Bài 135: Xin Thầy bảo anh tôi chia gia tài cho tôi I Dưới ánh sáng Lời Chúa
Mở đầu trích đoạn Tin Mừng Chúa nhật XVIII Thường niên, Năm C, là lời khẩn cầu của một người đến xin Đức Giê-su đứng ra phân xử cho người ấy được hưởng phần gia tài của mình : “‘Thưa Thầy, xin Thầy bảo anh tôi chia gia tài cho tôi’. Người đáp : ‘Này anh, ai đã đặt tôi làm người xử kiện hay người chia gia tài cho các anh’” (Lc 12,13-14).
Nhân câu chuyện này, trong bài học hỏi hôm nay, chúng ta cùng tìm hiểu xem luật Do-thái quy định thế nào về thừa kế, về việc thừa hưởng gia tài, cách riêng được nói đến trong Kinh Thánh.
I. Từ ngữ
Cựu Ước bằng tiếng Híp-ri thường động từ nāḥal và danh từ naḥalāʰ để nói về gia tài. Sau thời lưu đày, tiếng Híp-ri chịu ảnh hưởng tiếng A-ram, người ta dùng động từ yāraš và danh từ yeruššah.
Tân Ước thường sử dụng động từ klēronomêô và danh từ klēronomia để chỉ việc chia gia tài và phần gia tài được thừa hưởng.
Trong bản dịch Việt ngữ, có nhiều hạn từ khác nhau được sử dụng : Gia tài (Đnl 21,16 ; Lc 12,13), gia nghiệp (Lv 25,46 ; Tv 16,6 ; Mt 5,4 ; Mc 10,17), gia sản (1 V 21,3 ; Cv 13,9).
Hạn từ gia tài không chỉ áp dụng cho phần gia tài người con nhận được từ cha mẹ mà còn chỉ miền đất con cái Ít-ra-en được nhận từ Thiên Chúa như một quà tặng.
II. Luật thừa hưởng gia tài
1. Cựu Ước
Bộ luật Híp-ri không có những khoản luật chung về việc chia gia tài. Hầu hết các quy định về thừa hưởng gia tài được rút ra từ những thực hành được ghi lại trong Kinh Thánh.
a. Luật căn bản
Nói chung, quyền thừa hưởng gia tài chỉ dành cho con trai, và bao gồm cả con trai của người tỳ thiếp hay của người nô lệ, chẳng hạn như trường hợp Ít-ma-en là con của nữ tỳ Ha-ga. Vì bà Xa-ra không muốn cho Ít-ma-en được hưởng gia tài cùng với I-sa-ác con của bà nên đã nói với ông Áp-ra-ham : “Ông hãy đuổi hai mẹ con đứa nữ tỳ này đi, vì con trai đứa nữ tỳ không được thừa kế cùng với I-xa-ác, con trai tôi” (St 21,10). Ngoài ra, dù đứa con trai được sinh ra cách bất hợp pháp cũng được thừa hưởng gia tài, như trường hợp ông thủ lãnh Gíp-tác. Ông là con của một gái điếm nên bị các người con trai của bà vợ chính thức của cha ông đuổi đi, họ nói : “Mày không có phần gia nghiệp trong nhà của cha chúng tao, vì mày là con của một mụ khác” (Tl 11,2).
b. Luật đặc biệt
Sách Dân Số ghi lại lời Đức Chúa truyền qua ông Mô-sê rằng : “Khi một người nào chết mà không có con trai, thì các ngươi sẽ chuyển gia nghiệp của người đó cho con gái người đó. Nếu người đó không có con gái, các ngươi sẽ trao gia nghiệp cho anh em của người đó. Nếu người đó không có anh em, thì sẽ trao gia nghiệp cho anh em của cha người đó. Còn nếu cha người đó không có anh em, thì sẽ trao gia nghiệp cho thân nhân gần nhất trong thị tộc ; người này sẽ làm chủ gia nghiệp đó. Đối với con cái Ít-ra-en, đó sẽ là một quy tắc pháp lý, như Đức Chúa đã truyền cho ông Mô-sê” (Ds 27,8-11).
Từ đoạn văn trên, chúng ta rút ra quy định sau :
– Người nào chết mà không có con trai, thì con gái được quyền thừa kế.
– Người chồng nào tuyệt tự, thì anh em trai được hưởng thừa kế.
– Người chồng tuyệt tự mà không có anh em trai, thì người họ hàng gần nhất trong gia tộc được hưởng quyền đó.
Quyền thừa kế dựa trên nguyên tắc là : không để gia nghiệp lọt vào tay người ngoài gia tộc (x. Ds 36,6-9). Chẳng hạn như người vợ không được hưởng tài sản khi người chồng chết. Nếu người vợ góa trở về nhà cha mẹ ruột, thì tài sản của người chồng quá cố không được đưa ra khỏi gia đình người chồng quá cố.
Tuy nhiên, cũng có trường hợp đặc biệt như ba người con gái của ông Gióp. “Cha của các cô đã chia gia tài cho các cô như cho các anh em trai” (G 42,15). Bình thường thì con gái chỉ được chia gia tài khi người cha không có con trai. Có lẽ vào thời của sách Gióp, người phụ nữ đã được tôn trọng hơn thời các tổ phụ.
c. Luật quyền trưởng nam
Trưởng nam trong gia đình thì được hưởng gấp đôi phần gia tài so với những người con trai khác (x. Đnl 21,17). Luật cũng quy định khi có tranh chấp quyền trưởng nam giữa con trai đầu lòng của người tỳ thiếp được chồng yêu quý và con trai đầu lòng của người vợ cả. Trong trường hợp này, quyền hưởng tài sản gấp đôi thuộc về con trai đầu lòng của người vợ cả (x. Đnl 21,15-17).
Tuy nhiên, luật về quyền trưởng nam không tuyệt đối bất di bất dịch, vì quyền này có thể bị tước mất như trường hợp Ê-xau đã bán quyền trưởng nam cho Gia-cóp để đổi lấy một bát cháo đậu (x. St 25,29-34), hoặc Rưu-vên, con cả của ông Gia-cóp bị truất quyền trưởng nam vì dám loạn luân với bà Bin-ha vợ lẽ của cha mình (x. St 49,3-4).
2. Tân Ước
Trong Tân Ước, quyền thừa tự không có luật quy định rõ. Có lẽ thời ấy, dân Do-thái vẫn giữ luật thừa kế theo Cựu Ước. Người ta ngầm hiểu rằng quyền thừa tự hay thừa hưởng gia nghiệp là lẽ đương nhiên mà người con được hưởng từ người cha để lại. Chúng ta gặp thấy quyền này trong các dụ ngôn của Đức Giê-su như :
- Dụ ngôn Những tá điền sát nhân kể rằng khi ông chủ vườn nho sai chính con trai mình đến thì “bọn tá điền vừa thấy người con, thì bảo nhau : “Đứa thừa tự đây rồi ! Nào ta giết quách nó đi, và đoạt lấy gia tài nó !’” (Mt 21,38 ; x. Mc 12,7).
- Dụ ngôn Người cha nhân hậu kể rằng : “Một người kia có hai con trai. Người con thứ nói với cha rằng : ‘Thưa cha, xin cho con phần tài sản con được hưởng. Và người cha đã chia của cải cho hai con” (Lc 15,11-12).
- Và trong câu chuyện thực tế khi có người đến xin Đức Giê-su phân xử việc chia gia tài cho anh ta như trong bài Tin Mừng của Chúa nhật XVIII Thường niên này (x. Lc 12,13-16).
3. Ý nghĩa thần học của việc thừa hưởng gia tài
Ở St 12,7 Thiên Chúa phán hứa cùng Áp-ra-ham rằng : “Ta sẽ ban đất này cho dòng dõi ngươi”. Lời hứa ấy trở thành nguồn gốc và tiền đề cho việc thừa hưởng gia nghiệp của Ít-ra-en.
Lời hứa ấy được lưu truyền qua dòng dõi Áp-ra-ham và được tái khẳng định với Mô-sê : “Ta sẽ đưa các ngươi vào miền đất mà Ta đã giơ tay thề sẽ ban cho Áp-ra-ham, I-xa-ác và Gia-cóp. Ta sẽ ban cho các ngươi đất ấy làm sở hữu” (Xh 6,8).
Sau khi Mô-sê chết, Giô-suê đưa dân vào đất Ca-na-an. Lời Thiên Chúa hứa với tổ phụ Áp-ra-ham đã thành hiện thực. Từ nay dân Ít-ra-en chiếm giữ toàn bộ đất Ca-na-an làm sản nghiệp. Ông Giô-suê đã cho các chi tộc bốc thăm để nhận phần đất sở hữu làm gia nghiệp (x. Gs 13,7). Việc phân chia đất đai được coi là luật thừa kế, phù hợp với ý muốn của Thiên Chúa (x. Ds 34,29).
Tuy nhiên chi tộc Lê-vi chuyên lo việc tế tự phụng sự Thiên Chúa nên không có phần đất riêng làm sở hữu nhưng “chính Đức Chúa, Thiên Chúa của Ít-ra-en, là gia nghiệp của họ, như lời Người đã phán với họ” (Gs 13,33 ; x. Ds 18,20 ; Đnl 10,8).
Đất đã được ban cho Ít-ra-en làm gia nghiệp. Vì vậy dân phải bảo vệ đất, không để đất bị kẻ thù xâm chiếm. Sách Thủ lãnh đã chứng minh cuộc chiến đấu trường kỳ của dân Ít-ra-en chống lại các dân ngoại để chiếm hữu và gìn giữ miền đất Chúa đã hứa ban cho họ làm gia nghiệp. Suốt chiều dài lịch sử của Ít-ra-en là cuộc chiến bảo vệ gia nghiệp Chúa đã ban. Mất đất là mất gia nghiệp của Chúa.
Trong Cựu Ước, chúng ta còn gặp một số cụm từ đồng nghĩa với đất của Ít-ra-en, như “gia nghiệp Ít-ra-en” (Tl 20,6), “gia nghiệp Gia-cóp” (Is 58,14), “sản nghiệp nhà Ít-ra-en” (Ed 35,15). Sách Thánh cũng phân biệt giữa gia nghiệp của Ít-ra-en với các dân khác, chẳng hạn như “gia nghiệp của Ê-xau” (Đnl 1,3), tức là của dân Ê-đôm (x. Ed 36,12), hay “phần gia nghiệp của các dân tộc” (Gr 12,15).
Hạn từ gia tài, gia nghiệp trong Tân Ước cũng mang ý nghĩa cánh chung với nhiều ám chỉ, như “Nước Thiên Chúa” (Lc 10,25 ; 18,18 ; 1 Cr 6,9 ; Gl 5,21), “ơn cứu độ” (Hr 1,14) ; “sự sống đời đời” (Mt 19,16 ; Tt 3,7), “vinh quang” (Rm 8,17), “gia tài không thể hư hoại ở trên trời” (x. 1 Pr 1,4).
Tân Ước chú trọng đến quyền làm con. Quyền này là một tương quan thường đi với việc thừa hưởng gia nghiệp. Ai được hưởng Nước Thiên Chúa ? Con cái Thiên Chúa (x. Mt 19,29 ; 25,34 ; 1 Cr 6,9). Ai là con cái Thiên Chúa ? Quyền làm con cái Thiên Chúa không phải dựa vào dòng dõi huyết thống, mà dựa vào ơn Thiên Chúa kêu gọi và chỉ định (x. 1 Cr 15,50).
Ki-tô hữu được ơn làm nghĩa tử của Thiên Chúa là nhờ được kết hợp với Đức Ki-tô trong phép rửa. Vì thế, họ là con cái của Thiên Chúa và là người thừa tự Nước Thiên Chúa, không phải theo “xác thịt và khí huyết” (1 Cr 15,50).
Đức Ki-tô mang tư cách là Người Con và là người thừa tự của Thiên Chúa (x. Mt 21,38 ; Mc 12,7 ; Lc 20,14 ; Hr 1,2). Và dân của Người được nhận làm nghĩa tử, nên cũng là những người “đồng thừa tự” (synklēromoi : Rm 8,17). Gia nghiệp Nước Trời (x. Gl 5,25 ; Ep 5,5) thuộc về thời cánh chung (x. Ep 1,14.18 ; Cl 3,24) và không hề hư hoại (x. 1 Pr 1,4). Đức Giê-su đã hứa cho “người hiền lành” được thừa hưởng đất hứa làm gia nghiệp (Mt 5,5).
Người Ki-tô hữu được Đức Ki-tô làm cho trở nên dòng dõi thiêng liêng của Áp-ra-ham, những người thừa kế theo lời hứa (x. Gl 3,29). Phần thừa tự của họ không phải là đất Ca-na-an mà là vương quốc của Đức Ki-tô và của Thiên Chúa (x. Ep 5,5). Người Ki-tô hữu “phải có đức tin và lòng kiên nhẫn” mới được “thừa hưởng các lời hứa” (Hr 6,12).
Cầu nguyện
Lạy Chúa Trời, xin giữ gìn con,
vì bên Ngài, con đang ẩn náu.
Con thưa cùng Chúa : “Ngài là Chúa con thờ,
ngoài Chúa ra, đâu là hạnh phúc ?”
Còn thần ngoại xứ này, những thần linh xưa con sùng mộ,
vẫn gia tăng tàn phá, và thiên hạ tới tấp chạy theo.
Máu tế thần, con quyết chẳng dâng,
tên của thần, môi con không tụng niệm !
Lạy Chúa, Chúa là phần sản nghiệp con được hưởng,
là chén phúc lộc dành cho con ;
số mạng con, chính Ngài nắm giữ.
Phần tuyệt hảo may mắn đã về con,
vâng, gia nghiệp ấy làm con thỏa mãn.
Con chúc tụng Chúa hằng thương chỉ dạy,
ngay cả đêm trường, lòng dạ nhắn nhủ con.
Con luôn nhớ có Ngài trước mặt,
được Ngài ở bên, chẳng nao núng bao giờ.
Vì thế, tâm hồn con mừng rỡ, và lòng dạ hân hoan,
thân xác con cũng nghỉ ngơi an toàn.
Vì Chúa chẳng đành bỏ mặc con trong cõi âm ty,
không để kẻ hiếu trung này hư nát trong phần mộ.
Chúa sẽ dạy con biết đường về cõi sống :
trước Thánh Nhan, ôi vui sướng tràn trề,
ở bên Ngài, hoan lạc chẳng hề vơi !
(Tv 16,1-11).
bài liên quan mới nhất

- Bài 134: Kinh Lạy Cha theo Tin Mừng Luca I Dưới ánh sáng Lời Chúa
-
Bài 133: Mác-ta và Ma-ri-a I Dưới ánh sáng Lời Chúa -
Bài 132: Những hình ảnh biểu tượng Dụ ngôn người Samari tốt lành I Dưới ánh sáng Lời Chúa -
Bài 131: Bảy mươi hai Môn đệ là ai? I Dưới ánh sáng Lời Chúa -
Bài 130: Từ Si-môn đến Phê-rô, từ Sa-un đến Phao-lô I Dưới ánh sáng Lời Chúa -
Bài 129: Thánh Gioan Tẩy Giả: Câu chuyện về những cái tên I Dưới ánh sáng Lời Chúa -
Bài 126: Một Đấng Bảo Trợ khác I Dưới ánh sáng Lời Chúa -
Bài 125: Ngự bên hữu Thiên Chúa I Dưới ánh sáng Lời Chúa -
Bài 124: Cha Thầy và Thầy I Dưới ánh sáng Lời Chúa -
Bài 123: Điều Răn và Điều Răn Mới I Dưới ánh sáng Lời Chúa
bài liên quan đọc nhiều

- Bài 13: Chúa Thánh Thần qua các tước hiệu trong Kinh Thánh
-
Bài 32: Giờ thứ ba, giờ thứ sáu,... Giờ thứ mười một thời khắc trong Kinh Thánh -
Bài 12: Cái Biết Theo Kinh Thánh I Dưới ánh sáng Lời Chúa -
Bài 14: Chúa Giêsu được ĐƯA LÊN trời -
Bài 42: Tỉnh thức hay Canh thức theo Kinh Thánh -
Bài 10: Sự kiện “hiện ra” trong trình thuật Kinh Thánh I Dưới ánh sáng Lời Chúa -
Bài 62: Chứng từ Đức Kitô Phục Sinh / Dưới Ánh Sáng Lời Chúa -
Bài 20: Kiểu nói “Yêu, Ghét” trong Kinh Thánh -
Bài 64: Thiên Sai Luận Mục Tử / Dưới Ánh Sáng Lời Chúa -
Bài 66: Ở Lại Trong Tình Thương Của Thầy/ Dưới Ánh Sáng Lời Chúa