sở khi thực thi sứ vụ với giáo dân thuộc quyền của mình. Cùng với đó là nghĩa vụ tham dự và cử hành các bí tích của giáo dân – bởi cha sở dưới quyền uỷ nhiệm của giám mục. Ngoài ra Giáo hội lúc bấy giờ còn có những quy định về: bổng lộc và luật cư trú của cha sở[6]; hay những qui định về bí tích hôn phối. Cụ thể luật buộc về sự chứng giám của cha sở; sự ràng buộc giữa giáo dân và giáo xứ qua các bí tích[7]; luật ngày Chúa Nhật và các bí tích…[8]
Như thế, có thể nói trong giai đoạn này, giáo xứ dường như nghiên nhiều về khía cạnh cơ cấu tổ chức hành chính như một bộ máy xã hội hơn là hướng đến các giá trị thiêng liêng nội tại của nó. Mối tương quan được nhắc đến giữa cha sở và giáo dân đơn thuần là một sự ràng buộc bởi các bí tích trong chiều kích: bổn phận, quyền lợi và nghĩa vụ.
1.2.2 Một vài giá trị
- Về mặt tôn giáo
Trước hết, với việc xác định ranh giới lãnh thổ rõ ràng, cùng với đó là một vị chủ chăn cụ thể được bổ nhiệm đã nói lên được tính bền vững của một giáo xứ. Đàn chiên quây quanh một chủ chiên. Điều này mang đến một sự ổn định trong sinh hoạt và nhất quán trong việc duy trì một nền tảng đức tin.
Thật vậy, từ các khoảng luật được nêu ra trong những phiên họp với kiểu nói “… người đó phải bị tuyệt thông” đã nói lên một sự kiên định đầy hiệp thông trong một cộng đoàn đức tin. Đức tin không bị lai tạp; không mang tính cục bộ, chủ quan nhưng hoàn toàn phổ quát trong tính khách quan của nó.
Hơn nữa, với tình trạng một nhà thờ với một vị chủ chăn hiện diện cách thường xuyên đã thực sự mang đến một sự chắc chắn trong chiều kích đức tin. Đức tin luôn luôn được gìn giữ, đào tạo và chăm sóc một cách liên tục cho cộng đoàn. Đức tin luôn được giữ gìn trong sự ổn định của nó. Trong đó, nhà thờ giáo xứ là trường dạy đức tin và cha sở là thầy dạy trong tư cách là người được giám mục bổ nhiệm coi sóc đoàn chiên và phần rỗi các linh hồn.
Bên cạnh đó, với sự phán quyết: giáo xứ và nhà thờ giáo xứ là nơi thực hành các bí tích cũng đã nói lên được chiều kích an tâm và luôn được chăm sóc mà Giáo hội dành cho người tín hữu. Thật vậy, người tín hữu có nơi để thuộc về hầu dễ dàng chu toàn các bổn phận của một Kitô hữu.
Và cuối cùng, với sự phân định rõ ràng về lãnh thổ của một giáo xứ còn giúp cho Giáo hội dễ dàng trong việc quản trị những giá trị thiêng liêng trong chiều kích đức tin, giúp gìn giữ một đức tin tinh ròng, đồng thời dễ dàng nắm bắt cả về số lượng người tín hữu.
- Về mặt các giáo sĩ
Việc thành lập các giáo xứ và các quy định của nó, quả thật là cách thế tốt giúp cho Giáo hội có thể nắm bắt tình trạng của các giáo sĩ. Với chiều kích này, Giáo hội còn giúp các giáo sĩ ý thức hơn về đời sống kỷ luật và phẩm tính của mình. Đây cũng là cách, Giáo hội cách nào đó ra sức bảo vệ trước hết là sự thánh thiên của chức tư tế và và sau đó là lợi ích cho đời sống của người Kitô hữu. Tất cả là vì phần rỗi các linh hồn.
- Về mặt người tín hữu
Với lãnh thổ và những quy định kèm theo cho một giáo xứ, vùng lãnh thổ, quả thật là một cách thế tuyệt vời mà Giáo hội tạo cho người tín hữu có được một môi trường sống và thực hành đức tin của mình một cách cụ thể và an tâm. Họ có nơi để sống như người ta nói: an cư – lạc nghiệp. Thật vậy, khi có giáo xứ: người tín hữu dễ dàng hiệp thông với Giáo hội để làm nên một Giáo hội: Duy nhất, Thánh thiện, Công giáo và Tông truyền; giảm thiểu những sai lệch không cần thiết trong chiều kích đức tin. Ngoài ra, nơi giáo xứ, người tín hữu còn có một môi trường tốt để được hướng dẫn và đào tạo cách chu đáo và kỹ càng cả về đời sống luân lý. Cụ thể nơi các giáo thuyết và điều luật; dễ dàng đón nhận một cách trọn vẹn các ân sủng do/bởi các bí tích.
- Về mặt xã hội
Có thể nói, trong những thế kỷ đầu, Giáo hội thực sự có một chỗ đứng rất lớn và quan trọng trong đời sống xã hội. Và dĩ nhiên, với những quy định khắc khe đi kèm trong đời sống của Giáo hội cũng phần nào đóng góp một phần rất lớn trong việc định hình xã hội. Thật vậy, Giáo hội với các ràng buộc về mặt luân lý là một ví dụ cụ thể. Cùng với đó là những khoảng luật cấm và buộc cũng mang đến cho xã hội, cụ thể là môi trường, lãnh thổ của một giáo xứ một sự bình yên nào đó.
Bên cạnh đó, với sự hiện diện của Giáo hội, cách riêng là giáo xứ cũng đồng nghĩa là sự hiện diện của một đội ngũ tri thức là các linh mục và tu sĩ. Điều này dĩ nhiên cũng đóng một phần không nhỏ vào sự thay đổi và làm phát triển về nhiều mặt về vấn đề xã hội. Đặc biệt là về vấn tri thức và nhân bản cho lãnh thổ thuộc giáo xứ đó.
Nói tóm lại,
Mặc dù không diễn tả hết được chiều kích thần học từ việc hình thành và phát triển các giáo xứ trong đời sống Giáo hội, nhưng với sự thiết định và hiện diện này thật sự giáo xứ đã phần nào mang đến cho nhân loại, ít ra là một vùng lãnh thổ nào đó một bộ mặt mới mà nơi đó chúng ta có thể tìm thấy được:
- Một sự hiện diện hữu hình của Giáo hội; Giáo hội thực sự cho thấy sự nhập thể của mình. Một Giáo hội đi trong nhân loại.
- Một sự sống động và lớn mạnh về đời sống đức tin và luân lý nơi Dân Chúa;
- Một Giáo hội đang muốn “sống cho” và “sống với” thế giới chính niềm tin kiên vững và phổ quát của mình. Qua đó, Giáo hội muốn bày tỏ hết các đặc tính: Duy nhất, Thánh thiện, Công giáo và Tông truyền.
Hơn nữa, việc nhìn lại những giá trị lúc đầu thuộc về những khái niệm cơ bản của một giáo xứ như: giáo xứ và lãnh thổ, linh mục, cha sở, cha phó, giáo dân: quyền và nghĩa vụ… còn cho thấy Giáo hội đã thực sự lớn mạnh. Dĩ nhiên, dưới ánh sáng đức tin chúng ta có thể quả quyết rằng: Chúa thực sự hoạt động “trong và qua” Giáo hội. Chính Chúa Thánh Thần soi dẫn đã giúp Giáo hội nhận ra những khuyết điểm cũng như những bất cập trong cơ cấu tổ chức và hoạt động của mình. Và chính những khuyết điểm và bất cập này đã ảnh hưởng rất lớn đến công cuộc loan báo Tin mừng. Thật vậy, thời nào Giáo hội cũng có những khó khăn của nó. Thế nhưng, Thiên Chúa vẫn có cách quan phòng của Ngài cùng với đó là những nỗ lực đóng góp từ phía con người nơi Giáo hội. Thiết nghĩa cùng với Giáo hội trong công cuộc canh tân đổi mới, việc biết nhìn nhận và chấp nhận sửa đổi trong quan điểm và cơ cấu hoạt động nơi tổ chức Giáo hội là một trong những điều cần thiết mà mỗi nhà quản trị Giáo hội cần quan tâm. Trong giai đoạn này, nơi mỗi giáo xứ, cha sở dĩ nhiên là nhà quản trị duy nhất cùng với mọi quyền tài phán (ngoài Đức giám mục giáo phận) của tổ chức này nên ngài sẽ là nhân tố quan trọng hàng đầu của tuyến đầu góp phần vào sự phát triển và lớn mạnh của toàn thể Giáo hội nơi Giáo hội địa phương trong công cuộc loan báo Tin mừng. Cảm nhận chung của nhiều người, giáo xứ trong thời kỳ này là là giáo xứ của “ông cha”.
2. GIÁO XỨ NGÀY NAY - TỪ VATICANÔ II ĐẾN NAY
2.1 Giáo xứ qua các tài liệu của Giáo hội
Có thể nói trước Công đồng Vaticanô II (1962-1965), “giáo xứ” đã là một khái niệm quen và gần gũi với mọi người tín hữu. Giáo xứ được coi là: “lãnh thổ của mỗi giáo phận được chia thành các phần lãnh thổ riêng biệt; mỗi phần được thiết định bởi một nhà thờ cụ thể, với một số giáo dân nhất định, và được bổ nhiệm với cha sở là mục tử, người chịu trách nhiệm chăm sóc các linh hồn.”[9] Nhưng thực tế, sau khi thế chiến thứ II kết thúc xã hội đã thực sự bước sang một trang sử mới với nhiều thay đổi về: kinh tế, chính trị, xã hội, con người, khoa học kỹ thuật… Sự thay đổi này kéo theo những phong trào mới trong xã hội và nó ảnh hưởng rất nhiều đến đời sống của con người. Trong khi đó, Giáo hội là lữ hành, đi trong nhân loại. Ngoài ra, là thân mình của Đức Kitô Nhập Thể nên chắc chắn Giáo hội tự mình không tránh khỏi sự ảnh hưởng này. Giáo xứ cũng không thể thoát khỏi viễn cảnh của sự thay đổi này. Vì thế, sự ra đời của Công đồng Vaticanô II có thể được coi như một luồng ánh sáng mới giúp soi dẫn cho dân Chúa và nhân loại định hướng cuộc sống sao cho phù hợp với đà phát triển này. Do đó, trong phần trình bày này, bài viết sẽ cố gắng lượt xem qua nơi các băn kiện hay tài liệu của công đồng đâu là những cái nhìn và hướng của Giáo hội dành cho giáo xứ trước những chuyển biến của xã hội.
Thế nhưng, khi lướt qua các văn kiện của công đồng chúng ta cũng có thể nhận ra một điều là: các bản văn hay văn kiện của công đồng đều không một cách trực tiếp dành riêng để trình bày cách hệ thống về giáo xứ. Thế nhưng với định nghĩa trên, cùng với Giáo hội là mầu nhiệm. Vì thế, thử đặt để giáo xứ trong mầu nhiệm của Giáo hội chúng ta hãy cũng nhau lượt xem đâu là vai trò và bản chất của một giáo xứ dưới sự soi dẫn cánh gián tiếp của công đồng.
2.1.1 Hiến chế Lumen Gentium (21.11.1964)[10]
Giáo xứ là một cộng đoàn của Dân Thiên Chúa. Sở dĩ chúng ta có thể khẳng định được điều này là nhờ vào lời xác định của Công đồng trong Hiến chế Lumen Gentium, số 9: “Giáo hội là Dân Thiên Chúa”[11], và từ định nghĩa: giáo xứ là một phần lãnh thổ nhỏ nơi một địa phương nào đó được phân định trong lãnh thổ phổ quát rộng lớn của Giáo hội (phần trên: giáo xứ ngày xưa). Vì thế, giáo xứ là Giáo hội thu nhỏ tại một địa phương. Quan niệm này có thể được sáng tỏ hơn trong Tông huấn Christifideles Laici (1988) của Đức Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II và sau này trong sách Giáo lý Hội thánh Công giáo (1992) cũng minh nhiên dạy rằng: Giáo xứ là “…sự hiện diện của Giáo hội trong một địa điểm nhất định, trong một lãnh thổ nhất định...”[12] và có “tính cách bền vững trong lòng Giáo hội địa phương.”[13]
Như thế, với khái niệm “giáo xứ là một cộng đoàn của Dân Thiên Chúa” và việc nhìn nhận “giáo xứ” chính là hình ảnh của Giáo hội phổ quát thu nhỏ tại địa phương thì chúng ta cũng có thể quả quyết rằng: một khi làm một với Giáo hội phổ quát thì “giáo xứ” tự bản chất cũng sẽ mặc lấy mọi chiều kích phổ quát của về bản chất nơi Giáo hội. Vì thế, giáo xứ cũng sẽ được hiểu theo những nghĩa rộng sau:
- Mầu nhiệm – là dấu chỉ thiêng liêng, hiện diện của Thiên Chúa giữa trần gian: “Giáo Hội là bí tích, nghĩa là dấu chỉ và khí cụ của sự kết hợp mật thiết với Thiên Chúa và của sự hợp nhất toàn thể nhân loại.”[14];
- Nhiệm Thể Chúa Kitô – Liên kết mật thiết với Chúa Kitô là Đầu, trong sự hiệp nhất và đa đạng: “Giáo Hội là Thân Thể Chúa Kitô. Nhờ Chúa Thánh Thần, các tín hữu được liên kết với nhau và với Chúa Kitô là Đầu”[15];
- Đền Thờ Chúa Thánh Thần – Giáo hội được Chúa Thánh Thần hướng dẫn, đổi mới và thánh hoá: “Thánh Thần cư ngụ trong Giáo Hội và trong tâm hồn tín hữu như trong đền thờ”[16];
- Hiệp thông và Phục vụ - Cơ cấu là để phục vụ sứ vụ, chứ không phải để thống trị: “Một hiệp thông huynh đệ trong Đức Kitô,” trong đó các thành phần phục vụ lẫn nhau[17];
- Mang bản chất truyền giáo – Được sai đi đến với muôn dân, loan báo Tin mừng cứu độ: “Giáo Hội lữ hành giữa thế gian này được kêu gọi loan báo Tin Mừng cho mọi dân tộc.”[18]
2.1.2 Sắc lệnh Ad Gentes (7.12.1965)[19]
Ngay từ những số đầu tiên Sắc lệnh Ad Gentes đã khẳng định: “Giáo hội lữ hành tự bản chất là truyền giáo”[20] và như thế, một khi làm một với Giáo hội phổ quát, thì tự bản chất của giáo xứ cũng là truyền giáo. Và việc truyền giáo không chỉ là đến với những người chưa biết Chúa, mà còn là canh tân nội bộ, làm chứng bằng đời sống, và phục vụ con người trong tình bác ái Kitô giáo.[21] Theo đó, Sắc lệnh dạy rằng: Giáo xứ không chỉ là “nơi chăm sóc mục vụ” cho những người có đạo, mà còn là một cộng đoàn sống và loan báo Tin Mừng.[22] Điều này cũng đồng nghĩa là: Giáo xứ phải “trở thành một trung tâm truyền giáo”[23] đầu tiên và cơ bản; là tuyến đầu trong sứ vụ truyền giáo của Giáo hội ngay chính trong môi trường hiện diện của giáo xứ.[24] Bằng các cụm từ: “chăm sóc, sống và loan báo, và trở thành”, sắc lệnh trình bày giáo xứ như thể một nhân vị sống động giữa lòng xã hội. Ở điểm này, công đồng đã cho thấy một sự thay đổi lớn trong cái nhìn của mình về giáo xứ. giáo xứ thật sự không còn là một quan niệm của hành chính địa lý nhưng là một mầu nhiệm đầy năng động. Giáo xứ không phải là một thực thể để con người điều khiển nhưng là một sự cộng tác giữa Thiên Chúa và con người. Giáo xứ không còn là một cơ quan nhưng là một chi thể sống động trong thân thể sống động là Giáo hội.
Bên cạnh đó, là thành phần chính và cơ bản của giáo xứ, linh mục và giáo dân cũng phải là những nhà truyền giáo chuyên biệt và cơ bản trong chính sứ vụ này. Là những nhân tố nòng cốt, sắc lệnh đòi buộc linh mục và giáo dân phải có một sự cộng tác chặt chẽ[25] ngay chính trong từng vai trò của mỗi người hòng hướng đến cùng đích tối hậu là làm cho Tin mừng được lan rộng.[26]
Với linh mục, sắc lệnh xác định: “là người được Giáo hội sai đi như người mục tử, lãnh đạo cộng đoàn và thực hiện sứ vụ truyền giáo.”[27] Vì thế, các ngài “được sai đến để làm cho dân Thiên Chúa được tăng trưởng trong đức tin và tổ chức giáo xứ như trung tâm truyền giáo.”[28]
Với giáo dân: “Mọi tín hữu đều được mời gọi tham gia vào sứ vụ truyền giáo của Giáo hội. Giáo dân, đặc biệt, được kêu gọi là những chứng nhân đức tin nơi môi trường thế giới.”[29] “Giáo dân là những người loan báo Tin Mừng trong đời sống hằng ngày, qua lời nói, hành động và cách sống của mình.”[30]
2.1.3 Hiến chế Gaudium et Spes (7.12.1965)[31]
Gaudium et Spes (Vui Mừng và Hy Vọng), là một trong những văn kiện quan trọng nhất của Công đồng Vatican II. Văn kiện nhìn nhận con người là trung tâm của lịch sử cứu độ. Vì thế, Giáo hội cần phải hiện diện và đồng hành với nhân loại. Và do đó, Giáo hội nhận thấy mọi cơ cấu của của mình, trong đó có giáo xứ cần phải có một sự canh tân đổi mới, vì lẽ: “Vui mừng và hy vọng, ưu sầu và lo âu của con người hôm nay, đặc biệt của những người nghèo và đau khổ, cũng là vui mừng và hy vọng, ưu sầu và lo âu của các môn đệ Đức Kitô”[32].
Dưới ánh sáng của văn kiện, chúng ta được mời gọi nhìn lại căn tính, vai trò và sứ mạng của giáo xứ trong thế giới hiện đại: giáo xứ không chỉ là nơi để cử hành phụng vụ, mà là một cộng đoàn loan báo Tin Mừng, hiệp thông, phục vụ và đối thoại với xã hội.
Trước hết, giáo xứ không chỉ là nơi cử hành phụng vụ, mà là một cộng đoàn loan báo Tin Mừng. Điều này cũng có nghĩa: là “Giáo hội tại địa phương”, giáo xứ còn phải mang trong mình nhiệm vụ quy tụ các tín hữu sống đức tin và thực hành bác ái. Vì lẽ, ngay trong số đầu tiên của hiến chế, Giáo hội khẳng định rằng: “Giáo hội không bao giờ có thể xa cách con người... Giáo hội thực sự là cộng đoàn liên đới với nhân loại và lịch sử của nó.”[33] Và hơn nữa, tuy là một xã hội tổ chức theo cơ cấu phẩm trật, nhưng trước hết giáo xứ phải là một cộng đoàn yêu thương.[34] Vì tự bản chất giáo xứ là nơi phải chất chứa đầy sự yêu thương của Tin mừng khi thi hành sứ vụ chính yếu của mình.
Bên cạnh đó, Giáo hội, trong đó có giáo xứ cũng được mời gọi nhận ra những chuyển biến trong xã hội, tức là tại mỗi địa phương, giáo xứ phải có trách nhiệm như là một người có thể đọc và sống các cho “dấu chỉ của thời đại”. Để từ đó giáo xứ chính là nơi phát xuất lời giải đáp cho thế giới thấy rõ các ý chỉ của Thiên Chúa dưới sự soi sáng của Tin Mừng hầu có thể giúp mọi người nhận ra ơn gọi làm con Chúa.[35] Điều này đòi hỏi giáo xứ phải biết lắng nghe xã hội, cảm thông với những vấn đề như nghèo đói, chiến tranh, tục hóa, bất công... và làm một với xã hội. Đề rồi trở thành nhân tố nòng cốt và cơ bản như là men, là muối cho xã hội.
Từ những căn tính trên, với tư cách làm một với Giáo hội hoàn vũ, giáo xứ cần phải xác định một cách rõ ràng về sứ mạng của mình trong thế giới hôm nay. Sứ mạng đó chính là:
- Thăng tiến và phát triển con người toàn diện: “Con người không thể phát triển toàn diện nếu không có sự gắn bó và phục vụ lẫn nhau trong cộng đồng.”[36] Vì thế, thiết nghĩ giáo xứ cần có các hoạt động mục vụ liên quan đến: Giáo dục đức tin và nhân bản; Bảo vệ sự sống và môi trường; và Đồng hành với người nghèo và người bị loại trừ.
- Bảo vệ công ích và công bằng xã hội: “Tốt hơn hết để chu toàn trách nhiệm yêu thương và công lý là góp phần xây dựng công ích”[37], với sự hướng dẫn này, giáo xứ được mời gọi khơi dậy ý thức trách nhiệm xã hội nơi các tín hữu: sống bác ái cụ thể, chia sẻ của cải, bênh vực người yếu thế.
- Tôn trọng sự bình đẳng và chống phân biệt đối xử: “Bất cứ hình thức phân biệt nào dựa trên giới tính, chủng tộc, điều kiện xã hội, ngôn ngữ hay tôn giáo… đều phải bị xóa bỏ như điều trái với thánh ý Thiên Chúa.”[38] Như thế, giáo xứ cần trở thành không gian cởi mở, nơi mọi người đều được đón nhận và phục vụ như nhau, không phân biệt.
- Và sau cùng, Giáo hội nhận thấy rằng “Thiên Chúa không tạo dựng con người sống một mình, nhưng để họ hình thành một cộng đoàn.”[39] Với điều này Giáo hội khai mở những mối tương quan trong đời sống của mình mà nơi đó giáo xứ chính là nơi để con người sống hiệp thông với Thiên Chúa và với nhau[40]; mỗi người đều có vai trò và trách nhiệm trong chương trình của Thiên Chúa[41]; và con người phải biết cùng nhau thi hành sứ mạng loan báo Tin Mừng.[42] Trong đó, giáo xứ chính là khởi điểm cho các hoạt động của Giáo hội phổ quát.
2.1.4 Bộ Giáo luật 1983[43]
Tinh thần của Công đồng Vaticanô II là đổi mới và canh tân đời sống của Giáo hội để hướng đến một Giáo hội của hiệp thông, tham gia và sứ vụ. Bộ giáo luật 1983 có thể nói là một di sản được thừa kế từ Bộ giáo luật cũ (1917) và cùng với đó là những đúc kết cụ thể và ngắn gọn của tinh thần Vaticanô II.
Xét về mặt giáo xứ, phần trình bày này sẽ không có ý trình bày hết những gì mà Bộ giáo luật nói hay một sự so sánh cặn kẽ nhiều khía cạnh nhưng sẽ là một cái nhìn thoáng nơi một vài điểm của giáo xứ.
Bộ giáo luật 1983 định nghĩa giáo xứ như sau: “Giáo xứ là một cộng đoàn Kitô hữu nhất định được thiết lập cách bền vững trong Giáo Hội địa phương, mà trách nhiệm mục vụ được ủy thác cho cha sở như là chủ chăn riêng của giáo xứ ấy, dưới quyền Giám mục giáo phận.” (Điều 515 §1)
So với định nghĩa của Bộ giáo luật 1917 ở trên, định nghĩa này đã có một sự thay đổi lớn. Đó là một sự thay đổi ngay trong chính bản chất của khái niệm. Cụ thể, giáo xứ không còn chỉ là một khái niệm của đơn vị lãnh thổ hành chính nữa nhưng là một cộng đoàn tín hữu ổn định. Và từ đó, trọng tâm của giáo xứ không còn được xác định dựa trên lãnh thổ nhưng là một cộng đoàn mang tính nhân học và sự mục vụ của nó. Sự thay đổi này mở ra một mối tương quan liên vị giữa cha sở và giáo dân trong giáo xứ. Cha sở và giáo dân không chỉ tương tác với nhau theo kiểu của quản trị-hành chính (giấy tờ, văn bản…) nhưng là tương quan của người mục tử và đàn chiên theo sự khắc hoạ và mời gọi của Chúa Giêsu.[44] Đây là một chiều kích mang tính thần học nhân học Kitô giáo mà Vaticanô II đề cập đến.[45]
Như thế, giáo xứ mà Vaticanô II và Bộ giáo luật 1983 nói đến thực sự mang lấy một sắc thái hoàn toàn mới mẻ. Cái mới đó chính là tính “cộng đoàn tính.” Một cộng đoàn mang chiều kích nhân loại. Thật vậy, chiều kích này được khai mở khi các văn kiện này đề cập đến những bổn phận, quyền lợi của giáo dân để cùng với cha sở xây dựng và phát triển cộng đoàn giáo xứ của mình.[46]
Ngoài ra, Bộ giáo luật còn ấn định: Giáo xứ không nhất thiết phải dựa trên địa lý-lãnh thổ mà có thể là giáo xứ theo: “ở đâu thấy thuận lợi, thì phải thiết lập các giáo xứ tòng nhân, xét theo lễ điển, ngôn ngữ, quốc tịch của các Kitô hữu trong một địa hạt, và còn xét theo bất cứ một lý do nào khác.”[47]
2.1.5 Tông huấn Christifideles Laici(1988)[48]
Tông huấn đề cập đến vai trò của giáo dân trong Giáo hội và thế giới. Điều này cũng đồng nghĩa với: “Người giáo dân không chỉ thuộc về Giáo hội, mà là Giáo hội sống động trong thế giới.” Thật vậy, dựa vào bố cục và nội dung trình bày của Tông huấn chúng ta sẽ nhận ra được điều này.
Tông huấn là một sự tiếp nối và triển khai tinh thần của Công đồng Vatican II, đặc biệt là Hiến chế Lumen Gentium và Sắc lệnh Apostolicam Actuositatem về đời sống của Giáo hội. Cách riêng đề cập cách đặc biệt đến vai trò quan trọng của người giáo dân.
Thật vậy, Tông huấn đã lần lượt đề cập đến căn tính và ơn gọi của người giáo dân – là chi thể của Đức Kitô. Giáo dân được mời gọi tham dự vào các chức vụ là tư tế, ngôn sứ và vương giả của Chúa Kitô nhờ Bí tích Rửa Tội và Thêm Sức.[49] Vì thế, người giáo dân được mời gọi sống kết hiệp với Chúa trong đời sống hằng ngày như cành nho với thân nho hầu để trở lên là men, ánh sáng và muối trong xã hội – đặc biệt trong các môi trường thế tục qua chính đời sống, công việc thường ngày của mỗi người.[50]
Ngoài ra, người giáo dân còn là “dấu chỉ và nguồn hy vọng” cho thế giới qua sự hiện diện của họ trong đời sống xã hội bằng những hoạt động dấn thân.[51] Để rồi chính họ làm cho những môi trường mà họ đang dấn thân là gia đình và giáo xứ trở thành nơi đầu tiên lan toả đời sống đức tin[52] như là một sự hiện diện đầy sống động của Giáo hội.[53]
2.1.6 Sách Giáo lý Hội Thánh Công giáo[54]
Về phần Sách Giáo Lý Hội Thánh Công Giáo, có thể đối chiếu các số từ 2179 đến 2226 là phần đề cập đến giáo xứ và những yếu tố liên quan với nói. Trong các số được đề cập này có thể nói là những chắc lọc từ những văn kiện của Vaticanô II và Bộ giáo luật 1983. Và dưới nhãn quan của sách Giáo Lý Hội Thánh Công Giáo thì giáo xứ được coi như là: nơi quy tụ thường xuyên của các Kitô hữu để cử hành Thánh lễ, lãnh nhận các Bí tích, nghe Lời Chúa, và thực thi bác ái; trung tâm của đời sống Kitô giáo, nơi người tín hữu thực sự sống đức tin trong cộng đoàn cụ thể; gia đình của Thiên Chúa, nhà của mọi tín hữu, nơi tình huynh đệ và hiệp thông được vun đắp.[55]
2.1.7 Huấn thị Ecclesia de mysterio (1997)[56]
Huấn thị Ecclesia de mysterio (1997), tên đầy đủ là “Instruction on Certain Questions Regarding the Collaboration of the Non-Ordained Faithful in the Sacred Ministry of Priests” (Hướng dẫn về một số vấn đề liên quan đến sự cộng tác của giáo dân trong tác vụ thánh thiêng của linh mục), được ban hành bởi Tòa Thánh vào ngày 15 tháng 8 năm 1997, với sự phê chuẩn của Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II, nhấn mạnh vai trò riêng biệt và bổ trợ của giáo dân trong đời sống và sứ vụ của Giáo Hội. Cụ thể là làm sáng tỏ giới hạn và cách thức đúng đắn trong việc giáo dân cộng tác vào các tác vụ thánh thiêng của linh mục, trong bối cảnh Giáo hội ngày càng có sự tham gia tích cực của giáo dân.
Ngoài phần mở đầu và kết luận, huấn thị gồm có các mục chính:
- Nguyên lý thần học - So sánh và phân biệt giữa chức tư tế chung của giáo dân và chức linh mục thừa tác. Nhấn mạnh sự hiệp nhất và khác biệt giữa các chức năng thừa tác linh mục (dạy dỗ, thánh hóa, quản trị), cũng như vai trò giới hạn của giáo dân trong cộng tác mục vụ. Sự cần thiết của linh mục thừa tác trong đời sống của Giáo hội;
- Các đề mục chi tiết (gồm có 12 bài) – Đề cập đến các lĩnh vực giáo dân được phép cộng tác mục vụ cùng những chỉ dẫn (giới hạn) rõ ràng;
- 13 điều khoản - Chọn lựa và đào tạo giáo dân để trở thành những chứng nhân sống động.
- Như thế, dưới ánh sáng của Ecclesia de mysterio (1997), giáo xứ có thể được coi là: Một cộng đoàn mầu nhiệm, sống động trong Đức Kitô. Do linh mục chánh xứ điều hành, với sứ mạng là chủ chăn chính thức. Giáo dân giữ vai trò thiết yếu, nhưng trong sự cộng tác đúng đắn, theo cơ cấu phẩm trật và thần học của Giáo hội.
2.1.8 Huấn thị Linh mục, mục tử và người hướng dẫn của cộng đoàn (2002)[57]
Có thể nói, giáo xứ là một trong những yếu tố quan trọng trong Huấn thị này. Vì lẽ, huấn thị đã dành một phần rất lớn từ số 18 đến số cuối cùng (số 30) để nhắc đến giáo xứ. Theo đó, ngoài những khái niệm được nói đến trong các văn kiện trước (văn kiện nêu ở trên) thì “giáo xứ” được huấn thị trình bày là:
- Một phần của giáo phận được linh hoạt bởi cùng một tinh thần hiệp thông, một tinh thần đồng trách nhiệm có trật tự do bí tích Thánh Tẩy, một đời sống phụng vụ chung mà trung tâm là việc cử hành Thánh Lễ và một tinh thần truyền giáo chung được cộng đoàn ấy chia sẻ. Thực vậy, mỗi giáo xứ “đặt nền móng trên một thực tại thần học, vì nó là một cộng đoàn Thánh Thể. Điều này có nghĩa giáo xứ là một cộng đoàn hoàn toàn xứng hợp để cử hành Thánh lễ, là nguồn mạch sống động để xây dựng cộng đoàn và là mối ràng buộc có tính bí tích làm cho cộng đoàn hiệp thông đầy đủ với toàn thể Hội Thánh. Sự thích đáng như thế bắt nguồn từ sự kiện giáo xứ là một cộng đoàn đức tin và là một cộng đoàn hữu cơ, tức là được cấu thành bởi các tác viên có chức thánh và các kitô hữu khác, trong đó, người mục tử – thay mặt Đức giám mục giáo phận – là mối liên kết có tính phẩm trật với toàn thể Giáo Hội địa phương. [58]
- Giống như một tế bào của giáo phận, phải nêu ra một gương mẫu nổi bật về hoạt động tông đồ của cộng đoàn, vì giáo xứ đưa vào hiệp nhất tất cả sự đa dạng của con người tìm thấy trong đó và tháp nhập vào trong sự phổ quát của Giáo hội. Cộng đoàn kitô hữu là yếu tố cơ bản của giáo xứ. Theo một nghĩa nào đó, hạn từ này nhấn mạnh mối quan hệ năng động giữa những người cấu thành nên cộng đoàn, dưới sự lãnh đạo không thể thiếu của một mục tử hợp pháp.[59]
- Một yếu tố cơ bản khác của khái niệm giáo xứ là khái niệm chăm sóc mục vụ (cura pastoralis) hay chăm sóc các linh hồn (cura anima-rum). Điều này có nghĩa giáo xứ là nơi mà mọi thành phần của nó sống rõ chiều kích phục vụ và được phục vụ một cách hữu cơ. Tức là tương trợ cho nhau theo đúng vai trò và chức năng của mỗi thành phần trong giáo xứ. Và hơn thế nữa, sự chăm sóc mục vụ này còn hướng đến một chiều kích mạnh mẽ hơn khi coi giáo xứ là một gia đình.[60]
- Nơi để Giáo hội thực thi sứ vụ cứu độ thế giới. Vì lẽ, mọi thành phần đều được mời gọi để cộng tác vào chương trình cứu độ của Giáo hội. Sứ vụ không chỉ dành riêng cho những thừa tác viên đã lãnh bí tích Truyền Chức Thánh, nhưng còn nhờ tất cả mọi giáo dân do ân sủng của bí tích Thanh Tẩy.[61] “Tất cả các tín hữu có quyền, đôi khi có cả nhiệm vụ nữa, là góp ý kiến về những vấn đề liên quan đến thiện hảo của Hội Thánh. Việc này có thể thực hiện qua những cơ chế đã được lập ra vì mục đích đó: [...] Hội đồng mục vụ có thể là một phương tiện hữu hiệu nhất ... để đề nghị và gợi ý về những sáng kiến liên quan đến truyền giáo, huấn giáo và tông đồ [...] cũng như để cổ võ việc huấn luyện giáo thuyết và đời sống bí tích của các tín hữu; để hỗ trợ công tác mục vụ của các linh mục trong các hoàn cảnh xã hội và miền đất khác nhau; để tìm cách gây ý thức quần chúng tốt hơn v.v…”[62]
- Là cái nôi và là chất xúc tác để qua đó các giá trị của men Tin Mừng được dậy nổi trong lòng xã hội.[63] Đó là chân trời của “một công việc hứng thú là làm sinh động lại công tác mục vụ – một công việc liên quan đến tất cả chúng ta.[64]
- Là nơi đặt để, gìn giữ và phát triển nền tảng vững chắc các nguyên tắc của giáo thuyết Kitô giáo.[65]
- Là một cộng đoàn mang trong mình sự thánh thiện khi thi hành sứ vụ mục vụ của mình. Vì thánh thiện là mục tiêu của đời sống Kitô hữu. [66]
2.2 Giáo xứ dưới cái nhìn của Huấn thị “Cải Tổ Mục Vụ Cộng Đoàn Giáo Xứ Để Phục Vụ Sứ Vụ Loan Báo Tin Mừng Của Hội Thánh”[67]
Khi đề cập đến giáo xứ, Huấn thị đã quả quyết: “Các cộng đoàn Kitô hữu ngày càng trở nên những trung tâm giúp mọi người gặp gỡ Đức Kitô.”[68] Với lời đề nghị này, điều đầu tiên Huấn thị mời gọi: giáo xứ phải là một cộng đoàn có đầy sức mạnh, ánh sáng và sự an ủi của Đức Giêsu Kitô. Tức là một cộng đoàn tin vào Đức Giêsu Kitô.[69] Đấng là Ngôi lời Nhập Thể đang sống và hoạt động giữa cộng đoàn.[70]
Theo đó, giáo xứ phải là cộng đoàn:
- “Trung thành với truyền thống của mình và đồng thời cũng ý thức sứ mệnh phổ quát của mình, có thể liên kết với nhiều hình thức văn hóa khác nhau, qua đó, chính Hội Thánh cũng như các nền văn hóa được thêm phong phú.” Sự gặp gỡ phong nhiêu và đầy sáng tạo giữa Tin Mừng và văn hóa sẽ dẫn đến sự tiến bộ thực sự: một mặt, Lời Thiên Chúa nhập thể trong lịch sử nhân loại và đổi mới lịch sử ấy; mặt khác, “Hội Thánh […] có thể được thêm phong phú và thực sự là như thế nhờ sự phát triển của đời sống xã hội nhân loại” [71];
- Là cộng đoàn loan báo Ngôi Lời “đã trở nên người phàm và cư ngụ giữa chúng ta” (Ga 1, 14) hòng khơi dậy những khát vọng cao quý nhất, như lòng khát khao Thiên Chúa, phẩm giá của từng con người, sự bình đẳng giữa mọi người và sự tôn trọng sự khác biệt trong gia đình nhân loại duy nhất, sự đối thoại như phương thế để tham dự, nỗi khát khao hòa bình, sự tiếp đón như một biểu lộ tình huynh đệ và liên đới, cùng nhau chăm lo thế giới tạo thành với tinh thần trách nhiệm.[72]
- Là cộng đoàn quy tụ quanh Bàn Tiệc Lời Chúa và Thánh Thể.[73]
- Là nơi thờ phượng, một dấu chỉ của việc Chúa Phục Sinh luôn hiện diện giữa Dân Người.[74]
- Là một cộng đoàn tín hữu sống động mà sự ràng buộc về lãnh thổ rõ ràng càng ít đi, trong khi những điểm nối kết càng ngày càng gia tăng và những mối tương quan liên vị có nguy cơ tan biến vào một thế giới ảo không còn có một dấn thân hay trách nhiệm nào với người thân cận của mình nữa.[75] Đây là hệ quả của một sự chuyển biến lớn trong đời sống của nhân loại.[76]
- “Là một tổ chức thiết yếu quan trọng hàng đầu trong cơ cấu hữu hình của Hội Thánh.”[77]
- “Là ngọn hải đăng tỏa chiếu ánh sáng đức tin và như thế đáp ứng những khát vọng sâu xa và chân thực nhất của tâm hồn con người, đem lại ý nghĩa và hy vọng cho đời sống cá nhân và gia đình.”[78]
- Là nơi khích lệ và đào tạo để các thành viên trở nên người loan báo Tin Mừng.[79]
2.3 Nhận định và một vài giá trị
Giáo xứ là cấp cơ sở trong cơ cấu tổ chức để Giáo hội thực thi sứ mạng của của mình. Thật vậy, giáo xứ phải được coi là cộng đồng truyền giáo cơ bản[80] ngay chính trong bản chất của toàn thể Giáo hội. Với ý nghĩa này, giáo xứ cũng được xác định là cấp cơ sỡ trong việc đào tạo và phát triển một cách chắc chắn về đời sống đức tin. Để từ đó, giáo xứ như một nhân tố chính khơi dậy tinh thần truyền giáo và thúc đẩy sự hiệp nhất trong công cuộc đưa Tin Mừng đến với mọi người.
Ngoài ra, giáo xứ còn là nơi khám phá, trình bày và khơi dậy các dấu chỉ của thời đại cho nhân loại.[81] Với điểm này, Giáo hội đặt để nơi linh mục, đặc biệt linh mục quản xứ và cộng đoàn tín hữu đức tin được giao phó cho chính linh mục đó sứ vụ không phải chỉ là suy tư về một kinh nghiệm mới về đời sống đức tin cho giáo xứ, nhưng còn muốn các ngài càng ý thức hơn bao giờ hết về chính thừa tác vụ và sứ vụ linh mục của mình trong vai trò là người cùng với giáo dân phải tích cực học hỏi và khám phá các giá trị của Tin mừng.
Vì lẽ, mọi Kitô hữu đều được mời gọi để trở thành: “muối và ánh sáng trần gian” (x. Mt 5,13-14), hay là “ngọn đèn đặt trên đế” (Mc 4,21) để qua đó có thể giúp soi tỏ khuôn mặt của Đức Kitô ngay chính nơi cộng đoàn Loan báo Tin Mừng của mình. Điều này được thể hiện qua việc cộng đoàn ấy phải có khả năng đọc được các dấu chỉ của thời đại và làm chứng bằng lối sống thuyết phục theo Tin Mừng. Đây cũng là điều mà Huấn thị chúng ta đang học hỏi mong muốn. [82]
Sự thay đổi từ Bộ Giáo luật 1917 sang 1983 trong cái nhìn về giáo xứ đã phản ánh rõ nét một sự chuyển mình về chiều sâu khi khám phá về vai trò và ý nghĩa của một giáo xứ. Một sự chuyển mình từ một cơ cấu pháp lý hành chính sang một mô hình mục vụ mang đậm chất thần học và mục vụ, với trọng tâm: giáo xứ là một cộng đoàn tín hữu đức tin sống động.
Thật vậy, dưới ánh sáng của Bộ Giáo luật 1983, giáo xứ không chỉ là đơn vị hành chính mà còn là một cộng đoàn đức tin sống động, được tổ chức chặt chẽ với các quy định rõ ràng về quyền, nghĩa vụ và cơ cấu giữa linh mục quản xứ và cộng đoàn tín hữu. Bộ Giáo luật nhấn mạnh sự phối hợp giữa linh mục và giáo dân trong việc xây dựng và phát triển đời sống đạo. Để rồi, nơi Công đồng Vaticanô II, trong Hiến chế Lumen Gentium và Sắc lệnh Christus Dominus xác định cách minh nhiên rằng: cũng chính nơi giáo xứ, các tín hữu cùng với linh mục của mình tham gia vào đời sống và sứ mạng của chính Giáo hội.
Trong khi đó, Sách Giáo lý Hội thánh Công giáo không chỉ nói về cơ cấu tổ chức mà còn nhấn mạnh nhiều đến ý nghĩa về chiều kích thiêng liêng của Giáo hội cách ngang qua giáo xứ. Ở điểm này, thiết nghĩ các linh mục quản sứ cũng cần đặt để sự quan tâm cần thiết là, giúp khơi lại nơi cộng đoàn những người tín hữu được giao phó những khía cạnh về chiều kích thiêng liêng trong các hoạt động của mình hơn là, chú tâm quá nhiều đến những hình thức bên ngoài qua việc tổ chức rước sách rình rang trong các dịp lễ. Dĩ nhiên những việc này không thể thiếu vì nó tô vẽ nên một sức sống đầy sống động của cộng đoàn giáo xứ.
Bên cạnh đó, vì hoàn cảnh di chuyển của người tín hữu nên giáo xứ không còn là nơi tụ họp chính yếu và là trung tâm xã hội như thời xưa nữa, vì thế Giáo hội mời gọi các giáo xứ cần có những hình thức mới để đồng hành và gần gũi qua các sinh hoạt thường ngày. Với tư cách là người đồng hành với người Di dân của giáo phận, con cảm nhận được vai trò đồng hành của các cha sở cũng như các cha đặc trách nơi các giáo hạt cho anh chị em Di dân là rất quan trọng. Sự đồng hành cơ bản theo con là sự quan tâm: quan tâm con chiên ở xa như con chiên ở gần – thăm hỏi, nhắc nhở, động viên – “Chiên Ta thì nghe tiếng Ta, Ta biết chúng và chúng theo Ta.” (Ga 10, 27)
Vì thế, Giáo hội mời gọi các giáo xứ, cách riêng linh mục quản xứ không nên xem nhiệm vụ này như một gánh nặng, nhưng là một thách đố để nhiệt tâm theo đuổi.[83]
Ngoài ra, việc di dân trong đời sống xã hội nói chúng và tại các giáo xứ nói riêng còn là một thách đố lớn về sự đa dạng và phong phú về mặt văn hoá cho chính cộng đoàn giáo xứ. Điều này đòi buộc cộng đoàn giáo xứ cần phải có những hiểu biết cơ bản và chính xác về các nền văn hoá mới. Một thách đố không hề đơn giản cho một giáo xứ trong công cuộc đối thoại để hội nhập và hướng đến việc truyền giáo.
Đứng trước những thách đố này, với sự cảm thông và đồng hành của mình, Giáo hội khuyên rằng: cộng đoàn Kitô hữu đừng sợ bắt đầu và tiến hành những chương trình tại những nơi có các nền văn hóa đa dạng, với hy vọng chắc chắn rằng: đối với các môn đệ của Đức Kitô, “không có gì thực sự của con người mà không âm vang trong trái tim họ.”[84] Thật vậy, những mong mõi này của Giáo hội chỉ đạt được kết quả khi chính tại các giáo xứ có nhiều hoạt động nhằm kích hoạt những bộ mặt dấn thân đầy sinh động nơi các hội đoàn hay đoàn thể; các khoá học tìm hiểu những nền văn hoá mới.
Với việc trình bày và triển khai những khía cạnh khác nhau về giáo xứ (Giáo hội) trong một văn kiện khác nhau mang đến cho giáo xứ nhiều ý nghĩa. Thật vậy, Giáo hội cho thấy giáo xứ quả là một mầu nhiệm. Vì lẽ, giáo xứ chính là khởi điểm để con người khám phá ra các chiều kích mầu nhiệm của Giáo hội. Ngoài ra, với cách trình bày này, Giáo hội còn cho thấy sự phong phú của nơi chính mầu nhiệm đó và con người đạt được nó chỉ khi từng bước khám phá.
Hơn nữa, với chiều hướng phát triển của con người, tức là con người ngày càng khám phá ra nhiều điều bí ẩn của Thiên Chúa đòi buộc Giáo hội phải dấn thân, đồng hành để hướng dẫn nhân loại nhận ra được khuôn mặt của Thiên Chúa. Điều này cũng đồng nghĩa với việc Giáo hội từng bước hành trình đi trong nhân loại và chỉ cho nhân loại nhận ra các dấu chỉ của thời đại.
Bên cạnh đó, từng bước khám phá và trình bày cũng là cách Giáo hội cho thấy việc loan báo Tin mừng là một công việc cấp bách và là của toàn thể Giáo hội dưới nhiều khía cạnh và hình thức hoạt động khác nhau. Tất cả là một sự toàn vẹn nơi thân mình của Chúa Kitô, không có một sự miễn trừ nào.
Ngoài ra, với sự quan tâm đặc biệt đến vai trò của giáo dân trong từng giáo xứ, Giáo hội, qua đó đề cao đến mọi khả năng mà Thiên Chúa ban cho con người. Nói cách khác, Giáo hội muốn tất cả mọi thành phần dân Chúa biết dùng hết khả năng Chúa ban để xây dựng Giáo hội, xây dựng thân mình của Chúa Kitô và đem ơn cứu độ cho toàn thế giới. Mỗi người là từng chi thể sống động trong thân mình nhiệm mầu của Giáo hội.
Việc thành lập các cộng đoàn giáo xứ còn mang đến cho người tín hữu một sự chăm sóc thường xuyên, chu đáo và kỹ càng hơn. Đồng thời mở ra một sự tương tác thường xuyên hơn giữa giáo dân và mục tử; giáo dân và giáo dân. Thế nhưng, ngày nay với chiều kích di động của giáo dân! Thiết nghĩ, người mục tử không thể chỉ bám chặt vào đoàn chiên cố định/tại chỗ cùng với tư tưởng - ngại mở ra những tương tác mới. Với người đến: họ không thuộc quyền của tôi; tự nhiên ở đâu tới, lo chi mắc mệt; hoặc với người đi: ở nhà biết bao việc, họ đi nơi khác thì có chỗ khác lo rồi… Về vấn đề này, thiết nghĩ những lời nhận xét của Cha tổng đại diện giáo phận Qui nhơn, Giuse Trương Đình Hiền trong cuộc phỏng vấn với Cha Giuse Cao Gia An về đề tài: Năm Thánh - Năm Hồng Ân #19: “Giáo hội của mình thuyên về dưỡng giáo hơn là truyền giáo”[85] đáng để cho giáo xứ nhìn lại chính ơn gọi và bản chất của mình dưới sự dẫn dắt và hướng dẫn của linh mục quản xứ cùng với đó là sự cộng tác đắc lực của cộng đồng tín hữu tại nơi này. Là mục tử trực tiếp được giao phó, linh mục quản xứ được mời gọi thường xuyên nhìn và hâm nóng lại sứ vụ ngay chính trong ơn gọi của mình. Là động cơ chính nhưng động cơ không hoạt động thì làm sao đoàn tàu có thể di chuyển.
Dĩ nhiên, việc hình thành các giáo xứ, giáo họ là một cơ hội tốt để người tín hữu, giáo dân (cả lương dân) mở ra nhiều cuộc tiếp xúc gần hầu có nhiều cách thế và cơ hội để truyền giáo. Thế nhưng, việc thành lập các giáo xứ hay giáo họ mới cũng mang lại không ít thách đố. Một trong những thách đố đó là việc thiếu nhân sự trong việc xây dựng, hình thành và phát triển các hội đoàn, đoàn thể.
Vì lẽ, với một con số giáo dân nhỏ trong khi có nhiều hội đoàn. Thực tế nơi một giáo xứ, một người có thể đảm trách và sinh hoạt trong nhiều hội đoàn, ban ngành. Điều nay ảnh hưởng không nhỏ đến việc duy trì hoạt động cho các nhóm hội đoàn, ban ngành, đặc biệt nơi các giáo xứ hay giáo họ có số lượng người tín hữu ít.
Thiết nghĩ sự hiện diện của các nhóm hội đoàn hay ban ngành là tốt nhưng không nhất thiết phải nhiều và đầy đủ để sánh cùng các giáo xứ hay các giáo họ khác. Vì lẽ, việc xác định mục đích của hội đoàn hay ban ngành đó là gì? và hội đoàn hay ban ngành đó hoạt động như thế nào? mới là vấn đề quan trọng và cần thiết để xây dựng một hội đoàn. Việc xây dựng hội đoàn hay đoàn thể không chỉ dừng lại ở việc “dưỡng giáo” nhưng cần hướng đến một diện cục chung của Giáo hội là cùng nhau loan báo Tin mừng.
Một đề nghị để cùng nhau thảo luận:
Hiện tại giáo phận có nhiều giáo xứ mới được thành lập, thế nhưng theo hiện trạng thì số giáo dân tại một số nơi quá ít. Vì thế, xin được đề nghị cho một mô hình sinh hoạt: “Tuy tách nhưng vẫn là một.” Một mô hình sinh hoạt theo kiểu liên giáo xứ / giáo họ (theo cụm gần). Trong đó, mỗi giáo xứ / giáo họ đảm trách cho một hội đoàn hay ban ngành nào đó. Dĩ nhiên, các cha phải có một sự hợp tác làm việc chung một cách triệt để. Phải có một chương trình chung và thống nhất.
Thuận lợi: Có nhân sự, hội đoàn hay ban ngành đông dễ sinh hoạt. Phát huy tính chất hiệp hành của Giáo hội. Giảm tải cho người tham dự và ngay cả các cha chuyên trách các hội đoàn.
Khó khăn: “Nội bộ” giữa các giáo xứ / giáo họ khó làm việc chung với nhau. Quản lý phức tạp. Dễ gây sự xáo trộn trong sinh hoạt của một giáo xứ / giáo họ…
Dĩ nhiên trên đây là một vài ý kiến, là điều lý tưởng. Nhưng vì là công việc chung và cần đến sự phát triển toàn diện của một giáo xứ, giáo phận và của cả Giáo hội. Ngày nay, Giáo hội được mời gọi để đi ra, để ôm vào lòng tất cả mọi người và Giáo hội / giáo xứ ngày nay không còn là của riêng cho một nhóm người trong một lãnh thổ cố định nữa mà nó được mời gọi để mở ra để mọi người có thể cùng đến cư ngụ dưới bóng mát của nó. (x. Mc 4, 30-32). Cầu tiến – Mở lòng – Chung tay vì một Thân mình của Chúa Kitô chắc có lẽ là điều mà mỗi người mục tử cũng như cộng đoàn giáo xứ / giáo họ cần suy tư, nhìn lại và hoán cải để có thể trở thành ngôi nhà của Chúa. Vì lẽ, giáo xứ / giáo họ là điểm khởi đầu và là yếu tố nòng cốt và cơ bản cho mọi hoạt động trong công cuộc loan báo Tin mừng của Giáo hội.
Ví dụ: Giáo xứ / giáo họ A đảm trách sinh hoạt chung về (Legio/Gia trưởng/Hiền mẫu/Giới trẻ) cho một nhóm giáo xứ / giáo họ lân cận.
Một giáo xứ / giáo họ chắc chắn mang đến rất nhiều giá trị cho người tín hữu và cho nhân loại. Theo cha, đâu là giá trị hàng đầu của một giáo xứ / giáo họ, trong bối cảnh xã hội ngày nay. Và đâu là dự định của cha để phát huy giá trị đó?
_________________
[1] X. HỒNG THUỶ, “Tóm tắt Huấn thị của Bộ Giáo sĩ về việc cải cách giáo xứ và tái cơ cấu giáo phận,” Vatican News, Ngày 21 tháng 7, 2020, truy cập ngày 2 tháng 6, 2025, https://www.vaticannews.va/vi/vatican-city/news/2020-07/bo-giao-si-huan-thi-cai-cach-giao-xu-giao-phan.html.
[2] X. PHAN TẤN THÀNH, “Các Giáo Xứ: Lịch Sử và Thần Học,” Thời Sự Thần Học 67- Con Người (2/2015), 163-189.
[3] X. CĐ. TRIDENT., sessio XIV (25 nov. 1551), Decretum de reformatione, canone IX; J. Waterworth, “The Council of Trent: The canons and decrees of the sacred and ecumenical Council of Trent, session 14, Decree on ref., c. 9” in Papal Encyclycals Online. (London: Dolman, 1848), accessed June 7, 2025. Https://www.papalencyclicals.net/councils/trent/fourteenth-session.htm.
[4] CIC (1917) can. 216, § I: “Territorium cuiuslibet diocesis dividatur in distinctas partes territoriales; unicuique autem parti sua peculiaris ecclesia cum populo determinato est assignanda, suusque peculiaris rector, tamquam proprius eiusdem pastor, est praeficiendus pro necessaria animarum cura.”
[5] x. Conc. Trident., sess. XIV, Decretum de reformatione.
[6] x. Conc. Trident., sess. XIV, Decretum de reformatione; CIC (1917) can. 465.
[7] x. CIC (1917) can. 124; 857; 1163.
[8] x. Conc. Trident., sess. XIV, Decretum de reformatione.
[9] CIC (1917) can. 216, § I: “Territorium cuiuslibet diocesis dividatur in distinctas partes territoriales; unicuique autem parti sua peculiaris ecclesia cum populo determinato est assignanda, suusque peculiaris rector, tamquam proprius eiusdem pastor, est praeficiendus pro necessaria animarum cura.”
[10] Phân Khoa Thần Học – Giáo Hoàng Học Viện Thánh Piô X, CĐ.Vaticanô II: Hiến Chế Tín Lý về Giáo Hội (Lumen Gentium), 21.11.1964 (Việt Nam: Đà Lạt 1972).
[11] x. CĐ.VATICANÔ II: Hiến Chế Tín Lý về Giáo Hội (Lumen Gentium), số 9.
[12] x. THÁNH GIÁO HOÀNG GIOAN PHAOLÔ II, Tông Huấn Christifideles Laici (1988), số 26.
[13] HĐGMVN - UBGLĐT, Sách Giáo Lý Của Hội Thánh Công Giáo (Hà Nội: Tôn Giáo 2010), số 2179.
[14] CĐ.VATICANÔ II: Hiến Chế Tín Lý về Giáo Hội (Lumen Gentium), số 1.
[15] CĐ.VATICANÔ II: Hiến Chế Tín Lý về Giáo Hội (Lumen Gentium), số 7.
[16] CĐ.VATICANÔ II: Hiến Chế Tín Lý về Giáo Hội (Lumen Gentium), số 4.
[17] x. CĐ.VATICANÔ II: Hiến Chế Tín Lý về Giáo Hội (Lumen Gentium), 13, 32.
[18] CĐ.VATICANÔ II: Hiến Chế Tín Lý về Giáo Hội (Lumen Gentium), số 17.
[19] Phân Khoa Thần Học – Giáo Hoàng Học Viện Thánh Piô X, CĐ.Vaticanô II: Sắc Lệnh về Hoạt Động Truyền Giáo của Giáo Hội (Ad Gentes), 7.12.1965 (Việt Nam: Đà Lạt 1972).
[20] CĐ.VATICANÔ II: Sắc Lệnh về Truyền Giáo (Ad Gentes), số 2.
[21] x. CĐ.VATICANÔ II: Sắc Lệnh về Truyền Giáo (Ad Gentes), số 2.
[22] x. CĐ.VATICANÔ II: Sắc Lệnh về Truyền Giáo (Ad Gentes), số 13, 15, 19, 24.
[23] x CĐ.VATICANÔ II: Sắc Lệnh về Truyền Giáo (Ad Gentes), số 15.
[24] x. CĐ.VATICANÔ II: Sắc Lệnh về Truyền Giáo (Ad Gentes), số 37.
[25] x. CĐ.VATICANÔ II: Sắc Lệnh về Truyền Giáo (Ad Gentes), số 34.
[26] x. CĐ.VATICANÔ II: Sắc Lệnh về Truyền Giáo (Ad Gentes), số 31.
[27] x. CĐ.VATICANÔ II: Sắc Lệnh về Truyền Giáo (Ad Gentes), số 14.
[28] x. CĐ.VATICANÔ II: Sắc Lệnh về Truyền Giáo (Ad Gentes), số 21.
[29] x. CĐ.VATICANÔ II: Sắc Lệnh về Truyền Giáo (Ad Gentes), số 30.
[30] x. CĐ.VATICANÔ II: Sắc Lệnh về Truyền Giáo (Ad Gentes), số 35.
[31] Phân Khoa Thần Học – Giáo Hoàng Học Viện Thánh Piô X, CĐ.Vaticanô II: Hiến Chế Mục Vụ về Giáo hội Trong Thế Giới Ngày Nay (Gaudium et Spes), 7.12.1965 (Việt Nam: Đà Lạt 1972).
[32] CĐ.VATICANÔ II: Sắc Lệnh về Truyền Giáo (Ad Gentes), số 1.
[33] CĐ.VATICANÔ II: Hiến Chế Mục Vụ về Giáo hội (Gaudium et Spes), số 1.
[34] x. CĐ.VATICANÔ II: Hiến Chế Mục Vụ về Giáo hội (Gaudium et Spes), số 32.
[35] CĐ.VATICANÔ II: Hiến Chế Mục Vụ về Giáo hội (Gaudium et Spes), số 4.
[36] CĐ.Vaticanô II: Hiến Chế Mục Vụ về Giáo hội (Gaudium et Spes), số 25.
[37] CĐ.VATICANÔ II: Hiến Chế Mục Vụ về Giáo hội (Gaudium et Spes), số 30.
[38] CĐ.VATICANÔ II: Hiến Chế Mục Vụ về Giáo hội (Gaudium et Spes), số 29.
[39] CĐ.VATICANÔ II: Hiến Chế Mục Vụ về Giáo hội (Gaudium et Spes), số 32.
[40] x. CĐ.VATICANÔ II: Hiến Chế Mục Vụ về Giáo hội (Gaudium et Spes), số 12, 19-22,và 40.
[41] x. CĐ.VATICANÔ II: Hiến Chế Mục Vụ về Giáo hội (Gaudium et Spes), số 43 và 75.
[42] CĐ.VATICANÔ II: Hiến Chế Mục Vụ về Giáo hội (Gaudium et Spes), số 3 và 45.
[43] Sau Công đồng Vaticanô II, Giáo hội nhận thấy Bộ giáo luật 1917 không còn phù hợp với tinh thần của Giáo hội nữa. Nó cần được sửa đổi. Năm 1965, Đức Giáo Hoàng Phaolô VI thành lập một Ủy ban để cải tổ Bộ giáo luật dựa trên tinh thần của Công đồng Vaticanô II. Sau 20 năm làm việc, ngày 25 tháng 1 năm 1983, Đức Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II công bố Bộ giáo luật 1983 với Tông hiến “Sacrae Disciplinae Leges”. Bộ giáo luật phản ánh một trung thực tinh thần của Công đồng Vaticanô II khi đặt để ơn gọi chung của mọi Kitô hữu, không chỉ giáo sĩ làm trọng tâm của đời sống của Giáo hội. Cùng với đó là nỗ lực cố gắng củng cố sự hiệp thông, sứ vụ và công lý nhằm khơi dậy sứ vụ bác ái và vì phần rỗi các linh hồn. (x. điều 1752)
[44] x. Ga 10, 11-15.
[45] x. CĐ.VATICANÔ II: Hiến Chế Tín Lý về Giáo Hội (Lumen Gentium), số 26.
[46] x. BỘ GIÁO LUẬT 1983, điều 208-231: quyền lợi và bổn phận của giáo dân; điều 515-552: Về cha sở: nhiệm vụ và việc chăm sóc mục vụ trong giáo xứ; điều 536-537: Hội đồng mục vụ và kinh tế của giáo xứ (tư vấn cho cha sở).
[47] BỘ GIÁO LUẬT, điều 518.
[48] ĐỨC GIÁO HOÀNG GIOAN PHAOLÔ II, Tông huấn Christifideles Laici (Kitô Hữu Giáo Dân về Ơn Gọi và Sứ Mạng của Giáo Dân Trong Giáo Hội và Thế Giới) 30.12.1988, tại https://hdgmvietnam.com/chi-tiet/tong-huan-christifideles-laici-kito-huu-giao-dan-ve-on-goi-va-su-mang-cua-giao-dan-trong-giao-hoi-va-the-gioi-55844
[49] x. ĐỨC GIÁO HOÀNG GIOAN PHAOLÔ II, Tông huấn Christifideles Laici, số 10.
[50] x. ĐỨC GIÁO HOÀNG GIOAN PHAOLÔ II, Tông huấn Christifideles Laici, số 17, 34, 44, 51.
[51] x. ĐỨC GIÁO HOÀNG GIOAN PHAOLÔ II, Tông huấn Christifideles Laici, số 3.
[52] x. ĐỨC GIÁO HOÀNG GIOAN PHAOLÔ II, Tông huấn Christifideles Laici, số 40-41.
[53] x. ĐỨC GIÁO HOÀNG GIOAN PHAOLÔ II, Tông huấn Christifideles Laici, số 26-27.
[54] HĐGMVN - UBGLĐT, Sách Giáo Lý Của Hội Thánh Công Giáo, 11.10.1992 (Hà Nội: Tôn Giáo 2010).
[55] x. HĐGMVN - UBGLĐT, Sách Giáo Lý Của Hội Thánh Công Giáo, 1567, 2179-2226; x. Bộ Giáo Luật (1983), 515, 519
[56] The Holy See, “INSTRUCTION ON CERTAIN QUESTIONS REGARDING THE COLLABORATION OF THE NON-ORDAINED FAITHFUL IN THE SACRED MINISTRY OF PRIEST”, (Liberia editrice Vaticana: Vatican city 1997), accessed 10.7.2025, tại https://www.vatican.va/roman_curia/congregations/cclergy/documents/rc_con_interdic_doc_15081997_en.html
[57] Congregation for the Clergy, The Priest, Pastor and Leader of The Parish Community (Rome, at the offices of the Congregation for the Clergy) 4.8.2002.
[58] Congregation for the Clergy, The Priest, Pastor and Leader of The Parish Community, số 18.
[59] Congregation for the Clergy, The Priest, Pastor and Leader of The Parish Community, số 18.
[60] x. Congregation for the Clergy, The Priest, Pastor and Leader of The Parish Community, số 19.
[61] x. Congregation for the Clergy, The Priest, Pastor and Leader of The Parish Community, số 24.
[62] THÁNH BỘ GIÁO SĨ, Thư luân lưu Omnes Christifideles (25/1/1973), nn. 4 ; 9.
[63] x. THÁNH BỘ GIÁO SĨ, The Priest, Pastor and Leader of The Parish Community, số 27.
[64] x. GIOAN-PHAOLÔ II, Tông thư Novo Millennio ineunte (6/1/2001), n. 29 ; l.c.
[65] x. THÁNH BỘ GIÁO SĨ The Priest, Pastor and Leader of The Parish Community, số 27.
[66] x. THÁNH BỘ GIÁO SĨ, The Priest, Pastor and Leader of The Parish Community, số 28.
[67] Huấn Thị Cải Tổ Mục Vụ Cộng Đoàn Giáo Xứ Để Phục Vụ Sứ Vụ Loan Báo Tin Mừng Của Hội Thánh, Gm. Louis Nguyễn Anh Tuấn chuyển ngữ, 29.6.2020, tại https://hdgmvietnam.com/chi-tiet/bo-giao-si-huan-thi-cai-to-muc-vu-cong-doan-giao-xu-de-phuc-vu-su-vu-loan-bao-tin-mung-cua-hoi-thanh-46479
[68] Huấn Thị Cải Tổ Mục Vụ Cộng Đoàn Giáo Xứ, số 3.
[69] Huấn Thị Cải Tổ Mục Vụ Cộng Đoàn Giáo Xứ, số 3.
[70] Huấn Thị Cải Tổ Mục Vụ Cộng Đoàn Giáo Xứ, số 7.
[71] Huấn Thị Cải Tổ Mục Vụ Cộng Đoàn Giáo Xứ, số 4.
[72] Huấn Thị Cải Tổ Mục Vụ Cộng Đoàn Giáo Xứ, số 5.
[73] Huấn Thị Cải Tổ Mục Vụ Cộng Đoàn Giáo Xứ, số 6.
[74] Huấn Thị Cải Tổ Mục Vụ Cộng Đoàn Giáo Xứ, số 7.
[75] Huấn Thị Cải Tổ Mục Vụ Cộng Đoàn Giáo Xứ, số 9.
[76] Huấn Thị Cải Tổ Mục Vụ Cộng Đoàn Giáo Xứ, số 8.
[77] Huấn Thị Cải Tổ Mục Vụ Cộng Đoàn Giáo Xứ, số 12; Th. GH GIOAN PHAOLO II, Diễn văn trước Tham dự viên Khoáng đại Hội nghị Bộ Giáo sĩ (20.10.1984), s.3 và 4: Insegnamenti VII/2 (1984), 984 và 985; x. Id., Catechesi Tradendae (16.10.1979), s. 67: AAS 71 (1979), 1332.
[78] Huấn Thị Cải Tổ Mục Vụ Cộng Đoàn Giáo Xứ, số 12; ĐGH BÊNÊĐICTÔ XVI, Bài giảng khi thăm viếng mục vụ giáo xứ Our Lady Star of Evangelisation, Rome (10.12.2006): Insegnamenti II/2 (2006), 795.
[79] Huấn Thị Cải Tổ Mục Vụ Cộng Đoàn Giáo Xứ, số 12; ĐGH PHANXICÔ, Evangelii Gaudium, s. 28: AAS 105 (2013), 1032, tại https://hdgmvietnam.com/chi-tiet/tong-huan-niem-vui-cua-tin-mung-evangelii-gaudium-46656
[80] x. CĐ.VATICANÔ II: Sắc Lệnh về Hoạt Động Truyền Giáo của Giáo Hội (Ad Gentes), số 6.
[81] Huấn Thị Cải Tổ Mục Vụ Cộng Đoàn Giáo Xứ, số 11.
[82] Huấn Thị Cải Tổ Mục Vụ Cộng Đoàn Giáo Xứ, số 13.
[83] Huấn Thị Cải Tổ Mục Vụ Cộng Đoàn Giáo Xứ, số 14.
[84] Huấn Thị Cải Tổ Mục Vụ Cộng Đoàn Giáo Xứ, số 15; x. CĐ.VATICANÔ II: Hiến Chế Gaudium et Spes, số 1.
[85] Lm. GIUSE TRƯƠNG ĐÌNH HIỀN, được phỏng vấn bởi Lm. Giuse Cao Gia An, “Năm Thánh - Năm Hồng Ân #19: Cha Giuse Trương Đình Hiền, Qui Nhơn,” Vatican News - Tiếng Việt, YouTube video, 41:41, đăng ngày 19 tháng 4, 2025, https://www.youtube.com/watch?v=lhNp4kFZoZc
bài liên quan mới nhất

- Đức Mẹ Sầu Bi - Người Mẹ đồng hành trong khổ đau
-
Học yêu Thánh Giá -
Nên Thánh trong Sứ Vụ -
Những trạm dừng của Hy Vọng -
Câu in nghiêng của bài Tin Mừng -
Mùa thu của Mẹ - Lời thưa “ xin vâng” -
Qua cuộc đời của Thánh Carlo Acutis nói với người trẻ về sự từ bỏ -
Mùa khai giảng tản mạn việc học -
ExLuro 68: Tình Bạn thân thiết và cảm nghiệm cuộc đời -
Tiếng Chuông và lời mời gọi Sống Trọn Từng Khoảnh Khắc
bài liên quan đọc nhiều

- Đức Giáo hoàng chỉ cách phân biệt được Chúa hay Satan đang nói
-
Những sự thật về Satan và các thiên thần sa ngã -
Thập giá hay Thánh Giá? -
5 câu Kinh Thánh cầu xin Chúa chữa lành -
Cây Thánh Giá, biểu tượng thánh thiêng Kitô giáo -
Cầu xin cùng Thánh nữ Corona trong cơn đại dịch corona -
Sống giây phút hiện tại -
Lời cầu nguyện giúp vượt qua chán nản và trầm cảm -
Ánh sáng - bóng tối -
Tại sao đình chỉ việc cử hành Thánh Lễ giữa cơn đại dịch ?