Thánh lễ phong thánh cho năm chân phước

Thánh lễ phong thánh cho năm chân phước

Sáng Nhúa nhật hôm qua, Đức Thánh Cha đã chủ sự lễ nghi phong thánh lần thứ hai trong năm 2009, dành cho 5 chân phước:

- Zygmunt Szczesny Felinski, Giám mục, người Ba Lan, sáng lập dòng các nữ tu Phan Sinh gia đình Đức Mẹ Maria (1822-1895),

- Francíco Coll y Guitart, linh mục dòng Đaminh, người Tây Ban Nha, sáng lập dòng nữ tu Đaminh kính Đức Mẹ Truyền Tin (1812-1875),

- Jozef Damiaan De Veuster, linh mục dòng kính Thánh Tâm Chúa Giêsu và Mẹ Maria, người Bỉ (1840-1899) được mệnh danh là tông đồ người hủi,

- Rafael Arnaiz Baron, tu sĩ dòng Trappist, người Tây Ban Nha (1911-1938),

- Marie de la Croix (Jeanne) Jugan, nữ tu người Pháp (1792-1879), sáng lập dòng Tiểu Muội của người nghèo.

Mỗi vị thánh có một đặc trưng. Vị Giám mục đứng đầu danh sách thuộc dòng dõi quý tộc Ba Lan, khi còn là thanh niên đã từng theo học tại Moscova và Paris, đã tham gia phong trào giải phóng quốc gia, nhưng sau đó anh từ bỏ gia đình để đi tu làm linh mục. Người đã thành lập một lưu xá dành cho người nghèo và một dòng nữ mang danh là “Gia đình Đức Mẹ” với lý tưởng phục vụ những trẻ mồ côi và người nghèo không có gia đình. Đuợc bổ làm Giám mục Varsavia, người cho mở cửa tất cả các nhà thờ trước đây đã bị quân Nga đóng cửa, và vì thế đã bị phát lưu sang Siberia.

Vị thánh thứ hai là một tu sĩ dòng Đaminh, nhưng sau khi khấn dòng thì buộc lòng phải rời tu viện do những sắc luật giải tán dòng tu tại Tây Ban Nha. Tuy vậy, cha vẫn tiếp tục ơn gọi giảng thuyết lưu động và truyền bá kinh Mân côi, và thành lập một dòng nữ tu để chăm sóc các thiếu nữ nghèo túng.

Vị thánh thứ ba, cha Đamien người Bỉ, đã xin bề trên đi sang đảo Molokai (Hawai) để phục vụ các người phong cùi bị xã hội ruồng bỏ. Người đã chăm sóc họ, cất nhà, đào giếng, xây trại cô nhi và bệnh xá cho họ. Sau 11 năm phục vụ và chung sống, cha mắc bệnh và qua đời khi mới được 49 tuổi.

Vị thánh thứ tư là người trẻ nhất xét về tuổi tác cũng như về thời đại, bởi vì qua đời năm 1938 lúc 27 tuổi. Nguyên là một sinh viên ngành kiến trúc ở Madrid, anh nghe tiếng Chúa gọi, dâng mình trong dòng Xitô nhặt phép, nhưng sau 4 tháng thì bị bệnh phải ra về, rồi đến khi lành bệnh thì lại trở vào nhà dòng; cứ như thế 4 lần cho đến lúc lìa trần.

Ngược lại, thánh nữ Jeanne Jugan hưởng thọ 87 tuổi, được gọi là bà mẹ của những người nghèo: một người đã nếm cảnh nghèo khi còn nhỏ, và được ơn gọi phục vụ người nghèo với việc thành lập dòng Tiểu Muội của những người nghèo.

Vì là lễ phong thánh cho năm chân phước thuộc nhiều quốc tịch và dòng tu khác nhau, cho nên số các khách hành hương rất đông. Về phía các phái đoàn chính phủ, nổi bật nhất là quốc vương và hoàng hậu nước Bỉ, quê hương của thánh Đamian. Tổng thống Hoa kỳ cũng gửi điện văn chức mùng vị thánh được biết nhiều ở miền Hawai. Chính phủ Pháp cử Thủ tướng đến tham dự Thánh lễ. Đồng tế với Đức Thánh Cha là 30 vị Hồng y và Giám mục thuộc các giáo phận Ba Lan, Tây Ban Nha, Pháp, Bỉ, Hoa Kỳ, cùng với 20 linh mục Bề trên của các dòng Trappist, Đaminh, Thánh Tâm Chúa Giêsu và Mẹ Maria.

Lẽ ra Thánh lễ được cử hành tại quảng trường thánh Phêrô, nhưng vì lý do thời tiết, nên được dời vào trong đền thờ, và sau Thánh lễ, Đức Thánh Cha đã tiến ra trước thềm đền thờ để chào các đoàn hành hương và xướng kinh Truyền tin.

Dựa theo các bài đọc Sách Thánh của Chúa nhật XXVIII Thường niên, Đức Bênêđictô XVI đã áp dụng vào cuộc đời các tân Hiển thánh. Bằng cách này hay cách khác, các ngài đã thực hành lời mời gọi của Chúa Giêsu với người thanh niên “hãy về bán những tài sản của anh, rồi đến đây theo tôi”; các ngài đã nói được như thánh Phêrô: “này đây. chúng con đã bỏ tất cả để đi theo Thầy” (Mc 10,28).

Thánh Zygmunt là một chứng nhân của đức tin và lòng bác ái mục tử trong giai đoạn gian truân của quốc gia và giáo hội tại Ba Lan. Người đã quan tâm đến cuộc thăng tiến tinh thần của các tín hữu, giúp đỡ các người nghèo và cô nhi. Trong cương vị làm Tổng Giám mục Varsavia, người đã cổ động một cuộc canh tân đời sống tâm linh cho các tín hữu. Trước cuộc nổi dậy năm 1863 chống lại quân Nga, người đã cảnh giác về cuộc đổ máu vô ích. Đến khi xảy ra cuộc nổi dậy và kéo theo những cuộc đàn áp, Người đã đứng ra bảo vệ những người bị bắt bớ. Do lệnh Nga hoàng, Người phải lưu đày 20 năm xa cách giáo phận. Trong mọi hoàn cảnh, người giữ vững lòng tin vào Chúa Quan Phòng và cầu nguyện: “Lạy Chúa, xin gìn giữ chúng con không phải là khỏi những lo âu của đời này … nhưng xin tăng thêm tình yêu trong tâm hồn chúng con, và xin giúp chúng con giữ niềm tín thác vào lòng nhân từ của Chúa.”

Thánh Francisco Coll đã mang ra thực hành lời của thư gửi người Do Thái: “Lời Chúa thì sống động và hữu hiệu” (Dt 4,12). Thánh nhân đã dấn thân phục vụ Lời Chúa, rảo qua khắp các thành phố và làng mạc, giúp cho mọi người được gặp gỡ Chúa, nhờ học biết cầu nguyện và lãnh nhận bí tích. Lời giảng của cha có sức thu hút bởi vì cha đã truyền đạt điều mà mình đã sống trong tâm hồn, đó là lòng mến Chúa Kitô và trao phó cuộc đời để phục vụ ơn cứu độ.

Thánh Đamien rời quê hương khi lên 23 tuổi, để đi rao giảng Lời Chúa ở Hawai. Hoạt động truyền giáo đạt đến cao điểm ở nơi lòng bác ái. Cha đã tìm đến những người phong hủi, bị bỏ rơi để phục vụ họ, dám hiến mạng cho họ. Kẻ phục vụ Lời Chúa trở thành người đầy tớ đau khổ, mắc bệnh với các bệnh nhân trong 4 năm cuối của cuộc đời. Để theo Chúa Kitô, không những cha đã rời bỏ quê hương, mà khước từ cả sức khoẻ của mình nữa.

Khác với người thanh niên đã chần chứ trước lời mời gọi của Chúa Giêsu, thánh Rafael đã dám từ bỏ đời sống sung túc để đi theo Chúa vô điều kiện. Trong nhật ký, anh viết rằng, khi gõ cửa đan viện, anh chưa biết cách cầu nguyện; nhưng chỉ trong vài năm, anh đã tiến đến những bậc cao của đời sống tâm linh. Anh để lại cho các bạn trẻ tấm gương của một thanh niên thích sống cho lý tưởng, đặc biệt cho tình yêu. Đối với anh “tình yêu là tất cả”, và trước khi chết, anh viết lời nguyện sau: “Xin cất con về với Chúa, và xin ban Chúa cho thế gian.”

Thánh Jeanne Jugan thì đưa chúng ta hướng đến những ngươi cao tuổi mà chị đã phục vụ cách vui tươi, hiền hậu và khiêm tốn. Hơn thế nữa, chị đã sống mầu nhiệm tình yêu bằng cách chấp nhận sự tối tăm và tước đoạt cho đến lúc qua đời. Sứ điệp của chị rất thích thời, nhắc nhớ chúng ta đến bao nhiêu người già lão sống trong cảnh bị bỏ rơi, và cần những tâm hồn biết đón tiếp.

Kết luận, Đức Thánh Cha đã dâng lời tạ ơn Thiên Chúa vi hồng ân thánh thiện ban cho Giáo hội qua các vị Hiển thánh, và ước mong rằng chúng ta biết bắt chước các ngài để cho cuộc đời chúng ta trở nên bài ca ngợi khen Chúa.

Bình Hòa

bài liên quan mới nhất

bài liên quan đọc nhiều

Top