Đức Giê-su Ki-tô - Đường chiến thắng sự chết
WHĐ (18/10/2025) – Bài viết sẽ cho chúng ta có được tầm nhìn sâu rộng hơn về sự chết nói chung cũng như sự chết dưới nhãn quan mặc khải Ki-tô Giáo. Đặc biệt, chúng ta sẽ ý thức hơn về sự cần thiết phải gắn bó với Đức Giê-su, Đấng đã đến trần gian để thông phần đau khổ với con người, chịu chết vì con người và đã sống lại để ban ơn cứu độ cũng như giải thoát con người khỏi ách nô lệ tội lỗi và sự chết đời đời.
DẪN NHẬP
Là con người, ai cũng khát khao được sống lâu, sống dài, sống mãi và sống vĩnh cửu. Tuy nhiên, về phương diện sinh học, cấu tạo của con người vốn không được định dạng để tồn tại vô hạn. Ngay cả vũ trụ, dải ngân hà, hệ mặt trời hay cụ thể hơn là trái đất cũng không được vững bền mãi mãi. Nói cách khác, vũ trụ hay không gian, thời gian và những gì trong không gian, thời gian rồi cũng đến lúc chấm dứt sự tồn tại, tàn lụi hay phải 'chết'. Qua dòng lịch sử, đời sống con người dần dần được cải thiện nhờ kinh nghiệm cá nhân, tập thể cũng như sự phát triển tri thức nơi các lĩnh vực khoa học, kỹ thuật, công nghệ và kinh tế – xã hội. Tuy nhiên, con người luôn bất lực trước quyền lực của cái chết, cả đối với bản thân lẫn anh chị em đồng loại.
Trong mọi thời và khắp mọi nơi, 'sự sống' và 'sự chết' là hai chủ đề được con người quan tâm nhất. Sự sống bắt nguồn từ đâu? Sống là gì? Chết là gì? Sau khi chết, con người còn tồn tại không? Tại sao con người muốn sống lại phải chết? Những câu hỏi về sự sống và sự chết luôn phong phú và dồi dào hơn những câu trả lời. Trong gia đình nhân loại, không ai có thể đưa ra câu trả lời chung cuộc về sự sống hay sự chết. Kinh nghiệm cuộc sống cho chúng ta nhận thức rằng giữa những điều không chắc chắn, con người biết hai điều chắc chắn nhất là (1) mình phải chết và (2) vũ trụ cũng sẽ 'chết'. Ước vọng chung nhất của con người là có được tương lai tốt đẹp hơn, nhất là tương lai mà con người không còn lệ thuộc vào những biến chuyển không ngừng của vũ trụ cũng như muôn hình thức bấp bênh của đời sống nhân sinh.
Mặc khải Ki-tô Giáo cho chúng ta hiểu rằng muôn loài thụ tạo, kể cả con người, đều xuất phát từ Thiên Chúa và quy hướng về Người. Thiên Chúa sáng tạo con người để họ được hưởng hạnh phúc viên mãn trong Người. Tuy nhiên, vì vô ơn, kiêu ngạo, bất tuân Thiên Chúa, con người đã để tội lỗi xâm nhập trần gian và lan tràn đến tất cả. Dù vậy, Thiên Chúa vẫn yêu thương nhân loại cách vô điều kiện. Khi thời gian tới hồi viên mãn, Đức Giê-su đã đến trần gian không chỉ thông phần với con người trong sự chết mà còn sống lại để thông ban sự sống vĩnh cửu cho con người. Quả thực, mầu nhiệm phục sinh của Đức Giê-su là chiến thắng vĩ đại nhất của Thiên Chúa trước các thế lực sự dữ của con người mà đỉnh cao là sự chết. Nhờ Đức Giê-su, sự chết không còn là tiếng nói cuối cùng của thân phận con người nhưng đã trở nên cánh cửa mở ra đời sống vĩnh cửu trong Nước Thiên Chúa.
Chủ đề bài viết 'Đức Giê-su – Đường Chiến Thắng Sự Chết' được trình bày theo các đề mục sau: (1) Khái Niệm Sự Chết, (2) Sự Chết Trong Cựu Ước, (3) Sự Chết Trong Tân Ước và (4) Đức Giê-su – Đường Chiến Thắng Sự Chết. Qua việc khai triển các đề mục này, hy vọng chúng ta sẽ có được tầm nhìn sâu rộng hơn về sự chết nói chung cũng như sự chết dưới nhãn quan mặc khải Ki-tô Giáo. Đặc biệt, chúng ta sẽ ý thức hơn về sự cần thiết phải gắn bó với Đức Giê-su, Đấng đã đến trần gian để thông phần đau khổ với con người, chịu chết vì con người và đã sống lại để ban ơn cứu độ cũng như giải thoát con người khỏi ách nô lệ tội lỗi và sự chết đời đời.
1. KHÁI NIỆM SỰ CHẾT
Trong tiếng Do-thái, danh từ ‘מָוֶת’(māvet) có nghĩa là ‘cái chết’, ‘sự chết’ hay 'tử vong'. Danh từ này xuất phát từ động từ ‘מוּת’ (mût), nghĩa là 'chết', 'chết đi' hay 'chết mất'. Danh từ tiếng Hy-lạp tương đương với ‘cái chết’ trong tiếng Do-thái là ‘θάνατος’ (thánatos); còn động từ tương đương với động từ tiếng Do-thái là ‘ἀποθνῄσκω’ (apothnēskō). Chúng ta có thể trích dẫn một số câu Kinh Thánh theo tiếng Do-thái và tiếng Hy-lạp về chủ đề 'cái chết' như sau: “Hết mọi trái cây trong vườn, ngươi cứ ăn; nhưng trái của cây cho biết điều thiện điều ác, thì ngươi không được ăn, vì ngày nào ngươi ăn, chắc chắn ngươi sẽ phải chết [מוֹת תָּמוּת]” (St 2,16-17); “Lạy Chúa, dầu qua lũng âm u [צַלְמָוֶת], con sợ gì nguy khốn, vì có Chúa ở cùng. Côn trượng Ngài bảo vệ, con vững dạ an tâm” (Tv 23,4); “Lương bổng mà tội lỗi trả cho người ta, là cái chết [θάνατος]; còn ân huệ Thiên Chúa ban không, là sự sống đời đời trong Đức Ki-tô Giê-su, Chúa chúng ta” (Rm 6,23); “Nghe nói Người đã chết, ông Phi-la-tô lấy làm ngạc nhiên, và cho đòi viên đại đội trưởng đến, hỏi xem Người đã chết lâu chưa [ἀπέθανεν]” (Mc 15,44).
Bên cạnh hai hạn từ chính māvet và mût còn có một số từ ngữ khác cùng diễn tả thực tại của sự chết dưới nhiều khía cạnh khác nhau. Trước hết là ‘שְׁאוֹל' (sheol), nghĩa là âm phủ, cõi chết, nơi con người bước vào sau khi lìa đời; nơi đó không còn ca tụng Thiên Chúa (Tv 6,6; G 7,9; Is 38,18). Từ này được bản Hy-lạp LXX dịch tương đương bằng ‘ᾅδης’ (hádēs). Tiếp đến là ‘צַלְמָוֶת' (ṣalmāvet), nghĩa là bóng tối của sự chết hay bóng tử thần, thường gặp trong các Thánh Vịnh và văn chương Khôn Ngoan (Tv 23,4; G 10,21-22; Is 9,1); từ Hy-lạp tương đương là ‘σκιὰ θανάτου’ (skia thanatou). Một từ khác là ‘דֶּבֶר’ (dever), chỉ dịch bệnh, tai họa chết chóc, biểu tượng cho sức mạnh hủy diệt của sự chết (Xh 9,3; Gr 21,6-9; Am 4,10); từ Hy-lạp tương ứng là ‘λοιμός’ (loimos). Sau cùng là ‘אָבַד’ (ʾābad), nghĩa là tiêu tan, diệt vong, mất đi sự sống, không chỉ nói đến cái chết thể lý mà còn biểu thị tình trạng hư mất thiêng liêng (Tv 1,6; G 8,13); hạn từ tương đương trong Hy-lạp là ‘ἀπόλλυμι’ (apollymi), thường được dùng để chỉ sự hư mất về cả thể lý lẫn tinh thần.
Con người luôn bồn chồn, lo lắng và trăn trở trước cái chết. Bởi vì, cái chết dẫn con người vào 'môi trường tối tăm’, môi trường mà ai cũng muốn tránh càng xa càng tốt, đến càng muộn càng hay. 'Đau khổ', 'mất mát', 'sợ hãi' là những hạn từ mà con người thường dùng để diễn tả cái chết của ai đó. Cái chết trở thành nỗi ám ảnh khủng khiếp của con người, đặc biệt đối với những ai không có niềm tin, cái chết trở thành gánh nặng khôn xiết kể. Cái chết đưa con người tới môi trường trống vắng, xa lạ, nằm ngoài khả năng nhận thức bởi vì cái chết không thuộc phạm vi kinh nghiệm sống của con người. Đặc biệt, cái chết đưa con người đến thực tại vượt ngoài tầm nắm bắt của lý trí cũng như mọi hình thức lý giải. Không ai trong gia đình nhân loại có thể đưa ra câu trả lời dứt khoát về cái chết hầu giúp mọi người được an lòng trước đỉnh điểm thất vọng nhất xã hội loài người.
Cái chết đến với con người và con người không thể cưỡng lại được. Cái chết của mỗi người vừa mang tính tự nhiên, vừa mang tính cá vị: Tự nhiên theo nghĩa là ‘ai cũng phải chết’; cá vị theo nghĩa là ‘cái chết của mỗi người mỗi khác’ như người ta thường nói: ‘Sống mỗi người mỗi nết, chết mỗi người mỗi cách'. Nghĩa là cái chết nơi mỗi người mang những sắc thái riêng biệt: Khác nhau về thời gian, không gian, cách thức, hoàn cảnh và cả những hệ quả thiêng liêng mà nó kéo theo. Hơn nữa, cái chết không chỉ là chuyện linh hồn và thể xác chia lìa mà còn liên quan đến các chiều kích khác của con người, trên bình diện cá nhân cũng như tập thể.
Theo nghĩa chung nhất, cái chết được hiểu như là sự kết thúc hành trình lịch sử của mỗi người. Tùy theo nhãn quan tiếp cận, sự hiểu biết về cái chết thật muôn màu muôn vẻ, chẳng hạn như: (1) Dưới nhãn quan thể lý hay sinh học: Cái chết như là việc ngừng hoạt động của các cơ phận trong thân thể con người, chẳng hạn như phổi ngừng thở, tim ngừng đập, điện não không còn tín hiệu; (2) dưới nhãn quan triết học: Cái chết như là chấm dứt sự hiện hữu của con người, đồng thời, đặt con người trước các câu hỏi về hữu thể, không gian, thời gian, siêu việt; (3) dưới nhãn quan văn hóa, xã hội: Cái chết như là chấm dứt sự sống cá nhân và có tác động lên đời sống văn hóa xã hội được thể hiện qua các biểu tượng và nghi lễ; (4) dưới nhãn quan tôn giáo: Cái chết như là chấm dứt đời sống thể lý và cũng là bước chuyển tiếp vào các chiều kích hiện hữu khác tùy theo niềm tin của mỗi tôn giáo.
Đối với nhiều người, cái chết như là 'pha cuối', ‘pha tối’, ‘pha kết’ của con người. Tuy nhiên, cái chết thật bất ngờ vì không ai biết được khi nào mình sẽ chết; cái chết thật oan nghiệt vì nó không phân biệt thánh nhân hay tội nhân, bậc quyền quý hay người hèn mọn; cái chết thật lạnh lùng vì nó không phân biệt người già hay trẻ, người sang hay hèn, người giàu hay nghèo; cái chết thật khủng khiếp với nhiều người và họ muốn xa lánh; cái chết thật tàn bạo vì nó xé rời sự hiệp nhất thân xác và linh hồn nơi con người; cái chết thật quyền lực vì nó khống chế mọi người; cái chết thật nghiệt ngã vì nó đi ngược lại với khát vọng sống của con người; cái chết đáng sợ vì nó tước mất mọi khả năng chọn lựa của con người; cái chết thật đau thương vì nó phủ bóng tang tóc và chia ly nơi mọi người.
Đối với một số tôn giáo và triết thuyết, cái chết được xem như là sự chia lìa giữa yếu tố tâm linh và yếu tố thể xác nơi con người, nghĩa là sự tách biệt giữa linh hồn và thân xác: Chỉ có thân xác chết còn linh hồn thì bất tử. Nói cách khác, linh hồn tồn tại lâu dài còn thân xác thì tàn lụi. Dưới nhãn quan của một số triết gia Hy-lạp, cái chết được xem như là sự giải thoát linh hồn con người khỏi ‘nhà tù thân xác’ để linh hồn được diện kiến thế giới linh tượng; do đó, có khái niệm 'thân xác là nấm mồ' (σῶμα σῆμα /sōma sēma). Quan niệm 'ép xác lấy hồn' không chỉ là chủ trương của Plato hay những người thuộc trường phái Pythagoras mà còn ảnh hưởng sâu rộng đến nhiều trào lưu khác, chẳng hạn như trường phái Khắc Kỷ (Stoicism) hay trường phái Ngộ Đạo (Gnosticism). Quan niệm này đã tồn tại lâu dài trong lịch sử nhân loại nơi một số tôn giáo hay phong trào tu luyện trên thế giới. Theo đó, linh hồn con người từ thế giới linh tượng mà đến và cái chết cho phép linh hồn trở về quê hương thật của mình. Tuy nhiên, chỉ những linh hồn đức hạnh mới được tới bến bình an còn những linh hồn bất chính sẽ bị trừng phạt tương xứng với đời sống trần thế của mình.
Cũng có những người quan niệm cái chết như là 'chuyện phải đến’ và con người không cần phải ngạc nhiên trước cái chết. Thay vào đó, con người sẵn sàng chấp nhận cái chết ‘như nó là’. Chu kỳ chết cũng như chu kỳ sống, con người đừng quá bận tâm lo lắng về cái chết nhưng hãy chấp nhận cái chết như chấp nhận cuộc sống. Chết tương tự như bao biến cố thường ngày khác của cuộc sống, chết cũng là ‘chuyện thường ngày ở huyện’ mà thôi. Thay vì lo lắng, than vãn, khổ sở, con người cần ‘đối xử nhẹ nhàng’ với cái chết. Điều này có nghĩa là chết ‘không tối’, 'không đau', 'không mất mát' như con người tưởng tượng. Do đó, con người cần tập cho mình tâm trạng lạc quan trước cái chết bởi vì con người không thể làm gì hơn được. Sự sợ hãi của con người trước cái chết xem ra chủ yếu thuộc về khía cạnh tâm lý. Nếu được chuẩn bị kỹ càng, sự sợ hãi sẽ được giảm thiểu. Theo nghĩa này, cái chết xem ra phù hợp với trật tự tự nhiên: Không cưỡng ép, không gieo oan, không giáng họa.
Chúng ta có thể nói rằng từ giây phút đầu tiên được hình thành trong lòng mẹ, con người vừa bắt đầu sống vừa bước vào tiến trình chết. 'Cái chết' mà chúng ta nói tới chỉ là sự hoàn tất của tiến trình ấy. Theo nghĩa này, cái chết không phải là điều xa lạ nhưng gắn liền với thân phận của thực thể có tên là 'con người'. Quả thực, ngay từ giây phút được hiện diện, con người là 'thực thể sống động hướng về sự chết'. Do đó, giữa dòng đời, chúng ta nói rằng 'con người đang sống' cũng đúng và nói rằng 'con người đang chết' cũng đúng: 'Đang sống' diễn tả hiện trạng sinh tồn của con người và 'đang chết' diễn tả thực tại tàn lụi mà đỉnh điểm là con người 'nhắm mắt xuôi tay'. Như đề cập ở trên, việc trả lời cho câu hỏi ‘chết là gì?’ cũng khó khăn không kém so với việc trả lời cho câu hỏi ‘sống là gì?’. Quả thật, 'sống' và 'chết' không phải là ‘hai pha’, ‘hai giai đoạn’ hay ‘hai thì’ tách biệt (two separate phases or distinct stages) của phận người bởi vì trong sống đã có chết và trong chết đã có sống. Hơn nữa, khái niệm ‘trước khi chết’ và ‘sau khi chết’ cũng mang tính tương đối.
Dưới nhãn quan của thánh Au-gút-ti-nô: “Tổ tiên nguyên thủy của chúng ta được tạo dựng theo cách mà, nếu họ không phạm tội, thì họ sẽ không bị tách khỏi thân xác bởi bất kỳ sự chết nào, nhưng sẽ được ban cho sự bất tử như là phần thưởng cho sự vâng phục, và sẽ sống muôn đời với thân xác của mình” (Augustine, City of God, XIII, 19). Còn thánh Tô-ma A-qui-nô giải thích cách tường tận hơn rằng: “Thân xác con người không hư nát, không phải vì có một sức mạnh nội tại nơi chính nó, nhưng nhờ một quyền năng siêu nhiên được Thiên Chúa ban cho linh hồn, để linh hồn có thể gìn giữ thân xác khỏi mọi sự hư hoại, miễn là linh hồn còn quy phục Thiên Chúa” (Thomas Aquinas, Summa Theologiae, I, q.97, a.1). Cũng theo thánh nhân: “Thiên Chúa, Đấng mà mọi bản tính đều lệ thuộc, khi tạo dựng con người, đã bù đắp cho sự khiếm khuyết của tự nhiên, và bằng ân huệ nguyên thủy của công chính (donum originalis iustitiae) đã ban cho thân xác một sự bất khả hư hoại” (Thomas Aquinas, Summa Theologiae, I-II, q.85, a.6).
Trong khi niềm tin vào sự bất diệt của linh hồn được hầu hết các tôn giáo, triết thuyết và nền văn hóa chấp nhận như một chân lý phổ quát thì niềm tin vào sự sống lại của thân xác lại là điều vượt quá khả năng hiểu biết tự nhiên của con người. Các truyền thống tâm linh từ Đông sang Tây thường nhấn mạnh đến linh hồn bất tử, được giải thoát hoặc tái sinh nhưng ít khi khẳng định thân xác có giá trị vĩnh hằng. Mặc khải Ki-tô Giáo – nhất là sự hiện diện và hoạt động của Đức Giê-su giữa gia đình nhân loại mà cao điểm là những đau khổ, cái chết và sự phục sinh của Người – minh chứng về sự sống lại và sự sống vĩnh cửu của con người toàn diện. Quả thực, đây là mặc khải mới mẻ, mặc khải đem lại hy vọng lớn lao cho con người là Thiên Chúa đã chiến thắng sự chết, con người được giải thoát khỏi ách nô lệ của tội lỗi và sự chết, đồng thời, được chung hưởng sự sống viên mãn trong Thiên Chúa.
Cái chết của Đức Giê-su, Con Thiên Chúa trong gia đình nhân loại là mầu nhiệm vượt quá khả năng lĩnh hội của trí khôn con người. Đó là cái chết không thể diễn tả, không thể giải thích, không thể nắm bắt và cũng không thể so sánh với bất cứ biến cố nào trong toàn bộ lịch sử kinh nghiệm của gia đình nhân loại. Đây là cái chết nghịch lý nhất mà gia đình nhân loại từng được chứng kiến. Đối với nhiều người, thập giá chỉ là nơi Đức Giê-su phải chịu đựng bao sỉ nhục và đau khổ. Nhưng chính trong cái chết tự nguyện của Người, nỗi nhục nhã ấy lại đạt đến tột đỉnh, bởi nơi đó sự khiêm hạ, tự hủy và trút bỏ bản thân của Ngôi Lời đã đi đến cùng cực. Trong cái chết ấy, Đức Giê-su đã đi vào tận vực sâu tăm tối nhất của thân phận con người, nơi mà bóng tối của sự chết tưởng như hoàn toàn thống trị. Nhưng chính tại đó, Người làm cho ánh sáng của Thiên Chúa bừng lên, để từ nay, sự chết không còn là dấu chấm hết mà trở thành con đường dẫn đến sự sống vĩnh cửu.
Không ai trong gia đình nhân loại có được kinh nghiệm trọn vẹn về sự sống bên kia cái chết. Cũng không ai có thể mô tả cách xác thực về thực tại sau khi chết để thỏa mãn khát vọng sâu thẳm của con người về đời sau và sự sống vĩnh cửu. Trong hành trình trần thế, Đức Giê-su dùng nhiều hình ảnh khác nhau để diễn tả về thực tại sau cái chết. Tuy nhiên, chúng ta nhận thức rằng không biểu tượng, hình ảnh hay tước hiệu nào có thể 'trùng khít' với thực tại ấy. Thánh Phao-lô viết: "Điều mắt chẳng hề thấy, tai chẳng hề nghe, lòng người không hề nghĩ tới, đó lại là điều Thiên Chúa đã dọn sẵn cho những ai mến yêu Người" (1 Cr 2,9). Theo các nhà chú giải Kinh Thánh, khi viết điều này, thánh Phao-lô tổng hợp một số trích đoạn trong Cựu Ước, chẳng hạn như Is 64,3; Is 65,17; Kn 9,13. Trong một số thư khác, thánh nhân cũng diễn tả tương tự, chẳng hạn như: "Những đau khổ chúng ta chịu bây giờ sánh sao được với vinh quang mà Thiên Chúa sẽ mặc khải nơi chúng ta" (Rm 8,18) hay: "Xin tôn vinh Đấng có thể dùng quyền năng đang hoạt động nơi chúng ta, mà làm gấp ngàn lần điều chúng ta dám cầu xin hay nghĩ tới" (Ep 3,20).
Như đề cập ở trên, Thiên Chúa đã dựng nên con người để họ được sống trong tình thân mật với Người. Thế nhưng, tội lỗi đã xâm nhập vào trần gian và chính tội lỗi là nguyên nhân khiến cho con người phải chết. Như vậy, sự chết vốn xa lạ với con người trong ý định sáng tạo ban đầu của Thiên Chúa lại trở nên quen thuộc với con người qua muôn thế hệ. Nói cách khác, sự chết vốn không thuộc về bản tính con người trong chương trình sáng tạo của Thiên Chúa nhưng vì con người lạm dụng tự do mà sự chết đã thâm nhập trần gian. Thánh Phao-lô quả quyết: "Vì một người duy nhất mà tội lỗi đã xâm nhập trần gian, và tội lỗi gây nên sự chết; như thế, sự chết đã lan tràn tới mọi người, bởi vì mọi người đã phạm tội" (Rm 5,12). Quả thật, Thiên Chúa sáng tạo muôn vật muôn loài trong cảnh tốt lành, không có bóng dáng của sự chết. Đặc biệt, Thiên Chúa ban cho con người tự do chọn lựa giữa 'tạ ơn' và 'vô ơn', giữa 'tuân phục' và 'bất tuân phục' huấn lệnh của Người. Thực tế, con người đã sa ngã, đã vô ơn, kiêu ngạo, bất tuân phục huấn lệnh của Thiên Chúa. Như vậy, dưới nhãn quan Ki-tô Giáo, tội lỗi là nguồn gốc của cái chết. Điều này có nghĩa là nếu không có tội thì cái chết không xuất hiện.
Cái chết đặt ra cho con người những câu hỏi về ý nghĩa và mục đích của cuộc sống. Theo Công Đồng Vatican II: “Con người luôn khao khát muốn biết, ít là một cách mơ hồ, cuộc sống, hoạt động và cái chết của mình có ý nghĩa gì” (GS 41). Trong không gian và thời gian, con người hiện diện, sống, hoạt động và đương đầu với cái chết. Phải chăng thực thể có tên gọi là ‘con người’ chỉ có thế thôi? Sự sống của con người vốn đã huyền nhiệm nhưng sự chết còn mở ra huyền nhiệm sâu thẳm hơn. Quả thật, nguồn gốc sự sống, sự hiện hữu, tự do và định mệnh của con người, cùng với mối tương quan giữa đời sống thể chất và tinh thần, giữa xác và hồn, giữa cá nhân và cộng đồng, giữa con người và xã hội, giữa con người và vạn vật, đều là những thực tại và mối tương quan vượt quá tầm thấu hiểu của mọi người. Còn sự chết thì sao? Chết là biến cố chấm dứt mọi hoạt động, mọi chọn lựa và mọi liên kết trần thế mà không ai có thể tránh khỏi. Chết cũng là biến cố khơi dậy nơi con người khát vọng sống và hạnh phúc vĩnh cửu. Đặc biệt, dưới nhãn quan Ki-tô Giáo, sự chết và sự phục sinh của Đức Giê-su là trung tâm và chóp đỉnh của mầu nhiệm tình yêu Thiên Chúa đối với con người và toàn thể vũ trụ.
2. SỰ CHẾT TRONG CỰU ƯỚC
2.1 Chết như là hậu quả của tội lỗi
Theo sách Sáng Thế: “Đức Chúa là Thiên Chúa lấy bụi từ đất nặn ra con người, thổi sinh khí vào lỗ mũi, và con người trở nên một sinh vật” (St 2,7). Con người được hình thành từ bụi đất và sinh khí, vật chất và tinh thần, hữu hình và vô hình. Nói cách khác, con người là hữu thể duy nhất với thân xác và linh hồn, phản ánh sự hòa hợp giữa trật tự tự nhiên và trật tự siêu nhiên. Đặc biệt, sinh khí con người được Thiên Chúa ‘thổi vào' là biểu tượng của sự sống được Thiên Chúa ban tặng. Trình thuật sách Gióp cho chúng ta biết Ê-li-hu nói với ông Gióp: “Sinh khí của Thiên Chúa đã làm ra tôi, hơi thở của Đấng Toàn Năng đã cho tôi được sống” (G 33,4). Theo tác giả sách Khôn Ngoan: “Thiên Chúa đã sáng tạo con người, cho họ được trường tồn bất diệt. Họ được dựng nên làm hình ảnh của bản tính Người” (Kn 2,23). Như vậy, mọi sự Thiên Chúa làm ra thật là tốt đẹp và con người được thông dự vào sự sống thần linh của Thiên Chúa. Công trình của Người thật diệu kỳ, sống động, hoàn hảo, chan chứa sinh khí và không hề mang bóng dáng của sự dữ luân lý hay sự chết.
Thiên Chúa không muốn con người phải chết. Tác giả sách Khôn Ngoan viết: “Thiên Chúa không làm ra cái chết, chẳng vui gì khi sinh mạng tiêu vong. Vì Người đã sáng tạo muôn loài cho chúng hiện hữu, mọi loài thọ tạo trên thế giới đều hữu ích cho sinh linh, chẳng loài nào mang độc chất hủy hoại. Âm phủ không thống trị địa cầu” (Kn 1,13-14). Điều này không có nghĩa là, nếu không có tội, con người tự mình có thể đạt tới sự bất tử thể lý. Quả thật, ý định nguyên thủy của Thiên Chúa là cho con người được sống mãi trong hiệp thông với Người và nhờ mối hiệp thông này, con người có thể vượt qua mọi giới hạn của thế giới thụ tạo mà không phải nếm trải cái chết đau thương vì hậu quả tội lỗi. Theo thánh Tô-ma A-qui-nô, Thiên Chúa ban cho con người ân huệ siêu nhiên bao lâu con người vẫn còn sống trong ân nghĩa với Người (tình trạng công chính nguyên thủy - original justice), con người được gìn giữ cho khỏi phải chết: “Thân xác con người khi ấy là bất khả phân rã, không phải vì một năng lực nội tại của sự bất tử, nhưng vì một sức mạnh siêu nhiên mà Thiên Chúa ban cho linh hồn, nhờ đó linh hồn có thể bảo tồn thân xác khỏi mọi hư hoại bao lâu chính nó vẫn quy phục Thiên Chúa” (Thomas Aquinas, Summa Theologiae II, q.97, a.1).
Dưới nhãn quan Cựu Ước, sự sống và sự chết không chỉ là hai trạng thái đối nghịch mà còn được đặt trong tương quan với Thiên Chúa, nguồn mạch của sự sống. Theo truyền thống Rabbinic Do-thái vào thời hậu lưu đày, cái chết được hiểu như lẽ tự nhiên của các thụ tạo và hậu quả của tội lỗi, đồng thời, được nhìn nhận như ngưỡng cửa bước vào sự phán xét của Thiên Chúa, nơi người công chính được cưu mang niềm hy vọng về sự sống lại trong thế giới mai hậu. Sự chết của con người và vạn vật biểu lộ những giới hạn của thế giới tự nhiên, thế giới bị tội lỗi chi phối. Chỉ Thiên Chúa là Nguồn Gốc của thế giới thụ tạo và cũng là Đấng hằng sống (אֵל־חַי, ʾEl ḥay/ the Living God), chẳng hạn: “Có người phàm nào đã được nghe tiếng của Thiên Chúa hằng sống phán từ trong đám lửa, như chúng tôi đã được nghe, mà vẫn còn sống?” (Đnl 5,26); “Đức Chúa là Thiên Chúa thật, là Thiên Chúa hằng sống, là Vua muôn đời” (Gr 10,10) hay: “Linh hồn con khao khát Chúa Trời, là Chúa Trời hằng sống. Bao giờ con được đến vào bệ kiến Tôn Nhan?” (Tv 42,3).
Trong tương quan giữa sự sống và sự chết, tư tưởng chủ đạo của mặc khải trong Cựu Ước là Thiên Chúa không muốn kẻ gian ác phải chết nhưng muốn nó ăn năn hối cải để được sống. Ý định cứu độ của Thiên Chúa luôn đi trước hình phạt vì lòng thương xót của Người bao trùm lên tất cả. Trên bình diện tập thể cũng vậy, Thiên Chúa luôn kiên nhẫn với dân Do-thái. Với quyền năng của Người, Người có thể ‘biến đá thành con cái Người’ nhưng Người đã không làm như vậy. Người luôn kiên nhẫn, chờ đợi dân Do-thái hoán cải để trở về với Người. Lời của Thiên Chúa trong sách ngôn sứ Ê-dê-ki-en cho chúng ta biết điều đó: “Ta chẳng vui gì khi kẻ gian ác phải chết, nhưng vui khi nó thay đổi đường lối để được sống. Hãy trở lại, hãy từ bỏ đường lối xấu xa của các ngươi mà trở lại. Sao các ngươi lại muốn chết, hỡi nhà Ít-ra-en?" (Ed 33,11). Quả thật, ngay từ buổi sơ khai, Thiên Chúa đã tỏ lòng nhân hậu đối với Ca-in bởi vì khi Ca-in phạm tội giết em mình là A-ben, Thiên Chúa đã không để Ca-in phải chết nhưng cho ông sống lưu đày và ghi dấu bảo vệ ông khỏi bị báo thù (St 4,15). Thiên Chúa không muốn con người thực thi khẩu hiệu ‘ác báo ác’. Người là Đấng bảo toàn sự sống ngay cả trong hình phạt, biểu lộ công lý được thấm đượm lòng thương xót. Vì thế, huấn lệnh 'chớ giết người' là huấn lệnh nền tảng bảo vệ phẩm giá con người và sự sống do Thiên Chúa trao ban (Xh 20,13; Đnl 5,17).
Cựu Ước nhấn mạnh quyền năng diệu kỳ của Thiên Chúa, Đấng sáng tạo, bảo toàn và điều hành mọi sự. Muôn vật muôn loài nhờ Người mà tồn tại: “Chính Người nắm trong tay hồn của mọi sinh vật cũng như hơi thở của tất cả người phàm” (G 12,10). Đặc biệt, Người nắm quyền sinh tử: “Ta chính là Ta, bên cạnh Ta, chẳng có thần nào khác, Ta cầm quyền sinh tử, Ta đánh phạt, rồi Ta lại chữa lành, không ai cứu khỏi tay Ta được” (Đnl 32,39). Số phận con người hoàn toàn thuộc về Đức Chúa. Những cái chết bất thường, chẳng hạn như chết vì chiến tranh, dịch bệnh hay tai họa thiên nhiên thường được nhìn nhận như hệ quả của tội lỗi hoặc dấu hiệu Thiên Chúa ‘không hài lòng’ với dân Người (Ds 25,1-18). Chết sớm, chết non, chết yểu được xem là dấu chỉ của phường bị chúc dữ, phải gánh chịu hậu quả do bất tuân lề luật Thiên Chúa (Đnl 28,15-68). Người sống vô luân, bất chính cũng phải chết như lời ngôn sứ Ê-dê-ki-en cảnh báo: “Nếu như kẻ công chính từ bỏ lẽ công chính của mình mà làm điều bất chính, thì Ta sẽ đặt chướng ngại trước mắt nó; nó sẽ phải chết, bởi vì ngươi đã không báo cho nó. Nó sẽ phải chết vì tội lỗi của nó và người ta sẽ không còn nhớ đến việc công chính nó đã làm” (Ed 3,20).
2.2 Chết như là vào cõi quên lãng
Dưới nhãn quan Cựu Ước, chết không phải là kết thúc nhưng là sự thay đổi trạng thái hiện hữu. Khái niệm âm phủ (שְׁאוֹל/ sheol) hay âm ty (ᾅδης/ hades) xuất hiện nhiều lần trong Cựu Ước, không chỉ trong Ngũ Thư mà còn ở các sách Lịch Sử, Ngôn Sứ và Khôn Ngoan (St 44,29; 1 Sm 2,6; Am 9,2, Tv 6,6). Nghĩa ban đầu của khái niệm này là 'cõi bên dưới', ‘vực sâu' hoặc ‘nơi tối tăm’. Tuy nhiên, âm phủ hay âm ty trong Cựu Ước không mang nghĩa giống như 'hỏa ngục' (xa biệt Thiên Chúa hoàn toàn, chịu hình phạt đời đời do tội lỗi) của Ki-tô Giáo sau này. Từ 'âm phủ' xuất hiện lần đầu tiên trong Cựu Ước là ở sách Sáng Thế khi Giu-se bị các anh mình bán cho những người lái buôn Ai-cập, Gia-cóp tưởng Giu-se bị thú dữ xé xác đã buồn bã và nói với các con ông: “Cha sẽ để tang mà xuống với con cha ở âm phủ. Và cha cậu khóc thương cậu” (St 37,35). Gia-cóp cũng nói với các con mình về Ben-gia-min là con út trong số mười hai người con trai của Gia-cóp và là em ruột của Giu-se: "Nó mà gặp tai họa trong chuyến đi chúng mày sắp thực hiện, thì chúng mày sẽ làm cho kẻ bạc đầu này phải buồn sầu mà xuống âm phủ" (St 42,38). Ở đây, âm phủ diễn tả nỗi đau và ý thức mất mát hoàn toàn của người khi đối diện cái chết, chứ chưa mang nghĩa trừng phạt hay cứu độ.
Thiên Chúa có quyền trên kẻ sống cũng như kẻ chết trong âm phủ, chẳng hạn: "Đức Chúa là Đấng cầm quyền sinh tử, đẩy xuống âm phủ rồi lại kéo lên. Đức Chúa bắt phải nghèo và cho giàu có, Người hạ xuống thấp, Người cũng nhắc lên cao" (1 Sm 2,6-7) hay: "Chính Người đánh phạt rồi lại xót thương, đẩy xuống tận âm ty trong lòng đất sâu thẳm, rồi kéo ra khỏi đại họa tiêu vong, chẳng có chi thoát khỏi tay Người" (Tb 13,2). Điều đó diễn tả quyền tối thượng của Thiên Chúa trên mọi chiều kích hiện hữu, ngay cả nơi sự chết, Người vẫn hiện diện và có thể giải thoát. Trong di huấn cho con mình là Sa-lô-môn liên quan đến Giô-áp, kẻ phạm nhiều tội ác, Đa-vít nói: "Con sẽ đối xử theo sự khôn ngoan của con, và đừng để cho đầu bạc của nó xuống âm phủ bình an" (1 V 2,6) hay: "Con đừng để nó vô can, bởi vì con là người khôn ngoan, và biết phải xử với nó như thế nào để bắt nó xuống âm phủ với đầu bạc vấy máu" (1 V 2,9). Đa-vít luôn xác tín rằng Đức Chúa là Đấng xét xử công minh cho mọi người. Tuy nhiên, bổn phận của những người được Thiên Chúa tuyển chọn là thực thi công lý cách phù hợp trong những hoàn cảnh cụ thể của thời đại mình.
Đối với các ngôn sứ trong Cựu Ước, âm phủ hay âm ty là miền tối tăm, tĩnh mịch, miền quên lãng, nơi mà con người không có thể ca tụng Đức Chúa: "Ở chốn tử vong, không người ca tụng Chúa, và trong nơi âm phủ, chẳng ai ngợi khen Ngài. Kẻ xuống mồ cũng dứt niềm trông cậy vào lòng Chúa tín trung" (Is 38,18). Âm ty vừa mang nghĩa một thực tại, vừa mang nghĩa biểu tượng cho cảnh bị tách lìa khỏi ánh sáng Thiên Chúa, chẳng hạn: "Âm ty mở họng lớn, há mồm to quá chừng, hàng quý tộc và quần chúng của thành xuống đó cùng với tiếng reo vui ồn ào" (Is 5,14); "Vào ngày nó xuống âm phủ, Ta đã bắt mọi loài phải để tang; vì nó, Ta đã che kín vực thẳm, đã khiến cho các con sông ngừng chảy và các dòng nước lũ ngưng lại" (Ed 31,15) hay: "Chúng có chui xuống tận âm ty, tay Ta cũng kéo chúng lên khỏi đó. Chúng có bay lên đến tận trời, từ đó, Ta cũng lôi chúng xuống" (Am 9,2).
Khái niệm âm ty xuất hiện nhiều trong các sách Khôn Ngoan, nhất là các sách Thánh Vịnh, Gióp, Huấn Ca. Bởi vì, đây là những sách diễn tả suy tư, chiêm niệm và lời cầu nguyện về sự sống, sự chết và cõi đời đời. Theo đó, âm ty không nhất thiết là một nơi cụ thể mà là ‘cõi thinh lặng’ hay ‘môi trường xa cách Thiên Chúa’: “Chốn tử vong, ai nào nhớ Chúa, nơi âm phủ, ai ngợi khen Ngài?” (Tv 6,6); “Chúa được lợi gì khi con phải chết, được ích chi nếu con phải xuống mồ? Nắm tro tàn làm sao ca tụng Chúa và tuyên dương lòng thành tín của Ngài” (Tv 30,10); “Trong mồ mả, ai nói về tình thương của Chúa? Cõi âm ty, ai kể lại lòng thành tín của Ngài? Những kỳ công Chúa, nơi tối tăm ai rõ? Đức công chính Ngài, chốn quên lãng ai hay?” (Tv 88,12-13). Những người chết thì chẳng còn gì gọi là 'hy vọng' như lời của tác giả sách Giảng Viên: “Chỉ những ai còn sống trong cõi dương gian mới có hy vọng mà thôi, vì con chó sống thì hơn con sư tử chết” (Gv 9,4) hay: “Những gì trong tầm tay, bạn hãy ra sức làm, vì trong cõi âm ty, nơi bạn đang đi tới, không còn hoạt động, không còn dự tính, chẳng còn hiểu biết, chẳng còn khôn ngoan” (Gv 9,10). Quả thật, âm ty luôn là cõi buồn sầu, tang tóc và bị động, lãng quên, mờ tối, nơi sự sống và lời ca tụng Thiên Chúa bị gián đoạn.
Trong cái nhìn của Cựu Ước, âm ty là nơi mọi người đều phải đến, bất luận thân phận, địa vị hay tình trạng đạo đức. Xã hội loài người có sự phân cấp giữa người với người nhưng trong âm ty hay âm phủ thì không hề có. Tư tưởng này khá thịnh hành không chỉ trong văn hóa Do-thái cổ mà còn trong nhiều nền văn hóa Cận Đông cổ đại. Theo đó, người chú tâm ‘theo đường sự sống’ hay kẻ say sưa ‘theo đường sự chết’ đều phải đến âm ty. Nhiều trích đoạn trong sách Giảng Viên cho chúng ta biết tiêu chuẩn luân lý ‘làm lành lánh dữ’ dường như không đem lại hiệu quả gì bởi vì người sống tốt hay kẻ ăn ở xấu đều cùng chung số phận (Gv 9,2). Âm ty trở thành môi trường vô vọng, là điểm đến cuối cùng của con người trong cõi nhân sinh. Tác giả sách Giảng Viên khẳng định: “Tai họa thảm hại nhất trong tất cả những gì xảy ra dưới ánh mặt trời là hết mọi người đều chịu chung một số phận như nhau” (Gv 9,3) hay: “Người sống ít ra cũng biết mình sẽ chết, còn người chết chẳng biết gì cả; họ đâu còn được hưởng điều gì, vì đã bị rơi vào quên lãng. Bao yêu thương, oán hờn, ganh tị của họ đã tiêu tan cả rồi, và muôn đời họ sẽ không được dự phần vào bất cứ chuyện gì xảy ra dưới ánh mặt trời nữa” (Gv 9,5-6). Ở đây, cái chết được xem như dấu chấm hết của các hoạt động trần thế và âm ty là cõi quên lãng tuyệt đối, nơi ký ức, ý chí và tình cảm đều tan biến.
Đời sống con người trong ánh sáng mạc khải Cựu Ước được nhìn nhận như một thoáng mây bay. Điệp khúc ‘đời người sớm nở chiều tàn’ ngân dài trong các Thánh Vịnh, chẳng hạn: “Lạy Chúa, xin dạy cho con biết: Đời sống con chung cuộc thế nào, ngày tháng con đếm được mấy mươi, để hiểu rằng kiếp phù du là thế” (Tv 39,5). Tuổi đời ngắn hay dài đều vô nghĩa: “Ấy tuổi đời con, Chúa đo cho một vài gang tấc, kiếp sống này, Chúa kể bằng không. Đứng ở đời, thật con người chỉ như hơi thở, thấp thoáng trên đường tựa bóng câu. Công vất vả ngược xuôi: làn gió thoảng, ky cóp mà chẳng hay ai sẽ hưởng dùng” (Tv 39,6-7). Thời gian sống của con người chẳng đáng là bao, bởi vì: “Tính tuổi thọ, trong ngoài bảy chục, mạnh giỏi chăng là được tám mươi, mà phần lớn chỉ là gian lao khốn khổ, cuộc đời thấm thoát, chúng con đã khuất rồi” (Tv 90,10). Đời người thật bấp bênh vô nghĩa: “Kiếp phù sinh, tháng ngày vắn vỏi, tươi thắm như cỏ nội hoa đồng, một cơn gió thoảng là xong, chốn xưa mình ở cũng không biết mình” (Tv 103,15-16). Tất cả những hình ảnh ấy phản ánh cảm thức sâu xa của con người trước giới hạn sinh học và thực trạng sự chết nhưng ẩn chứa lời kêu cầu Thiên Chúa, nguồn mạch của ý nghĩa và sự sống vĩnh cửu (Tv 90,12).
Sách Gióp trình bày sự mong manh của đời sống con người cũng như tình trạng 'bị lãng quên' của kẻ chết: “Ngày đời con, nào có được bao nhiêu! Xin Ngài nương tay, để con được đôi phần thanh thoả, trước khi con ra đi, không hẹn ngày trở lại, đi về nơi tăm tối, dưới bóng tử thần, nơi tăm tối, mịt mù, hỗn độn, nơi ánh sáng và bóng tối cũng như nhau” (G 10,20-22). Gióp thấm nhuần tư tưởng của tổ tiên về âm ty: Chốn bị lãng quên, chốn tối tăm, chốn người chết cư ngụ, nơi con người không còn giao tiếp với người sống cũng như không còn tương giao với Thiên Chúa. Ông Gióp cũng than van: “Con người nằm xuống ngủ yên rồi là không thức dậy nữa. Bao lâu các tầng trời còn tồn tại, nó vẫn không thức giấc, không tỉnh dậy, không hết ngủ say” (G 14,12). Đối với ông, cái chết đưa con người vào cõi thinh lặng triền miên, chất nặng cô đơn; người chết hoàn toàn bất lực, chìm trong cảm giác vô vọng và nỗi đau không dứt. Tuy nhiên, giữa bóng tối và thử thách, tia sáng đức tin đã lóe lên nơi Gióp: Ông vẫn tin vào Thiên Chúa công minh và cứu độ, dù chưa hiểu được cách thức Thiên Chúa hành động. Cảm thức ấy mở ra mầm mống cho niềm tin vào Đấng Cứu Độ hằng sống mà sau này chính ông tuyên xưng cách rõ ràng và đầy xác tín.
2.3 Niềm hy vọng sống lại
Mặc khải của Thiên Chúa trong Cựu Ước cho chúng ta biết một số nhân vật không nếm mùi cái chết bởi vì họ ‘được Thiên Chúa đem đi’ như dấu chỉ niềm hy vọng vượt trên cái chết, chẳng hạn như, theo trình thuật về Kha-nốc: “Tổng cộng ông Kha-nốc sống được ba trăm sáu mươi lăm năm. Sau khi đi với Thiên Chúa, ông không còn nữa, vì Thiên Chúa đã đem ông đi” (St 5,23-24); ngôn sứ Ê-li-a cũng được Thiên Chúa đem đi cách diệu kỳ: “Các ông [Ê-li-a và Ê-li-sa] còn đang vừa đi vừa nói, thì này một cỗ xe đỏ như lửa và những con ngựa đỏ như lửa tách hai người ra. Và ông Ê-li-a lên trời trong cơn gió lốc” (2 V 2,11). 'Được Thiên Chúa đem đi' diễn tả mối hiệp thông thân mật giữa con người và Đấng Tạo Hóa, đến mức các ngài được cất khỏi trần gian, biểu tượng cho sự sống vĩnh hằng. Sách Sáng Thế thông thường trình thuật khá chi tiết về tiểu sử hay gia phả của những nhân vật điển hình cũng như công việc họ thực hiện trong chương trình của Thiên Chúa. Tuy nhiên, trường hợp Men-ki-xê-đê là ngoại lệ bởi vì sách này không trình thuật chuyện gia đình, cha mẹ, anh chị em hay năm tháng sinh tử của ông (St 14,18-20). Dưới ánh sáng Tân Ước, Thánh Vịnh 110,4 được hiểu như lời tiên báo về Đức Giê-su: "Đức Chúa đã một lần thề ước, Người sẽ chẳng rút lời, rằng: Muôn thuở, Con là Thượng Tế theo phẩm trật Men-ki-xê-đê” (Tv 110,4). Tác giả thư gửi tín hữu Do-thái xem Men-ki-xê-đê là hình ảnh tiên trưng về Đức Giê-su, Thượng Tế vĩnh cửu của Giao Ước Mới: “Ông tên là Men-ki-xê-đê, nghĩa là ‘vua công chính’; rồi ông lại là vua Sa-lem, nghĩa là 'vua bình an'. Ông không có cha, không có mẹ, không có gia phả, cuộc đời không có khởi đầu, cũng không có kết thúc. Như thế là ông giống Con Thiên Chúa: Mãi mãi ông vẫn là tư tế” (Dt 7,2-3). Kinh Thánh cho thấy quyền năng và kế hoạch cứu độ của Thiên Chúa luôn vượt trên giới hạn của sự chết, hướng con người đến sự sống vĩnh cửu nơi Đức Giê-su.
Nguyên lý nhân quả, chẳng hạn như ở hiền gặp lành, cha ăn mặn con khát nước, người công chính thì phát đạt, kẻ bất chính thì đau khổ khá phổ biến nơi hầu hết các nền văn hóa hay tôn giáo quanh vùng Địa Trung Hải cũng như nhiều nơi khác trên thế giới. Tuy nhiên, một số trình thuật trong sách Gióp có vẻ đi ngược lại với nguyên lý đó. Ông Gióp là người công chính nhưng lại phải đương đầu với đau khổ, trong khi kẻ ác vẫn giàu sang phú quý. Điều đáng chúng ta quan tâm là: Gióp luôn trông cậy vào Thiên Chúa giữa bao đau khổ, gian lao, thử thách. Càng ngày, Gióp càng nhận ra chương trình kỳ diệu của Thiên Chúa, nhờ đó, ông hiểu biết Thiên Chúa nhiều hơn: “Trước kia, con chỉ được biết về Ngài nhờ người ta nói lại, nhưng giờ đây, chính mắt con chứng kiến... trên tro bụi, con sấp mình thống hối ăn năn” (G 42,5-6). Quả thật, đau khổ không nhất thiết là hậu quả của tội lỗi mà đôi khi còn là phương thế giúp con người được thanh luyện và trưởng thành để có thể thông hiệp với Thiên Chúa cách mật thiết hơn. Mầu nhiệm đau khổ thâm sâu và kỳ diệu hơn những lý giải dựa trên nguyên tắc luân lý hay hậu quả tự nhiên mà con người thường áp dụng.
Sách Gióp cho phép chúng ta nhận diện nhiều dạng thức hay hình thức chết, chẳng hạn như: (1) Cái chết thể lý: Con cái và tôi tớ của ông bị chết; (2) cái chết xã hội: Bị cô lập, bị xa lánh, mất danh dự, mất địa vị; (3) cái chết tâm lý và tâm linh: Ô nhục, bị ruồng bỏ, sống như đã chết; (4) cái chết theo nghĩa thần học: Dường như bị Thiên Chúa bỏ rơi và bị xem như thù địch của Người (G 13,24); (5) cái chết như là biến đổi và được diện kiến Thiên Chúa: “Tôi biết rằng Đấng bênh vực tôi vẫn sống, và sau cùng, Người sẽ đứng lên trên cõi đất. Sau khi da tôi đây bị tiêu huỷ, thì với tấm thân, tôi sẽ được nhìn ngắm Thiên Chúa. Chính tôi sẽ được ngắm nhìn Người, Đấng mắt tôi nhìn thấy không phải người xa lạ. Lòng tôi những tha thiết mong chờ” (G 19,25-27). Niềm tin mạnh mẽ ấy vượt xa tư tưởng Do-thái cổ truyền, trở thành tuyên tín về sự phục sinh cá nhân – niềm hy vọng nền tảng cho đức tin Ki-tô Giáo sau này. Quả thật, ý tưởng người công chính được sống và được Thiên Chúa thưởng công xứng đáng đã tiềm tàng trong các sách Kinh Thánh bằng tiếng Do-thái cũng như Hy-lạp thời Cựu Ước. Niềm xác tín ấy không chỉ diễn tả khát vọng của con người được sống lại sau khi chết mà còn mở ra viễn tượng thần học sâu xa về mối thông hiệp giữa con người với Thiên Chúa trong sự hiện diện vĩnh cửu của Người. Niềm xác tín ấy đã hàm chứa hy vọng rằng Thiên Chúa sẽ phục hồi sự sống cho người công chính.
Thị kiến về cánh đồng những bộ xương khô trong sách ngôn sứ Ê-dê-ki-en cho thấy Đức Chúa truyền cho vị ngôn sứ tuyên sấm trên các bộ xương. Vị ngôn sứ vâng lệnh và tuyên sấm như Đức Chúa đã phán; các xương liền ráp lại với nhau, gân và thịt mọc lên, rồi da bọc bên ngoài. Sau đó, Đức Chúa lại truyền cho ông gọi thần khí (רוּחַ/ ruaḥ) thổi vào những người đã chết, và khi thần khí nhập vào, họ được hồi sinh và đứng thẳng lên, trở thành một đạo binh đông đảo. Đức Chúa dùng hình ảnh những bộ xương khô được hồi sinh để mặc khải quyền năng sáng tạo và cứu độ của Người nhằm nhắc nhở con cái Ít-ra-en: “Các ngươi sẽ nhận biết chính Ta là Đức Chúa, khi Ta mở huyệt cho các ngươi và đưa các ngươi lên khỏi huyệt, hỡi dân Ta. Ta sẽ đặt thần khí của Ta vào trong các ngươi và các ngươi sẽ được hồi sinh. Ta sẽ cho các ngươi định cư trên đất của các ngươi” (Ed 37,13-14). Trích đoạn những bộ xương khô gợi lại trong chúng ta trình thuật thứ hai về việc Thiên Chúa sáng tạo con người trong sách Sáng Thế (St 2,4-25). Trình thuật này cho chúng ta biết rằng, sau khi Thiên Chúa nặn con người từ bụi đất và thổi sinh khí vào lỗ mũi thì con người trở thành sinh vật có sự sống (St 2,5-7). Như vậy, hơi thở sự sống trong sách Sáng Thế và thần khí sự sống trong sách ngôn sứ Ê-dê-ki-en như là những hình ảnh diễn tả quyền năng trao ban sự sống cách kỳ diệu của Thiên Chúa. Nhìn chung, sau thời lưu đày Ba-by-lon, niềm hy vọng về sự sống lại của dân Do-thái vững mạnh hơn. Từ đây, đức tin vào Thiên Chúa hằng sống được diễn tả cách cụ thể và sâu xa hơn trong niềm xác tín rằng Người có quyền trên sự sống và sự chết, chẳng hạn như: “Trong số những kẻ an nghỉ trong bụi đất, nhiều người sẽ trỗi dậy: Người thì để hưởng phúc trường sinh, kẻ thì để chịu ô nhục và bị ghê tởm muôn đời. Các hiền sĩ sẽ chói lọi như bầu trời rực rỡ, những ai làm cho người người nên công chính, sẽ chiếu sáng muôn đời như những vì sao” (Đn 12,2-3).
Sách Giảng Viên đưa ra những suy tư sâu xa về thân phận mong manh của con người cũng như về những giới hạn của đời sống nhân sinh. Cái chết được xem như mẫu số chung hay định luật phổ quát của con người và muôn vật muôn loài. Thái độ căn bản của con người là đừng quá bận tâm đến việc ky cóp bởi vì chung cuộc là: "Mọi sự đều đi về một nơi, mọi sự đều đến từ bụi đất, mọi sự đều trở về bụi đất" (Gv 3,20). Quan niệm về đời sau cũng như việc thưởng phạt dành cho người lành hay kẻ dữ vẫn chưa được xác định rõ ràng. Vì thế, tác giả khuyên con người hãy biết vui hưởng cuộc sống hiện tại trong tinh thần biết ơn và khôn ngoan. Tuy nhiên, hai câu kết của sách Giảng Viên đã tóm lược toàn bộ nội dung trước đó để nhắc nhở mọi người hãy biết suy xét và chú tâm đến điều cốt yếu trong cuộc đời: “Lời kết luận cho tất cả mọi điều bạn đã nghe ở trên đây là: Hãy kính sợ Thiên Chúa và tuân giữ các mệnh lệnh Người truyền, đó là tất cả đạo làm người, vì Thiên Chúa sẽ đưa ra xét xử tất cả mọi hành vi, kể cả những điều tiềm ẩn, tốt cũng như xấu” (Gv 12,13-14). Như thế, dù sách Giảng Viên chưa khẳng định rõ niềm tin phục sinh nhưng đặt nền tảng cho đạo đức luân lý dựa trên lòng tôn kính Thiên Chúa và ý thức về sự phán xét sau cùng của người.
Câu chuyện về cuộc tử đạo của bảy anh em trong sách Ma-ca-bê quyển thứ hai giúp chúng ta hiểu rõ hơn về việc kẻ chết sống lại, chẳng hạn người con thứ hai nói: “Vua là một tên hung thần, vua khai trừ chúng tôi ra khỏi cuộc đời hiện tại, nhưng bởi lẽ chúng tôi chết vì Luật pháp của Vua vũ trụ, nên Người sẽ cho chúng tôi sống lại để hưởng sự sống đời đời” (2 Mcb 7,9); người con thứ tư nói: “Thà chết vì tay người đời đang khi dựa vào lời Thiên Chúa hứa mà hy vọng sẽ được Người cho sống lại. Còn vua, vua sẽ không được sống lại để hưởng sự sống đâu” (2 Mcb 7,14); người con thứ bảy (con út) nói: “Còn các anh của chúng tôi, sau khi đã chịu cực hình trong giây lát vì lòng trung thành với Giao Ước của Thiên Chúa thì giờ đây đang được hưởng sự sống đời đời. Còn vua, khi Thiên Chúa xét xử, vua sẽ phải chuốc lấy án phạt vì tội kiêu ngạo” (2 Mcb 7,36). Như vậy, người thông hiệp với Thiên Chúa và thực thi lòng trung tín với Người thì dù chết cũng được sống. Điều này có nghĩa rằng cái chết không còn là sự thất bại nhưng là chứng tá đức tin được Thiên Chúa đền đáp bằng sự phục sinh vinh hiển.
Trong Cựu Ước, vua Đa-vít đề cập nhiều về tình yêu của Thiên Chúa đối với những người hiếu trung hay những người công chính, chẳng hạn: "Chúa chẳng đành bỏ mặc con trong cõi âm ty, không để kẻ hiếu trung này hư nát trong phần mộ" (Tv 16,10). Trong sách Tông Đồ Công Vụ, thánh Phê-rô nói: “Vì là ngôn sứ và biết rằng Thiên Chúa đã thề với người là sẽ đặt một người trong dòng dõi trên ngai vàng của người, nên người đã thấy trước và loan báo sự phục sinh của Đức Ki-tô khi nói: Người đã không bị bỏ mặc trong cõi âm ty và thân xác Người không phải hư nát” (Cv 2,30-31). Đa-vít đã nói trong quá khứ nhưng dưới ánh sáng Tân Ước, điều này được thực hiện nơi Đức Giê-su, Đấng sống lại từ cõi chết, mở đường cho những ai đặt hy vọng nơi Người. Khi giảng dạy cho dân Do-thái, thánh Phao-lô nói rằng: "Vua Đa-vít, sau khi phục vụ ý định của Thiên Chúa trong đời ông, đã an nghỉ, đã được chôn cất bên cạnh tổ tiên và phải hư nát. Còn Đấng mà Thiên Chúa đã cho trỗi dậy thì không phải hư nát" (Cv 13,36-37). Như thế, những lời Thánh Vịnh đã nói về sự trung tín và lòng thương xót của Thiên Chúa nơi Đa-vít đã đạt đến sự viên mãn trong Đức Giê-su, Đấng làm cho lời hứa cứu độ trở nên hiện thực và mở ra niềm hy vọng phục sinh cho toàn thể nhân loại.
3. SỰ CHẾT TRONG TÂN ƯỚC
3.1 Đức Giê-su – Đấng Hằng Sống trong cõi chết
Đức Giê-su là Đấng hằng hữu, là Ngôi Lời 'hướng về Thiên Chúa' (πρὸς τὸν Θεόν/ pros ton Theon), nhờ Người mà muôn vật được tạo thành (Ga 1,1-3). Tuy nhiên, vì lòng thương xót nhân loại tội lỗi, Người đã làm người và ở giữa gia đình nhân loại. Thánh Phao-lô viết: "Khi thời gian tới hồi viên mãn, Thiên Chúa đã sai Con mình tới, sinh làm con một người đàn bà, và sống dưới Lề Luật, để chuộc những ai sống dưới Lề Luật, hầu chúng ta nhận được ơn làm nghĩa tử" (Gl 4,4-5). Cũng theo thánh nhân: "Đấng cứu độ chúng ta là Đức Ki-tô Giê-su đã xuất hiện. Chính Đức Ki-tô đã tiêu diệt thần chết, và đã dùng Tin Mừng mà làm sáng tỏ phúc trường sinh bất tử" (2 Tm 1,10). Đối với thánh nhân, chính Đức Giê-su bày tỏ rằng Người là Đấng hằng sống trong cõi chết để tiêu diệt sự chết một lần cho tất cả (Rm 6,9-10).
Quả thật, với sự hiện diện và hoạt động của Đức Giê-su, những mặc khải về Đấng Mê-si-a trong Cựu Ước trở thành hiện thực (Is 11,1-2; Is 61,1-3). Khi thánh Gio-an Tẩy Giả cho người đến hỏi Đức Giê-su có phải Người là Đấng phải đến hay họ còn đợi một ai khác, Đức Giê-su nói: “Các anh cứ về thuật lại cho ông Gio-an những điều mắt thấy tai nghe: Người mù được thấy, kẻ què được đi, người cùi được sạch, kẻ điếc được nghe, người chết trỗi dậy, kẻ nghèo được nghe Tin Mừng” (Lc 7,22). Trong hành trình loan báo Tin Mừng, Đức Giê-su không chỉ chữa bệnh, trừ quỷ cũng như thực thi nhiều dấu lạ khác mà còn làm cho người chết sống lại, chẳng hạn như Người hồi sinh con trai bà góa thành Na-in, con gái ông Gia-ia và La-da-rô (Lc 7,11-17; Lc 8,40-56; Ga 11,1-44). Đây là những dấu chỉ báo trước về sự phục sinh vinh hiển cho những ai gắn bó với Người trong hành trình trần thế bởi vì với biến cố phục sinh, Người đã chiến thắng sự chết và trở nên nguồn ơn cứu độ vĩnh cửu cho mọi người.
Đức Giê-su dùng nhiều hình ảnh hay biểu tượng để diễn tả căn tính, đời sống và sứ mệnh của Người. Một trong những hình ảnh đáng để chúng ta quan tâm nhất là hình ảnh Mục Tử Nhân Lành hiến dâng mạng sống mình vì đoàn chiên (Ga 10,11-18). Chúng ta biết rằng sự chết của mục tử đồng nghĩa với tai họa đến với đoàn chiên, nghĩa là đoàn chiên sẽ bơ vơ, không được dẫn tới những đồng cỏ xanh tươi hay những suối nước trong lành. Sự chết của mục tử đồng nghĩa với việc đoàn chiên sẽ tan tác và tản mác khắp nơi vì mất phương hướng, vì trộm cướp, vì thú dữ cũng như nhiều tai họa khác. Tuy nhiên, với Đức Giê-su Mục Tử Nhân Lành, sự chết của Người đem lại sự sống dồi dào cho đoàn chiên, đó là sự sống vĩnh cửu. Quả thật, nếu Đức Giê-su không tham dự vào sự chết của con người thì con người sẽ không được hưởng ơn cứu độ. Thánh A-tha-na-xi-ô xác quyết: “Người đã mặc lấy một thân xác để trong thân xác ấy, Người có thể gặp và tiêu diệt sự chết. Vì làm sao Chúa có thể được chứng tỏ là Sự Sống, nếu Người không làm cho điều phải chết sống lại?” (Athanasius, On the Incarnation of the Word 44.6). Chính Đức Giê-su đã tới vực thẳm của sự chết để thông phần với mọi người hầu đem lại sự sống dồi dào cho mọi người.
Đức Giê-su không tiếp cận cái chết cách miễn cưỡng. Người ‘không ngạc nhiên’ trước cái chết của mình vì kinh nghiệm lịch sử cho thấy biết bao ngôn sứ và người công chính đã bị giết chết, chẳng hạn như Gio-an Tẩy Giả, người đã bị giết trong khi Đức Giê-su đang loan báo Tin Mừng Nước Thiên Chúa. Cách trực tiếp, Đức Giê-su đã nói trước về cái chết của Người ba lần (Mt 16,21; Mc 9,30–32; Lc 18,31–34). Hơn nữa, trong nhiều dịp khác, Người cũng nói về cái chết cứu độ của Người qua các hình ảnh và biến cố, chẳng hạn như hạt lúa rơi xuống đất, chết đi và sinh nhiều bông hạt mới hay khi thiết lập Bí Tích Thánh Thể (Ga 12,23–24; Lc 22,19–20). Người còn nói rõ hơn rằng: “Cũng như Con Người đến không phải để được người ta phục vụ, nhưng là để phục vụ và hiến dâng mạng sống làm giá chuộc muôn người” (Mt 20,28). Thực ra, những gì liên quan đến sự hiện diện và hoạt động của Đức Giê-su giữa gia đình nhân loại đã được tiên báo trong Cựu Ước. Hàng trăm biến cố trong cuộc đời trần thế của Đức Giê-su đã được ứng nghiệm, chẳng hạn như về sự hiện diện của Người: “Vì một trẻ thơ đã chào đời để cứu ta, một người con đã được ban tặng cho ta. Người gánh vác quyền bính trên vai, danh hiệu của Người là Cố Vấn kỳ diệu, Thần Linh dũng mãnh, Người Cha muôn thuở, Thủ Lãnh hòa bình” (Is 9,5); về cái chết của Người: “Bọn ác đó trong ngoài vây bủa, chúng đâm con thủng cả chân tay, xương con đếm được vắn dài; chúng đưa cặp mắt cứ hoài ngó xem. Áo mặc ngoài chúng đem chia chác, còn áo trong cũng bắt thăm luôn” (Tv 22,17-19).
Lời của Đức Giê-su về cái chết được hiểu theo hai khía cạnh: Vừa phân biệt thân xác và linh hồn, vừa trình bày tính duy nhất của nhân vị: “Anh em đừng sợ những kẻ giết thân xác mà không giết được linh hồn. Đúng hơn, anh em hãy sợ Đấng có thể tiêu diệt cả hồn lẫn xác trong hỏa ngục” (Mt 10,28). Đức Giê-su còn nói cách cụ thể hơn, chẳng hạn như nếu tay, chân, mắt trở nên dịp tội thì chặt tay, chặt chân, móc mắt để được vào cõi sống hơn là có đầy đủ mà bị ném xuống hỏa ngục (γέεννα/ Gehenna), ‘nơi giòi bọ không hề chết và lửa không hề tắt’ (Mc 10,43-48). Đức Giê-su cho mọi người nhận thức về ‘tính toàn vẹn’ của cái chết. Nghĩa là cái chết liên quan đến toàn thể con người, hữu thể nhân linh giữa thế giới thụ tạo. Ngôi vị duy nhất của con người bao gồm thân xác và linh hồn ‘bất khả phân ly’ hay theo ngôn ngữ của Công Đồng Vatican II: “Con người là một chủ thể duy nhất gồm có thể xác và linh hồn” (GS 14). Dĩ nhiên, điều chúng ta cần quan tâm là: Cái chết sinh học làm cho thân xác và linh hồn chia lìa và linh hồn tiếp tục tồn tại. Thời quang lâm, Thiên Chúa phục sinh thân xác và kết hợp lại với linh hồn: "Người công chính ra đi để hưởng sự sống muôn đời, còn kẻ gian ác ra đi để chịu cực hình muôn kiếp" (Mt 25,46).
Cái chết của Đức Giê-su là cái chết ‘vì loài người chúng ta và để cứu độ chúng ta’. Đây là chóp đỉnh của hành trình trút bỏ chính mình, vâng phục thánh ý Chúa Cha, dâng hiến bản thân cho phần rỗi mọi người. Chúng ta có thể nhìn nhận cái chết của Đức Giê-su là hệ quả của hành trình sống mà Người thể hiện kể từ Biến Cố Nhập Thể. Đồng thời, từ cái chết của Người, sự sống trường cửu biểu lộ cho những ai trung tín với Người. Cái chết của Người giúp mọi người có thể nhận thức rõ ràng và đầy đủ hơn về thời gian Người thinh lặng ở làng quê Na-da-rét cũng như trong hành trình loan báo Tin Mừng. Cái chết của Đức Giê-su là ‘cái chết thê thảm’, ‘cái chết bị coi là đúng tội’ xét theo quan điểm của những kẻ tố cáo và hành quyết Người. Tuy nhiên, đối với chương trình của Thiên Chúa thì đó là 'cái chết của con chiên hiền lành bị đem đi giết'. Đó là cái chết không bạo lực, đúng như lời của Thiên Chúa trong sách ngôn sứ I-sai-a: “Bị ngược đãi, người cam chịu nhục, chẳng mở miệng kêu ca; như chiên bị đem đi làm thịt, như cừu câm nín khi bị xén lông, người chẳng hề mở miệng” (Is 53,7).
Là con người, Đức Giê-su phải chết như bao người khác nhưng Người đã chiến thắng sự chết. Người đã chết một lần cho tất cả, để tiêu diệt sự chết như lời của thánh Phao-lô: "Một khi Đức Ki-tô đã sống lại từ cõi chết, thì không bao giờ Người chết nữa, cái chết chẳng còn quyền chi đối với Người. Người đã chết, là chết đối với tội lỗi, và một lần là đủ. Nay Người sống, là sống cho Thiên Chúa" (Rm 6,9-10). Quả thật, Đức Giê-su đến trần gian không phải để làm cho con người khỏi phải chết nhưng giúp con người đi từ cõi chết đến cõi sống theo khuôn mẫu của Người. Điều này có nghĩa rằng, là con người, ai cũng phải chết nhưng Đức Giê-su đã biến đổi 'bản chất cái chết', hầu cho phép con người dù phải chết cũng được sống. Khi sự chết bị đánh bại thì con người được hưởng tự do của con cái Thiên Chúa, nghĩa là được thông hiệp trọn vẹn với Người.
Đức Giê-su liên đới với mọi người trong đời sống cũng như trong cái chết. Ngoại trừ tội lỗi, không có bất cứ điều gì mà con người kinh nghiệm lại nằm ngoài quyền năng của tình yêu Thiên Chúa được Đức Giê-su biểu lộ. Thánh Phao-lô viết: "Khi sai chính Con mình đến mang thân xác giống như thân xác tội lỗi chúng ta để đền tội chúng ta, Thiên Chúa đã lên án tội trong thân xác Con mình" (Rm 8,3). Tác giả thư gửi tín hữu Do-thái viết tương tự: "Vì con cái thì đều chung một huyết nhục, nên Đức Giê-su đã cùng mang lấy huyết nhục đó. Như vậy, nhờ cái chết của Người, Người đã tiêu diệt tên lãnh chúa gây ra sự chết, tức là ma quỷ, và đã giải thoát những ai vì sợ chết mà suốt đời sống trong tình trạng nô lệ" (Dt 2,14-15). Vì A-đam quỵ ngã khi chiều theo cám dỗ của ma quỷ mà tội lỗi thâm nhập trần gian; nhờ Đức Giê-su thưa 'vâng' với Chúa Cha mà con người và muôn vật muôn loài được hưởng ơn cứu độ và được biến đổi.
Các trình thuật Tin Mừng cho chúng ta hiểu rằng những người kết án Đức Giê-su dựa trên những bằng chứng về hoạt động của Người mà họ cho rằng Người đã vi phạm cả luật tôn giáo lẫn dân sự. Chẳng hạn như, về tôn giáo, họ cho rằng Người nói phạm thượng; về dân sự, họ cho rằng Người chống lại chính quyền Rô-ma đang hiện diện ở miền Pa-lét-tin (Ga 10,33; Mc 14,61-64; Lc 23,2; Ga 19,15). Quả thực, Đức Giê-su không phải là nhân vật chính trị như họ tưởng để thay đổi chế độ hiện hành ở Pa-lét-tin; Người cũng chẳng phải là nhân vật tôn giáo để thiết lập những tiêu chuẩn đạo đức luân lý khác với mặc khải của Thiên Chúa trong Cựu Ước. Sự hiện diện và hoạt động của Người không phải để lật đổ hay thay đổi các thể chế chính trị, xã hội, tôn giáo mà là biến đổi các chiều kích của cuộc sống con người cho phù hợp với đường lối của Thiên Chúa. Mục đích tối hậu của Biến Cố Đức Giê-su là khôi phục và thăng tiến phẩm giá con người, thụ tạo được Thiên Chúa yêu thương sáng tạo, cứu độ và giải thoát.
Đức Giê-su chấp nhận cái chết mà Người phải trải qua, đồng thời, Người cho thấy rằng cái chết của Người ứng nghiệm lời của Thiên Chúa trong Cựu Ước là cái chết đem lại ơn cứu độ cho nhân loại. Mặc dù nhìn bên ngoài, cái chết của Đức Giê-su mang tính chính trị và xã hội, nghĩa là liên quan đến những người Rô-ma đang cai trị miền Pa-lét-tin và những người lãnh đạo tôn giáo Do-thái nhưng thực ra, cái chết của Đức Giê-su là cái chết theo chương trình của Thiên Chúa. Cái chết mang tính hoàn vũ vì liên quan đến mọi khía cạnh của con người, tiểu vũ trụ, hữu thể cao cả do Thiên Chúa tạo dựng, ‘chỉ kém thiên thần một chút’ (Tv 8,5-6). Như vậy, Đức Giê-su chấp nhận cái chết để biểu lộ rằng chính Người là Đấng kiện toàn lời của Thiên Chúa trong lịch sử mặc khải (Is 52,13-53,12; Mt 5,17).
Cái chết của Đức Giê-su luôn thẳm sâu, diệu kỳ và nhiệm mầu hơn mọi hình thức biện luận hay chú giải nào, bởi vì: Đấng vô biên lại nghỉ yên trong nấm mộ; Đấng rực rỡ lại bước vào bóng tối; Đấng vượt trội lại đón nhận nỗi tang thương; Đấng là Đường lại thinh lặng trong cõi chết; Đấng trên hết lại cúi xuống tận cùng. Những nghịch lý trong Biến Cố Đức Giê-su giữa gia đình nhân loại thật sâu xa và khôn xiết kể. Làm sao con người có thể lĩnh hội được chương trình mặc khải của Thiên Chúa mà cao điểm là sự hiện diện và hoạt động của Đức Giê-su vì con người, với con người và cho con người? Quả thật, chương trình mặc khải của Thiên Chúa luôn ‘sâu thẳm và dồi dào’ hơn những gì con người có thể tưởng tượng hay hiểu biết. Lời của thánh Phao-lô trong thư gửi tín hữu Rô-ma giúp chúng ta hiểu thêm điều này: “Sự giàu có, khôn ngoan và thông suốt của Thiên Chúa sâu thẳm dường nào! Quyết định của Người, ai dò cho thấu! Đường lối của Người, ai theo dõi được! Thật vậy, ai đã biết tư tưởng của Chúa? Ai đã làm cố vấn cho Người? Ai đã cho Người trước, để Người phải trả lại sau? Vì muôn vật đều do Người mà có, nhờ Người mà tồn tại và quy hướng về Người” (Rm 11,33-36).
Đức Giê-su đã chết và đã đến cõi âm ty. Người đến đó không chỉ để ban sự sống mà còn để minh chứng rằng sự chết đã bị tiêu diệt, không còn hiệu lực đối với Người cũng như những ai thành tâm gắn bó với Người. Sự chết không còn làm chủ con người nữa bởi vì nhờ Người mà con người được giải thoát khỏi vực thẳm tối tăm nhất. Quả thật, Người xuống cõi âm ty không phải với tư cách là nạn nhân bất lực trước sự chết nhưng với tư cách là chính Thiên Chúa, Đấng bước vào vực thẳm tối tăm của thân phận con người để chiếu soi và cứu độ. Người hiện diện để loan báo Tin Mừng chiến thắng sự chết và giải thoát mọi người khỏi thảm cảnh u tối miên trường. Như vậy, tình yêu Thiên Chúa đã hiện diện trong môi trường vắng bóng sự sống, môi trường bị lãng quên, môi trường mà con người không thể ca tụng Thiên Chúa. Đức Giê-su đã nói trước về điều này khi giảng dạy dân chúng: "Giờ đã đến - và chính là lúc này đây - giờ các kẻ chết nghe tiếng Con Thiên Chúa; ai nghe thì sẽ được sống" (Ga 5,25). Chính thánh Phê-rô cũng xác quyết như vậy: "Người đã đến rao giảng cho các vong linh bị giam cầm" (1 Pr 3,19).
3.2 Cái chết của Đức Giê-su trên thập giá
Trong Cựu Ước, trên đường về Đất Hứa, dân Do-thái bị rắn độc cắn vì kêu trách Đức Chúa. Khi Mô-sê cầu xin, Đức Chúa truyền cho ông làm con rắn đồng treo lên cây cột; ai nhìn lên đó thì được cứu sống (Ds 21,4-9). Hình ảnh này tiên báo Đức Giê-su sẽ được giương cao trên thập giá để cứu nhân loại khỏi nọc độc tội lỗi và sự chết. Nếu rắn đồng chỉ chữa lành phần xác thì thập giá Đức Giê-su ban ơn cứu độ đời đời cho con người. Cây thập giá nơi Đức Giê-su được giương cao cũng gợi lại cho chúng ta hình ảnh ‘Cây Biết Điều Thiện và Điều Ác’ trong vườn Ê-đen, nơi A-đam và E-và đã sa ngã. Tại ‘Cây Biết Điều Thiện và Điều Ác’, con người phạm tội còn tại cây thập giá, Đức Giê-su vâng phục hoàn toàn, mang tội trần gian và khai mở sự sống mới cho mọi người. Trong cuộc đối thoại với Ni-cô-đê-mô, Đức Giê-su nói: "Như ông Mô-sê đã giương cao con rắn trong sa mạc, Con Người cũng sẽ phải được giương cao như vậy, để ai tin vào Người thì được sống muôn đời" (Ga 3,14-15). Người cũng nói với dân Do-thái, nhất là các kinh sư chất vấn Người: "Khi các ông giương cao Con Người lên, bấy giờ các ông sẽ biết là Tôi Hằng Hữu [ἐγώ εἰμι], và tôi không tự mình làm điều gì, nhưng nói những điều Chúa Cha đã dạy tôi" (Ga 8,28). Tại Giê-ru-sa-lem, Người nói với đám đông và các môn đệ: "Một khi được giương cao lên khỏi mặt đất, tôi sẽ kéo mọi người lên với tôi" (Ga 12,32).
Không có sự dữ nào lớn lao hơn sự dữ khi con người treo Đức Giê-su, Con Thiên Chúa và là Thiên Chúa, trên thập giá: Thụ tạo đã treo Đấng sáng tạo; con người trong thời gian đã treo Đấng vĩnh cửu; con người hữu hạn đã treo Đấng vô hạn; con người tội lỗi đã treo Đấng chí thánh; con người yếu đuối đã treo Đấng toàn năng; con người phải chết đã treo Đấng hằng sống; con người tối tăm đã treo Đấng ánh sáng; con người dối trá đã treo Đấng sự thật; con người vô minh đã treo Đấng khôn ngoan; con người bất công đã treo Đấng công chính; con người bất an đã treo Đấng bình an; con người vô cảm đã treo Đấng thương xót; con người tù tội đã treo Đấng giải thoát. Quả thật, sự dữ và tội lỗi con người thật lớn lao nhưng lòng thương xót của Thiên Chúa được thực hiện nơi Đức Giê-su còn lớn lao hơn nữa. Lời cầu nguyện của Đức Giê-su với Chúa Cha trên thập giá vẫn luôn vang vọng trong lịch sử gia đình nhân loại: "Lạy Cha, xin tha cho họ, vì họ không biết việc họ làm" (Lc 23,34).
Vinh quang của Thiên Chúa được tỏ bày nơi vực thẳm ghê rợn nhất của thân phận con người: Vực thẳm sự chết. Đây là hình thức vinh quang mà con người mãi mãi không thể hiểu hết được. Tuy nhiên, chúng ta có thể nhận ra mức độ trầm trọng của tội lỗi và hậu quả khôn lường của tội lỗi nơi cái chết của con người. Hậu quả ấy khôn lường đến nỗi Thiên Chúa đã không chọn một phương thế nào khác để cứu độ con người, ngoài việc tham dự trọn vẹn vào thân phận con người, ngay cả trong cái chết, cái chết trên thập giá. Thánh A-tha-na-xi-ô khẳng định: “Ngay cả khi Người chịu chết – kỳ diệu thay, hay đúng hơn, khi Người chiến thắng sự chết trên thập giá – toàn thể tạo vật đã tuyên xưng rằng Đấng đã xuất hiện và chịu khổ trong thân xác không chỉ là người, nhưng là Con Thiên Chúa và Đấng Cứu Thế của mọi người” (Athanasius, On the Incarnation of the Word 19.3). Cũng theo thánh nhân: “Sự hư hoại đã phát sinh không phải từ bên ngoài thân xác, mà đã bám chặt vào nó; do đó, cần thiết phải có sự sống gắn chặt vào thân xác để thay thế sự hư hoại, hầu cho, cũng như sự chết phát sinh trong thân xác, thì sự sống cũng được sinh ra trong đó” (Athanasius, On the Incarnation of the Word 44.4).
Để có thể xuống tận vực thẳm sâu nhất, vực thẳm sự chết mà ai cũng sợ hãi, Đức Giê-su đã bước lên thập giá. Người lên đó và bị người ta thách thức xuống nhưng Người đã không xuống! Quả thật, nếu Đức Giê-su không lên thập giá thì thập giá không thể trở thành thánh giá; nếu Người không lên thập giá thì Người cũng không xuống vực thẳm sự chết. Đức Giê-su gắn kết bản thân Người với hình phạt đau khổ nhất mà con người nghĩ ra để trừng phạt những tội nhân nguy hiểm. Để xuống tới vực thẳm mà kẻ sang người hèn, kẻ giàu người nghèo, kẻ thông minh người dốt nát đều chung số phận, Đức Giê-su đã không quản ngại cái chết đau đớn và thảm thương nhất.
Trong mầu nhiệm cứu độ, Đức Giê-su đã biến đổi ý nghĩa của thập giá: Từ dấu chỉ thất bại trở thành dấu chỉ chiến thắng; từ dấu chỉ yếu đuối trở thành dấu chỉ sức mạnh; từ dấu chỉ chết chóc trở thành dấu chỉ sống động; từ khí cụ tội lỗi trở thành khí cụ tha thứ; từ biểu tượng hận thù trở thành biểu tượng yêu thương. Thập giá, vốn dĩ là hình phạt khủng khiếp nhất trong xã hội Rô-ma, được sử dụng để trừng trị những kẻ phạm trọng tội, đã được Đức Giê-su tự nguyện đón nhận như trung tâm của công trình cứu chuộc. Trong tư cách là Đấng Trung Gian duy nhất, chính Người đã mang vào thân mình mọi tội lỗi, đau khổ và sự chết của nhân loại (1 Tm 2,5; 1 Pr 2,24). Với thập giá, Đức Giê-su nối kết trời với đất, vô hạn với hữu hạn, thời gian với vĩnh cửu, thánh thiện với thế tục. Từ thập giá, các bí tích đem lại ơn cứu độ được thông ban và cho phép con người hòa giải với Thiên Chúa, với nhau và với muôn vật muôn loài.
Quả thật, trong Tân Ước, Đức Giê-su là A-đam mới đã chết trên cây thập giá. Dưới nhãn quan của thánh Phao-lô, chúng ta có thể hiểu rằng, đối với con người, cây thập giá là cây bất tuân nhưng đối với Thiên Chúa là cây vâng phục; đối với con người, cây thập giá là cây thất bại nhưng đối với Thiên Chúa là cây vinh thắng; đối với con người, cây thập giá là cây khờ dại nhưng đối với Thiên Chúa là cây khôn ngoan; đối với con người, cây thập giá là cây đau thương nhưng đối với Thiên Chúa là cây chữa lành. Vì 'Cây Biết Điều Thiện và Điều Ác', con người tự tách mình khỏi Thiên Chúa; nhờ cây thập giá, Thiên Chúa nối kết với con người. Sức mạnh của cây thập giá lớn hơn so với sức mạnh của 'Cây Biết Điều Thiện và Điều Ác' bởi vì cây thập giá đánh bại tội lỗi và hậu quả của tội lỗi mà 'Cây Biết Điều Thiện và Điều Ác' gây nên. 'Cây Biết Điều Thiện và Điều Ác' là dấu chỉ của con người sống mà không màng quan tâm đến sự hiện diện của Thiên Chúa. Trong khi đó, cây thập giá giúp con người nhận biết Thiên Chúa đã cắm lều giữa gia đình nhân loại, đã cắm sâu vào vực thẳm sự chết để đưa mọi người tới sự sống muôn đời.
Sự đau khổ của Đức Giê-su trong hành trình trần thế, nhất là Biến Cố Thập Giá, giúp con người ý thức hơn về thân phận tội lỗi của mình và sức nặng của gia đình nhân loại mà Đức Giê-su phải gánh chịu. Thánh Phao-lô cho chúng ta biết rằng chính Đức Giê-su đã mang lấy tất cả tội lỗi của mọi người và đưa lên cây thập giá: “Chúa đã đặt Người làm hy lễ xá tội nhờ máu của Người cho những ai có lòng tin” (Rm 3,25). Cũng theo ngài: “Nhờ máu Người đổ ra trên thập giá, Thiên Chúa đã đem lại bình an cho mọi loài dưới đất và muôn vật trên trời” (Cl 1,20). Những ai hiệp nhất nên một với Đức Giê-su trong hành trình trần thế thì cũng được hiệp nhất nên một với Người trong Quê Hương Vĩnh Cửu: “Vì chúng ta đã nên một với Đức Ki-tô nhờ được chết như Người đã chết, thì chúng ta cũng sẽ nên một với Người, nhờ được sống lại như Người đã sống lại” (Rm 6,5).
Chúng ta biết rằng nói đến cái chết là nói đến tiễn biệt, chia lìa, mất mát. Tuy nhiên, cái chết của Đức Giê-su lại là cái chết nối kết, cái chết đem lại hoa trái ân phúc bởi vì Người chết để trả lại cho con người sự sống siêu nhiên. Cái chết của mọi người trong gia đình nhân loại là cái chết vì tội, còn cái chết của Đức Giê-su là cái chết vì yêu thương, cái chết vì Giao Ước Mới, cái chết hiệp thông, cái chết đem lại hồng ân vô bờ bến. Thật vậy, nhờ cái chết của Đức Giê-su, mọi người được sống và sống luôn mãi. Thánh Phao-lô khẳng định: “Lương bổng mà tội lỗi trả cho người ta, là cái chết; còn ân huệ Thiên Chúa ban không, là sự sống đời đời trong Đức Ki-tô Giê-su, Chúa chúng ta” (Rm 6,23). Quả thật, tình yêu Thiên Chúa mạnh hơn cái chết và chính tình yêu ấy được tỏ hiện cách cụ thể và chung cuộc nơi Đức Giê-su phục sinh.
3.3 Sự Phục sinh của Đức Giê-su
Giữa lòng trần thế, con người luôn phải đối diện với muôn vàn kẻ thù dưới nhiều hình thức khác nhau mà kẻ thù đáng sợ nhất chính là sự chết. Thánh Phao-lô cho chúng ta biết rằng Đức Giê-su đã chiến thắng mọi sự dữ, mọi thù địch thuộc thế giới ma quỷ, thế gian, xác thịt. Đặc biệt, theo thánh nhân: “Thù địch cuối cùng bị tiêu diệt là sự chết” (1 Cr 15,26). Dưới nhãn quan của ngài, sự sống và sự chết của con người luôn được đặt trong mối tương quan với Đức Giê-su, nghĩa là ai gắn bó với Đức Giê-su trong sự chết thì cũng gắn bó với Người trong sự sống lại. Quả thật, sự chết là sự dữ lớn nhất của con người trong hành trình trần thế và không ai có thể tiêu diệt được, ngoại trừ Đức Giê-su, Con Thiên Chúa, Đấng đã chết trên thập giá và đã sống lại vinh hiển. Nhờ cái chết và sự phục sinh của Đức Giê-su, con người được thừa hưởng sự sống sung mãn mà trí khôn con người chưa bao giờ có thể nghĩ tới.
Con người có thể góp phần trong việc giảm thiểu đau khổ của bản thân cũng như của anh chị em đồng loại nhưng không có khả năng làm cho mình hay người khác khỏi phải chết. Nói cách khác, loại bỏ tận gốc tội lỗi, sự dữ và sự chết không thuộc vào khả năng vốn có của con người. Trước cái chết của La-da-rô, Đức Giê-su nói với cô Mác-ta: "Chính Thầy là sự sống lại và là sự sống. Ai tin vào Thầy, thì dù đã chết, cũng sẽ được sống. Ai sống và tin vào Thầy, sẽ không bao giờ phải chết" (Ga 11,25-26). Việc Đức Giê-su hồi sinh La-da-rô, người đã nằm trong mồ bốn ngày, đã nặng mùi, là dấu chỉ cánh chung, hướng tới sự phục sinh toàn diện của thân xác và linh hồn con người theo khuôn mẫu của Đức Giê-su. Trình thuật Tin Mừng Đức Giê-su theo thánh Gio-an cho chúng ta biết, lần đầu tiên gặp Đức Giê-su, thánh Gio-an Tẩy Giả nói với những người chung quanh: "Đây là Chiên Thiên Chúa, đây Đấng xóa bỏ tội trần gian" (Ga 1,29).
Trong cuộc trò chuyện với Ni-cô-đê-mô, Đức Giê-su nói: "Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một, để ai tin vào Con của Người thì khỏi phải chết, nhưng được sống muôn đời" (Ga 3,16). Theo thánh nhân, tình yêu của Thiên Chúa đối với con người là tình yêu vô điều kiện, ngay cả khi con người ở trong tình trạng thù nghịch với Thiên Chúa, trong tình trạng là tội nhân đáng phải chịu án phạt đời đời (Rm 5,8-10). Tình yêu của Thiên Chúa thể hiện nơi Đức Giê-su là tình yêu bền vững, không thế lực nào có thể chia cắt như lời của thánh Phao-lô với tín hữu Rô-ma: “Ai có thể tách chúng ta ra khỏi tình yêu của Đức Ki-tô? Phải chăng là gian truân, khốn khổ, đói rách, hiểm nguy, bắt bớ, gươm giáo?... Trong mọi thử thách ấy, chúng ta toàn thắng nhờ Đấng đã yêu mến chúng ta” (Rm 8,35-37). Đặc biệt, ngài quả quyết: "Cho dầu là sự chết hay sự sống, thiên thần hay ma vương quỷ lực, hiện tại hay tương lai, hoặc bất cứ sức mạnh nào, trời cao hay vực thẳm hay bất cứ một loài thọ tạo nào khác, không có gì tách được chúng ta ra khỏi tình yêu của Thiên Chúa thể hiện nơi Đức Ki-tô Giê-su, Chúa chúng ta" (Rm 8,38-39).
Chúng ta biết rằng, tự thân, đau khổ và sự chết không có sức cứu độ con người nhưng tình yêu của Đức Giê-su thể hiện qua đau khổ và sự chết mới là điều đáng để mọi người chiêm ngắm và suy niệm. Chính tình yêu đó đã cứu độ con người. Thánh Phao-lô viết: “Thiên Chúa đã đổ tình yêu của Người vào lòng chúng ta, nhờ Thánh Thần mà Người ban cho chúng ta” (Rm 5,5). Cũng theo thánh nhân: “Hầu như không ai chết vì người công chính, họa may có ai dám chết vì một người lương thiện chăng. Thế mà Đức Ki-tô đã chết vì chúng ta, ngay khi chúng ta còn là những người tội lỗi; đó là bằng chứng Thiên Chúa yêu thương chúng ta” (Rm 5,7-8). Đặc biệt, Đức Giê-su đã chiến thắng sự chết và cho phép mọi người được thông phần vào vinh quang của chiến thắng ấy.
Biến cố Đức Giê-su Phục Sinh, biến cố Người chiến thắng sự chết là chóp đỉnh của chương trình cứu độ, đồng thời, cũng là đỉnh cao của việc loan báo Tin Mừng. Thánh Phao-lô khẳng định: "Nếu Đức Ki-tô đã không trỗi dậy, thì lời rao giảng của chúng tôi trống rỗng, và cả đức tin của anh em cũng trống rỗng" (1 Cr 15,14). Thánh nhân cũng tỏ lộ rằng: "Nếu chúng ta đặt hy vọng vào Đức Ki-tô chỉ vì đời này mà thôi, thì chúng ta là những kẻ đáng thương hơn hết mọi người" (1 Cr 15,19). Đặc biệt, thánh nhân diễn tả tương quan của con người với A-đam cũ và A-đam Mới là Đức Giê-su cách đầy đủ và súc tích như sau: "Đức Ki-tô đã trỗi dậy từ cõi chết, mở đường cho những ai đã an giấc ngàn thu. Vì nếu tại một người mà nhân loại phải chết, thì cũng nhờ một người mà kẻ chết được sống lại. Quả thế, như mọi người vì liên đới với A-đam mà phải chết, thì mọi người nhờ liên đới với Đức Ki-tô, cũng được Thiên Chúa cho sống" (1 Cr 15,20-22).
Khi Đức Giê-su là Thiên Chúa đến với con người, khi Đức Giê-su sống thân phận con người, khi Đức Giê-su chịu khổ và chịu chết cũng là khi tình yêu cao cả của Thiên Chúa được biểu lộ viên mãn. Tình yêu Thiên Chúa đối với con người mạnh mẽ đến nỗi phá tan vực thẳm sự chết, cho phép con người hồn xác phân ly trở nên hiệp nhất và biến đổi con người từ thân phận nô lệ tội lỗi trở thành con cái Thiên Chúa. Tình yêu của Thiên Chúa là tình yêu cao cả và vượt thắng tất cả (omnia vincit amor): Tình yêu mạnh mẽ vượt thắng mọi hình thức bóng tối và sự dữ, thắp lên ánh sáng chân lý và mở đường tự do đích thực cho con cái Thiên Chúa. Tình yêu chinh phục mọi chia rẽ, hận thù, ích kỷ, nối kết những gì tan vỡ, chữa lành những vết thương sâu kín trong tâm hồn, biến kẻ xa lạ thành anh em, biến thù địch thành bạn hữu, biến tâm hồn chai đá thành cảm thương. Nói cách khác, thánh ý Thiên Chúa thể hiện nơi Đức Giê-su để cứu độ con người, biến đổi muôn vật muôn loài và dẫn đưa toàn thể vũ trụ tiến tới sự hoàn tất trong vinh quang xán lạn của Nước Thiên Chúa.
Cái chết của Đức Giê-su, cái chết của Con Thiên Chúa trong thân phận con người không phải là kết thúc nhưng trong tiến trình kiện toàn lịch sử cứu độ. Cái chết của Người đánh dấu sự tham dự trọn vẹn của Con Thiên Chúa vào môi trường nhân loại cách sâu xa nhất (Dt 4,15). Đặc biệt, cái chết của Đức Giê-su mở ra cho mọi người một chương mới trong tương quan giữa Thiên Chúa và con người, thụ tạo cao cả nhất của Người. Tác giả sách Khải Huyền trình thuật: “Lúc thấy Người, tôi ngã vật xuống dưới chân Người, như chết vậy. Người đặt tay hữu lên tôi và nói: Đừng sợ! Ta là Đầu và là Cuối. Ta là Đấng Hằng Sống, Ta đã chết, và nay Ta sống đến muôn thuở muôn đời” (Kh 1,17-18). Lời khẳng định của Đức Giê-su vừa mặc khải căn tính của Người, vừa đem lại cho mọi người niềm an ủi giữa hành trình trần thế với muôn thử thách gian truân, nhất là khi phải đối diện với cái chết.
Thánh Lu-ca trình thuật rằng, trong hành trình loan báo Tin Mừng, có người thông luật hỏi Đức Giê-su: "Thưa Thầy, tôi phải làm gì để được sự sống đời đời làm gia nghiệp?" (Lc 10,25). Tương tự như vậy, có một thủ lãnh hỏi Người: “Thưa Thầy nhân lành, tôi phải làm gì để được sự sống đời đời làm gia nghiệp?" (Lc 18,18). Câu trả lời của Đức Giê-su là tuân giữ lề luật, yêu thương anh chị em, thực thi bác ái, nâng đỡ người nghèo khổ và thoát khỏi sự nô lệ của vật chất. Quả thực, con người luôn trăn trở về nguồn gốc đích thực của mình. Nói cách khác, Thiên Chúa đã ghi tạc vào tâm hồn con người niềm khao khát vĩnh cửu, do đó, con người luôn trăn trở với niềm khát khao ấy. Con người không bao giờ thỏa mãn với những gì thuộc thế giới đầy dẫy bất trắc, bất toàn, bất hòa hợp cũng như muôn hình thức bấp bênh khác. Khi con người nhận thức hay đối diện với cái chết cũng là khi con người trào dâng mạnh mẽ khát vọng về vĩnh cửu, nghĩa là con người không còn phải chứng kiến cảnh hợp tan, biến đổi và vô thường của thế gian.
Đức Giê-su là Trưởng Tử sinh ra trước mọi loài thọ tạo và là Trưởng Tử trong số những Người từ cõi chết sống lại (Cl 1,15.18). Do đó, ai ở trong Người đều là 'thụ tạo mới' (2 Cr 5,17). Điều này có nghĩa là ai ở trong Đức Giê-su thì không còn phân biệt sắc tộc, màu da, chính kiến hay bất cứ cách thức phân chia giai cấp nào của xã hội loài người. Thánh Phao-lô khẳng định rõ điều này khi viết: "Cắt bì hay không cắt bì chẳng là gì cả, điều quan trọng là trở nên một thụ tạo mới" (Gl 6,15). Ai ở trong Đức Giê-su thì đã ở trong trật tự mới, trật tự được Người cứu độ và giải thoát. Như vậy, họ không chỉ chờ đợi điều sẽ đến trong tương lai mà đã thực sự sống trong ân sủng của Đấng đã thông phần đau khổ, chịu chết và sống lại. Họ được giải thoát, biến đổi và thông hiệp với Người trong hành trình trần thế hướng về Quê Hương Vĩnh Cửu. Công Đồng Vatican II khẳng định: “Khi Con Thiên Chúa chiến thắng sự chết bằng cái chết và phục sinh, trong nhân tính mà Người kết hợp, Người đã cứu chuộc và biến con người thành một tạo vật mới” (LG 7).
Biến Cố Đức Giê-su không chỉ mang lại ơn cứu độ cho nhân loại trên bình diện cá nhân và cộng đoàn mà còn cho toàn thể vũ trụ, cho muôn vật muôn loài. Điều này có nghĩa là toàn thể thụ tạo được biến đổi theo ý định quan phòng của Thiên Chúa: Tất cả những gì Người đã sáng tạo không bị rơi vào cõi quên lãng nhưng sẽ được biến đổi trong 'trời mới đất mới'. Với thân phận con người, Đức Giê-su đã mang lấy những yếu tố thụ tạo, do đó, Biến Cố Phục Sinh của Người đem lại sự biến đổi toàn diện cho muôn vật muôn loài. Dưới nhãn quan của thánh Phao-lô, vì hậu quả tội lỗi, “muôn loài thọ tạo những ngong ngóng đợi chờ ngày Thiên Chúa mặc khải vinh quang của con cái Người” (Rm 8,19) và "cho đến bây giờ, muôn loài thọ tạo cùng rên siết và quằn quại như sắp sinh nở" (Rm 8,22). Đồng thời, ngài khẳng định rằng muôn vật muôn loài “sẽ được giải thoát, không phải lệ thuộc vào cảnh hư nát, mà được cùng với con cái Thiên Chúa chung hưởng tự do và vinh quang” (Rm 8,21). Sự phục sinh của Đức Giê-su chính là hừng đông của trời mới, đất mới, được tác giả sách Khải Huyền diễn tả (Kh 21,1-4). Nói cách khác, nhờ Biến Cố Đức Giê-su, 'nhân loại mới' (the new humanity) cũng như thụ tạo mới (the new creation) được khai mở và sẽ được kiện toàn viên mãn trong Người.
4. ĐỨC GIÊ-SU – ĐƯỜNG CHIẾN THẮNG SỰ CHẾT
4.1 Đức Giê-su chết cho mọi người
Trước khi bước vào cuộc khổ nạn, Đức Giê-su cho các môn đệ biết Người là Đường (Ga 14,6). Chúng ta có thể khẳng định rằng, Đường của Người là Đường Chiến Thắng Sự Chết. Con Đường ấy thật huyền nhiệm, bởi vì: Đấng thuộc thượng giới lại sống trọn thân phận hạ giới; Đấng dựng nên muôn loài lại không có chỗ tựa đầu; Đấng toàn năng lại chấp nhận cảnh cùng cực; Đấng chí thánh lại chịu sỉ nhục dưới tay phường tội lỗi; Đấng rạng ngời vinh quang lại đi vào cơn đau thương tột độ; và cuối cùng, Đấng là Thiên Chúa lại chịu chết dưới bàn tay con người. Nói cách khác, Đức Giê-su là Đấng toàn năng, toàn thiện, toàn mỹ mà lại tự nguyện trở thành tôi tớ, mang lấy tội lỗi và chịu cảnh ô nhục thập giá vì ơn cứu độ của mọi người trong gia đình nhân loại.
Như đề cập ở trên, tự thân, con người không thể chiến thắng các thế lực bóng tối hay mãnh lực ma quỷ, thế gian, xác thịt. Tuy nhiên, trong Đức Giê-su, ai cũng có thể chiến thắng. Thánh Gio-an viết: “Mọi kẻ đã được Thiên Chúa sinh ra đều thắng được thế gian. Và điều làm cho chúng ta thắng được thế gian, đó là lòng tin của chúng ta. Ai là kẻ thắng được thế gian, nếu không phải là người tin rằng Đức Giê-su là Con Thiên Chúa?” (1 Ga 5,4-5). Viết thư cho tín hữu Cô-lô-xê, thánh Phao-lô căn dặn họ về quyền năng của Đức Giê-su: “Người đã truất phế các quyền lực thần thiêng, đã công khai bêu xấu chúng, đã điệu chúng đi trong đám rước khải hoàn của Người" (Cl 2,15). Đối với thánh Phao-lô, Đức Giê-su thể hiện sức mạnh và sự khôn ngoan của Thiên Chúa, hầu giúp con người vượt qua mọi chướng ngại hay rào cản ngăn cách họ với Thiên Chúa.
Điểm căn bản phân biệt giữa cái chết của Đức Giê-su và cái chết của mọi người trong gia đình nhân loại là Người chết không phải vì Người tội lỗi mà vì Người mang lấy tội lỗi, mang lấy sự chết của mọi người hầu tiêu diệt sự chết và đem lại sự sống vĩnh cửu cho những ai thiết lập tương quan mật thiết với Người. Theo thánh Tô-ma A-qui-nô: “Đức Ki-tô, nhờ cái chết của mình, đã đem chúng ta trở về với sự sống, khi chính nhờ cái chết ấy mà Người phá hủy sự chết của chúng ta; cũng như người gánh lấy hình phạt của kẻ khác thì lấy đi hình phạt ấy cho họ” (Thomas Aquinas, Summa Theologiae III, q.50, a.1). Công Đồng Vatican II khẳng định: “Nhờ Chúa Ki-tô và trong Chúa Ki-tô bí ẩn về đau khổ và sự chết được sáng tỏ, bí ẩn đó đè bẹp chúng ta nếu chúng ta không biết đến Phúc Âm. Chúa Ki-tô đã sống lại nhờ sự chết của mình. Người đã hủy diệt sự chết và Người đã ban cho ta dồi dào sự sống để là con cái trong Chúa Con chúng ta kêu lên trong Thánh Thần: Abba, lạy Cha!” (GS 22). Như vậy, những khắc khoải về thân phận và định mệnh con người đã được soi sáng, bởi vì trong Đức Giê-su, nhân loại tìm thấy nguồn sống vô tận và hy vọng vĩnh cửu.
Vì là Đấng vĩnh cửu, tình yêu của Đức Giê-su đối với con người là tình yêu vĩnh cửu, tình yêu vô tiền khoáng hậu trong lịch sử nhân loại. Tương tự như vậy, sự hiệp thông liên đới của Người đối với con người cũng là sự hiệp thông liên đới vĩnh cửu. Nếu không có tình yêu và sự hiệp thông vĩnh cửu được thể hiện qua sự trút bỏ, đau khổ, chết và phục sinh của Đức Giê-su, con người sẽ phải chết đời đời. Chiến thắng vinh quang của Đức Giê-su trước sự chết là nền tảng và bảo chứng cho sự phục sinh cũng như sự sống vĩnh cửu của con người. Nói cách khác, nhờ Đức Giê-su là Con vĩnh cửu của Thiên Chúa đến trần gian mà con người mới có thể thoát khỏi án phạt là sự chết đời đời.
Đau khổ ngược lại với phẩm giá con người nhưng Thiên Chúa lại khôi phục phẩm giá con người qua cuộc khổ nạn và phục sinh của Đức Giê-su. Công Đồng Vatican II khẳng định: “Nếu thiếu căn bản là Thiên Chúa và thiếu niềm hy vọng vào đời sống trường cửu thì phẩm giá con người sẽ bị tổn thương cách trầm trọng như thường thấy ngày nay, và những bí ẩn về sự sống, sự chết, về tội lỗi và đau khổ vẫn không giải đáp được, như thế con người nhiều khi rơi vào tuyệt vọng” (GS 21). Nhờ Đức Giê-su, đau khổ, vốn là dấu chỉ của tang thương trong cái nhìn nhân loại, lại trở nên dấu chỉ của hy vọng. Tác giả sách Khải Huyền khẳng định rằng tiếng nói cuối cùng của lịch sử nhân loại là tiếng nói của ánh sáng, ơn chữa lành và sự sống chứ không phải là tiếng nói của bóng tối, đau khổ hay sự chết, bởi vì những ai tin tưởng, yêu mến và thực thi thánh ý Thiên Chúa thì “Thiên Chúa sẽ lau sạch nước mắt họ. Sẽ không còn sự chết; cũng chẳng còn tang tóc, kêu than và đau khổ nữa, vì những điều cũ đã biến mất” (Kh 21,4). Như vậy, chính đau khổ của Đức Giê-su, với cao điểm là Biến Cố Vượt Qua của Người, là câu trả lời đầy đủ nhất cho câu hỏi về đau khổ.
Chiến thắng của Đức Giê-su trên sự chết mang lại ơn cứu độ cho mọi người, trong mọi thời và khắp mọi nơi. Nói cách khác, chương trình của Thiên Chúa mà Đức Giê-su thực hiện là chương trình cứu độ phổ quát. Thánh Phao-lô viết: "Đức Ki-tô đã chết thay cho mọi người, để những ai đang sống không còn sống cho chính mình nữa, mà sống cho Đấng đã chết và sống lại vì mình" (2 Cr 5,15). Cũng theo thánh nhân: "Thật vậy, chỉ có một Thiên Chúa, chỉ có một Đấng trung gian giữa Thiên Chúa và loài người: đó là một con người, Đức Ki-tô Giê-su, Đấng đã tự hiến làm giá chuộc mọi người" (1 Tm 2,5-6). Thánh Tô-ma A-qui-nô khẳng định: “Cách xứng hợp nhất để đền thay cho người khác là tự nguyện gánh lấy hình phạt mà người kia đáng chịu” (Thomas Aquinas, Summa Theologiae III, q.50, a.1). Ngài trình bày năm lý do chính yếu giải thích vì sao Đức Giê-su đã chịu chết vì con người, đó là: (1) Để đền tội cho mọi người trong gia đình nhân loại; (2) để minh chứng rằng Người đã nhập thể; (3) để giải thoát con người khỏi sợ sự chết; (4) để nêu gương cho mọi người biết phải chết đối với tội cách thiêng liêng và (5) để biểu lộ quyền năng của Thiên Chúa cũng như khơi dậy niềm hy vọng sống lại của con người (Thomas Aquinas, Summa Theologiae III, q.50, a.1).
Trong Diễn Từ Bánh Hằng Sống, khi dân Do-thái cũng như một số môn đệ theo Đức Giê-su cảm thấy chướng tai vì những lời về việc ăn Thịt và uống Máu Người nên bỏ đi, Người hỏi Nhóm Mười Hai: "Cả anh em nữa, anh em cũng muốn bỏ đi hay sao?" (Ga 6,67). Nhân danh Nhóm Mười Hai, thánh Phê-rô trả lời: “Thưa Thầy, bỏ Thầy thì chúng con biết đến với ai? Thầy mới có những lời đem lại sự sống đời đời” (Ga 6,68). Sau này, thánh Gio-an Tông Đồ viết trong thư của ngài: “Chúng tôi loan báo cho anh em sự sống đời đời: Sự sống ấy vẫn hướng về Chúa Cha và nay đã được tỏ bày cho chúng tôi” (1 Ga 1,2). Như đề cập ở trên, nỗi sợ hãi trước sự chết luôn là nỗi sợ lớn nhất của mọi người. Đó là lý do tại sao nhiều người không muốn nói tới hay nghe từ ‘chết’. Thay vào đó, họ đắm mình trong nhiều hình thức tiêu khiển và sống theo kiểu ‘như không bao giờ phải chết’. Chính sự sống lại của Đức Giê-su là bằng chứng hữu hiệu nhất cho những lời rao giảng và các dấu chỉ mà Người thực hiện để minh chứng rằng Nước Thiên Chúa đã hiện diện giữa trần gian. Sự sống lại của Người là nền tảng vững chắc cho mỗi người về sự sống đời đời trong Nước Thiên Chúa.
Như đề cập ở trên, trong Cựu Ước, sự sống lại của con người được quan tâm nhiều hơn trong những thế kỷ gần với Biến Cố Đức Giê-su giữa gia đình nhân loại. Nhờ Đức Giê-su, Đấng mang lấy thân phận con người, mang lấy xác phàm, đặc biệt, nhờ Người chịu chết và phục sinh mà con người mới có được bức tranh rõ ràng và đầy đủ hơn về tương lai của mình. Điều này có nghĩa rằng con người không chỉ được 'sống lại về phần linh hồn’ mà còn được 'sống lại về phần xác’ theo khuôn mẫu Đấng phục sinh. Với cái chết, hồn xác con người tách biệt. Trong thời cánh chung, Thiên Chúa cho hồn xác con người được kết hợp vĩnh viễn. Công Đồng Vatican II giải thích như sau: “Thân xác là phần bản thể của thực tại duy nhất là con người. Con người không gồm có hai phần: Xác và hồn, nhưng con người là xác và hồn. Ta còn có thể nói con người là thân xác này bởi vì nếu chưa có hồn thì cũng chưa phải là thân xác này, mà chỉ là một đống vật chất chưa thành thể” (GS 14, chú thích 18*). Nhờ Đức Giê-su chịu chết và phục sinh, sự ngăn cách giữa xác và hồn không còn nữa, bởi vì Người đã bắc nhịp cầu qua thung lũng sự chết để nối kết con người phải chết với Thiên Chúa hằng sống.
Người tin tưởng vào Thiên Chúa thì luôn ý thức rằng không có tội lỗi nào lớn hơn lòng thương xót của Thiên Chúa; không có hình thức hận thù nào lớn hơn tình yêu của Thiên Chúa; không có bóng tối nào che phủ ánh sáng của Thiên Chúa; không có nỗi thất vọng nào lớn hơn niềm hy vọng Thiên Chúa trao ban; không có quyền năng nào lớn hơn quyền năng cứu độ của Thiên Chúa; không có chương trình của thế lực sự dữ nào lớn hơn chương trình ân sủng của Thiên Chúa. Quả thật, con người không bao giờ thỏa mãn với bất cứ điều gì kém hơn chính Thiên Chúa. Nói cách khác, khát vọng sâu xa của con người chỉ được thỏa mãn trong chính Thiên Chúa, chứ không phải trong bất cứ thực tại nào khác. Đó là lý do tại sao, trong tác phẩm Tự Thuật, thánh Au-gút-ti-nô viết: "[Lạy Chúa] Ngài đã dựng nên chúng con cho Ngài nên lòng chúng con xao xuyến cho đến khi được nghỉ yên trong Ngài" (Augustine, Confessions I.1.1).
4.2 Sống theo đường chiến thắng sự chết
Lời cuối cùng của Đức Giê-su với các môn đệ trước khi bước vào cuộc khổ nạn trong trình thuật Tin Mừng theo thánh Gio-an là: “Can đảm lên! Thầy đã thắng thế gian” (Ga 16,33). Đây vừa là ‘lời từ biệt’, đồng thời cũng là ‘lời an ủi’ của Đức Giê-su đối với các môn đệ thân thương của Người. Quả thật, ma quỷ, thế gian, xác thịt có thể hoành hành trong dòng lịch sử thế giới thụ tạo cũng như trong lịch sử gia đình nhân loại nhưng sự hoành hành đó có giới hạn bởi vì chiến thắng cuối cùng là chiến thắng của Đức Giê-su chứ không phải là chiến thắng của bất cứ thế lực thù địch nào khác đối với con người. Đây vừa là niềm vui và là niềm hy vọng cho những ai đi trên Đường của Người trong hành trình trần thế này.
Thông thường, người ta nói chết là được 'lên thiên đàng' hay phải 'xuống hỏa ngục'. Tuy nhiên, thánh Phao-lô giúp chúng ta nhận thức rằng vấn đề 'sống' và 'chết' là vấn đề 'gặp' hay 'không gặp Đức Giê-su'. Trong thư gửi tín hữu Phi-líp-phê, ngài viết: "Nếu sống ở đời này mà công việc của tôi được sinh hoa kết quả, thì tôi không biết phải chọn đàng nào. Vì tôi bị giằng co giữa hai đàng: Ao ước của tôi là ra đi để được ở với Đức Ki-tô, điều này tốt hơn bội phần: Nhưng ở lại đời này thì cần thiết hơn, vì anh em" (Pl 1,22-24). Tương tự như vậy, trong thư thứ nhất gửi tín hữu Thê-xa-lô-ni-ca, thánh nhân viết: "Chúng ta tin rằng Đức Giê-su đã chết và đã sống lại, thì chúng ta cũng tin rằng những người đã an giấc trong Đức Giê-su sẽ được Thiên Chúa đưa về cùng Đức Giê-su" (1 Tx 4,14). Như vậy, điều chúng ta cần quan tâm không phải là nơi chốn (Where) mà là Con Người (Who); không phải là không gian hay thời gian mà là 'gặp hay không gặp' Đức Giê-su ở đời này để được 'gặp hay không gặp' Người trong Quê Hương Vĩnh Cửu.
Nhờ Đức Giê-su, Con Thiên Chúa trong thân phận con người mà chúng ta ý thức sâu xa hơn về phẩm giá cao quý của mình. Theo Công Đồng Vatican II: “Nơi Người bản tính nhân loại đã được mặc lấy chứ không bị tiêu diệt, do đó chính nơi chúng ta nữa bản tính ấy cũng được nâng lên tới một phẩm giá siêu việt. Bởi vì, chính Con Thiên Chúa khi nhập thể, một cách nào đó đã kết hợp với tất cả mọi người" (GS 22). Đặc biệt, nhờ sự phục sinh của Người, chúng ta nhận ra tình yêu vô biên của Thiên Chúa, Đấng biến đổi con người từ thân phận phải chết trở thành nghĩa tử và cho cho chúng ta được thông hiệp với Người. Thánh Phao-lô viết: “Thật vậy, anh em đã chết, và sự sống mới của anh em hiện đang tiềm tàng với Đức Ki-tô nơi Thiên Chúa” (Cl 3,3). Công Đồng Vatican II đã khẳng định: "Mầu nhiệm về con người chỉ thực sự được sáng tỏ trong mầu nhiệm Ngôi Lời nhập thể" (GS 22). Quả thật, ngoài Ngôi Lời nhập thể, chịu chết và phục sinh, con người không thể hiểu được chính mình cũng như không thể đạt được bình an và hạnh phúc như lòng hằng mong muốn.
Mặc khải Ki-tô Giáo cho chúng ta biết rằng tự do là một trong những đặc tính cao quý nhất của con người. Ai tự do hành động theo chương trình của Thiên Chúa, người đó được sống; ai từ chối hành động theo chương trình của Thiên Chúa, người đó phải chết. Nói cách khác, sự sống đời đời hay sự chết đời đời tùy thuộc vào sự tự do chọn lựa của con người để cộng tác hay không cộng tác vào chương trình tình yêu của Thiên Chúa được Đức Giê-su thực hiện. Trong cuộc đối thoại với Ni-cô-đê-mô, Đức Giê-su diễn tả rất rõ về điểm này khi nói: “Thiên Chúa sai Con của Người đến thế gian, không phải để lên án thế gian, nhưng là để thế gian, nhờ Con của Người, mà được cứu độ” (Ga 3,17). Do đó, tự do của con người không chỉ liên quan đến việc chọn lựa mà còn liên quan đến tâm tình ‘xin vâng’ trước sáng kiến cứu độ của Thiên Chúa trong Đức Giê-su.
Như đề cập ở trên, hy vọng sống và sống dồi dào luôn ở tận cõi thâm sâu của con người bởi vì không ai thỏa mãn với cuộc sống của mình nếu kết thúc bởi cái chết. Giữa dòng đời đầy biến động, con người phải đối diện với muôn hình thức giới hạn, khổ đau, bất toàn. Thánh Phao-lô diễn tả tình trạng ấy bằng hình ảnh 'chiếc lều' tạm bợ của thân xác: “Bao lâu còn ở trong chiếc lều này, chúng ta rên siết, khổ tâm vì không muốn cởi bỏ cái này, nhưng lại muốn trùm thêm lên mình cái kia, để cho cái phải chết tiêu tan trong sự sống” (2 Cr 5,4). Hình ảnh này nói lên thân phận mong manh, hữu hạn, dễ bị tổn thương của con người. Chiếc lều thân xác vừa là nơi nương náu, vừa là biểu tượng của sự tạm thời, mở ra nỗi khao khát sâu xa về sự sống viên mãn. Chính trong những căng thẳng và giới hạn không ngừng ấy, người Ki-tô hữu cảm nhận niềm hy vọng cánh chung: Mong được 'mặc lấy' thân xác được biến đổi toàn diện, thân xác mới, thân xác vinh hiển theo khuôn mẫu Đấng Phục Sinh. Đây là nỗi khát vọng sâu xa về ơn cứu độ mà Đức Ki-tô đã khai mở qua cuộc thương Khó, sự chết và phục sinh của Người.
Nhờ Bí Tích Rửa Tội, các Ki-tô hữu chia sẻ sự sống của Đức Giê-su cũng như những đau khổ và vinh quang của Người. Tuy nhiên, họ luôn trông đợi sự kiện toàn viên mãn của ơn cứu độ trong thời cánh chung. Biến Cố Đức Giê-su trong lịch sử nhân loại vẫn tiếp diễn. Do đó, các Ki-tô hữu sống trong diễn tiến năng động và đầy ân sủng của Biến Cố Đức Giê-su, biến cố 'rồi mà chưa' (already but not yet/ déjà mais pas encore): 'Rồi' bởi vì Đức Giê-su đã sống thân phận con người, chịu nhiều đau khổ, chịu chết, phục sinh, lên trời để tiêu diệt sự chết do tội lỗi và trao ban sự sống vĩnh cửu cho con người; 'chưa' bởi vì trong hành trình trần thế, các Ki-tô hữu còn mong đợi 'Biến Cố Cánh Chung' khi Thiên Chúa quy tụ con người và muôn vật muôn loài trong Đức Giê-su. Ai gặp gỡ Đức Giê-su là Đường Chiến Thắng Sự Chết thì cũng nhận ra những giới hạn và bất toàn của bản thân cũng như ý thức rằng mình cần cộng tác với Người trong việc biến đổi nội tâm để ngày càng được hoàn thiện hơn trong hành trình theo Người.
Người Ki-tô hữu đích thực là người biết luôn quy hướng tâm trí về tình yêu của Thiên Chúa và làm cho tình yêu đó trở thành động lực của tư tưởng, lời nói và việc làm trong mọi hoàn cảnh. Thánh Phao-lô nhắc nhở các Ki-tô hữu: “Anh em đừng có rập theo đời này, nhưng hãy cải biến con người anh em bằng cách đổi mới tâm thần, hầu có thể nhận ra đâu là ý Thiên Chúa: cái gì là tốt, cái gì đẹp lòng Chúa, cái gì hoàn hảo” (Rm 12,2). Để có thể cộng tác với Đức Giê-su trong việc chiến thắng sự chết, mọi người được mời gọi cộng tác với Người trong việc chiến thắng bản thân, chiến thắng 'cái tôi' của mình để ngày càng được biến đổi hầu có thể 'đồng hình đồng dạng' với Đức Giê-su hơn. Thánh Phao-lô nhắc nhở tín hữu Rô-ma cũng như mọi người trong mọi thời và khắp mọi nơi: "Đừng để cho sự ác thắng được mình, nhưng hãy lấy thiện mà thắng ác” (Rm 12,21). Như thế, đời sống Ki-tô hữu đích thực là hành trình liên lỉ để tình yêu Đức Giê-su chiếm hữu con tim, biến đổi nội tâm và hướng dẫn toàn bộ đời sống, trên đường hướng về chiến thắng tối hậu là chiến thắng sự chết.
Kinh nghiệm lịch sử cho chúng ta nhận thức rằng con người là 'hữu thể tương quan'. Trong vũ trụ, không có thực thể nào là tự hữu. Bởi vì, muôn vật muôn loài được Thiên Chúa sáng tạo, hướng dẫn và đưa vào hoạt động như lời của thánh Phao-lô đối với những người Hy-lạp: "Chính ở nơi Người mà chúng ta sống, cử động và hiện hữu, như một số thi sĩ của quý vị đã nói: Chúng ta cũng thuộc dòng giống của Người" (Cv 17,28). Là con người, ai cũng biết rằng mình lệ thuộc người khác: Nhờ người khác mà mình được lớn lên về mọi phương diện; nhờ người khác mà mình mới thật là mình; nhờ người khác mà tầm nhìn của mình được rộng mở hơn. Đặc biệt, thánh Phao-lô mời gọi mọi người luôn quy hướng về Thiên Chúa và luôn ý thức rằng: “Không ai trong chúng ta sống cho chính mình, cũng như không ai chết cho chính mình. Chúng ta có sống là sống cho Chúa, mà có chết cũng là chết cho Chúa. Vậy, dù sống, dù chết, chúng ta vẫn thuộc về Chúa” (Rm 14,7-8).
Ki-tô hữu là người biết 'sống cho', 'sống vì' và 'sống với' Thiên Chúa, tha nhân và muôn loài. Trong thư gửi tín hữu Cô-lô-xê, thánh Phao-lô viết: "Anh em đã được trỗi dậy cùng với Đức Ki-tô, hãy tìm kiếm những gì thuộc thượng giới, nơi Đức Ki-tô đang ngự bên hữu Thiên Chúa. Hãy hướng lòng trí về những gì thuộc thượng giới, chứ đừng chú tâm vào những gì thuộc hạ giới. Vì anh em đã chết, và sự sống của anh em hiện đang tiềm tàng với Đức Ki-tô nơi Thiên Chúa” (Cl 3,1-3). Như vậy, Ki-tô hữu là người biết 'nhìn lên' Thiên Chúa trong mọi hoàn cảnh để có thể 'nhìn xuống' tận sâu thẳm của lòng mình hầu có thể sống đời hòa hợp với Thiên Chúa, với anh chị em và với toàn thể thụ tạo.
4.3 Loan báo Tin mừng đường chiến thắng sự chết
Trong thư gửi môn đệ và là bạn đồng hành của mình là Ti-mô-thê, thánh Phao-lô tóm lược Biến Cố Đức Giê-su như sau: “Đức Ki-tô xuất hiện trong thân phận người phàm, được Chúa Thánh Thần chứng thực là công chính; Người được các thiên thần chiêm ngưỡng, và được loan truyền giữa muôn dân; Người được cả hoàn cầu tin kính, được siêu thăng cõi trời vinh hiển” (1 Tm 3,16). Quả thật, chưa từng có một nhân vật nào trong lịch sử nhân loại mà sự xuất hiện được tiên báo từ trước, sứ mệnh lại bao trùm, chạm đến mọi người và lan rộng khắp nơi như Đức Giê-su. Sứ mệnh cứu độ của Đức Giê-su được tiếp tục thể hiện bởi các môn đệ của Người bởi vì sứ mệnh này thuộc bản chất của những ai đón nhận Đức Giê-su là Thầy và là Bạn của mình trong hành trình trần thế. Điều này có nghĩa rằng ai là môn đệ Đức Giê-su (gắn bó và học từ Người) thì cũng là tông đồ của Người (loan báo Tin Mừng); là 'Ki-tô hữu' nghĩa là 'loan báo Tin Mừng'. Do đó, 'ra đi loan báo Tin Mừng Đức Giê-su' không còn là khẩu hiệu trừu tượng mà là sứ mệnh gắn bó với đời sống hằng ngày của các Ki-tô hữu.
Trong bối cảnh Tân Ước, nội dung của việc loan báo Tin Mừng thật đa diện, chẳng hạn như: ‘Loan báo Nước Thiên Chúa’ (Lc 9,2), ‘loan báo Tin Mừng Nước Trời’ (Mt 4,23), ‘loan báo Đức Giê-su’ (Cv 9,20), ‘loan báo Đức Ki-tô’ (Cv 8,5), ‘loan báo nhân danh Chúa’ (Cv 9,28), ‘loan báo Lời Thiên Chúa’ (Cv 6,2), ‘loan báo về thập giá Đức Giê-su’ (1 Cr 1,18), ‘loan báo một Đấng Ki-tô bị đóng đinh’ (1 Cr 1,23), ‘loan báo Đức Ki-tô đã từ cõi chết chỗi dậy’ (1 Cr 15,11), ‘loan báo Đức Ki-tô Giê-su là Chúa’ (2 Cr 4,5), ‘loan báo Lời Thiên Chúa’ (Pl 1,14), ‘làm chứng cho Lời Thiên Chúa và cho Đức Giê-su’ (Kh 1,9), ‘loan báo Lời đem lại sự sống đời đời’ (Ga 6,68). Buổi đầu loan báo Tin Mừng, tại nhà ông Co-nê-li-ô, thánh Phê-rô nói: “Người truyền cho chúng tôi phải rao giảng cho dân, và long trọng làm chứng rằng chính Người là Đấng Thiên Chúa đặt làm thẩm phán, để xét xử kẻ sống và kẻ chết. Tất cả các ngôn sứ đều làm chứng về Người và nói rằng phàm ai tin vào Người thì sẽ nhờ danh Người mà được ơn tha tội” (Cv 10,42-43). Nói cách khác, Tin Mừng Đức Giê-su là Tin Mừng tình yêu, chứ không phải hận thù; là tha thứ, chứ không phải luận phạt; là hy vọng, chứ không phải thất vọng; là hừng đông xán lạn, chứ không phải hoàng hôn ảm đạm; là sự sống, chứ không phải sự chết.
Ngay từ buổi sơ khai, các môn đệ Đức Giê-su đã ý thức về sự cần thiết phải làm cho Đức Giê-su và Tin Mừng của Người được lan tỏa. Nội dung chính yếu của ‘Lời loan báo tiên khởi’ (Κήρυγμα/ Kerygma) là: Thiên Chúa yêu thương con người; Đức Giê-su, Con Yêu Dấu của Thiên Chúa, đã chịu chết vì con người; Người được mai táng và ngày thứ ba chỗi dậy như lời Kinh Thánh; Người chiến thắng sự chết và hiện ra với Phê-rô và các tông đồ cùng nhiều người khác; ai tin vào Người thì được cứu độ (Cv 2,22-24; Cv 10,39–43; 1 Cr 15,3–5). Do đó, mọi người được mời gọi hoán cải và cộng tác vào chương trình cứu độ của Thiên Chúa được Đức Giê-su thực hiện. Thánh Phao-lô mời gọi tín hữu Thê-xa-lô-ni-ca: “Xin anh em cầu nguyện cho chúng tôi, để lời Chúa được phổ biến mau chóng và được tôn vinh, như đã thấy nơi anh em” (2 Tx 3,1). Do đó, việc nhận diện Đức Giê-su là Đường Chiến Thắng Sự Chết giúp các Ki-tô hữu ý thức hơn về căn tính, đời sống và sứ mệnh của mình giữa gia đình nhân loại.
Buổi đầu loan báo Tin Mừng, ưu tiên của các môn đệ không phải là đưa ra những tiên đề hay luận điểm cao siêu về mặc khải Ki-tô Giáo. Loan báo Tin Mừng là giúp mọi người gặp gỡ Đức Giê-su, Con Thiên Chúa trong thân phận con người, Đấng đã chịu đau khổ, chịu chết, sống lại và lên trời để ban ơn cứu độ và giải thoát con người khỏi ách nô lệ tội lỗi và sự chết. Lời đầu tiên của Đức Giê-su trong khi loan báo Tin Mừng công khai là: “Thời kỳ đã mãn, và Triều Đại Thiên Chúa đã đến gần. Anh em hãy sám hối và tin vào Tin Mừng” (Mc 1,15). Đây không phải là lời mời gọi trừu tượng nhưng là lời mời gọi hướng về trái tim của con người, lời mời gọi hoán cải nội tâm để có thể đón nhận và sống trong ‘thực tại mới’ là Nước Thiên Chúa, thực tại mà Người vừa loan báo, vừa minh chứng bằng chính đời sống đượm tình yêu thương và nhân ái mà đỉnh cao là chiến thắng của Người trên thập giá để cứu độ và giải thoát con người.
Ai đón nhận và sống theo Đường Đức Giê-su, Đường Chiến Thắng Sự Chết, thì được mời gọi cộng tác với Đức Giê-su trong việc loan báo Tin Mừng cho anh chị em mình. Trong lời từ biệt, thánh Phao-lô nói với tín hữu Ê-phê-xô tại Mi-lê-tô: “Mạng sống tôi, tôi coi thật chẳng đáng giá gì, miễn sao tôi chạy hết chặng đường, chu toàn chức vụ tôi đã nhận từ Chúa Giê-su, là long trọng làm chứng cho Tin Mừng về ân sủng của Thiên Chúa” (Cv 20,24). Đối với thánh nhân, làm chứng cho Đức Giê-su và Tin Mừng của Người vừa là bổn phận, vừa là biểu hiện của tình yêu mà ngài dành cho Đấng đã kêu gọi ngài từ bỏ con đường cũ, con đường dẫn tới sự chết, để đi trên Đường Mới, Đường Chiến Thắng Sự Chết. Quả thật, Tin Mừng Đức Giê-su Phục Sinh, Tin Mừng về Người Chiến Thắng Sự Chết, là Tin Mừng lớn lao nhất cho toàn thể gia đình nhân loại.
Là Ki-tô hữu, nói đến loan báo Tin Mừng là nói đến việc làm chứng (μαρτυρία/ witness, testimony, evidence) cho Đức Giê-su, Đấng đã trút bỏ chính mình vì mọi người (Pl 2,7). Trong lịch sử cứu độ, từ Cựu Ước đến Tân Ước, biết bao người đã hy sinh mạng sống để chương trình cứu độ của Thiên Chúa được thực hiện. Tác giả thư gửi tín hữu Do-thái viết: “Có những phụ nữ đã thấy thân phận mình chết nay sống lại. Có những người bị tra tấn mà không muốn được giải thoát, để được hưởng một sự sống lại tốt đẹp hơn. Có những người phải chịu nhạo cười và roi vọt, hơn nữa còn bị xiềng xích và bỏ tù; họ bị ném đá, bị cưa đôi, bị chết vì gươm; họ phải lưu lạc, mặc áo da cừu da dê, chịu thiếu thốn, bị áp bức và hành hạ. Thế gian chẳng xứng với họ!” (Dt 11,35-38). Ở đây tác giả ám chỉ một số chứng nhân đức tin thời Cựu Ước, chẳng hạn như người phụ nữ và bảy người con tử đạo trong sách Ma-ca-bê quyển thứ hai, ngôn sứ Giê-rê-mi-a chịu cảnh ngục tù, nhiều ngôn sứ bị nhạo báng và theo truyền thống Do-thái thì ngôn sứ I-sai-a bị cưa đôi.
Ưu tiên của việc loan báo Tin Mừng không phải là nói về sự trừng phạt hay sự chết muôn đời trong hỏa ngục nhưng là công bố tình yêu vô bờ bến của Thiên Chúa, được thể hiện nơi Biến Cố Đức Giê-su. Thánh Giáo Hoàng Phao-lô VI viết: “Việc loan báo Tin Mừng luôn luôn hàm chứa một công bố rõ ràng rằng nơi Đức Ki-tô, Con Thiên Chúa làm người, Đấng đã chết và đã sống lại, ơn cứu rỗi đã được ban cho mọi người như ân sủng và lòng nhân lành của Thiên Chúa. Sự công bố này là nền tảng, trung tâm và chóp đỉnh của việc Loan báo Tin Mừng” (Evangelii Nuntiandi 27). Do đó, loan báo Đức Giê-su và Tin Mừng của Người luôn là sứ mệnh không thể thiếu đối với những ai đã đón nhận đức tin và muốn sống trọn vẹn ơn gọi Ki-tô hữu của mình. Đặc biệt, việc loan báo này đem lại niềm hy vọng lớn lao cho mọi người trong hành trình đức tin hướng về thời cánh chung, thời Thiên Chúa quy tụ muôn vật muôn loài trong Con Yêu Dấu của Người là Đức Giê-su (Ep 1,9-10).
5. KẾT LUẬN
Chúng ta có thể kết luận rằng, dưới lăng kính Ki-tô Giáo, sự chết vốn không thuộc về bản tính nguyên tuyền của con người trong chương trình sáng tạo của Thiên Chúa. Tuy nhiên, vì con người vô ơn, kiêu ngạo và bất tuân huấn lệnh của Thiên Chúa, nghĩa là đã phạm tội, nên sự chết đã thâm nhập trần gian và lan tràn đến hết mọi người. Khát vọng sâu xa nhất của con người là được sống, sống dồi dào và sống vĩnh cửu. Trong hành trình trần thế, con người luôn phải đương đầu với muôn hình thức giới hạn, yếu đuối và bất toàn nơi chính bản thân cũng như muôn hình thức giới hạn khác trong không gian, thời gian. Đặc biệt, con người phải đối diện với bất công, đau khổ và cuối cùng là cái chết. Vì tình thương, Thiên Chúa đã mặc khải chương trình cứu độ của Người qua dòng lịch sử, nhất là lịch sử dân Do-thái mà cao điểm là Biến Cố Đức Giê-su giữa gia đình nhân loại.
Trong thân phận con người, Đức Giê-su đã công bố sự hiện diện của Nước Thiên Chúa qua việc thực thi các dấu chỉ như chữa lành bệnh tật, xua trừ ma quỷ, hồi sinh kẻ chết, tuyển chọn Nhóm Mười Hai và loan báo những tiêu chuẩn luân lý mới. Người đã đến với những người yếu thế và dễ bị tổn thương nhất để chữa lành, an ủi và ban bình an cho họ. Nhờ Đức Giê-su, Đấng vô tội đã mang lấy tất cả những gì thuộc về con người mà con người được hòa giải với Thiên Chúa, với nhau và với muôn vật muôn loài. Nhờ Người, kẻ thù cuối cùng của con người là sự chết đã bị tiêu diệt. Đặc biệt, nhờ Người, con người không chỉ được khôi phục phẩm giá cao quý là hình ảnh của Thiên Chúa mà còn được nâng lên hàng nghĩa tử, trở thành con cái Thiên Chúa.
Sứ mệnh của Thiên Chúa được Đức Giê-su thực hiện thật cao cả và liên quan đến mọi người. Do đó, ai không ý thức được quyền lực của sự dữ thì cũng không ý thức được quyền năng vô biên của Thiên Chúa; ai không cảm nhận được tình trạng yếu đuối, bất toàn, tội lỗi của bản thân thì cũng không cảm nhận được chương trình tình yêu của Thiên Chúa thể hiện nơi Đức Giê-su; ai không quan tâm tin buồn rằng mình phải chết thì cũng không quan tâm Tin Mừng Đức Giê-su chiến thắng sự chết. Nơi Đức Giê-su, con người tìm được câu trả lời xứng hợp về tầm mức và hậu quả của tội lỗi bản thân cũng như của gia đình nhân loại. Mọi người được mời gọi đặt niềm tin và hy vọng vào Đức Giê-su hầu có thể vượt qua những thử thách trong đời sống, đồng thời, biết không ngừng hoán cải để ngày càng xứng đáng hơn với ơn gọi là môn đệ và tông đồ của Người giữa dòng đời.
Đường của Đức Giê-su giữa gia đình nhân loại là Đường Chiến Thắng Sự Chết. Đường của Người kiện toàn lời của Thiên Chúa trong Cựu Ước về thời cánh chung khi sự chết hay tử thần bị tiêu diệt và Thiên Chúa sẽ lau khô nước mắt trên khuôn mặt mọi người (Is 25,8; Hs 13,14). Thánh Phao-lô diễn tả chân lý này cách mạnh mẽ và hùng hồn như sau: "Khi cái thân phải hư nát này mặc lấy sự bất diệt, khi cái thân phải chết này mặc lấy sự bất tử, thì bấy giờ sẽ ứng nghiệm lời Kinh Thánh sau đây: Tử thần đã bị chôn vùi. Đây giờ chiến thắng! Hỡi tử thần, đâu là chiến thắng của ngươi? Hỡi tử thần, đâu là nọc độc của ngươi? Tử thần có độc là vì tội lỗi, mà tội lỗi có mạnh cũng tại có Lề Luật. Nhưng tạ ơn Thiên Chúa, vì Người đã cho chúng ta chiến thắng nhờ Đức Giê-su Ki-tô, Chúa chúng ta" (1 Cr 15,54-57). Như thế, ai đón nhận và bước theo Đức Giê-su, Đường Chiến Thắng Sự Chết, người ấy được mời gọi tham dự sứ mệnh loan báo Tin Mừng cứu độ cho anh chị em đồng loại hầu mọi người cùng được thông hiệp chiến thắng vinh quang của Đấng Phục Sinh trong đời sống hiện tại cũng như trong Quê Hương Vĩnh Cửu.
bài liên quan mới nhất

- Suy tư về sứ vụ truyền giáo trong bối cảnh mục tử hôm nay
-
Đừng kết án những người Pharisêu nữa -
Thờ ơ tôn giáo tại Việt Nam -
Ngày 13-10 và lòng yêu mến Đức Mẹ Maria -
Ngày 13 tháng10 hướng về Trung tâm Hành hương Đức Mẹ Núi Cúi -
Cha sở và giáo xứ, góc nhìn qua huấn thị của Thánh bộ Giáo sĩ -
Mùa Trăng yêu thương -
Mẹ trong miền ký ức -
Đón nhận ân phúc từ hai nhân đức: lắng nghe và dịu dàng của mẹ maria -
Tinh thần canh tân trong cộng đoàn Kitô hữu ngày nay
bài liên quan đọc nhiều

- Đức Giáo hoàng chỉ cách phân biệt được Chúa hay Satan đang nói
-
Những sự thật về Satan và các thiên thần sa ngã -
Thập giá hay Thánh Giá? -
5 câu Kinh Thánh cầu xin Chúa chữa lành -
Cây Thánh Giá, biểu tượng thánh thiêng Kitô giáo -
Sống giây phút hiện tại -
Cầu xin cùng Thánh nữ Corona trong cơn đại dịch corona -
Lời cầu nguyện giúp vượt qua chán nản và trầm cảm -
Ánh sáng - bóng tối -
Tại sao đình chỉ việc cử hành Thánh Lễ giữa cơn đại dịch ?