Bài 132: Những hình ảnh biểu tượng Dụ ngôn người Samari tốt lành I Dưới ánh sáng Lời Chúa
TGPSG -- Trong đoạn Tin Mừng Chúa Nhật XV Thường niên sắp tới, Đức Giê-su kể cho chúng ta nghe một trong những dụ ngôn hay và đẹp nhất trong Kinh Thánh, đó là dụ ngôn Người Sa-ma-ri tốt lành. Đây là câu chuyện được duy nhất Tin Mừng Lu-ca ghi lại và thường được giải thích theo nghĩa thế nào là “yêu người thân cận”. Tuy nhiên, trong chuyên mục Dưới ánh sáng Lời Chúa tuần này, chúng ta sẽ cùng tìm hiểu ý nghĩa ẩn dụ qua những hình ảnh biểu tượng của dụ ngôn tuyệt vời này.
1. Đức Giêsu giải nghĩa các dụ ngôn
Tin Mừng ghi nhận Đức Giê-su thường dùng dụ ngôn mà giảng dạy dân chúng. Theo tác giả Mác-cô thì “Người không bao giờ rao giảng cho họ mà không dùng dụ ngôn. Nhưng khi chỉ có thầy trò với nhau thì Người giải nghĩa hết” (Mc 4,34). Tuy nhiên, các sách Tin Mừng chỉ ghi lại một ít lần Đức Giê-su giải thích các dụ ngôn và thường là theo nghĩa ẩn dụ, chẳng hạn như dụ ngôn Người gieo giống (x. Mt 13,18-23), dụ ngôn Cỏ lùng (x. Mt 13,37-43), dụ ngôn Cây nho và cành nho (Ga 15,1-8). Chúng ta thử nghe lại Đức Giê-su giải nghĩa dụ ngôn Cỏ lùng trong đó mỗi một hình ảnh hay nhân vật đều là một ẩn dụ : “Kẻ gieo hạt giống tốt là Con Người. Ruộng là thế gian. Hạt giống tốt, đó là con cái Nước Trời. Cỏ lùng là con cái Ác Thần. Kẻ thù đã gieo cỏ lùng là ma quỷ. Mùa gặt là ngày tận thế. Thợ gặt là các thiên thần” (Mt 13,37-39).
Theo nhiều nhà chú giải thì lối giải thích trên đây cũng chính là cách Giáo Hội thời sơ khai hiểu các dụ ngôn trong thực tế đời sống các tín hữu.
Vì thế, cũng đã có một cách hiểu ẩn dụ về câu chuyện Người Sa-ma-ri tốt lành, như được mô tả trên một bức tranh kính màu, có từ thế kỷ XII tại nhà thờ chính tòa thành Chartres, nước Pháp, với phần thượng mô tả cảnh A-đam và E-và được Chúa dựng nên, đặt vào vườn Địa Đàng và sau đó bị trục xuất vì phạm tội ; còn phần hạ thì mô tả dụ ngôn Người Sa-ma-ri tốt lành. Vậy việc A-đam E-và sa ngã có liên quan gì đến dụ ngôn Người Sa-ma-ri tốt lành ?
2. Câu chuyện về lịch sử cứu độ
Dụ ngôn Người Sa-ma-ri tốt lành không chỉ được đọc như là câu trả lời của Đức Giê-su cho người thông luật : “Ai là người thân cận của tôi ?” nhưng còn hàm ý về kế hoạch cứu độ của Thiên Chúa từ khi nguyên tổ sa ngã cho đến khi Đấng Cứu Thế đến. Chúng ta có thể khái quát ý nghĩa ẩn dụ của câu chuyện như sau :
Một người kia đi từ Giê-ru-sa-lem xuống Giê-ri-khô chính là con người đã từ cảnh Địa Đàng đi xuống thế gian này. Kẻ cướp chính là ma quỷ và những mãnh lực thù nghịch với con người. Thầy tư tế tượng trưng cho Lề Luật, còn thầy Lê-vi thì tượng trưng cho các ngôn sứ. Một người Sa-ma-ri kia chính là Đức Ki-tô cứu thế. Những vết thương của nạn nhân là tội bất tuân của nguyên tổ. Lưng lừa của người Sa-ma-ri là hình bóng thân mình Đức Ki-tô, quán trọ là Giáo hội nơi đón nhận mọi người, chủ quán là các vị lãnh đạo Giáo hội có nhiệm vụ chăm sóc dân Chúa, hai quan tiền đưa cho chủ quán là hai giới răn mến Chúa và yêu người, và lời hứa khi trở về của người Sa-ma-ri là lời hứa quang lâm của Đức Ki-tô.
Nhiều giáo phụ thời xưa như thánh I-rê-nê, thánh Clê-men-tê A-lê-xan-ri-a, O-ri-giê-nê, thánh Gio-an Kim Khẩu, thánh Am-brô-si-ô, thánh Âu-tinh xem ra đồng thuận với lối giải thích này.
3. Những hình ảnh biểu tượng của dụ ngôn
Chúng ta cùng tìm hiểu chi tiết dụ ngôn Người Sa-ma-ri tốt lành :
“Một người kia từ Giê-ru-sa-lem xuống Giê-ri-khô, dọc đường bị rơi vào tay kẻ cướp” (Lc 10,35).
Nhân vật “một người kia” tượng cho A-đam. Hạn từ A-đam trong tiếng Híp-ri có nghĩa là “con người, nhân loại”, hoặc tên riêng của một người. Thánh Clê-men-tê A-lê-xan-đri-a đã xem nạn nhân trong dụ ngôn tượng trưng cho “tất cả chúng ta”, đã đi xuống như A-đam và E-và, phải khốn khổ vì tội lỗi và sự chết như lời thánh Phao-lô : “Mọi người vì liên đới với A-đam mà phải chết” (1 Cr 15,22).
“Từ Giê-ru-sa-lem xuống Giê-ri-khô”. Thánh Gio-an Kim Khẩu đã thấy nơi động từ “đi xuống” (καταβαίνω) diễn tả sự sa ngã của A-đam từ vườn Địa Đàng xuống thế gian, từ vinh quang xuống trần tục, từ bất tử xuống phải chết. Nạn nhân đã cố ý đi xuống dù đã được cảnh báo nguy hiểm, như nguy cơ bị cướp dọc đường từ Giê-ru-sa-lem xuống Giê-ri-khô thời Đức Giê-su.
Giê-ru-sa-lem là thành thánh, có đền thờ nơi Thiên Chúa hiện diện. Con người đã sa ngã và sa xuống khỏi nơi thánh của Thiên Chúa. Giê-ri-khô tượng trưng cho trần gian này. Thành này được coi là thấp nhất trên trái đất vì thấp hơn mực nước biển 250m. Đi xuống Giê-ri-khô là đi xuống dốc đến tận đáy của tội lỗi. Nạn nhân “rơi vào tay kẻ cướp” là rơi vào tay ma quỷ và các mãnh lực sự dữ.
“Chúng lột sạch người ấy, đánh nhừ tử, rồi bỏ đi, để mặc người ấy nửa sống nửa chết”.
Thánh Lu-ca dùng động từ ek-đy-ô (ἐκδύω) tức là “lột sạch” theo nghĩa cụ thể là “lột y phục” như khi Đức Giê-su bị lột áo trong cuộc thương khó (x. Mt 27,28 ; Mc 15,20). Theo giáo phụ O-ri-giê-nê và thánh Âu-tinh thì người lữ khách bị lột sạch ám chỉ việc con người bị tước hết ân sủng nhất là ơn trường sinh bất tử mà nguyên tổ loài người vốn được hưởng trước khi sa ngã. Thánh Gio-an Kim Khẩu gọi là đánh mất “chiếc áo choàng bất tử và bất khả hư hoại”.
Nạn nhân bị “đánh nhừ tử” tượng trưng cho những thương tích đau đớn của linh hồn do tội lỗi và ma quỷ gây ra. Bọn cướp “để mặc người ấy nửa sống nửa chết” ám chỉ đến cái chết thứ nhất và thứ hai. Trong A-đam sa ngã, con người phải chịu cái chết thứ nhất là hậu quả của tội lỗi, nhưng cái chết thứ hai, tức là sự trầm luân vĩnh viễn thì con người sẽ được cứu khỏi nhờ ơn cứu độ của Đức Giê-su, như lời sách Khải Huyền : “Hạnh phúc thay và thánh thiện dường nào kẻ được dự phần vào cuộc phục sinh thứ nhất này ! Cái chết thứ hai không có quyền gì trên họ ; họ sẽ hiển trị với Đức Ki-tô” (Kh 20,6).
“có thầy tư tế cũng đi xuống trên con đường ấy. Trông thấy người này, ông tránh qua bên kia mà đi. Rồi cũng thế, một thầy Lê-vi đi tới…”
Thầy tư tế biểu trưng cho Luật Mô-sê (Torah), không có khả năng cứu độ con người như lời thánh Phao-lô nói : “Con người được nên công chính không phải nhờ Lề Luật, nhưng nhờ tin vào Đức Giê-su Ki-tô” (Gl 2,16). Còn thầy Lê-vi thì tượng trưng cho Các ngôn sứ (Nebiim). Chức Lê-vi thấp hơn chức tư tế thế nào thì Các ngôn sứ (Nebiim) cũng thấp hơn Lề Luật (Torah) như vậy. Nếu Torah không thể cứu độ con người thì Nebiim cũng không. Còn theo thánh Âu-tinh thì họ tượng trưng cho Lề Luật và các hy lễ Cựu Ước đều không thể cứu độ con người.
“một người Sa-ma-ri kia đi đường, tới ngang chỗ người ấy, cũng thấy, và chạnh lòng thương. Ông ta lại gần, lấy dầu lấy rượu đổ lên vết thương cho người ấy và băng bó lại, rồi đặt người ấy trên lưng lừa của mình, đưa về quán trọ mà săn sóc”.
Người Sa-ma-ri trong dụ ngôn là hình ảnh Chúa Ki-tô, Đấng từng bị người Do-thái sỉ nhục rằng : “Chúng tôi bảo ông là người Sa-ma-ri và là người bị quỷ ám thì chẳng đúng lắm sao ?” (Ga 8,48). Cũng như người Sa-ma-ri bị người Do-thái khinh rẻ thì Đức Ki-tô cũng bị khinh rẻ như vậy.
Nhưng người Sa-ma-ri đã chạnh lòng thương. Động từ Hy-lạp splan-chni-zo-mai (πλαγχνίζομαι) là hạn từ quan trọng diễn tả lòng thương xót của Đức Ki-tô (x. Mt 14,14 ; Mc 1,41 ; Lc 7,13). Đó là sự xúc động đến xáo động và quặn thắt của lòng dạ một người vì đồng cảm sâu sắc với nỗi đau của tha nhân từ tận sâu thẳm cõi lòng. Như người Sa-ma-ri, Đức Ki-tô chạnh lòng thương trước nhân loại khổ đau vì tội lỗi.
Rượu và dầu tượng trưng cho các bí tích và ân sủng. Chúng có dược tính trị thương và làm thuyên giảm cơn đau, ám chỉ Đức Ki-tô và Thánh Thần, Đấng thanh tẩy và chữa lành con người bằng các bí tích trong Hội Thánh ; còn việc băng bó vết thương thì tượng trưng cho việc khống chế tội lỗi hầu chữa lành linh hồn.
Đặt người ấy trên lưng lừa của mình, đưa về quán trọ mà săn sóc. Đây là hình bóng của thân mình Đức Ki-tô mang lấy nhân loại bị thương tích vì tội lỗi, “ứng nghiệm lời ngôn sứ I-sai-a : Người đã mang lấy các tật nguyền của ta và gánh lấy các bệnh hoạn của ta” (Mt 8,17 ; x. Is 53,4), hay như lời thánh Phê-rô : “Tội lỗi của chúng ta, chính Người đã mang vào thân thể mà đưa lên cây thập giá, để một khi đã chết đối với tội, chúng ta sống cuộc đời công chính. Vì Người phải mang những vết thương mà anh em đã được chữa lành.” (1 Pr 2,24).
Quán trọ tượng trưng cho Giáo Hội nơi đón tiếp mọi người trên đường lữ thứ trần gian. Như người Sa-ma-ri giao phó nạn nhân cho chủ quán trọ chăm sóc thì Đức Ki-tô cũng trao cho Giáo Hội và nhờ Giáo chăm sóc mọi tín hữu nhờ các thừa tác viên trong Giáo Hội.
“ông lấy ra hai quan tiền, trao cho chủ quán và nói : ‘Nhờ bác săn sóc cho người này, có tốn kém thêm bao nhiêu, thì khi trở về, chính tôi sẽ hoàn lại bác”
Hai quan tiền đưa cho chủ quán, theo thánh Âu-tinh thì tượng trưng cho hai giới răn mến Chúa và yêu người hoặc theo một cách giải thích khác, đó là Kinh Thánh và Thánh Truyền được trao cho Giáo Hội ; cuối cùng, lời hứa khi trở về của người Sa-ma-ri ám chỉ lời hứa của Đức Ki-tô sẽ trở lại trong ngày quang lâm.
Suy niệm
Chúng ta cũng có thể ở trong hoàn cảnh của người bị rơi vào tay bọn cướp, vì tất cả chúng ta đều đã trải qua những khó khăn của cuộc sống và nỗi đau do tội lỗi gây ra. Tuy nhiên, trong sự yếu đuối của mình, chúng ta khám phá ra rằng chính Chúa Ki-tô là Người Sa-ma-ri nhân hậu, Đấng chữa lành vết thương của chúng ta và khôi phục niềm hy vọng của chúng ta. Chính lòng thương xót của Chúa thúc giục chúng ta có lòng trắc ẩn, biết dừng lại trước tha nhân đang cần được giúp đỡ, đến gần họ, sẵn sàng dành thời gian, dám chịu bị vấy bẩn nếu cần thiết, để giúp đỡ họ. Nguyện xin Thánh Tâm Chúa giúp cho lòng chúng ta ngày càng trở nên nhân hậu giống như Chúa và xin cho các mối tương quan của chúng ta có thể chân thật và giàu lòng trắc ẩn hơn.
(lược trích bài giáo lý của ĐTC Lê-ô XIV ngày 28/5/2025)
bài liên quan mới nhất

- Bài 131: Bảy mươi hai Môn đệ là ai? I Dưới ánh sáng Lời Chúa
-
Bài 130: Từ Si-môn đến Phê-rô, từ Sa-un đến Phao-lô I Dưới ánh sáng Lời Chúa -
Bài 129: Thánh Gioan Tẩy Giả: Câu chuyện về những cái tên I Dưới ánh sáng Lời Chúa -
Bài 126: Một Đấng Bảo Trợ khác I Dưới ánh sáng Lời Chúa -
Bài 125: Ngự bên hữu Thiên Chúa I Dưới ánh sáng Lời Chúa -
Bài 124: Cha Thầy và Thầy I Dưới ánh sáng Lời Chúa -
Bài 123: Điều Răn và Điều Răn Mới I Dưới ánh sáng Lời Chúa -
Bài 122: Nghe - biết - đi theo giữa mục tử và đoàn chiên I Dưới ánh sáng Lời Chúa -
Bài 121: Mẻ cá lạ lùng và tình yêu của Thánh Phêrô | Dưới Ánh Sáng Lời Chúa -
Bài 120: Bình an và Thần Khí từ Đấng Phục Sinh | Dưới Ánh Sáng Lời Chúa
bài liên quan đọc nhiều

- Bài 13: Chúa Thánh Thần qua các tước hiệu trong Kinh Thánh
-
Bài 32: Giờ thứ ba, giờ thứ sáu,... Giờ thứ mười một thời khắc trong Kinh Thánh -
Bài 14: Chúa Giêsu được ĐƯA LÊN trời -
Bài 12: Cái Biết Theo Kinh Thánh I Dưới ánh sáng Lời Chúa -
Bài 42: Tỉnh thức hay Canh thức theo Kinh Thánh -
Bài 10: Sự kiện “hiện ra” trong trình thuật Kinh Thánh I Dưới ánh sáng Lời Chúa -
Bài 62: Chứng từ Đức Kitô Phục Sinh / Dưới Ánh Sáng Lời Chúa -
Bài 20: Kiểu nói “Yêu, Ghét” trong Kinh Thánh -
Bài 64: Thiên Sai Luận Mục Tử / Dưới Ánh Sáng Lời Chúa -
Bài 66: Ở Lại Trong Tình Thương Của Thầy/ Dưới Ánh Sáng Lời Chúa