Suy niệm Lời Chúa hằng ngày: Tuần VII Mùa Phục Sinh

Suy niệm Lời Chúa hằng ngày: Tuần VII Mùa Phục Sinh

TUẦN 7 MÙA PHỤC SINH

THĂNG THIÊN
Mc 16,15-20

"Anh em hãy đi khắp tứ phương thiên hạ,
loan báo Tin Mừng cho mọi loài thọ tạo."
(Mc 16,15)

1. Thăng thiên nhưng không phải là lên trời!

Hôm nay chúng ta mừng lễ Đức Giêsu "thăng thiên". Xét theo nghĩa chữ, thì "thăng thiên" chính là "lên trời". Thế nhưng tại sao Ngài lại nói rằng “Thầy sẽ ở cùng anh em mọi ngày cho đến tận thế?” (Mt 28,22). Nói vậy nghĩa là Chúa vẫn còn ở với chúng ta chứ đâu có "lên trời"?

Chúng ta phải lưu ý đến cách viết của tác giả Matthêô. Ngài đã dùng từ không theo sát nghĩa đen, nhưng theo nghĩa mà người bình dân quen hiểu. Theo đó, cái gì cao thì gọi là "trời", cái gì thấp thì gọi là "đất", tình trạng thăng tiến khá hơn thì nói là "lên”, lùi tệ hơn thì nói là "xuống". Như thế, "thăng thiên” hay "lên trời" không chỉ một chuyển động trong không gian, mà chỉ một tình trạng tốt hơn trước. Ngày xưa, Đức Giêsu nhập thể thì được diễn tả là "giáng trần” hay “xuống đất”. Hôm nay Ngài trở về tình trạng vinh quang với Chúa Cha thì diễn tả là "lên trời". Vì vậy Đức Giêsu chỉ thay đổi tình trạng thôi cho nên dù bây giờ Ngài vinh quang, nhưng Ngài vẫn ở cùng chúng ta mọi ngày cho đến tận thế, chứ không phải Ngài lên "ở trên trời” và để chúng ta phải mồ côi "ở dưới đất”.

Như vậy lễ Thăng thiên đánh dấu sự thay đổi tình trạng hiện diện của Đức Giêsu. Hình dung Đức Giêsu đang bay lên giữa các tầng mây, hay đang ngồi bên phải Đức Chúa Cha chỉ là những cách tưởng tượng. Những hình ảnh tưởng tượng này có cụ thể đối với đầu óc bình dân đấy, nhưng gây tai hại là khiến người ta nghĩ rằng Đức Giêsu đã xa cách loài người.

Chúng ta phải đi xa hơn những hình ảnh tưởng tượng kia để đạt đến ý nghĩa đích thực của việc thăng thiên: đó là Đức Giêsu đã lấy lại vinh quang, Ngài vẫn còn ở bên cạnh chúng ta luôn mãi, và nhờ vinh quang, Ngài sẽ hỗ trợ đắc lực cho chúng ta.

Như thế, lễ Thăng Thiên không làm cho chúng ta cứ đăm đăm nhìn trời với lòng bùi ngùi luyến tiếc, nhưng khuyến khích chúng ta quay về cuộc sống để chu toàn sứ mạng loan báo Tin Mừng khắp thế giới, với lòng đầy hăng hái vì biết Đức Giêsu vinh quang lúc nào cũng hỗ trợ chúng ta.

2. Lễ thăng thiên đánh dấu một bước ngoặt

Lễ Thăng thiên đánh dấu sự thay đổi tình trạng của Đức Giêsu. Lễ này còn đánh dấu một bước ngoặt trong việc loan Tin Mừng: Trước đây, loan Tin Mừng chủ yếu là việc của Đức Giêsu, các môn đệ theo Ngài để tập sự. Nhưng từ nay, loan Tin Mừng là sứ mạng của các môn đệ, với sự hỗ trợ đắc lực của Đức Giêsu vinh quang. Bởi đó, sách Công vụ ghi lời Đức Giêsu căn dặn: "Anh em sẽ làm chứng cho Thầy tại Giêrusalem, trong khắp các miền Giuđê, Samaria và cho đến tận cùng trái đất” (Cv 1,8); sách Tin Mừng Matthêô cũng ghi lời Chúa bảo: "Anh em hãy đi đến với muôn dân, làm phép rửa cho họ nhân danh Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần… để muôn dân trở thành môn đệ của Thầy" (Mt 28,19).

Có một câu chuyện giả tưởng nhưng cũng có một ý nghĩa rất sâu: Chuyện kể rằng khi Đức Giêsu về trời, Tổng lãnh Thiên thần Gabriel ngạc nhiên vì Ngài trở về sớm quá. Gabriel biết rằng công việc Chúa Cha giao cho Đức Giêsu rất nhiều, không thể kết thúc trọng thời gian chỉ có 3 năm như thế. Bởi vậy Tổng lãnh Thiên Thần hỏi:

- Sao Chúa về sớm vậy?

- Ờ, Ta cũng muốn ở dưới đó lâu hơn. Nhưng mà họ đã đóng đinh ta.

- Đóng đinh Chúa ư? Vậy là Chúa thất bại rồi!

- Không hẳn vậy. Trước đó Ta đã kịp lập một nhóm tín hữu. Từ nay về sau, họ sẽ tiếp tục công việc của Ta.

- Nhưng nếu họ cũng thất bại nữa thì chắc là tiêu tùng luôn rồi!

- Không đến nỗi vậy đâu, vì một đàng Ta đã hứa sẽ ở cùng họ cho đến ngày tận thế, và đàng khác Ta còn phái Thánh Thần đến giúp họ nữa.

- À ra thế. Chắc là sẽ không thất bại nữa.

3. Sự hiện diện hằng cửu.

Tin Mừng hôm nay thuật lại cuộc họp mặt lần chót của Đấng phục sinh với các môn đệ ở trần thế. Đây là cuộc gặp gỡ thân mật nhưng mở ra những viễn tượng vô cùng rộng lớn... Ngay trong giờ phút chia tay đã bắt đầu một sự hiện diện mới, sự hiện diện hằng cửu của Đấng Phục sinh: “Thầy ở với chúng con hằng ngày cho đến tận thế".

Chúa ra đi nhưng Ngài không trở thành "cố nhân”, trở thành người xưa, trở thành người của quá khứ. Ngài không để chúng ta côi cút. Ngài vẫn hiện diện (tuy cách hiện diện có khác), bởi vì Ngài là Emmanuel, Thiên Chúa ở cùng chúng ta. Đã qua rồi cái thời Ngài hiện diện hữu hình bằng xương bằng thịt. Bây giờ đến thời của lòng tin. Chúng ta hãy tập nhận ra Chúa trong anh em ta trong các biến cố đời thường.

Ngài vắng mặt, nhưng vẫn tiếp tục hiện diện qua Chúa Thánh Thần, Đấng An ủi: "Thầy ra đi là tốt cho anh em, bởi nếu Thầy không ra đi thì Đấng An ủi sẽ không đến" (Ga 16,7).

Chúa còn hiện diện với chúng ta trong bí tích bẻ bánh, như ngày xưa Ngài hiện diện giữa hai môn đồ ở làng Emmau.

Chúa còn hiện diện trong các cộng đoàn, "nơi có hai ba người họp mặt cầu nguyện". Chúa hiện diện ở bất cứ nơi nào có chia sẻ, bất cứ nơi nào người ta thương mến giúp đỡ nhau. Chúa hiện diện tại bất cứ nơi nào con người được giải phóng khỏi bất công, khỏi bạo lực, khỏi nghèo đói.

Trong cuộc chia tay, Chúa đã trao cho các môn đệ sứ mệnh làm lan truyền sự hiện diện của Ngài nơi tất cả các dân tộc. Sự hiện diện được thể hiện khi ta tuân giữ giới luật yêu thương, mệnh lệnh tình yêu: "Các con hãy yêu nhau, như thầy yêu thương các con” (Ga 15,12). Sự hiện diện như thế là một lời chứng hùng hồn nhất cho Đấng đã về trời.

Một tu sĩ sống cuộc đời hạnh phúc và an vui trong bốn bức tường của Tu viện. Đời sống tu trì đã biến đổi cuộc đời và tâm hồn của ông trở nên tốt lành, đến nỗi mọi người đều gọi ông là ông thánh nhỏ.

Ngày nọ, đang lúc ông vừa bắt tay vào rửa chén dĩa, thì một thiên thần hiện ra và nói:

- Thiên Chúa sai ta đến để báo cho ngươi biết là giờ ngươi lìa đời đã đến.

Tu sĩ vẫn điềm nhiên và vui vẻ trả lời:

- Tạ ơn Chúa đã thương nghĩ đến tôi, nhưng như ngài thấy đó, tôi còn phải rửa hàng chồng chén dĩa, tôi không muốn tỏ ra vô ơn với Thiên Chúa, nhưng liệu giờ tôi được hưởng nhan thánh của Người có thể hoãn lại sau khi làm xong bổn phận rửa chén dĩa này không?

Nói xong, Thiên thần biến đi. Tu sĩ trở lại công việc bổn phận một cách hăng say như quên hẳn việc gặp gỡ Thiên thần.

Bẵng đi một thời gian, trong lúc vị tu sĩ đang làm cỏ ngoài vườn, Thiên thần hiện ra. Như đoán trước ý nghĩ của Thiên thần, vị tu sĩ giơ tay chỉ mảnh đất trong vườn và nói:

- Đây ngài xem, cỏ dại mọc đầy vườn, liệu giờ tôi vào cõi đời đời có thể hoãn lại cho đến khi tôi làm xong cỏ không?

Cũng như lần trước, Thiên thần chỉ mỉm cười rồi biến mất.

Một ngày nọ, trong lúc vị tu sĩ đang chăm sóc các bệnh nhân, thì Thiên thần hiện ra. Lần này vị tu sĩ không nói một lời, nhưng chỉ giơ tay chỉ vào các bệnh nhân nằm trên giường. Thiên thần biến đi không nói một lời nào. Chiều đến, vị tu sĩ trở lại căn phòng nhỏ bé đơn sơ của mình, bỗng chốc, ông cảm thấy mình đã già nua, mệt mỏi; ông thốt lên lời cầu nguyện:

- Lạy Chúa, xin sai Thiên thần Chúa đến, con sẽ sẵn sàng theo Ngài.

Lời cầu nguyện vừa dứt, Thiên thần Chúa hiện đến. Vị tu sĩ mừng rỡ:

- Lần này, nếu Thiên thần mang tôi đi, tôi sẵn sàng theo ngài về thiên quốc ngay.

Thiên thần nhìn tu sĩ với tất cả âu yếm và nói:

- Này ông thánh nhỏ ơi, sao còn mơ ước về thiên quốc, những ngày tháng vừa qua, ông nghĩ là mình đã ở đâu vậy?


THỨ HAI TUẦN 7 PHỤC SINH
Ga 16,29-33

"Nhưng can đảm lên! Thầy đã thắng thế gian." (Ga 16,33)

Về cuộc sống của người môn đệ giữa thế gian.

1. Chúa Giêsu báo trước và báo xa hơn về cuộc sống của người môn đệ sau khi Ngài ra đi: “Giữa thế gian, các con sẽ đau khổ. Nhưng hãy can đảm lên, Thầy đã thắng thế gian”(Ga 16,33).

Lịch sử Giáo Hội đã được khởi đầu với những cuộc bách hại. Và trải qua hơn 2000 năm số phận của người Kitô hữu cũng vẫn luôn là số phận bị nghi ngờ, bị thù ghét và có thể bị bách hại nữa. Tại sao? Lời Chúa Giêsu hôm nay là câu trả lời quý giá cho chúng ta.

Chúng ta hãy nghe một đoạn văn nói về một cuộc hành hình các Kitô hữu đầu tiên dưới thời bạo Chúa Néro năm 64 tại Rôma: "Lúc ấy, mặt trời đã lên cao, ánh mắt của nó chiếu qua tấm che trần màu đỏ tía, khiến cho nhà hát ngập màu máu. Cát nhuộm màu lửa đỏ, và trong thứ ánh sáng ấy, nét kinh hoàng hiện lên khuôn mặt của khán giả cũng như bãi đấu trường mà lát nữa đây sẽ tràn ngập nỗi đau đớn của những con người bị hành hình và nỗi điên cuồng của những dã thú. Cửa hầm mở, đoàn người bị gói trong những tấm da thú được đẩy ra. Toàn nhà hát vang lên những tiếng rì rầm “Bọn Thiên Chúa giáo!… Bọn Thiên Chúa giáo!…”

Nhìn lại lịch sử Giáo Hội VN chúng ta: cũng không có luật trừ. Suốt ba thế kỷ liền, kể từ năm 1553, cùng với Tin Mừng của Chúa đến Việt Nam thì Thánh Giá cũng đến theo. Biết bao tín hữu đã bị lưu đày, bị chiếm đoạt tài sản, phải lén lút sống trong rừng sâu nước độc, cam chịu mọi đau khổ ….. để trung thành với Đức tin. 300 năm Giáo Hội VN đã phải chịu rất nhiều khổ đau: Tính đến cuối thế kỷ 19, người ta đã có thể thống kê được trên 130.000 đấng thuộc mọi thành phần được diễm phúc tử đạo. Trong số này có 118 vị đã được các Đức Giáo Hoàng Lêô XIII, Piô X và Piô XII phong lên bậc chân phước rồi được Đức Gioan Phaolô II tôn lên bậc hiển thánh gần đây.

Quả thực Giáo Hội Việt Nam của chúng ta nghèo nàn, không so sánh được với các Giáo Hội Âu Mỹ, nhưng chúng ta có quyền hãnh diện về lòng trung thành sắt son với đạo Chúa của tổ tiên ta: ba thế kỷ bắt bớ tù đày và trên 130.000 đấng Tử đạo.

2. Nếu chỉ nghe có phần đầu của Lời Chúa hôm nay thì chúng ta sẽ lo sợ nhưng nếu nghe luôn cả phần sau thì chúng ta sẽ thấy thật phấn khởi: “Thầy đã chiến thắng thế gian”(Ga 16,33).

Chúng ta hãy nhìn lại một chút lịch sử của Giáo Hội Chúa từ khi Chúa thành lập đến nay:

- Mới vừa giảng đạo được ba năm, chính Chúa Giêsu, Đấng sáng lập Hội Thánh, đã bị kết án và chết một cách nhục nhã trên cây Thánh Giá.

* Hội Thánh mới thành hình chưa được bao lâu thì lại phải trải qua 300 năm bách hại. Sự bách hại lúc này không còn hạn chế trong đất nước Do Thái mà bao trùm cả đế quốc Rôma, mãi cho đến năm 313, sắc chỉ Milan về tự do tín ngưỡng mới được ban hành. Giáo Hội được hưởng một thời gian an bình. Nhìn lại cuộc sống của Giáo Hội cả thời kỳ này, sử gia Tertulianô đã nói: "Hạt máu của các vị Tử Đạo là hạt giống nảy sinh người Kitô hữu khác".

* Thế kỷ VI, VII làn sóng các dân man di lại tràn gập đế quốc Rôma, gây không biết bao nhiêu điều điêu đứng khó khăn cho Hội Thánh. Nhưng rồi với sự kiên trì dạy dỗ, Hội Thánh đã cảm hóa được họ, lôi kéo họ trở về.

* Đền thời Cách mạng Pháp (1789-1799) không biết bao nhiêu linh mục tu sĩ phải lưu đày, xử giảo hoặc bị nhận chìm xuống lòng biển. Napoléon 1 lên ngôi, ông sang Ý bắt luôn cả Đức giáo hoàng Piô VII đem về cầm tù tại Fontainebleau vì Ngài đã phản đối việc ông ly dị với bà Josephine để cưới Marie Louis làm vợ. Một hôm, vì quá tức giận, Napoléon đã nói thẳng với Hồng Y Consalvi, quốc vụ khanh Tòa Thánh lúc đó:

- Ông không biết sao: tôi có thể tiêu diệt cả Hội Thánh.

Hồng Y Consalvi hóm hỉnh trả lời:

- Thưa Ngài, chính chúng tôi đây là những kẻ ở bên trong Hội Thánh. Dù với bao nhiêu gương xấu, tội lỗi, chia rẽ, khuyết điểm vẫn không phá nổi Hội Thánh suốt 19 thế kỷ qua, thì làm sao mà Ngài có thể phá tan Hội Thánh được.

Về sau Napoléon đã phải tuyên bố:

- Các dân nước qua đi, các ngai vàng sụp đổ, Hội Thánh vẫn tồn tại.

Tóm lại, con thuyền Phêrô đã bị sóng gió bão táp xô đẩy suốt 20 thế kỷ nay vẫn không bị chìm. Nhà thi hào Henrich Heine người Đức (1797-1856) sau khi nhìn lại những thất bại của mình trong công việc chống phá Giáo Hội đã phải thú nhận: "Đã lâu rồi, tôi không còn công kích Hội Thánh Công giáo nữa. Tôi đã đo sức trí khôn ngoan của loài người và nhận thấy rằng: Các đợt tấn công vào tảng đá khổng lồ và kiên cố đó không thể làm cho tảng đá sứt mẻ hoặc nhúc nhích được".

Lời Chúa hãy còn đó: “Hãy can đảm lên, Thầy đã thắng thế gian" (Ga 16,33).


THỨ BA TUẦN 7 PHỤC SINH
Ga 17,1-11a

"Lạy Cha chí thánh,
xin gìn giữ các môn đệ trong danh Cha
mà Cha đã ban cho con,
để họ nên một như chúng ta."

(Ga 17,11)

1. Lời cầu nguyện của Chúa Giêsu trước lúc ra đi.

Chúa cầu nguyện cho chính mình và cho những kẻ Chúa Cha trao cho Ngài.

Những lời cầu nguyện này vừa trịnh trọng vừa tha thiết, chẳng khác gì như một gạch nối giữa bữa Tiệc Ly và cuộc Tử Nạn sắp đến: Lạy Cha, giờ đã đến! (Ga 17,1)

Ý tưởng của lời cầu nguyện mà chúng ta vừa nghe chẳng khác gì những lời cầu nguyện của Kinh Lạy Cha mà Chúa đã dạy cho các môn đệ.

Lời cầu nguyện của Chúa rất thực tế: “Con không còn ở trong thế gian nữa, nhưng họ vẫn còn ở trong thế gian” (Ga 17,11).

Chúa Giêsu biết rõ ở trong thế gian là thế nào và thoát khỏi thế gian là thế nào nên Ngài mới cầu nguyện như vậy. Còn chúng ta, chúng ta chỉ mới biết thế gian này cho nên chúng ta quyến luyến nó, chúng ta sợ phải mất nó, khi nghĩ đến ngày chúng ta lìa xa thế gian thì chúng ta sợ hãi lo âu.

2. Ở trong thế gian chúng ta phải đối phó với rất nhiều thứ nguy hiểm.

Bởi vậy Chúa cầu nguyện cho chúng ta được hiệp nhất. Khi chúng ta không đoàn kết hiệp nhất thì chẳng những chúng ta không giúp gì được cho nhau để thoát khỏi những nguy hiểm ấy, trái lại chúng ta còn làm khổ nhau thêm, làm yếu sức nhau, làm cho nhau dễ sa ngã hơn nữa. Những sự bất hoà, chia rẽ, thiếu bác ái, đã làm cho biết bao nhiêu người chán nản không còn được hăng say chu toàn nhiệm vụ, không còn nhiệt tình đi theo lý tưởng, không còn đủ sức đón nhận hy sinh.

Nhưng làm sao để tạo được sự hợp nhất?

Tôi xin mượn một câu chuyện cổ Nước Pháp để chúng ta cùng tìm ra câu trả lời. Chuyện kể rằng:

Ngày xưa trong gia tộc nhà mèo, có một chú mèo con như lạc loài. Bố chú trắng, mẹ chú trắng, ông nội, ông ngoại chú trắng, bà nội, bà ngoại chú trắng, các anh, các chị, các cậu, các chú, các dì chú đều trắng cả. Chi có chú là đen tuyền. Vâng! Chỉ duy có một mình chú là đen tuyền.

Khi sinh ra đời, chú nằm giữa bốn em nhỏ của chú cứ như là hòn than nằm trong tuyết. Tất cả gia đình mèo trắng ngồi quanh cái ổ 05 chú mèo mới sinh. Ai cũng gãi tai... Bố mẹ chú cũng gãi tai và nói:

- Thằng bé này đáng lẽ trắng thì lại đen tuyền, thật chẳng giống ai! Trái với lẽ tự nhiên.

Mẹ chú liếm cho chú cả ngày, mà rồi chú vẫn đen như thế. Chú lớn lên cùng với lũ em. Cả nhà rất yêu chú, nhưng không sao quen với màu đen lông của chú được.

Về phần chú, càng lớn chú càng ngạc nhiên khi thấy mình chẳng giống ai cả. Điều này gây ra rất nhiều oái oăm. Nếu chú chơi ú tim trên nệm trắng, lũ nhóc tìm ra chú ngay. Nếu chú đuổi bắt trong hầm tối, lũ nhóc không sao tìm thấy chú được. Khi cả nhà uống sữa, vì chú đen nên cả nhà ai cũng tưởng chú uống nhiều hơn. Kể ra thế cũng khổ thật!

Một hôm, chú bỏ cuộc chơi, nằm cuộn tròn trong góc bếp, như một con mèo già. Mẹ chú lo lắng hỏi:

- Con không ốm đấy chứ?

 Chú đáp:

- Không, mẹ ạ con đang nghỉ.

Tối hôm ấy, trong khi chú mèo đen tiếp tục suy nghĩ, thì bố mẹ chú mời tất cả: ông nội, ông ngoại, bà nội, bà ngoại, các anh, các chị, các cậu, các chú, các dì, các bác... Cả gia đình cùng họp lại. Bố chú meo meo một bài diễn văn dài. Ông tuyên bố rằng, không thể để tình trạng này kéo dài mãi như vậy, vì mèo đen ngày càng thêm rầu rĩ. Ông đề ra một phương án để biến đổi tình thế. Cả họ nhà mèo đồng nhất trí. Bấy giờ, bố chú mèo liền lên tiếng:

- Nào, chúng ta đi.

Im lặng nối đuôi nhau, cả họ nhà mèo trắng bước đến cái bồ than, rồi lặng lẽ, nối đuôi nhau, rồi họ ra khỏi cái bồ. Thế là cả ông nội, ông ngoại, bà nội, bà ngoại, các anh, các chị, các cậu, các chú, các dì, các bác đều biến thành đen, đen như hòn than. Họ hàng mèo trắng đã biến thành mèo đen rồi tiến về phía bếp để tìm chú mèo nhỏ. Không ai thấy chú đâu cả, mà chỉ thấy một con mèo trắng, trắng toát từ râu đến đuôi. Mọi người kinh ngạc. Con mèo lạ kêu lên "meo meo". Mẹ mèo mừng rỡ:

- Con trai tôi đây mà!

Bố mèo reo lên:

- Cu cậu đã lăn mình vào bột!

Chú mèo âu yếm gọi

- Bố... ố! Mẹ!

Và một ông chú, vốn hay nói chữ, đùa vui:

- Đã thương yêu nhau thì đen hay trắng có sao đâu!

Cả họ nhà mèo cùng bật cười, thi nhau nhảy vồ nhau. Than và bột bay tứ tung mịt mù. Chẳng còn mèo đen, chẳng còn mèo trắng mà chì còn mèo xám thương nhau...

Vâng nếu mỗi người chúng ta biết nghĩ đến nhau, biết làm cho cái tôi của mình nhỏ lại, biết bớt đi cái sĩ diện, biết làm vui lòng nhau, thực lòng yêu thương nhau thì cho dù chẳng đi tìm, sự hiệp nhất đoàn kết sẽ đến với chúng ta. Amen.


THỨ TƯ TUẦN 7 PHỤC SINH
Ga 17,11b-19

"Vì họ, con xin thánh hiến chính mình con,
để nhờ sự thật, họ cũng được thánh hiến."

(Ga 17,1
9)

Chúa Giêsu tiếp tục cầu nguyện cho các môn đệ của mình. Chúa không quên nói lên phương pháp giúp các môn đệ chu toàn được sứ mạng rao giảng Tin Mừng Chúa trao phó.

1. Phương pháp đó là gì thì ta hãy nghe lời của Chúa: “Vì họ con xin thánh hiến chính mình con, để nhờ sự thật họ cũng được thánh hiến”(Ga 17,19).

Chúa Giêsu không dạy chúng ta làm điều gì mà chính Ngài đã không làm trước. Mỗi người chúng ta trong cương vị của một người lãnh đạo, lãnh đạo một giáo xứ, lãnh đạo một gia đình, lãnh đạo một đoàn thể, lãnh đạo một tập thể nào đó cũng phải nói như Chúa: “Tôi phải tự thánh hóa chính mình để những người tôi lãnh đạo được thánh hóa”

Người Rôma có một câu châm ngôn rất hay: "Không ai có thể cho cái mình không có"

Nhà giáo dục vĩ đại Booker T. Washington có viết như sau trong cuốn tự thuật mang tựa đề “Từ ách nô lệ đi lên” của ông: “Càng lớn tôi càng tin chắc rằng, không một sự giáo dục nào có thể gặt hái được từ sách vở hay từ những dụng cụ đắt tiền có thể sánh ví được với những gì ta có thể gặt hái được do tiếp xúc với các bậc vĩ nhân”.

Chúng ta có thể sửa đổi lại lời của ông để áp dụng cho các bậc cha mẹ: “Càng lớn lên, tôi càng tin chắc rằng, không một sự giáo dục nào có thể gặt hái được từ sách vở hay từ những dụng cụ đắt tiền có thể sánh ví được với những gì ta gặt hái được do được sống với các bậc cha mẹ vĩ đại của mình”.

Nếu chúng ta muốn tìm một phương cách để giúp con cái mình quí chuộng sự cầu nguyện, thì không gì hay hơn là chính chúng ta hãy biết sốt sắng cầu nguyện trước.

Nếu chúng ta muốn tìm một phương cách để hướng dẫn con cái mình biết tham dự Thánh Lễ cách tích cực và sốt sắng thì không gì hay hơn là chính chúng ta hãy tham dự Thánh Lễ một cách tích cực và sốt sắng trước.

Và nếu chúng ta đang tìm phương cách để thúc giục con cái chúng ta biết yêu thương tha nhân hơn thì không gì tốt hơn là chúng ta hãy làm gương về lòng yêu thương trước.

Vì theo các nhà giáo dục thì:

Thầy giáo đầu tiên và quan trọng nhất đối với con cái chính là cha mẹ chúng. Không điều gì có thể thay thế ảnh hưởng của cha mẹ đối với con cái.

- Dù là chương trình giáo dục có nổi tiếng nhất trên thế giới

- Dù là giáo xứ có tốt nhất trên thế giới.

- Dù là trường học có tốt nhất trên thế giới

- Dù là bạn bè có tốt nhất trên thế giới, tất cả những cái đó tuy có góp phần vào việc giáo dục con trẻ, nhưng chúng cũng chỉ đóng vai trò ảnh hưởng thứ yếu.

Thầy giáo đầu tiên và quan trọng nhất đối với con cái chính là cha mẹ chúng. Không điều gì có thể thay thế ảnh hưởng của họ.

2. Còn cầu nguyện thì Chúa cầu nguyện điều gì? Dĩ nhiên đó phải là những điều làm Chúa bận tâm hơn cả. Đây là những bận tâm của Chúa đối với các tông đồ lúc đó và chúng ta sau này:

Cầu xin cho họ ơn hiệp nhất trong yêu thương.

Cầu cho họ khỏi bị bách hại.

Cầu cho họ được thánh hiến trong sự thật.

Thứ nhất: Chúa Giêsu đã cầu nguyện cho các Tông đồ được luôn hiệp nhất trong yêu thương. Chính sự hiệp nhất trong yêu thương như một dấu chỉ cụ thể làm cho người ta nhận ra các tông đồ là những môn đệ đích thực của Chúa. (Ga 13,35)

Thứ đến: Chúa Giêsu cầu nguyện để các Tông đồ lúc đó và sau này được gìn giữ cho khỏi bị ác hại bởi thần dữ. Lý do vì “thế gian ghét anh em, vì Thầy đã chọn anh em và tách anh em ra khỏi thế gian, vì thế mà thế gian ghét anh em” (Ga 15, 18).

Sau cùng, Người cầu cho họ luôn được ơn thánh hiến trong sự thật:

Thánh hiến nhờ Sự thật và trong Sự thật là gì?

Về phía Thiên Chúa thì sự thật đó là: Thiên Chúa là Cha nhân từ đầy yêu thương, Người muốn cho con hết thảy con cái mình được cứu rỗi.

Về phía loài người chúng ta thì sự thật là: Loài người chúng ta rất yếu đuối vì bị ảnh hưởng của tội lỗi, nhưng nếu chúng ta thật lòng nhìn nhận và tôn thờ Thiên Chúa thì chúng ta sẽ lãnh nhận được ơn Chúa cứu chuộc.

Lạy Chúa Giêsu, xin biến đổi con,
xin biến đổi con từ từ qua cầu nguyện.

Mỗi lần con thấy Chúa,
xin biến đổi ánh mắt con.

Mỗi lần con rước Chúa,
xin biến đổi môi miệng con.

Mỗi lần con nghe Lời Chúa,
xin biến đổi tai con.

Xin làm cho khuôn mặt con ngời sáng hơn
sau mỗi lần con được gặp Chúa.

Ước chi mọi người thấy nét tươi tắn của Chúa
trong nụ cười của con,
thấy sự dịu dàng của Chúa
trong lời nói của con.

Thế giới hôm nay không cần những Kitô hữu
có bộ mặt chán nản và thất vọng.

Xin cho con biết nhẫn nại và can đảm
cùng đi với Chúa và với tha nhân
trên những nẻo đường gập ghềnh. Amen.


THỨ NĂM TUẦN 7 PHỤC SINH
Ga 17,20-26

"Con không chỉ cầu nguyện cho những người này,
nhưng còn cho những ai nhờ lời họ mà tin vào con"

(Ga 17,20).

Chúa Giêsu cầu cho các tín hữu đã nghe lời giảng của các môn đệ mà tin vào Ngài.

1. Chúa cầu nguyện để Chúa ở đâu chúng ta cũng được ở đó với Ngài: “Con muốn rằng, con ở đâu thì chúng cũng ở đó với Con” (Ga 17,24).

Hoàng đế Francois Joseph là vua nước Hung gia lợi từ 1848-1916, một triều đại dài nhất trong lịch sử và cũng là một triều đại tiến bộ nhất. Hoàng đế là con người rất nghiêm khắc, nhưng lại trị vì đất nước rất khoan dung.

Khởi đầu triều đại của ông, bệnh dịch tả lan tràn khắp Châu Âu. Triều thần đề nghị với vua Francois Joseph bỏ kinh đô Vienne nước Áo để sang Salzburg nước Hung Gia Lợi, cho tới khi tai họa qua đi. Vua Francois Joseph liền hỏi:

- Ở Salzburg có đủ phòng nghỉ cho con cái ta không?

Quan đại thần thưa:

- Tâu đức vua, ở Salzburg chắc chắn có đủ phòng nghỉ cho tất cả hoàng gia.

Vua Francois Joseph hỏi lại hai lần nữa:

- Có thực sự có phòng đủ cho con cái ta chớ?

Rồi giơ tay chỉ vào dân chúng đông đúc đang đứng ngoài sân mà nói với quan đại thần:

- Quan hãy nhìn đám dân chúng đông đúc kia. Họ là con cái của ta cả. Có người cha nào đang tâm bỏ con cái trong nguy hiểm sao? Không! Những người tại thủ đô Vienne này đã chia sẻ vui buồn với ta. Ta sẽ không bỏ họ trong giờ lo âu. Ta phải quan tâm đến họ, như là lo cho chính ta vậy.

Một ông vua trần thế mà còn biết thương và lo cho dân như thế, huống chi là Chúa Giêsu, Chúa của chúng ta. Làm sao Chúa co thể vui khi con cái của Ngài không được chung hưởng hạnh phúc Thiên đàng với Ngài.

Chính vì thế mà trong khi chờ đợi chúng ta phải biết luôn tin tưởng vào tình thương của Chúa. Có như thế chúng ta mới cảm nghiệm được cuộc đời có Chúa là cuộc đời hạnh phúc như thế nào.

Hồi còn làm tổng thống Hoa Kỳ, ông Roosevelt đã có lần sang mãi tận Phi châu để nghỉ hè. Ông thích săn những con hươu cao cổ tại đó. Sau những ngày nghỉ hè thú vị, tổng thống lên đường trở về. Trong chuyến tàu đem tổng thống trở về, người ta cũng thấy có một nhà truyền giáo sau hơn bốn mươi năm phục vụ những người dân Phi châu cùng có mặt trên con tàu.

Khi tàu sắp cập bến, nhà truyền giáo thấy cảnh dân chúng đứng trên bờ cùng với nhiều nhân vật cấp cao trong chính phủ hân hoan chào đón tổng thống Roosevelt đi săn trở về bình an. Ông cảm thấy tủi thân vì hình như chẳng có ai để ý đến mình. Một thân một phận lủi thủi lên bờ. Tự thâm tâm ông như muốn trách Chúa:

- Đấy, Chúa thấy không, tổng thống đi nghỉ hè về thì được nhiều người ra đón rước như vậy. Còn con, con đã hy sinh chịu cực vì Chúa, phục vụ anh chị em nghèo khổ tại Phi Châu trong suốt bốn mươi năm qua. Thế mà bây giờ trở về đây, không ai thèm nghĩ đến con, thật là bất công và tủi cho thân phận con quá.

Nhưng ngay lúc đó, dường như có tiếng Chúa trả lời cho nhà truyền giáo:

- Này con, đừng vội thất vọng, con chưa trở về quê hương thật của con mà!

2. Chúa còn cầu nguyện chúng ta nên một với Ngài: “Để cả chúng cũng nên một trong Ta” (Ga 17,21).

Trong một buổi thuyết trình về đạo được tổ chức trên boong một du thuyền lớn, tiến sĩ A. Simpson giải thích với cử tọa về vần đề này như sau: Ông lấy một cái chai quẳng vào lòng biển. Cái chai rơi vào đại dương và đang ở trong đại dương.

Nước biển chui vào chiếm hữu cái chai, nước biển càng vào, cái chai càng từ từ chìm sâu vào lòng đại dương. Ông kết luận: 

- Cái chai ở trong đại đương và đại dương ở trong cái chai. Đó là hình ảnh xác thực nhất để chỉ mối tương giao giữa Chúa Giêsu và chúng ta là những môn đệ của Người.

Thánh Gioan Thánh Giá, linh mục, trong bài ca thiêng liêng của ngài, ngài đã diễn tả về vấn đề này thật hay như sau: "Chúa Cha đã thực hiện điều Chúa Con cầu xin khi thông ban cho họ chính tình yêu thương Người hằng thông ban cho Chúa Con. Tuy vậy, Người không thông ban cho họ theo bản tính như khi Người thông ban cho Chúa Con, nhưng đã thông ban cho họ bằng cách lấy tình thương mà kết hợp họ với Người và thần hóa họ. Cũng thế, không nên hiểu rằng Chúa Con xin Chúa Cha cho họ nên một theo yếu tính và bản thể như Chúa Cha với Chúa Con là một, nhưng Người chỉ muốn xin cho họ nên một nhờ kết hợp với nhau trong tình thương, như Chúa Cha và Chúa Con vẫn là một trong Tình Thương duy nhất. Do đó, các linh hồn được thông phần với Thiên Chúa những điều tốt đẹp mà Chúa Cha và Chúa Con vẫn có theo bản tính. Vì vậy, nhờ được thông phần với Thiên Chúa, các linh hồn thực sự là những vị thần. Họ nên giống Thiên Chúa và được chung phần với Người.

Lạy Chúa, xin cho chúng con được nên một với Chúa. Amen.


THỨ SÁU TUẦN 7 PHỤC SINH
Ga 21,15-19

Thế rồi, Người bảo ông: "Hãy theo Thầy."
(Ga
21,19)

Chúng ta vừa nghe một câu chuyện có liên quan đến Phêrô:

1. Chúa Giêsu hỏi Phêrô: “Con có yêu mến Thầy không?"(Ga 21,15)

Sau mỗi lần Phêrô tuyên xưng lòng mến, Chúa Giêsu trao cho Phêrô một nhiệm vụ. Chung qui lại là: "Hãy chăn dắt các chiên của Thầy”(Ga 21,16).

Có một câu chuyện tưởng tượng như sau: Khi Chúa Giêsu về trời giữa muôn vàn tiếng tung hô của các thiên thần, tổng lãnh thiên thần Gabriel đã phỏng vấn Ngài:

- Lạy Chúa, có phải bây giờ cả trần gian đã nhận biết tình yêu Thiên Chúa dành cho họ rồi chăng?

- Không! Chỉ có một nhóm nhỏ đếm được trên đầu ngón tay.

Thiên sứ Gabriel giật mình sửng sốt:

- Lạy Chúa, nếu nhóm nhỏ này gặp chống đối khiến họ thất vọng mà bỏ Chúa. Trong trường hợp này, Chúa có dự định quay trở lại trần gian không?

Chúa đáp:

- Không,Ta hy vọng nơi họ và tin chắc họ sẽ không bỏ rơi Ta.  

Vâng, đúng là Chúa tín nhiệm những môn đệ của Ngài. Ngài tín nhiệm họ bởi vì Ngài biết họ.

Câu chuyện thật cảm động bên bờ biển Galilê hôm nay đã cho chúng ta thấy thật rõ điều đó.

"Thưa Thầy, Thầy biết con yêu mến Thầy”.

Phêrô nói lên điều này với tất cả kinh nghiệm đau xót nơi chính bản thân mình. Làm sao ông quên được những điều Thầy đã báo trước với ông, về việc chính ông sẽ chối Thầy mình trước khi gà chưa kịp gáy lần thứ ba, chối tới ba lần, làm sao ông có thể quên được.

Chúa biết...Biết tất cả mọi sự (Ga 21,17).

Phêrô hơi buồn vì Chúa hỏi ông đến lần thứ ba.

Tại sao Chúa phải làm thế?

Chẳng phải là Chúa không biết lòng mến của ông đối với Ngài. Và có lẽ cũng chẳng phải là để đền bù lại ba lần ông đã chối Chúa. Chẳng lẽ Chúa mà lại hẹp hòi đến như vậy sao? Ngài chẳng cần phải như vậy. Nhưng sở dĩ Ngài làm thế là vì Ngài muốn ông xác tín một cách dứt khoát về giá trị con đường yêu thương mà Chúa đã đi, để rồi khi lãnh trách nhiệm chăn dắt đoàn chiên của Chúa, ông cũng phải dẫn dắt họ đi trên con đường đó. Dứt khoát là không có con đường nào khác ngoài con đường đó. Đừng đi tìm bất cứ một con đường nào khác con đường đó.

2. Chúa nói với Phêrô "Hãy theo Thầy" (Ga 21,19).

Theo Chúa không phải chỉ là đi trên những con đường cát bụi mà có lần Chúa đã đi qua, nhưng là phải sống chính cuộc sống mà Chúa đã sống.

Câu chuyện truyền kỳ về những ngày chót của cuộc đời ông chắc chắn cũng chứa đựng ít nhiều sự thật. Ông đến Rôma trong thời kỳ bắt đạo. Lúc cơn bách đạo dâng cao, ông đã sợ hãi và muốn lẩn trốn nhưng vừa ra khỏi thành thì ông gặp một người vai mang Thập Giá đang đi hướng về phía thành.

Ông hỏi:"Quo vadis: Người đi đâu đó?"

Người ấy trả lời: "Ta đi vào Rôma để cho người ta đóng đinh một lần nữa".

Phêrô đã hiểu ngay. Lần này thì Chúa không cần phải cắt nghĩa dài dòng nữa. Phêrô quay đầu trở lại. Ông vào Rôma và tự nộp mình để rồi chịu tử đạo tại đó. Truyền thống kể rằng, ông cảm thấy không xứng đáng được đóng đinh cùng một cách thức như Thầy, nên ông xin được chết trên Thập Giá trong tư thế đầu lộn ngược xuống đất.

Với tư thế đó, ông sẽ phải chịu đau đớn nhiều hơn. Nhưng Phêrô đã muốn như thế để nói lên tấm lòng của ông đối với Thầy chí thánh.

Rõ ràng ông thực hiện trọn vẹn lời của Chúa: “Khi về già, ngươi sẽ dang tay ra, người khác sẽ thắt lưng cho và lôi ngươi đi đến nơi ngươi không muốn" (Ga 21,18-19).

Phêrô nằm trên Thánh Giá. Giống như Chúa Giêsu, như con chiên hiền lành, không một tiếng than, không một lời trách. Ông nằm trên đó như một lễ tế dâng lên Thầy chí thánh với tất cả lòng yêu thương: Yêu thương thì sẵn sàng hy sinh. Yêu thương thì sẵn sàng quên mình.

Phêrô đã chết nhưng cái chết của ông không vô ích. Ông đã chết không như một thất bại nhưng như một anh hùng chiến thắng. Sự can đảm của ông chẳng khác gì một ngọn lửa hồng rực sáng, sáng lên thật nhanh, thật mạnh nơi tâm hồn những tín hữu đầu tiên để họ cùng ông viết lên những trang sử hào hùng cho tòa nhà Giáo Hội, mà chính Phêrô là nền móng.

Chúng ta hãy cầu xin Chúa cho chúng ta cũng được sống can đảm như thế, để chúng ta xứng đáng với sự cứu chuộc của Chúa Giêsu, Chúa chúng ta.

Lạy Chúa Giêsu,
khi nhìn thấy đồng lúa chín vàng
chúng con ít khi nghĩ đến những hạt giống
đã âm thầm chịu nát tan
để trao cho đời cây lúa trĩu hạt.

Có bao điều tốt đẹp
chúng con được hưởng hôm nay
là do sự hy sinh quên mình của người đi trước,
của các nhà nghiên cứu, các người rao giảng,
của ông bà, cha mẹ, thầy cô,
của những người đã nằm xuống
cho quê hương dân tộc.
Ðã có những con người sống như hạt lúa,
để từ cái chết của họ
vọt lên sự sống cho tha nhân.

Xin cho chúng con
đừng tự khép mình trong lớp vỏ
nhưng dám đi ra
để góp cho cánh đồng cuộc đời một cây lúa nhỏ. Amen.


THỨ BẢY TUẦN 7 PHỤC SINH
Ga 21,20-25

"Chính môn đệ này làm chứng về những điều đó và đã viết ra.
Chúng tôi biết rằng lời chứng
của người ấy là xác thực."
(Ga 21,24)

Tin Mừng hôm nay đề cập đến ơn gọi của Gioan.

1. Khi Chúa nói với Phêrô “Phần ngươi hãy cứ theo ta” (Ga 21,22)…. rõ ràng Chúa đã muốn cho Phêrô có một ơn gọi riêng. Ơn gọi của Phêrô không giống những người khác. Mỗi người đều được Chúa dành cho một ơn gọi. Nhìn lại Lịch sử ơn cứu độ, chúng ta thường thấy Chúa làm như vậy. Ơn gọi của các Tổ phụ khác với ơn gọi của các tông đồ.

Với Abraham, Chúa gọi ông vào lúc tuổi đời ông đã già nua. Ông đã từ bỏ quê cha đất tổ, để theo Chúa (Stk 12,1-4). Abraham đã hoàn thành ơn gọi của mình.

Còn đối với Môisen, Chúa lại có cách hành xử khác. Chúa đã gọi ông từ giữa lòng sông Nil, rồi sau khi đã tôi luyện ông thành gang thép, Chúa đã trao cho ông một trọng trách phải thực hiện và Môisen đã hoàn thành sứ mạng đó.

Bây giờ, đến trường hợp của Phêrô. Phêrô đang sống yên hàn trong nghề chài lưới ở Capharnaum (Ga 1,44). Và Chúa gọi ông. Ông đã từ bỏ tất cả nghề nghiệp, gia đình chỉ vì tiếng gọi: “Hãy theo Ta” (Ga 11,35). Và Phêrô đã hoàn tất sứ mạng đó trên đỉnh đồi Vaticanô bằng một cái chết cũng đau đớn không kém gì Thầy mình. Và chính vì thế mà ông đã trở thành cột trụ của Giáo Hội.

2. Bây giờ đến lượt Gioan. Gioan cũng được gọi nhưng Chúa muốn Gioan sống ơn gọi của mình bằng con đường khác.

Trong nhóm 12, Gioan là một trong những người gần gũi Chúa nhất. Gioan đã đi theo Chúa trên tất cả mọi nẻo đường Ngài đi. Gioan là người đã nghiêng đầu mình vào ngực Chúa trong bữa ăn tối cuối cùng, điều đó chứng tỏ Gioan chẳng những là người trung thành đi theo, mà còn là người hiểu biết Chúa nhiều nhất và sâu xa nhất.

Khi Chúa nói "Nếu Thầy muốn, anh ấy còn ở lại cho tới khi Thầy đến…”(Ga 21,22) thì không có nghĩa Gioan sẽ sống mãi, nhưng Chúa muốn nói về cuộc sống của Gioan sau đó. Chúa muốn giữ Gioan ở lại lâu hơn các tông đồ khác để Gioan làm chứng. Đó là ơn gọi của Gioan. Gioan đã làm chứng không những bằng cuộc sống của mình mà còn bằng cả ngòi bút của mình nữa. Tin Mừng của Gioan đã giúp người ta hiểu về Chúa rõ hơn. Khi Gioan viết “Tôi thiết nghĩ cả thế giới cũng không đủ chỗ chứa các điều được viết ra”(Ga 21,25), điều đó không có nghĩa là cả thế giới không đủ chỗ chứa những sách mà Gioan nếu muốn sẽ viết ra, nhưng là không đủ chỗ cho những cảm nghiệm và những suy gẫm sâu sắc của Gioan về mầu nhiệm Chúa Giêsu và về những điều Chúa Giêsu dạy.

3. Phần chúng ta, chúng ta hãy noi gương Gioan trung thành “đi theo” Chúa, biết “nghiêng mình vào ngực Chúa ”, biết “hỏi” Chúa, có thật nhiều cảm nghiệm về Chúa, để rồi có thể “làm chứng” về Chúa như Gioan đã làm thuở xưa.

Trong kỳ nội chiến, Tổng thống Hoa Kỳ Abraham Lincoln có một sĩ quan trẻ làm thư ký. Viên sĩ quan này nổi tiếng là gan dạ, do đó công việc bàn giấy xem ra không thích hợp với anh. Anh chỉ mơ ước được trở ra mặt trận và nếu cần sẵn sàng chết cho tổ quốc hơn là làm công việc đơn điệu, nhàm chán nơi bàn giấy. Một ngày kia, sau khi nghe anh than phiền, tổng thống Lincoln nhìn thẳng mắt anh và nói: "Hỡi anh bạn trẻ, như tôi nhận thấy thì quả thực anh luôn muốn xả thân chết cho tổ quốc, nhưng có lẽ anh không muốn sống cho tổ quốc".

Tử đạo theo nguyên ngữ là "làm chứng cho đức tin". Có người dùng cái chết để làm chứng, có người dùng cả cuộc sống. Chết đau thương nhục nhã hay chết âm thầm từng ngày, cả hai đều có giá trị như nhau. Các Tông đồ đều được phúc tử đạo, ngay cả Gioan - vị Tông đồ sống lâu nhất, tuy không trực tiếp chết như vị tử đạo, nhưng cũng đã bị cho vào vạc dầu sôi. Tất cả những cái chết ấy đều là lời chứng hùng hồn cho đức tin.

Lịch sử Giáo Hội sau thời các Tông đồ là những cuốn sách về những chứng từ như thế. Mỗi người một cách, người viết bằng máu, người bằng cuộc sống từ bỏ quên mình, người bằng những nghĩa cử hy sinh phục vụ, người bằng cuộc sống âm thầm trong đau khổ. Nói tóm lại, có hàng trăm nghìn những ngôn ngữ, trăm nghìn những thứ bút mực, đã được dùng để viết nên những chứng từ, nhiều đến nỗi, như lời tiên đoán của Gioan: “Tôi thiết tưởng cả thế giới cũng không thể chứa hết các sách được viết ra”(Ga 21,25).

Còn hôm nay thì sao? Chúa Giêsu cũng vẫn cần những chứng nhân khác. Ngài cần đôi tay, bàn chân, môi miệng, trái tim chúng ta để tiếp tục hiện diện và hành động. Dòng thác Nirgara dù đổ xuống từng khối nếu không được ngăn lại sẽ không bao giờ biến thành nguồn thủy điện. Cả khối dầu hỏa Trung đông cũng không quay nổi một động cơ nếu không được con người khai thác sử dụng. Chúa Giêsu đang cần một chút đóng góp của chúng ta để sức nóng và ánh sáng Ngài được đạt tới mọi người.

Top