Bài 152: Ngày Tận Thế | Dưới ánh sáng Lời Chúa
Nữ tu Maria Lê Thị Thanh Nga - Dòng Đức Bà Nữ Kinh Sĩ Thánh Âu Tinh
TGPSG -- Tin Mừng theo thánh Mát-thêu 24,37-44
37 “Quả thế, thời ông Nô-ê thế nào, thì ngày Con Người quang lâm cũng sẽ như vậy. 38 Vì trong những ngày trước nạn hồng thủy, thiên hạ vẫn ăn uống, cưới vợ lấy chồng, mãi cho đến ngày ông Nô-ê vào tàu. 39 Họ không hay biết gì, cho đến khi nạn hồng thủy ập tới cuốn đi hết thảy. Ngày Con Người quang lâm cũng sẽ như vậy. 40 Bấy giờ, hai người đàn ông đang làm ruộng, thì một người được đem đi, một người bị bỏ lại ; 41 hai người đàn bà đang kéo cối xay, thì một người được đem đi, một người bị bỏ lại. 42 “Vậy anh em hãy canh thức, vì anh em không biết ngày nào Chúa của anh em đến. 43 Anh em hãy biết điều này : nếu chủ nhà biết vào canh nào kẻ trộm sẽ đến, hẳn ông đã thức, không để nó khoét vách nhà mình đâu. 44 Cho nên anh em cũng vậy, anh em hãy sẵn sàng, vì chính giờ phút anh em không ngờ, thì Con Người sẽ đến.
Đoạn Tin Mừng trên hơi khó hiểu vì Chúa Giê-su nói rằng trong “ngày Con Người quang lâm” sẽ có những người được cứu nhưng cũng có những người không được cứu, và không ai biết ngày hay giờ Người đến, vì ngày ấy sẽ đến hoàn toàn bất ngờ. Vì vậy, xưa nay, nhiều người hay suy đoán từ các biến cố trên thế giới và cho rằng đó là những dấu chỉ của ngày tận thế. Nhưng tất cả chỉ là giả thuyết loài người. Điều quan trọng không phải là đoán định thời gian Chúa đến, mà nên tập trung vào câu hỏi là : Chúng ta có được cứu không ? Ta sẽ “được đem đi” hay “bị bỏ lại” ? Vậy phải làm sao để được cứu ? Để trả lời cho các thắc mắc này, thiết tưởng chúng ta nên tìm hiểu “Ngày của Chúa” là ngày gì, và “Ngày Con Người quang lâm” là ngày nào.
Trong Cựu Ước, cụm từ “ngày của Chúa” ám chỉ ngày tận diệt và thời cuối cùng, khi Đức Chúa công minh thưởng phạt và phục hồi toàn thế giới, và đó cũng là ngày của Đấng Mê-si-a, Vi Cứu Tinh của Ít-ra-en sẽ xuất hiện. Cựu Ước thường mô tả ngày ấy như một hình phạt từ Đấng quyền năng, với những hình ảnh và cảnh tượng loạn lạc, điêu tàn, chết chóc, nhưng đồng thời cũng loan báo ngày đó như một cuộc canh tân, thay đổi diện mạo con người cho một trời mới đất mới.
Trong bối cảnh này, từ “ngày” ám chỉ nhiều hơn đến một biến cố mang tính thời điểm, chứ không theo nghĩa trường độ : “Đã gần rồi, ngày của ĐỨC CHÚA, ngày vĩ đại, đã gần rồi, ngày ấy đến thật mau. Trong ngày của ĐỨC CHÚA sẽ vọng lên những tiếng kêu thê thảm, ngay bậc anh hùng cũng phải kêu cứu. Ngày đó là ngày thịnh nộ, ngày khốn quẫn và gian truân, ngày hủy diệt và tàn phá, ngày tối tăm và mịt mù, ngày âm u và ảm đạm” (Xp 1,14-18 ; 3,8-10).
Trong viễn tượng lịch sử cứu độ, “ngày của Chúa” cũng sẽ là ngày của công trình tạo dựng mới. Khi ấy, Đức Chúa sẽ được tôn vinh qua Đấng Mê-si-a. Và số sót của dân Chúa sẽ mãi tồn tại và hưởng nhờ ân phúc của Chúa đến muôn đời : “Ngày đó, chồi non ĐỨC CHÚA cho mọc lên sẽ là vinh quang và danh dự, và hoa màu từ ruộng đất trổ sinh sẽ là niềm hãnh diện và tự hào cho những người Ít-ra-en thoát nạn. Những người sống sót ở Xi-on và những kẻ còn sót lại ở Giê-ru-sa-lem sẽ được gọi là thánh. Tất cả được ghi tên vào sổ để sống tại Giê-ru-sa-lem… Trên khắp núi Xi-on, và trên những người hội họp ở đó, ĐỨC CHÚA sẽ tạo ra một đám mây ban ngày, một đám khói và một ngọn lửa rực sáng ban đêm. Thật vậy, trên tất cả, vinh quang của Chúa sẽ là tán che, là mái lều làm bóng râm ban ngày cho khỏi nóng, làm nơi nương ẩn khi bão táp mưa sa. Họ sẽ là dân thánh và sống trong bình an” (Is 4,2-6 ; Xp 3,11-20 ; Dcr 14,1-21). Ngôn sứ A-mốt cũng loan báo “Này đây sắp đến những ngày -sấm ngôn của ĐỨC CHÚA - thợ cày nối gót thợ gặt, kẻ đạp nho tiếp bước người gieo giống ; núi đồi sẽ ứa ra nước cốt nho, và mọi gò nổng sẽ tuôn chảy. Ta sẽ đổi vận mệnh của Ít-ra-en dân Ta : chúng sẽ tái thiết những thành phố điêu tàn và định cư ở đó ; chúng sẽ uống rượu vườn nho mình trồng, ăn thổ sản vườn mình canh tác. Ta sẽ trồng chúng lại trên đất xưa chúng ở, và chúng sẽ không còn bị bứng đi khỏi thửa đất Ta đã ban cho chúng” (Am 9,13-15).
Ngay trong ngày Đức Chúa đứng lên để xét xử trần gian, Người không chỉ tập hợp muôn dân mà còn chuộc lấy một cộng đoàn đa sắc tộc, được biến đổi thành những người thờ phượng biết kêu cầu danh Chúa (x. Xp 3,8-10). Đức Chúa sẽ xóa bỏ tội lỗi lẫn kẻ tội lỗi khỏi sự hiện diện của Người, sẽ chấm dứt mọi nguyền rủa, và kiến tạo một môi trường sống dành cho những ai một dạ tín trung (x. Xp 3,11-20). Khi Thiên Chúa tha thứ các tội phản nghịch và coi họ là công chính (x. Is 53,11 ; Gr 31,34), thì lòng kính sợ và niềm vui của họ sẽ nên trọn vẹn, và niềm vui của Chúa nơi họ sẽ bừng lên thành một bài ca chúc tụng (x. Is 65,19 ; Xp 3,14.17 ; Ml 4,2). Ngôn sứ Da-ca-ri-a đã từng loan báo : “Sẽ chỉ còn một ngày độc nhất duy một mình ĐỨC CHÚA biết… Ngày ấy, nước mạch sẽ chảy ra từ Giê-ru-sa-lem ; một nửa chảy ra Biển phía Đông, một nửa chảy ra Biển phía Tây... Bấy giờ, ĐỨC CHÚA sẽ là vua cai trị toàn cõi đất ; ngày ấy, ĐỨC CHÚA sẽ là Đức Chúa duy nhất và Danh Người là Danh duy nhất” (Dcr 14,7-9.20).
Trong Tân Ước, các tác giả đã xác định Đức Giê-su Ki-tô chính là Đấng Mê-si-a muôn dân hằng mong đợi, là Đấng sẽ hoàn tất “ngày của Chúa” khi trình bày cuộc khổ nạn và sự phục sinh vinh hiển của Người, với những lời lẽ của chính Người loan báo về ngày quang lâm. Đối với người tin, cái chết của Đức Giê-su đồng nghĩa với ơn tha thứ bao dung, vì cơn thịnh nộ của Thiên Chúa đối với tội nhân đã được xoa dịu và sự phục sinh của Đức Ki-tô đánh dấu khởi đầu của công trình tái tạo trong A-đam mới. Các tác giả Tân Ước đã coi cái chết và sự phục sinh của Đức Ki-tô như bình minh “ngày của Đức Chúa” khởi đầu cho cuộc tái tạo vạn vật. Trong sách Công vụ Tông Đồ, thánh Lu-ca đã nhận ra Thánh Thần hoạt động trong ngày Lễ Ngũ Tuần như “là điều đã được ngôn sứ Giô-en nói đến : Trong những ngày cuối cùng, Ta sẽ đổ Thần Khí Ta trên hết thảy người phàm, con trai con gái các ngươi sẽ trở thành ngôn sứ, thanh niên sẽ thấy thị kiến, bô lão sẽ được báo mộng. Trong những ngày đó, Ta cũng sẽ đổ Thần Khí Ta cả trên tôi nam tớ nữ của Ta, và chúng sẽ trở thành ngôn sứ. Ta sẽ cho xuất hiện những điềm thiêng trên trời cao, và những dấu lạ dưới đất thấp… Bấy giờ hết những ai kêu cầu danh Đức Chúa, sẽ được ơn cứu độ” (Cv 2,16-21).
Ơn cứu độ là món quà trọng đại từ Thiên Chúa mà chúng ta không thể đợi đến ngày cuối cùng của đời mình thì mới nghĩ đến. Đức Giê-su mời gọi chúng ta “hãy sẵn sàng” để sống từng ngày như là ngày cuối cùng. Điều đó không có nghĩa là bỏ hết mọi dự tính tương lai hay không chuẩn bị gì cả, nhưng là luôn sống trong tư thế sẵn sàng gặp Chúa.
Trở lại với bài Tin Mừng Mt 24,36-44. Trích đoạn này thuộc về “Diễn từ cánh chung” (Mt 24,1-25,46) nhắc nhở chúng ta sống dưới ánh sáng của thời cánh chung và cuộc phán xét đang đến. Nếu không được hiểu đúng, bản văn Tin Mừng hôm nay sẽ gây khó khăn cho độc giả. Vì thế, trước tiên, cần phải xem Đức Giê-su đang nói về chuyện gì. Tại sao Người đưa vào trong câu chuyện các nhân vật : ông Nô-ê, hai người đàn ông đang làm việc trên cánh đồng, hai người đàn bà đang xay bột, và một kẻ trộm ? Câu trả lời nằm ở đầu chương 24, khi Đức Giê-su đang nói về cư dân thành Giê-ru-sa-lem cứng lòng, không muốn hoán cải. Các môn đệ đã ngạc nhiên vì những lời Thầy Giê-su nói và đã nêu thắc mắc : “Xin Thầy nói cho chúng con biết khi nào những sự việc ấy xảy ra, và cứ điềm nào mà biết ngày Thầy quang lâm và ngày tận thế ?” (Lc 24,3). Thay vì trả lời, Đức Giê-su chỉ nhắn nhủ một điều quan trọng : phải luôn canh thức.
Bản văn Tin Mừng có thể chia làm ba ý chính với cách sử dụng từ ngữ độc đáo :
1) Bài học thuở xa xưa : “Thời ông Nô-ê thế nào, thì ngày Con Người quang lâm cũng sẽ như vậy” (24,37-39).
Tác giả sách Sáng thế 6,11-13 kể lại : “Đất đã ra hư hỏng trước nhan Thiên Chúa và đầy bạo lực. Thiên Chúa nhìn đất và thấy nó đã ra hư hỏng, vì mọi xác phàm đã theo nếp sống hư hỏng trên mặt đất. Thiên Chúa phán với ông Nô-ê : “Ta đã quyết định giờ tận số của mọi xác phàm, vì tại chúng mà đất đầy bạo lực : này Ta sắp tiêu diệt chúng cùng với đất”. Như vậy, vào thời Nô-ê, đã có những người hoàn toàn để mình bị cuốn vào những thực tại trần thế, không màng đến lời Thiên Chúa dạy, không màng đến trách nhiệm cai quản muôn loài thụ tạo. Vì thế, nhiều người đã ra hư hỏng, sự dữ lan tràn. Thiên Chúa đã báo cho ông Nô-ê để chuẩn bị thời điểm Chúa xóa sạch mọi vết tích của bạo lực từ nếp sống hư hỏng của con người để làm nên trời mới đất mới như Thiên Chúa phán : “Ta sẽ không bao giờ nguyền rủa đất đai vì con người nữa…Bao lâu đất này còn, thì mùa gieo mùa gặt, trời lạnh và trời nóng, tiết hạ và tiết đông, ban ngày và ban đêm, sẽ không ngừng đắp đổi” (St 8,21-22). “Ta lập giao ước của Ta với các ngươi : mọi xác phàm sẽ không còn bị nước hồng thủy hủy diệt, và cũng sẽ không còn có hồng thủy để tàn phá mặt đất nữa… Đây là dấu hiệu giao ước Ta đặt giữa Ta với các ngươi, và với mọi sinh vật ở với các ngươi, cho đến muôn thế hệ mai sau : Ta gác cây cung của Ta lên mây, và đó sẽ là dấu hiệu giao ước giữa Ta với cõi đất” (St 9,11-13).
2) Cuộc phân rẽ vào ngày quang lâm : “Bấy giờ hai người đàn ông đang làm ruộng, thì một người được đem đi, một người bị bỏ lại, hai người đàn bà đang kéo cối xay, thì một người được đem đi, một người bị bỏ lại” (Lc 24,40-41).
Từ “quang lâm” có gốc Hy-lạp là παρουσία - parousía, nghĩa đen là sự hiện diện và trong Tin Mừng dùng để ám chỉ ngày quang lâm. Mt 24,29-31 cho biết rằng, Đức Giê-su sẽ “ngự giá mây trời” để trở lại “uy nghi” (với quyền lực), “vinh hiển” (với vinh quang). Người sẽ trở lại trong tư cách là Đấng chiến thắng. Đó là một cuộc khải hoàn.
Ấy thế mà “một người được đem đi, một người bị bỏ lại” (cc. 40.41) : hai động từ παραλαμβάνω và ἀφίημι chia ở thụ động cách là “paralambanetai” và “aphietai” nên phải hiểu Thiên Chúa là chủ ngữ cho động từ. Theo truyền thống, paralambanetai có nghĩa là “được cứu thoát”, nên phải dịch là “được đem đi” ; còn aphietai có nghĩa là “bị kết án”, nên phải dịch là “bị bỏ lại”.
3) Lời kêu gọi hãy canh thức và sẵn sàng trong dụ ngôn “Kẻ trộm đêm khuya” với câu mở đầu “ngày nào Chúa của anh em đến” (c.42) và câu kết thúc “giờ Con Người sẽ đến” (c.44). Thánh Mát-thêu đã dùng hai từ cụ thể “ngày” và “giờ” để nói về Quang Lâm.
Không biết ngày nào (c.42) : Đức Giê-su khẳng định Người sẽ lại đến, đồng thời nhấn mạnh rằng không ai biết được ngày giờ quang lâm đó (x. Mt 24,36.42.44), và cũng không ai có thể tính toán để tìm ra ngày giờ ấy cả.
Động từ canh thức (c.42) gốc Hy-lạp là γρηγορέω - grégoreo, có nghĩa là “thức, không ngủ”. Đây là thái độ Đức Giê-su yêu cầu phải có nơi những người đang trông chờ Người đến (x. Mt 25,13 ; Mc 13,33-37 ; Lc 12,35-40). Sự canh thức này là tình trạng “báo động”, cho nên phải có một niềm hy vọng vững chắc và tâm trí phải luôn sẵn sàng : “Chúng ta đừng ngủ mê như những người khác, nhưng hãy tỉnh thức và sống tiết độ… Chúng ta thuộc về ban ngày, nên hãy sống tiết độ, mặc áo giáp là đức tin và đức mến, đội mũ chiến là niềm hy vọng ơn cứu độ” (1 Tx 5,6-8). Thánh Phê-rô cũng kêu gọi “Anh em hãy sống tiết độ và tỉnh thức, vì ma quỷ, thù địch của anh em, như sư tử gầm thét, rảo quanh tìm mồi cắn xé” (1 Pr 5,8). Có thể nói “tỉnh thức và tiết độ” là một.
Kẻ trộm (c.43) : Tin Mừng dùng hình ảnh “tên trộm” để nói đến tính bất ngờ của ngày Chúa đến. Cả Phao-lô và Phê-rô cũng đều cho biết “ngày của Chúa sẽ đến như kẻ trộm” (1 Tx 5,2 ; 2 Pr 3,10) hoặc tác giả sách Khải huyền 3,3 ghi rõ lời của Đấng có bảy Thần khí Thiên Chúa nói : “Nếu ngươi không tỉnh thức, thì Ta sẽ đến như kẻ trộm” (Kh 3,3 ; 16,15).
Vào canh mấy (c.43) : từ “canh” có gốc Hy-lạp là φυλακή - phylake. Theo người Do-thái, một đêm có bốn canh : 1/chập tối (từ khi mặt trời lặn đến 9g00 tối), 2/nửa đêm (từ 9g00 tối đến 12g00 đêm), 3/khi gà gáy (từ 12g00 đêm đến 3g00) và 4/tảng sáng (từ 3g00 khuya đến 6g00 sáng).
Khoét vách (c.43) : Nhà của người dân thời Đức Giê-su thường được làm bằng đất với cành cây khô, nên kẻ trộm có thể lọt vào nhà bằng cách khoét thủng vách tường đất.
4) Ý nghĩa Tin Mừng
Khi nói về cuộc phân rẽ vào ngày Quang Lâm (cc. 40-41), Đức Giê-su cho thấy rằng mọi người bình đẳng trong sinh hoạt, công ăn việc làm thường nhật. Xét bề ngoài, không có gì phân biệt giữa hai người đàn ông đang làm ruộng, hoặc hai người đàn bà đang kéo cối xay, không có gì bảo đảm cho người ta có một tư cách xứng đáng hay một quyền lợi ưu tiên nào, ai cũng như ai trong ngày Chúa đến, ngày sẽ xảy ra một cuộc phân rẽ tận căn : những ai đã sẵn sàng thì được sống hiệp thông với Chúa, còn những người khác thì bị loại trừ. Số phận tương lai của mỗi người tín hữu tùy thuộc cách thức mỗi người sống gắn kết với Chúa trong hiện tại. Nếu nghĩ rằng công việc và lao khổ, hạnh phúc và bất hạnh, đau khổ và niềm vui, sống và chết, vâng phục hoặc bất tuân, ngay thẳng hay gian tà là không có gì quan trọng, mọi sự đều như nhau, chẳng có ý nghĩa giá trị gì, bởi mọi sự sẽ kết thúc giống như nhau cho hết mọi người, thì đó là điều sai lầm ! Lời của Đức Giê-su điều chỉnh lối suy nghĩ sai lạc này và khuyên nhủ chúng ta : “Anh em hãy canh thức, vì anh em không biết ngày nào Chúa của anh em đến” (c.42). Và trong diễn từ, khi dùng dụ ngôn “kẻ trộm ban đêm”, Đức Giê-su tiếp tục cho biết ngày giờ Chúa đến sẽ thật bất ngờ, không một ai có thể tiên liệu được.
Chúa kêu gọi canh thức-sẵn sàng, điều này có ý nghĩa gì đối với chúng ta ngày nay ? Chúa sẽ đến như một kẻ trộm sao ? Thiên Chúa sẽ xét xử vào lúc chúng ta ít sẵn sàng nhất à ? Thật ra điều Đức Giê-su muốn nói là Người luôn luôn muốn cứu thoát chúng ta, mang lại hạnh phúc và sự sống bất diệt cho chúng ta, nhưng về phía mình, chúng ta phải luôn ý thức về sự hiện diện của Chúa suốt năm canh, suốt cả cuộc đời. Chúng ta luôn thuộc về Chúa và sẽ phải chịu trách nhiệm đời mình trước nhan Người. Chúa Giê-su trong ngày quang lâm sẽ là vị Thẩm Phán tối cao, chúng ta sẽ trả lẽ về những gì đã lãnh nhận từ chính Chúa.
bài liên quan mới nhất
- Bài 151 : Vương Quyền của Đức Ki-tô | Dưới Ánh Sáng Lời Chúa
-
Bài 150 : Bách hại và Tử đạo thời Tân ước | Dưới ánh sáng Lời Chúa -
Bài 149: Cứ phá hủy Đền thờ này đi ! | Dưới ánh sáng Lời Chúa -
Bài 148: Mạc khải Kinh Thánh về Sự Chết | Dưới ánh sáng Lời Chúa -
Bài 147: Người Pha-ri-sêu và người Thu Thuế -
Bài 146: Viên Quan Tòa và Bà Góa: vấn nạn công bằng | Dưới ánh sáng Lời Chúa -
Bài 145 : Anh ta lại là người Sa-ma-ri -
Bài 144 : Kinh Kính Mừng từ trình thuật Truyền tin -
Bài 143: Giàu và nghèo trong Kinh Thánh | Dưới ánh sáng Lời Chúa -
Bài 142: Lẽ nào Chúa lại khen kẻ bất lương? | Dưới ánh sáng Lời Chúa
bài liên quan đọc nhiều
- Bài 13: Chúa Thánh Thần qua các tước hiệu trong Kinh Thánh
-
Bài 32: Giờ thứ ba, giờ thứ sáu,... Giờ thứ mười một thời khắc trong Kinh Thánh -
Bài 12: Cái Biết Theo Kinh Thánh I Dưới ánh sáng Lời Chúa -
Bài 42: Tỉnh thức hay Canh thức theo Kinh Thánh -
Bài 14: Chúa Giêsu được ĐƯA LÊN trời -
Bài 10: Sự kiện “hiện ra” trong trình thuật Kinh Thánh I Dưới ánh sáng Lời Chúa -
Bài 62: Chứng từ Đức Kitô Phục Sinh / Dưới Ánh Sáng Lời Chúa -
Bài 20: Kiểu nói “Yêu, Ghét” trong Kinh Thánh -
Bài 64: Thiên Sai Luận Mục Tử / Dưới Ánh Sáng Lời Chúa -
Bài 115 : Người con hoang đàng hay người cha nhân hậu ?