Gợi ý suy niệm Phúc Âm Chúa Nhật IV Mùa Chay - Năm C (Song ngữ - Có file đính kèm)

Gợi ý suy niệm Phúc Âm Chúa Nhật IV Mùa Chay - Năm C (Song ngữ - Có file đính kèm)

 

 

Chúa Nhật 4 Mùa Chay
Bài Đọc I: Giôsuê 5:9-12 II: 2Cr 5:17-21

4th Sunday of Lent
Reading I: Joshua 5:9-12 II: 2Cor 5:17-21

Gospel
Luke 15:1-3,11-32

1 Now the tax collectors and sinners were all drawing near to hear him.

2 And the Pharisees and the scribes murmured, saying, "This man receives sinners and eats with them."

3 So he told them this parable:

11 And he said, "There was a man who had two sons;

12 and the younger of them said to his father, 'Father, give me the share of property that falls to me.' And he divided his living between them.

13 Not many days later, the younger son gathered all he had and took his journey into a far country, and there he squandered his property in loose living.

14 And when he had spent everything, a great famine arose in that country, and he began to be in want.

15 So he went and joined himself to one of the citizens of that country, who sent him into his fields to feed swine.

16 And he would gladly have fed on the pods that the swine ate; and no one gave him anything.

17 But when he came to himself he said, 'How many of my father's hired servants have bread enough and to spare, but I perish here with hunger!

18 I will arise and go to my father, and I will say to him, "Father, I have sinned against heaven and before you;

19 I am no longer worthy to be called your son; treat me as one of your hired servants.”

20 And he arose and came to his father. But while he was yet at a distance, his father saw him and had compassion, and ran and embraced him and kissed him.

21 And the son said to him, 'Father, I have sinned against heaven and before you; I am no longer worthy to be called your son.'

22 But the father said to his servants, 'Bring quickly the best robe, and put it on him; and put a ring on his hand, and shoes on his feet;

23 and bring the fatted calf and kill it, and let us eat and make merry;

24 for this my son was dead, and is alive again; he was lost, and is found.' And they began to make merry.

25 "Now his elder son was in the field; and as he came and drew near to the house, he heard music and dancing.

26 And he called one of the servants and asked what this meant.

27 And he said to him, 'Your brother has come, and your father has killed the fatted calf, because he has received him safe and sound.'

28 But he was angry and refused to go in. His father came out and entreated him,

29 but he answered his father, 'Lo, these many years I have served you, and I never disobeyed your command; yet you never gave me a kid, that I might make merry with my friends.

30 But when this son of yours came, who has devoured your living with harlots, you killed for him the fatted calf!'

31 And he said to him, 'Son, you are always with me, and all that is mine is yours.

32 It was fitting to make merry and be glad, for this your brother was dead, and is alive; he was lost, and is found.”

Phúc Âm
Luca 15:1-3,11-32

1 Khi ấy, những người thu thuế và những kẻ tội lỗi đến gần Chúa Giêsu để nghe Người giảng;

2 thấy vậy, những người biệt phái và luật sĩ lẩm bẩm rằng: "Ông này đón tiếp những kẻ tội lỗi và cùng ngồi ăn uống với chúng".

3 Bấy giờ Người phán bảo họ dụ ngôn này:

11 "Người kia có hai con trai.

12 Đứa em thưa với cha rằng: 'Thưa cha, xin cha cho con phần gia tài thuộc về con'. Người cha liền chia gia tài cho các con.

13 Ít ngày sau, người em thu nhặt tất cả của mình, trẩy đi miền xa và ở đó ăn chơi xa xỉ phung phí hết tiền của.

14 Khi nó tiêu hết tiền của thì vừa gặp nạn đói lớn trong miền đó, và nó bắt đầu cảm thấy túng thiếu.

15 Nó vào giúp việc cho một người trong miền, người này sai nó ra đồng chăn heo.

16 Nó muốn ăn những đồ cặn bã heo ăn cho đầy bụng, nhưng cũng không ai cho.

17 Bấy giờ nó hồi tâm lại và tự nhủ: 'Biết bao người làm công ở nhà cha tôi được ăn uống dư dật, còn tôi, tôi ở đây phải chết đói.

18 Tôi muốn ra đi trở về với cha tôi và thưa người rằng: "Thưa cha, con đã lỗi phạm đến trời và đến cha,

19 con không đáng được gọi là con cha nữa, xin cha đối xử với con như một người làm công của cha" '.

20 Vậy nó ra đi và trở về với cha nó. Khi nó còn ở đàng xa, cha nó chợt trông thấy, liền động lòng thương; ông chạy ra ôm choàng lấy cổ nó và hôn nó hồi lâu.

21 Người con trai lúc đó thưa rằng: 'Thưa cha, con đã lỗi phạm đến trời và đến cha, con không đáng được gọi là con cha nữa'.

22 Nhưng người cha bảo đầy tớ: 'Mau mang áo đẹp nhất ra đây và mặc cho cậu, hãy đeo nhẫn vào ngón tay cậu, và xỏ giầy vào chân cậu.

23 Hãy bắt con bê béo làm thịt để chúng ta ăn mừng:

24 vì con ta đây đã chết, nay sống lại, đã mất, nay lại tìm thấy'. Và người ta bắt đầu ăn uống linh đình.

25 "Người con cả đang ở ngoài đồng. Khi về gần đến nhà, nghe tiếng đàn hát và nhảy múa,

26 anh gọi một tên đầy tớ để hỏi xem có chuyện gì.

27 Tên đầy tớ nói: 'Đó là em cậu đã trở về, và cha cậu đã giết bê béo, vì thấy cậu ấy về mạnh khỏe'.

28 Anh liền nổi giận và quyết định không vào nhà. Cha anh ra xin anh vào.

29 Nhưng anh trả lời: 'Cha coi, đã bao năm con hầu hạ cha, không hề trái lệnh cha một điều nào, mà không bao giờ cha cho riêng con một con bê nhỏ để ăn mừng với chúng bạn.

30 Còn thằng con của cha kia, sau khi phung phí hết tài sản của cha với bọn đàng điếm, nay trở về thì cha lại sai làm thịt bê béo ăn mừng nó'.

31 Nhưng người cha bảo: 'Hỡi con, con luôn ở với cha, và mọi sự của cha đều là của con.

32 Nhưng phải ăn tiệc và vui mừng, vì em con đã chết nay sống lại, đã mất nay lại tìm thấy'".

Interesting Details

  • This passage has been commonly referred to as "the prodigal son," or "the lost son." It was actually about both sons being lost in life. Both were treated very generously by the father; one took what he had and wasted it all, while the other was not even aware of how much he owned and thus not happy with the way the father treated him.
  • (v.2) This verse demonstrates the tendency of human beings to protect themselves by drawing a line between "righteous people" and "wrong people." However, we often create our own self-righteousness by making others wrong for what they did and rejecting them.
  • (v.11) Two sons: Provides a ground for comparison.
  • (v.12) The father just did, without question, what the younger son had asked of him; he had no judgment of what the son was trying to do.
  • (vv.13-16) A series of wrong actions, one leading to another. While Jews could not eat pork, joining the Gentiles to feed swine and eating their food were probably not the son's choices but rather the consequences of his earlier wrong decision for his own life.
  • (vv.17-18) "When he came to himself" means he was very present to how he had gotten himself to the current situation, thus he could clearly see the relationship with his father, as well as the generosity of this man. He instantly saw a solution.
  • (vv.20-24) The father apparently thought of nothing but the fact that the person off in the distance was his son. He had no judgment about what had happened and just wanted to welcome his son back to the full status of a son, which was symbolized by the robe, ring, and sandals.
  • (vv.28-31) The elder son blamed the father for mistreating him; he did not realize that he had an ownership of the estate and could treat himself any which way he wished.

Chi Tiết Hay

  • Đoạn Tin Mừng này thường được nhắc đến là dụ ngôn 'Người con hoang đàng' hay 'Người con bị lầm lạc'. Thật ra là nói về cả hai người con cùng lầm lạc trong cuộc sống. Cả hai đều được ưu đãi bởi người cha; người em đã lấy hết và phung phí không còn gì, trong khi người anh lại không biết là mình có rất nhiều nên đã không hài lòng với cách cư xử của cha.
  • (c.1) Câu này cho thấy con người có khuynh hướng tự vệ bằng ranh giới giữa 'người đúng' và 'người saí. Chúng ta thường tự cho mình là đúng, bằng cách bắt bẻ, kết tôị người khác qua việc làm của họ để rồi ghét bỏ, xa lánh họ.
  • (c.11) Hai người con: Mục đích để so sánh hai mẫu người khác nhau.
  • (c.12) Người cha làm theo sự yêu cầu của con và không thắc mắc; ông không xét đoán con cách vội vàng.
  • (cc.13-16) Một chuỗi hành động sai quấy, hành động này đưa tới hành động khác. Trong khi đạo Do Thái cấm ăn thịt heo, việc đi chăn heo và ăn đồ ăn của chúng, có lẽ không là sự lựa chọn của người con mà chỉ là hệ quả của việc anh tự quyết định cho cuộc đời của mình trước đây.
  • (cc.17-18) Người con đã thẳng thắn nhìn nhận thực tại của mình. Nhờ đó anh có thể sáng suốt thấy được sự hiện hữu của tình cha con, cũng như tấm lòng quảng đại của cha mình đối với cả những người tôi tớ. Anh chợt thấy một lối thoát.
  • (cc.20-24) Người cha không nghĩ gì ngoài việc biết là con mình từ đàng xa. Ông cũng không phán đoán gì về những gì đã xảy ra và muốn đón nhận lại người con với đầy đủ thế giá qua biểu hiệu của áo choàng, nhẫn, và giầy.
  • (cc.29-31) Người con trưởng trách cha đã đối xử bất công với mình; anh ta không biết rằng mình làm chủ cả cơ nghiệp và có thể tự xử theo ý mình.

One Main Point

Like the father in this parable, God has given each of us so much including the freedom to choose our own life, and He always knows us as His sons and daughters. When we have been on a wrong path and chosen to come back, He has no judgment of what we have done, and is always glad to take us back with love.

Một Điểm Chính

Như người cha trong dụ ngôn này, Thiên Chúa đã ban cho mỗi người chúng ta rất nhiều thứ kể cả tự do dể lưa chọn cuộc đời mình, và Người luôn nhớ chúng ta là con cái. Khi chúng ta lầm đường và biết quay về, Nguòi không phán đoán tội lỗi chúng ta đã phạm mà luôn vui mừng đón nhận chúng ta trong yêu thương.

Reflections

  • Seeing how the lost son found the way out for his own life, when facing an undesired situation how can I be present to my own mistake, so I can clearly see myself in my relationship with God and others? What am I to do, to put my life back to where it belongs so I no longer have to struggle?
  • The father in this parable took his son back as if nothing had been wrong with him. Can I think of many situations in which I made someone wrong for what he or she did and then refused my love for him or her?
  • Like the elder son, I might have judged and blamed others including God, as if they were responsible for how I feel about myself. How do I take ownership of, and become responsible for my life?

Suy Niệm

  • Để ý cách người con hoang đàng tự tìm ra lối thoát cho đời mình, tôi có thể thành thật nhìn nhận thực trạng của minh, để thấy thật rõ chính mình trong mối liên hệ với Thiên Chúa, và với mọi người? Tôi phải làm gì để cuộc đời của mình được đặt đúng chỗ, để tôi không còn thấy khổ sở nữa?
  • Người cha trong dụ ngôn này đã đón nhận nguòi con trở về như không có gì sai quấy nơi con mình. Tôi có thể nhớ lại nhiều trường hợp trong đó tôi đã phán đoán về người khác là sai quấy vì những việc làm của họ, để rồi từ chối không yêu thương họ nữa?
  • Giống như người anh trong dụ ngôn này, có thể tôi đã phán đoán và đổ lôĩ cho người khác và ngay cả Chúa, như thể họ có trách nhiệm đối với những điều tôi không hài lòng. Tôi ý thức ra sao về việc làm chủ và phải tự trách nhiệm cho cuộc dời của mình?

 

Top