Bài 139: Chỗ Nhất của Khiêm Nhường | Dưới ánh sáng Lời Chúa

Bài 139: Chỗ Nhất của Khiêm Nhường | Dưới ánh sáng Lời Chúa

Bài 139: Chỗ Nhất của Khiêm Nhường | Dưới ánh sáng Lời Chúa

TGPSG -- Trong các nền văn hoá nói chung, người ta rất đề cao đức tính “khiêm nhường” và xem đó là đức tính cần thiết để làm một người tốt. Tuy nhiên với Ki-tô giáo thì “khiêm nhường” không chỉ là một đức tính cần thiết mà còn là một trong những nhân đức trụ cột làm nên lối sống Ki-tô giáo, và đoạn Tin Mừng Lc 14,7-14 của Chúa nhật XXII Thường niên, Năm C sẽ trình bày giáo huấn của Đức Giê-su về nhân đức này.

Thật vậy, câu chuyện Tin Mừng này kể lại rằng khi Đức Giê-su dùng bữa tại nhà một người Pha-ri-sêu và Người quan sát thấy nhiều khách mời thích chọn những chỗ danh dự trong bàn tiệc, vì thế như một hiền sĩ khôn ngoan Đức Giê-su đã dùng một “dụ ngôn” để phê phán hành vi này, đồng thời giáo huấn mọi người về một lối sống nền tảng trong Nước Thiên Chúa, đó là: “Ai tôn mình lên sẽ bị hạ xuống; còn ai hạ mình xuống sẽ được tôn lên” (Lc 14,11).

Trong buổi học hỏi Kinh Thánh tuần này, chúng ta sẽ cùng nhau phân tích đôi nét về văn bản Tin Mừng này, hầu khám phá ra trọng tâm của sứ điệp Tin Mừng về nhân đức khiêm nhường như là lối sống nền tảng của Ki-tô giáo.

1. Tại sao người ta thích “chọn chỗ nhất”?

1.1. Khía cạnh văn hóa

Trong văn hóa Do-thái thời Đức Giê-su, các bữa tiệc không chỉ là cơ hội để mọi người ăn uống, mà còn là dịp để người ta thể hiện các mối tương quan xã hội, gia đình và tôn giáo, thể hiện sự gắn bó, lòng hiếu khách, và nhất là để xác lập địa vị xã hội. Theo đó, trong các bữa tiệc, vị trí chỗ ngồi thể hiện rõ vị thế của khách dự tiệc.

Thông thường, chủ nhà sẽ ngồi ở vị trí trung tâm hoặc ngồi ở đầu bàn tiệc. Các khách mời càng ngồi gần chủ nhà bao nhiêu, thì hiểu là càng có địa vị cao bấy nhiêu. Theo thứ tự đó, những người ngồi càng xa vị trí chủ tiệc thì được hiểu là địa vị càng thấp, hoặc ít được trọng vọng hơn. Như vậy, một người khi được ngồi vào chỗ danh dự tức là người ấy hoặc là có địa vị, có đức độ, hoặc là người có học thức, hoặc là bậc đáng kính... và được mọi người công nhận. Điều này đặc biệt đúng với giới kinh sư, người Pha-ri-sêu, và giới lãnh đạo tôn giáo Do-thái lúc bấy giờ, vốn là những người rất coi trọng hình thức và thích thể hiện để được người khác ca tụng. Vì thế, họ càng dễ có khuynh hướng tranh giành, hoặc cố ý chọn những chỗ danh dự để được kể là người quan trọng và có thế giá.

1.2. Khía cạnh tâm lý

Ngoài yếu tố văn hoá và xã hội, việc người ta thích chọn những chỗ danh dự còn phản ánh tâm lý tự nhiên của con người : khát khao được công nhận, mong muốn được kính trọng và thích được chú ý.

Thật vậy, trong môi trường xã hội mà giá trị con người được gắn liền với cái nhìn của người khác, thì việc cố gắng khẳng định bản thân bằng địa vị, bằng cách ăn mặc, bằng các hình thức bên ngoài, hoặc bằng những kiểu “ra vẻ” này nọ là điều… không lạ.

Điều này không chỉ xảy ra trong thời Đức Giê-su mà còn là hiện tượng phổ biến trong xã hội hôm nay. Trong các sự kiện, tiệc cưới, hội nghị, hoặc thậm chí là trong lớp học, chúng ta vẫn thấy nhiều người có xu hướng thích chọn những vị trí nổi bật, hoặc chọn ngồi gần những người nổi tiếng, có thế giá, có quyền lực. Đó là biểu hiện của nhu cầu tâm lý muốn được mọi người chú ý và muốn khẳng định bản thân.

Vậy khi Đức Giê-su đã đưa ra triết lý: “Ai tôn mình lên sẽ bị hạ xuống; còn ai hạ mình xuống sẽ được tôn lên”, thì Người không chỉ đưa ra quy tắc ứng xử xã hội mà còn trình bày một nguyên tắc sống căn bản của người môn đệ: khiêm nhường là con đường đưa tới vinh quang thật. Ở đây Đức Giê-su không phủ nhận nhu cầu được tôn trọng, nhưng Người muốn đưa người ta đi từ chỗ chỉ tìm kiếm “sĩ diện” bên ngoài đến việc sống đúng phẩm giá của mình, vì phẩm giá con người mới là thứ quyết định giá trị thật sự của một con người.

Thật vậy, Đức Giê-su cho thấy phẩm giá của một người không đến từ địa vị mà đến từ tương quan của người đó với Thiên Chúa. Theo đó, một người cho dù nghèo khó, thấp kém… trong mắt mọi người thì họ vẫn là những người được Thiên Chúa yêu thương và nâng cao nếu họ có được mối tương quan tốt đẹp với Thiên Chúa.

Quan điểm này được lặp đi lặp lại trong Kinh Thánh. Tác giả sách Châm Ngôn dạy rằng : “Kiêu căng đưa đến sụp đổ, ngạo mạn dẫn đến té nhào” (Cn 16,18), và “Chúa chế giễu đứa hay nhạo báng, nhưng thi ân cho kẻ khiêm nhường” (3,34) ; “Lòng tự cao dẫn đến suy sụp, đức khiêm tốn đem lại vinh quang” (Cn 18,12) ; “Đầu mối của kiêu căng là tội lỗi” (Hc 10,13) ; “Kiêu căng tự mãn đâu ích gì ? Giàu sang hợm hĩnh nào được chi ?” (Kn 5,8).

 Tác giả thư Gia-cô-bê thì viết: “Thiên Chúa chống lại kẻ kiêu ngạo, nhưng ban ơn cho kẻ khiêm nhường” (Gc 4,6).

Theo đó, giáo huấn của Đức Giê-su về đức khiêm nhường không chỉ giới hạn nơi bàn tiệc như một phép lịch sự, mà khiêm nhường được Đức Giê-su trình bày như một lối sống của những ai muốn đi theo Người.

Thật vậy, động từ “hạ mình xuống” trong Lc 14,11 gốc Hy-lạp là ταπεινῶν (tapeinōn), được chia ở lối động tính từ, thể chủ động, thì hiện tại, diễn tả một hành động có ý thức và liên tục. Theo đó việc luôn luôn “hạ mình xuống”, hay không ngừng “hạ mình xuống” như thế làm nên một sự lựa chọn, một lối sống của Ki-tô hữu: lối sống khiêm nhường.

Lối sống “khiêm nhường” trong Ki-tô giáo không có nghĩa là “hạ thấp bản thân”, hay “kinh rẻ chính mình”, mà lối sống đó là: “biết tôn trọng người khác”, “biết lựa chọn hy sinh cho người khác”, và “biết cúi mình trước Thiên Chúa” như lời nhắn nhủ của thánh Phao-lô : “Hãy lấy lòng khiêm nhường mà coi người khác hơn mình” (Pl 2,3), “thương mến nhau với tình huynh đệ, coi người khác trọng hơn mình ; nhiệt thành, không trễ nải ; lấy tinh thần sốt sắng mà phục vụ Chúa” (Rm 12,10-11).

 Một lần nữa, việc lựa chọn sống lối sống khiêm nhường không phải là cách phủ nhận giá trị bản thân của mỗi chúng ta mà là trao phó giá trị con người của chúng ta cho Thiên Chúa, Đấng thực sự biết chúng ta. Cho nên, danh dự và vinh quang của chúng ta không đến từ những lời tung hô của người đời, mà đến từ tương quan của chúng ta với Thiên Chúa.

2. “Khiêm nhường” là “tin mừng kenosis”

Khi Đức Giê-su giáo huấn về đức khiêm nhường thì không phải Người dạy chúng ta một chiến lược, một cách cư xử khôn ngoan và đắc nhân tâm kiểu thế gian, tức là chỉ nhằm chinh phục thiện cảm của người khác hầu có thể thăng tiến bản thân, mà Người dạy chúng ta sống khiêm nhường vì đó là lối sống phản ánh nếp sống của chính Người, Đấng là Ngôi Lời Thiên Chúa, nhưng “đã mặc lấy xác phàm và ở giữa chúng ta” (Ga 1,14), để cứu độ chúng ta. Vì thế, “khiêm nhường” có thể nói chính là tin mừng mà Đức Giê-su đã rao giảng bằng cả cuộc đời của Người mà chúng ta có thể gọi cách khác là “tin mừng kenosis”.

Thật vậy, thuật từ “kenosis” gốc Hy-lạp xuất phát bởi động từ “kenoō” (κενόω), có nghĩa là làm trống rỗng, trút bỏ.

Trong thần học Ki-tô giáo, thuật từ “kenosis” gắn liền với mầu nhiệm Nhập Thể khi Đức Giê-su “vốn dĩ là Thiên Chúa mà không nghĩ phải nhất quyết duy trì địa vị ngang hàng với Thiên Chúa, nhưng đã hoàn toàn trút bỏ vinh quang mặc lấy thân nô lệ, trở nên giống phàm nhân sống như người trần thế...” (Pl 2,6-7). Ngoài ra, thuật từ “kenosis” cũng gắn liền với mầu nhiệm Thập Giá của Đức Giê-su Ki-tô, Con Một Thiên Chúa, Đấng đã “vâng lời cho đến chết và chết trên thập giá” trong thân phận Người Tôi Trung Đau Khổ.

Theo đó, “kenosis” không chỉ là việc Đức Giê-su “từ bỏ vinh quang”, mà còn là việc Người trao hiến mạng sống mình cho chúng ta để đem lại sự sống mới cho chúng ta. Như vậy, chính Đức Giê-su đã làm cho “kenosis” trở thành một lối sống của Tin Mừng: “Tin Mừng khiêm hạ” và “Tin Mừng tự hiến”.

Và trong Đức Giê-su Ki-tô, chúng ta tìm thấy tấm gương hoàn hảo về sự khiêm nhường, và khi noi theo Người, chúng ta khám phá ra vinh quang đích thực chỉ đến từ Thiên Chúa mà thôi.

Tóm lại, đối với Ki-tô hữu, “khiêm nhường” chính là một lối sống Tin Mừng làm nên bản sắc người môn đệ Chúa Ki-tô. Tuy nhiên, lối sống Tin Mừng đó vẫn là một thách đố lớn đối với các Ki-tô hữu hôm nay khi phải sống giữa một thế giới đầy tính cạnh tranh, thích quyền lực, và ưa nổi tiếng... Dù vậy, với Ki-tô hữu, giáo huấn của Đức Giê-su về việc “ai tôn mình lên sẽ bị hạ xuống; còn ai hạ mình xuống sẽ được tôn lên” (Lc 14,11) vẫn là nét đặc trưng làm nên lối sống Ki-tô hữu và là “kim chỉ nam” cho những ai muốn tìm kiếm danh dự và vinh quang đích thực, vinh quang không bao giờ hư mất.

Cầu nguyện

Chúng ta hãy cầu nguyện bằng lời kinh Magnificat của Đức Ma-ri-a :

Linh hồn tôi ngợi khen Đức Chúa,
thần trí tôi hớn hở vui mừng
vì Thiên Chúa, Đấng cứu độ tôi.
Phận nữ tỳ hèn mọn, Người đoái thương nhìn tới ;
từ nay, hết mọi đời sẽ khen tôi diễm phúc.
Đấng Toàn Năng đã làm cho tôi biết bao điều cao cả,
danh Người thật chí thánh chí tôn !
Đời nọ tới đời kia,
Chúa hằng thương xót những ai kính sợ Người.
Chúa giơ tay biểu dương sức mạnh,
dẹp tan phường lòng trí kiêu căng.
Chúa hạ bệ những ai quyền thế,
Người nâng cao mọi kẻ khiêm nhường.
Kẻ đói nghèo, Chúa ban của đầy dư,
người giàu có, lại đuổi về tay trắng.
Chúa độ trì Ít-ra-en, tôi tớ của Người,
như đã hứa cùng cha ông chúng ta,
vì Người nhớ lại lòng thương xót
dành cho tổ phụ Áp-ra-ham
và cho con cháu đến muôn đời”  (Lc 1,46-55).

bài liên quan mới nhất

bài liên quan đọc nhiều

Top