Đức cha Lambert de la Motte trong bối cảnh loan báo Tin Mừng phức tạp tại Á châu thế kỷ 17
TGPSG – Linh mục Jefferies Foale, CP (Congregation of the Passion: Dòng Khổ Nạn Chúa Giêsu) là người đã dày công tìm hiểu về Đức cha Lambert de la Motte cùng với bối cảnh Việt Nam cũng như Giáo hội Công giáo vào thời của Đức cha Lambert. Ngài đã trình bày về vị sáng lập Hội Dòng Mến Thánh Giá này như một “Đại bàng thần bí” và là một trong những giám mục tiên phong giúp Giáo Hội lấy lại quyền điều hành công cuộc loan báo Tin Mừng khỏi chế độ bảo trợ của vua Bồ Đào Nha vào thế kỷ 17.
1. Đức cha Lambert de la Motte: Đại bàng thần bí
Có một mối liên hệ khá thú vị giữa linh mục Jefferies Foale, CP. và Đức cha Lambert de la Motte:
Linh mục Jefferies Foale (hiện đã 91 tuổi) sinh ra và lớn lên trong một trang trại tên là Lisieux ở Úc. Ngôi nhà của gia đình cha đã được dâng hiến cho Thánh Têrêxa thành Lisieux - Đấng mà cha mẹ của Jefferies Foale đã rất yêu mến.
Trong khi đó, nơi sinh của Đức cha Pierre Lambert de la Motte cũng là Lisieux, vùng Normandie, nước Pháp.
Chính vì niềm yêu mến và sự trùng hợp liên quan đến Lisieux mà cha Jefferies đã quan tâm nghiên cứu nhiều về Đức cha Lambert de la Motte, đặc biệt là nghiên cứu tác phẩm của bà Françoise Fauconnet-Buzelin viết về vị giám mục thánh thiện và nhiệt tình này.
Nhờ những nghiên cứu này, cha Jefferies Foale đã nhận định: Đức cha Lambert chính là vị Đại diện Tông tòa tiên khởi của Việt Nam (VN), là cha của hàng giáo sĩ VN và là Đấng sáng lập Dòng Mến Thánh Giá. Đời sống thiêng liêng thâm sâu của Đức cha ngày càng được nhiều người nhận biết và mô tả như là “Đại bàng thần bí” vùng Normandy thế kỷ XVII.
Khi tôn phong sự thánh thiện của Đức cha Lambert là đồng thời cũng tôn vinh những nền tảng tinh thần ngài đã thiết lập cho Giáo hội tại VN. Ngài đã giúp Giáo Hội VN đi trên con đường thánh thiện, tự lực và hăng hái loan báo Tin Mừng.
2. Đức cha Lambert de la Motte và Thánh bộ Truyền Bá Đức Tin
Lm Jefferies đã đặc biệt quan tâm đến vai trò của Đức cha Lambert de la Motte đối với Giáo Hội hoàn vũ trong tư cách là một vị Đại diện Tông tòa đầu tiên trên toàn Châu Á.
Đức cha là người tiên phong trong cuộc đấu tranh của Giáo Hội hoàn vũ nhằm lấy lại quyền hướng dẫn điều hành các Giáo hội địa phương trong các xứ thuộc địa từ lâu đã rơi vào tay vua Công giáo Bồ Đào Nha (BĐN).
Theo lịch sử, vào thế kỷ XV, các Đức Thánh Cha (ĐTC) đã trao cho vua Công giáo BĐN toàn quyền điều khiển việc truyền giáo của Giáo hội trên các vùng đất mới được khám phá hoặc sẽ được khám phá ở phía Đông. Điều đó bao gồm toàn quyền điều khiển việc truyền giáo của Giáo hội Công giáo đối với VN. Vì vậy, vua BĐN, cũng kiểm soát Giáo hội ở Châu Á. Đó là một chế độ bảo trợ, được gọi là Padroado.
Thực ra, nhờ chế độ bảo trợ này, nhiều nhân vật tuyệt vời và thánh thiện, từ các dòng tu đến, đã phục vụ rất hiệu quả, đặc biệt là các tu sĩ Dòng Tên đã đạt được những thành tựu to lớn như:
- Thánh Phanxicô Xaviê đã có thể thành lập các cộng đoàn Kitô giáo từ Ấn Độ cho đến tận Nhật Bản.
- Cha Mateo Ricci đã đi vào vào trung tâm của Đế chế và nền văn hóa Trung Quốc bằng sự khôn ngoan và đức tin của mình. Cha và những tu sĩ Dòng Tên khác đã kết hợp các phong tục và nghi lễ thờ kính tổ tiên của Trung Quốc vào phụng tự Kitô giáo.
- Ở VN, tu sĩ Dòng Tên Alexander de Rhodes, trong một thời gian rất ngắn, đã đưa nhiều người VN đến với đức tin. Ngài để lại một nhóm giáo lý viên tận tụy và được đào tạo bài bản. Có lẽ món quà lớn nhất của ngài là cuốn sách giáo lý đầu tiên được viết bằng tiếng Việt, mang lại đức tin và đóng góp nhiều cho ngôn ngữ VN.
Nhưng cũng có điều đáng tiếc là, có những vị truyền giáo, vì cần nguồn lực cho nhiệm vụ, nên buộc phải tham gia vào thương mại. Chẳng mấy chốc, một số người trở nên giàu có và đánh mất tiếng gọi thiêng liêng của mình. Rôma đã thấy điều này và bắt đầu hối hận khi trao toàn bộ Giáo hội ở Châu Á cho nhà vua BĐN.
Năm 1622, ĐTC thành lập Thánh Bộ Truyền bá Đức tin (TBĐT), chịu trách nhiệm về tất cả các tổ chức truyền giáo của Giáo hội trên toàn thế giới. Mục đích lâu dài là để truyền bá đức tin khắp mọi nơi và để Giáo hội Hoàn vũ lấy lại quyền hướng dẫn điều hành mọi công cuộc truyền giáo mà BĐN đang nắm giữ. Năm 1627, Trường Giáo hoàng Truyền giáo được thành lập để đào tạo các nhà truyền giáo.
Thánh Bộ TBĐT đã hướng đến mục tiêu giải thoát các phái bộ truyền giáo thuộc địa khỏi sự kiểm soát chính trị. Chế độ bảo trợ phải bị xóa bỏ. Nhưng mọi thứ diễn ra chậm chạp. Sự can thiệp đầu tiên của Thánh Bộ TBĐT vào Châu Á trong năm 1645 không phải là về việc bổ nhiệm giám mục, mà liên quan đến những tranh cãi về Nghi lễ Trung Hoa.
Cuối cùng vào năm 1658, Thánh Bộ TBĐT đã trực tiếp hướng dẫn điều động công cuộc loan báo Tin Mừng của Giáo hội trong các nước thuộc địa. Các giám mục được bổ nhiệm đến bất cứ nơi nào ở miền Đông, khởi sự là 3 vị: Pierre Lambert de La Motte, François Pallu và Ignace Cotolendi. Không có bất kỳ hồ sơ liên lạc nào giữa Rôma và vua BĐN về sự tiếp quản này. Rôma chỉ đơn giản là tiến hành.
Năm 1659, Thánh Bộ TBĐT đã chuẩn bị những chỉ dẫn trở thành kim chỉ nam cho công cuộc truyền giáo, đó là Huấn thị Rôma. Huấn thị này đặt ra các nguyên tắc để hướng dẫn cách thức các tân giám mục tiến hành công việc và đưa ra các chỉ thị rõ ràng về cơ cấu tổ chức của Giáo hội.
Huấn thị này tương đối có tầm nhìn xa và đi trước thời đại, thách thức các nhà truyền giáo đạt đến một tiêu chuẩn cao. Những vị này phải tránh các hoạt động thế tục, tránh xa chính trị, không được tham gia vào hệ thống thuộc địa, tôn trọng sâu sắc các nền văn hóa bản địa, phải xây dựng các Giáo hội địa phương tự trị liên kết với Tòa Thánh, phải thành lập hàng giáo sĩ bản xứ tại địa phương.
3. Đức cha Lambert de la Motte nỗ lực giúp Giáo Hội lấy lại quyền hướng dẫn điều hành công cuộc loan báo Tin Mừng
Đức cha Lambert de la Motte đã nỗ lực cách anh hùng để thực hiện những chỉ dẫn này. Không có con tàu nào đưa Lambert de la Motte đến nơi truyền giáo của ngài, và ngài phải tránh người BĐN, những người sẽ trục xuất ngài trở lại Châu Âu nếu họ nhận ra ngài. Vì vậy, ngài đã bắt đầu cuộc hành trình đường bộ đáng kinh ngạc kéo dài 2 năm, đi từ châu Âu đến châu Á.
Ngài đến Ayuthaya - thủ đô của Xiêm - vào năm 1662. Địa bàn truyền giáo của ngài - trong tư cách là Giám mục - bao gồm Xiêm La (Thái Lan), Campuchea và Đàng Trong (vào thời điểm đó là một vương quốc bao phủ nửa phía nam của VN).
Căn cứ chính của đế chế BĐN là Goa ở Ấn Độ. Tòa giám mục Goa đang bỏ trống, không có giám mục cho đến năm 1670. Địa bàn truyền giáo của Đức cha Lambert nằm trong ranh giới của Goa, nhưng không có sự tham gia, hỗ trợ hoặc giám sát của các nhà truyền giáo - chủ yếu là các tu sĩ Dòng Tên - đã có mặt ở đó. Cha William Lesley của Thánh bộ đã báo trước cho Đức cha Lambert về thái độ của họ.
Rôma đã không ngờ Đức cha Lambert phải chịu thách đố quá lớn, và cái giá ngài phải trả quá nặng nề. Ngài giống như một con cừu bị ném cho bầy sói, tự lo liệu cho mình trong một môi trường thù địch.
Ngài bắt đầu nhiệm vụ thiết lập các cơ cấu tổ chức của Giáo hội như: chủng viện, giáo sĩ bản địa, tổ chức mục vụ và cộng đoàn nữ tu. Mỗi ngày, ngài phải đối mặt với sự phản đối gay gắt, âm mưu và đe dọa bạo lực. Và còn có cả những nỗi đau lòng khi không được tin tưởng.
Ngay cả các bạn trong nhóm của ngài ở quê nhà cũng không chấp nhận sự thật đúng đắn và sự khôn ngoan chưa bao giờ bị đánh mất từ ngòi bút của ngài. Thay vào đó, họ lại tin vào lời dối trá của những kẻ thù nghịch ngài. Lịch sử của công cuộc truyền giáo đó không được viết ở nơi nó diễn ra, mà được viết ở Pháp, và ở Pháp thì cái tên Pierre Lambert de la Motte đã bị xóa khỏi câu chuyện. Chỉ trong thời đại của chúng ta, khi nghiên cứu kỹ lưỡng, người ta mới phát hiện ra không chỉ những thành tựu mà còn cả sự thánh thiện của ngài.
Một nơi mà Đức cha Lambert và các báo cáo của ngài được tin tưởng là Thánh bộ TBĐT ở Rôma. Nhưng đây không phải là nơi viết sách lịch sử.
Đức cha Lambert đã phải chịu đựng rất nhiều. Ngài đã chứng minh rằng kế hoạch của Thánh bộ TBĐT có thể thành công. Từ khởi đầu này của ngài, từng chút một, Thánh bộ TBĐT đã có thể thiết lập phẩm trật của Giáo hội tại các vùng lãnh thổ thuộc địa và các quốc gia khác trên khắp thế giới, để liên kết chặt chẽ họ với Giáo hội hoàn vũ, để thiết lập một cơ cấu tổ chức có thể cử vô số nhà truyền giáo đi khắp thế giới, có thể phối hợp và hỗ trợ cho các nhà truyền giáo trong những thế kỷ tiếp theo.
Bài: Tóc Ngắn (TGPSG)
bài liên quan mới nhất
- Ad Extra, làm thế nào biết tin tức và suy tư về sứ mạng ở Châu Á một cách sâu xa hơn
-
Kết nối với Gen Z: 4 chiến lược cho Giáo hội Công giáo -
Để đức tin thấm vào văn hóa -
Ủy ban Giáo dân - Biên bản chương trình thường huấn “Các đoàn thể tông đồ trong Giáo hội hiệp hành” -
Ngày thành lập Giáo hội Việt Nam 09/9/1659? -
Ủy ban Giáo dân - Thường huấn tháng 9/2024: Đi theo con đường Chúa Giêsu -
Thư gửi sinh viên, học sinh Công giáo nhân dịp khai giảng năm học 2024 - 2025 -
Thư của Đức Giáo hoàng Phanxicô về vai trò của văn chương trong đào tạo -
Chương trình đào tạo về Vai trò Lãnh đạo của Giáo dân tại Rôma -
Chương trình Hành hương Thường niên La Vang 2024
bài liên quan đọc nhiều
- Đức Thánh Cha nhắc lại lời mời cầu nguyện cho Thượng Hội đồng
-
Mười hai lời khuyên của Đức Thánh Cha Phanxicô để trở thành người cừ khôi trong việc loan báo Tin Mừng -
Suy tư về Ngày Thế giới Người nghèo năm 2023 -
Tuần lễ cầu nguyện cho sự hiệp nhất của Kitô hữu năm 2024 -
Truyền giáo Việt Nam hiện nay: Ánh sáng và bóng tối -
Canh tân hoạt động loan báo Tin Mừng tại Việt Nam ngày nay -
Lời Chúa sống động nơi một cuộc đời cụ thể -
Giáo dân truyền giáo -
Cha Alexandre de Rhodes: Một gương mặt truyền giáo -
Bộ Giáo sĩ - Huấn thị cải tổ mục vụ cộng đoàn giáo xứ để phục vụ sứ vụ Loan báo Tin Mừng của Hội Thánh