Bài 147: Người Pha-ri-sêu và người Thu Thuế
Lm Vinh Sơn Phạm Xuân Hưng, OP - Nhóm Phiên dịch Các Giờ Kinh Phụng vụ
TGPSG --Trích đoạn Tin Mừng Chúa nhật XXX Thường niên, năm C, giới thiệu cho chúng ta hai hình ảnh đối lập nhau hoàn toàn khi họ cùng lên Đền Thờ cầu nguyện. Đó là người Pha-ri-sêu và người thu thuế.
Trong buổi học hỏi hôm nay, chúng ta sẽ tìm hiểu xem người Pha-ri-sêu là ai và người thu thuế là ai, và tại sao trong Tin Mừng Chúa nhật tuần này, họ lại xuất hiện như hai hình ảnh đối lập trước Thiên Chúa.
- Người Pha-ri-sêu
Người Pha-ri-sêu là một nhóm tôn giáo gồm đa số là giáo dân Do-thái thuộc tầng lớp trung lưu, tuy cũng có các tư tế và các thầy Lê-vi. Không phải mọi người Pha-ri-sêu đều là kinh sư, nhưng hầu hết các kinh sư đều là Pha-ri-sêu.
Danh xưng Pha-ri-sêu có gốc Hip-ri là pơ-ru-sim (פְּרוּשִׁים), nghĩa là “những người tách biệt” vì thế mà cũng có cách gọi khác là “những người Biệt Phái”. Nhóm này bắt nguồn từ những người đạo đức (Hásîdîm) thời Ma-ca-bê vào thế kỷ II tr.CN. Những người này chống lại ảnh hưởng Hy-lạp hóa của nhà cầm quyền Hy-lạp. Họ tâm huyết với việc bảo tồn bản sắc Do-thái và sự thuần khiết tôn giáo bằng việc tuân thủ tỉ mỉ Luật Mô-sê và các truyền thống. Họ họp thành những cộng đoàn nhỏ, đóng kín, chuyên chăm học hỏi Sách Thánh và quyết tâm tuân giữ nghiêm nhặt mọi khoản luật thành văn cũng như truyền khẩu. Người Pha-ri-sêu chú trọng luật truyền khẩu và các thực hành tỉ mỉ, tạo ra một thứ hàng rào phía bên ngoài Lề Luật, hầu ngăn chặn mọi vi phạm các điều răn của Thiên Chúa.
Người Pha-ri-sêu nhiệt thành giảng dạy trong các hội đường và rất được dân chúng kính trọng vì đời sống đạo đức của họ. Họ cố gắng sống một cuộc đời thánh thiện, dành riêng cho Thiên Chúa, và tin rằng tuân thủ Lề Luật và truyền thống sẽ giúp họ đạt đến sự thánh thiện và giúp Ít-ra-en trở thành dân thánh.
- Người Pha-ri-sêu thời Đức Giê-su
Vào thời Đức Giê-su, người Pha-ri-sêu là một hệ phái tôn giáo và chính trị quan trọng trong cộng đồng Do-thái. Họ rất được kính trọng và ảnh hưởng nhiều đến dân chúng do việc chuyên chăm nghiên cứu Sách Thánh và lòng nhiệt thành áp dụng Lề Luật vào mọi khía cạnh của cuộc sống, từ các quy tắc ăn uống đến việc tuân giữ ngày Sa-bát và sự thanh sạch theo nghi tiết. Đức Giê-su chỉ trích họ quá chú trọng vào sự tuân thủ bên ngoài hơn là sự công chính bên trong (x. Mt 23,23-28). Họ giải thích Lề Luật cách cứng nhắc mà bỏ qua điều răn của Thiên Chúa cũng như những điều quan trọng là công lý và lòng thương xót (x. Mt 23,23 ; Mc 7,8).
Các sách Tin Mừng cho thấy thường xuyên xảy ra những xung đột giữa Đức Giê-su với người Pha-ri-sêu khi họ thách thức thẩm quyền của Đức Giê-su, trách cứ Người vi phạm luật Sa-bát và giao du với những người thu thuế và tội lỗi (x. Mc 2,15-17 ; Lc 5,29-32).
Người Pha-ri-sêu nắm giữ một vị thế ảnh hưởng trong cộng đồng, nhưng giáo huấn của Đức Giê-su đã đe dọa địa vị của họ. Họ chống lại Đức Giê-su vì sợ mất quyền lực, khả năng định hình đời sống tôn giáo và xã hội của dân chúng.
Tuy người Pha-ri-sêu thường xuyên kình địch với Đức Giê-su nhưng cũng có một số người Pha-ri-sêu có thiện cảm với Người, chẳng hạn như ông Ni-cô-đê-mô (x. Ga 3), ông Giô-xếp A-ri-ma-thê (x. Mc 15,43 ; Lc 23,50-53). Thánh Phao-lô vốn là một người Pha-ri-sêu từng thụ giáo với kinh sư Ga-ma-li-ên, là bậc thầy trong giới Pha-ri-sêu (x. Cv 5,34). Ít là ba lần, thánh Phao-lô tự hào nhận mình là Pha-ri-sêu (x. Cv 22,6 ; 26,5 ; Pl 3,5).
- Người thu thuế
Người thu thuế thời Đức Giê-su là những người Do-thái cộng tác với đế quốc Rô-ma mà đánh thuế đồng bào của mình. Chính quyền Rô-ma thường giao quyền thu thuế cho các nhà thầu. Rồi các nhà thầu này lại thuê những người Do-thái thu thuế thay cho họ. Họ đánh thuế tất cả những thứ mua bán, thuế cầu đường, thuế xe, thuế vật kéo xe, thuế đường thủy, tàu thuyền, bến cảng, thuế vào chợ buôn bán v.v.
Những người thu thuế được hứa hẹn về khoản thu hậu hĩnh khi họ được tự do thu thêm tiền thuế của dân chúng. Họ bị coi là những kẻ áp bức dân chúng và bất lương (x. Lc 3,12-14 ; 19,8). Họ bị coi là phản bội và ô uế vì làm việc cho người Rô-ma ngoại giáo. Họ không được phép làm chứng trước tòa, ngay cả việc từ thiện của họ cũng bị từ chối. Người thu thuế bị xếp đồng hạng với “quân tội lỗi” (Lc 5,30), với bọn “đĩ điếm” (Mt 21,31-32), và với “dân ngoại” (Mt 18,17). Họ bị dân chúng khinh miệt và tẩy chay nên chỉ có thể làm bạn với những người thu thuế hoặc các thành phần bị coi là tội lỗi.
Đức Giê-su được mô tả là thân thiện với những người thu thuế khi lui tới với họ (x. Lc 15,1), vào nhà họ (x. Lc 19,5), ăn uống với họ (x. Mt 9,11), và là bạn của những kẻ đáng khinh này (x. Mt 11,19 ; Lc 7,34), nhất là khi Người gây sốc và phẫn nộ cho nhiều người Do-thái nhất là các kinh sư và người Pha-ri-sêu vì đã gọi một người thu thuế làm môn đệ là Lê-vi, hay Mát-thêu (x. Lc 5,27 ; Mt 9,9). Khi đi qua Giê-ri-khô, Đức Giê-su cũng gây xôn xao vì đã kêu gọi và đến nhà một trưởng nhóm thu thuế là ông Gia-kêu. (x. Lc 19,1-10).
Các kinh sư và người Pha-ri-sêu trách cứ Đức Giê-su và các môn đệ về mối tương giao với người thu thuế : “Sao các ông lại ăn uống với bọn thu thuế và quân tội lỗi ?” (Lc 5,30).
4. Dụ ngôn người Pha-ri-sêu và người thu thuế
“Có hai người lên đền thờ cầu nguyện. Một người thuộc nhóm Pha-ri-sêu, còn người kia làm nghề thu thuế” (Lc 18,10).
Đó là một mở đầu gây thắc mắc vì làm sao một người Pha-ri-sêu lại đặt ngang hàng với một người thu thuế được ?
Mặc dù hai nhân vật của dụ ngôn là người Pha-ri-sêu và người thu thuế, nhưng mục đích không nhằm đến họ cho bằng nhắm đến những “người tự hào cho mình là công chính mà khinh chê người khác” (Lc 18,9) mà người Pha-ri-sêu là điển hình.
Bối cảnh là đền thờ Giê-ru-sa-lem, nơi hai người đến cầu nguyện. Đức Giê-su đã chọn một người Pha-ri-sêu và một người thu thuế làm diễn viên trong câu chuyện, đại diện cho hai thái cực tôn giáo trong xã hội Do-thái lúc bấy giờ. Hoàn cảnh trái ngược của hai người trong xã hội Do-thái giúp chúng ta hiểu được dụ ngôn về người Pha-ri-sêu và người thu thuế này cũng như cách thức và ý nghĩa lời cầu nguyện của họ.
Trước tiên là người Pha-ri-sêu. Tác giả Lu-ca viết : “Người Pha-ri-sêu đứng thẳng, nguyện thầm rằng” (Lc 18,11). Câu văn Hy-lạp có thể dịch là “người Pha-ri-sêu đứng, cầu nguyện thế này với (hướng tới) chính mình (πρὸς ἑαυτὸν)”, nghĩa là người Pha-ri-sêu lấy mình là đối tượng và trung tâm của lời cầu nguyện.
Khi cầu nguyện, người Pha-ri-sêu đứng tách biệt với người thu thuế mà cảm tạ Chúa, nhưng thực ra ông đang nói với chính mình, hướng đến chính mình mà chiêm ngưỡng sự công chính của ông : “Con không như bao kẻ khác : trộm cắp, bất chính, ngoại tình, hoặc như tên thu thuế kia” (Lc 18,11). Dù đang tạ ơn Chúa, nhưng thực ra ông đang ca tụng mình so với những kẻ khác. Sau lời cầu nguyện về “sự công chính tiêu cực” (không làm điều xấu), ông chuyển sang “sự công chính tích cực” của mình : “Con ăn chay mỗi tuần hai lần, con dâng cho Chúa một phần mười thu nhập của con” (Lc 18,12). Thực ra ông không cầu nguyện hay tạ ơn mà đang khoe khoang và kiêu ngạo. Đó là tính đạo đức giả của người Pha-ri-sêu.
Một Ráp-bi tên là Si-môn bar Gio-khai đã từng nói về sự công chính của mình rằng : “Tôi đã thấy những người của thế hệ này được định sẵn cho thế giới sẽ đến. Họ rất ít. Nếu họ có ba mươi người thì có tôi và con trai tôi (Ráp-bi El-a-zar) trong đó. Nếu họ có mười người thì có tôi và con trai tôi trong đó. Nếu họ có hai người thì tôi và con trai tôi là họ. Nếu chỉ có một, thì đó là tôi” (Bereshith Rabba, 34, 35). Vị Ráp-bi cho rằng cũng như số người công chính có thể cứu thành Xơ-đôm và Gô-mô-ra (x. St 18,20-32), số người công chính có thể cứu thế giới này cũng rất ít, trong đó nhất định phải có ông.
Còn người thu thuế thì làm sao ? Thánh Lu-ca kể : “Còn người thu thuế thì đứng đằng xa, thậm chí chẳng dám ngước mắt lên trời, nhưng vừa đấm ngực vừa thưa rằng : ‘Lạy Thiên Chúa, xin thương xót con là kẻ tội lỗi” (Lc 18,13).
Các Ráp-bi Do-thái xếp người thu thuế đồng hàng với “những kẻ sát nhân và kẻ cướp” (sách Tan-mút Ba-by-lon), và là nỗi ô nhục tột cùng cho chính gia đình họ.
Chúng ta thấy sự tương phản hoàn toàn giữa hai người khi cầu nguyện. Người Pha-ri-sêu đứng tách biệt vì cho rằng mình tốt hơn những người khác : “Con không như bao kẻ khác : trộm cắp, bất chính, ngoại tình, hoặc như tên thu thuế kia” (Lc 18,11). Người thu thuế cũng đứng tách biệt từ đằng xa nhưng là vì nhận biết mình tội lỗi và bất xứng.
Người Pha-ri-sêu khoe khoang bản thân và tự cho mình là công chính, trong khi người thu thuế lại coi người khác là công chính so với mình là tội lỗi. Ông cũng nói đến bản thân nhưng đó là cái thân tội lỗi. Người Pha-ri-sêu không cầu xin Chúa điều gì, vì tự cho mình là công chính, còn người thu thuế thì đấm ngực thống hối, kêu xin lòng thương xót và tha thứ : “Lạy Thiên Chúa, xin thương xót con là kẻ tội lỗi” (Lc 18,13b).
Rồi Đức Giê-su kết luận : “Tôi nói cho các ông biết : người này, khi trở xuống mà về nhà, thì đã được nên công chính rồi ; còn người kia thì không” (Lc 18,14). Kết cuộc là kẻ tìm kiếm sự công chính nơi chính mình thì không được công chính hóa, còn kẻ tìm kiếm sự công chính nơi Thiên Chúa thì được nên công chính như lời thánh Phao-lô dạy : “Người ta được nên công chính vì tin, chứ không phải vì làm những gì Luật dạy” (Rm 3,28) ; “Người nào không dựa vào việc làm nhưng tin vào Thiên Chúa, Đấng làm cho kẻ vô đạo nên công chính, thì lòng tin làm cho người ấy được Thiên Chúa kể là công chính” (Rm 4,5).
Người thu thuế đã được như vậy, còn người Pha-ri-sêu thì không.
Cầu nguyện
Mặc lấy tâm tình của người thu thuế trong bài Tin Mừng, chúng cùng cầu nguyện với lời thánh vịnh 51 :
Lạy Thiên Chúa,
xin lấy lòng nhân hậu xót thương con,
mở lượng hải hà xóa tội con đã phạm.
Xin rửa con sạch hết lỗi lầm
tội lỗi con, xin Ngài thanh tẩy.
Vâng, con biết tội mình đã phạm,
lỗi lầm cứ ám ảnh ngày đêm.
Con đắc tội với Chúa, với một mình Chúa,
dám làm điều dữ trái mắt Ngài.
Xin dùng cành hương thảo
rảy nước thanh tẩy con,
con sẽ được tinh tuyền ;
Xin ngoảnh mặt đừng nhìn bao tội lỗi
và xóa bỏ hết mọi lỗi lầm.
Lạy Chúa Trời, xin mở miệng con,
cho con cất tiếng ngợi khen Ngài.
(Tv 51,3-6.9.11.17)
bài liên quan mới nhất
- Bài 146: Viên Quan Tòa và Bà Góa: vấn nạn công bằng | Dưới ánh sáng Lời Chúa
-
Bài 145 : Anh ta lại là người Sa-ma-ri -
Bài 144 : Kinh Kính Mừng từ trình thuật Truyền tin -
Bài 143: Giàu và nghèo trong Kinh Thánh | Dưới ánh sáng Lời Chúa -
Bài 142: Lẽ nào Chúa lại khen kẻ bất lương? | Dưới ánh sáng Lời Chúa -
Bài 141: Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi ban Con Một | Dưới ánh sáng Lời Chúa -
Bài 140: Theo Đức Giê-Su, phải ghét bỏ người thân và từ bỏ tất cả ? | Dưới ánh sáng Lời Chúa -
Bài 139: Chỗ Nhất của Khiêm Nhường | Dưới ánh sáng Lời Chúa -
Bài 138: Cửa Hẹp - Hoán Cải - Chiến Đấu | Dưới ánh sáng Lời Chúa -
Bài 137: Sao Đức Giêsu nói: "Thầy đến để đem chia rẽ" | Dưới ánh sáng Lời Chúa |
bài liên quan đọc nhiều
- Bài 13: Chúa Thánh Thần qua các tước hiệu trong Kinh Thánh
-
Bài 32: Giờ thứ ba, giờ thứ sáu,... Giờ thứ mười một thời khắc trong Kinh Thánh -
Bài 12: Cái Biết Theo Kinh Thánh I Dưới ánh sáng Lời Chúa -
Bài 14: Chúa Giêsu được ĐƯA LÊN trời -
Bài 42: Tỉnh thức hay Canh thức theo Kinh Thánh -
Bài 10: Sự kiện “hiện ra” trong trình thuật Kinh Thánh I Dưới ánh sáng Lời Chúa -
Bài 62: Chứng từ Đức Kitô Phục Sinh / Dưới Ánh Sáng Lời Chúa -
Bài 20: Kiểu nói “Yêu, Ghét” trong Kinh Thánh -
Bài 64: Thiên Sai Luận Mục Tử / Dưới Ánh Sáng Lời Chúa -
Bài 115 : Người con hoang đàng hay người cha nhân hậu ?