Giáo hội Công giáo Việt Nam và nỗ lực truyền giáo 50 năm qua (3)

Giáo hội Công giáo Việt Nam và nỗ lực truyền giáo 50 năm qua (3)

5. NHỮNG NĂM 1980 – 2000

Thư Chung HĐGMVN: một “hiến chương truyền giáo mới” cho hoàn cảnh quê hương

Hội Đồng Giám Mục Việt Nam đầu tiên họp tại thủ đô Hà Nội. Hội Đồng đã ra thư chung 1/5/1980 khẳng định đường hướng mục vụ: “Sống Phúc Âm giữa lòng dân tộc để phục vụ hạnh phúc của đồng bào”. Thư mục vụ đề ra hai nhiệm vụ cụ thể:

Tích cực góp phần cùng đồng bào cả nước bảo vệ và xây dựng tổ quốc.

Thư mục vụ viết: “Lòng yêu nước của chúng ta phải thiết thực, nghĩa là chúng ta phải ý thức những vấn đề hiện tại của quê hương, phải hiểu biết đường lối, chính sách và pháp luật của Nhà Nước, và tích cực cùng đồng bào toàn quốc góp phần bảo vệ xây dựng một nước Việt Nam giàu mạnh, tự do và hạnh phúc”.

Sở dĩ phải nói về nhiệm vụ bảo vệ và xây dựng tổ quốc là vì trong thời gian này Chính quyền Cách mạng đặc biệt lo lắng về vấn đề phá rối an ninh trật tự có thể đến từ phía mà họ nghĩ là Mỹ - Ngụy, nhưng nặng nề hơn là từ phía Trung Quốc qua ngả Campuchia. Trong thực tế Việt Nam đã tràn quân sang Campuchia 1978, và Trung Quốc đã tràn qua biên giới phía Bắc Việt Nam đầu năm 1979. Ở miền Nam Việt Nam dù xảy ra những vụ việc như vụ nhà thờ Vinh Sơn (2/1976), vụ tịch thu 5 dòng tu ở Thủ Đức (2/1978) mà dư luận cho rằng đó là những hành động răn đe và đàn áp của Chính quyền, nhưng các Giám Mục vẫn không sờn lòng trong quan điểm “Sống Phúc âm giữa lòng dân tộc” - “Bảo vệ và xây dựng tổ quốc” (x. Ba Mươi Năm CG VN dưới chế độ CS 1975 – 2005, tr. 104).

Xây dựng trong Hội Thánh một nếp sống và một lối diễn tả Đức Tin phù hợp hơn với truyền thống dân tộc.

Thư chung viết: “Chúng tôi muốn thực hiện điều Công Đồng Vaticanô II đã tuyên bố: “Những gì tốt đẹp trong tâm hồn và tư tưởng của loài người hoặc trong nghi lễ và văn hoá riêng của các dân tộc, hoạt động của Hội Thánh không nhằm tiêu diệt, nhưng làm cho lành mạnh, nâng cao và kiện toàn, hầu làm vinh danh Thiên Chúa và mưu cầu hạnh phúc cho con người’ (hiến chế Tín Lý 17, 1). Muốn thế, một đàng chúng ta phải đào sâu Thánh Kinh và Thần học để nắm vững những điều cốt yếu của Đức Tin, đàng khác phải đào sâu nếp sống của từng dân tộc trong nước, để khám phá ra những giá trị riêng của mỗi dân tộc. Rồi từ đó, chúng ta tận dụng những cái hay trong một kho tàng văn hoá mà xây dựng một nếp sống và một lối diễn tả Đức Tin phù hợp hơn với truyền thống của mỗi dân tộc đang cùng chung sống trên quê hương và trong cộng đồng Hội Thánh này”.

Như vậy có sức mạnh nào cản trở được sức thâm nhập của chủ trương “hoà nhập văn hoá” này, khi mà sự hoà nhập này chỉ nhằm xây dựng chứ không nhằm phá hoại?

Ngỏ lời với giáo dân: “Chúng tôi xin dựa vào Công Đồng (Vaticanô II) để nói với anh chị em rằng: Ơn gọi của anh chị em là nên thánh giữa đời bằng cách sống Phúc Âm của Chúa Kitô trong các phận sự trần thế (hiến chế Tín Lý 31 ; Mục Vụ 43). Nhờ anh chị em, Giáo Hội hiện diện ngay trong xã hội và góp phần xây dựng đời sống vật chất và tinh thần của dân tộc. Nghĩa vụ cao cả của anh chị em là sống làm người tín hữu trung thành của Hội Thánh Chúa Kitô và là người công dân tốt của tổ quốc”.

Ngỏ lời với tu sĩ: “Dầu sinh hoạt bên ngoài có thay đổi, sứ mạng đặc biệt của anh chị em vẫn luôn luôn là ‘ Hiện thân của một Hội Thánh muốn hiến mình cho đường lối triệt để của các Mối Phúc Thật’, và anh chị em ‘ dùng chính cuộc sống của mình làm dấu chỉ cho tinh thần sẵn sàng phục vụ Thiên Chúa, Giáo Hội và anh em đồng loại’ (Loan Báo Tin Mừng 60 ; Tín lý 44). Chính anh chị em đã tự thấy được rằng đường hướng mà chúng tôi vạch ra cho cả Hội Thánh ở Việt Nam: sống Phúc Âm giữa lòng dân tộc với tinh thần sẵn sàng phục vụ, phù hợp cách riêng với ơn gọi của anh chị em ... Chúng tôi đặc biệt kêu mời anh em hãy quan tâm ... làm sao cho dung hoà giữa lao động và cầu nguyện, giữa việc hoà mình vào các sinh hoạt xã hội ... và sự trung thành với đời sống cộng đoàn ...”

Ngỏ lời với các linh mục: “ Anh em hãy làm cho Chúa Giêsu Kitô hiện diện thực sự giữa đoàn chiên, khi anh em phục vụ các tín hữu cách tận tâm và khiêm tốn (Sắc lệnh đời sống Linh Mục 15). Nhất là, được nhìn nhận như là người đại diện chính thức của Hội Thánh tại địa phương, anh em hãy trở nên hình ảnh của Chúa Cứu Thế, vị mục tử hiền lành và khiêm nhượng để cống hiến ơn cứu độ cho mọi người. Xin anh em hãy cùng với chúng tôi đưa Hội Thánh ở Việt Nam đi vào con đường đã lựa chọn: là sống Phúc Âm giữa lòng dân tộc để phục vụ hạnh phúc của đồng bào”.

Dựa trên văn kiện hướng dẫn này, các thành phần dân Chúa yên tâm sống đạo, không khép kín hoặc tự vệ đối với thực tại xã hội, nhưng sẵn sàng dấn thân phục vụ, đem giá trị của Phúc Âm thấm nhập vào các cơ cấu xã hội mới theo mục tiêu của Đấng Cứu Thế: làm cho “Danh Cha cả sáng, Nước Cha trị đến”. Ta có thể nói Thư Chung 1980 của Hội Đồng Giám Mục Việt Nam gởi toàn thể dân Chúa là một bản hiến chương truyền giáo mới trên quê hương trong hoàn cảnh hiện tại: Sống Phúc Âm giữa lòng dân tộc. Các phong trào truyền giáo đều phải quy chiếu Thư Chung này (x. HĐGMVN 1980 – 2000, tr. 355 – 369).

Thỉnh nguyện thư 1985 đệ trình Toà Thánh

Trong bầu khí truyền giáo và sống đạo của giáo dân đang mỗi ngày thêm sốt sắng, Đức Hồng Y Giuse Maria Trịnh Văn Căn – TGM Hà Nội, Chủ tịch Hội Đồng Giám Mục Việt Nam đã đệ trình thỉnh nguyện thư lên Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II, có đoạn: “Năm 1985, kỉ niệm 25 năm thành lập (1960-1985) Hàng Giáo Phẩm và thiết lập giáo phận theo đúng thể thức Giáo Luật, con trân trọng xin Đức Thánh Cha cho mở lại hồ sơ các Chân Phước Tử Đạo Việt Nam và cứu xét việc tôn phong các Ngài lên bậc Hiển Thánh”. Trong văn thư đó, Đức Hồng Y cũng nhắc tới “những hi sinh cao cả của những bậc ‘tổ tiên’ đã sinh chúng con trong Đức Tin mà con số giáo dân Việt Nam gia tăng liên tục. Ngày nay sấp xỉ 6 triệu tín hữu trên tổng số 60 triệu đồng bào. Dù hoàn cảnh khó khăn eo hẹp, dù cho khan hiếm Linh Mục, niềm tin của giáo đoàn vẫn sống động linh hoạt. Lời Chúa còn vang dội trong các xứ đạo, các Linh Mục vẫn tiếp tục hăng say gặt hái trong cánh đồng của Chúa. Các Cộng đoàn Tu sĩ vẫn phát triển về phẩm cũng như về lượng. Sau hết, giáo dân ý thức nhiều hơn về nghĩa vụ của mình, họ nhìn thẳng vào những khó khăn để can đảm nhận lấy trách nhiệm đối phó” (x. HGPVN 1980 – 2000, tr. 372).

Cuộc tuyên Thánh cho 117 vị Chân Phúc Tử Đạo Việt Nam 1988 và vấn đề đối thoại

Với sự cầu nguyện, hy sinh và sự sự vận động từ nhiều phía qua nhiều thời gian, cuối cùng biến cố tuyên Thánh cho 117 vị Chân Phúc Tử Đạo Việt Nam đã được Toà Thánh long trọng tổ chức tại Rôma ngày 19/6/1988. Đó là niềm vui vĩ đại của Giáo Hội Công giáo Việt Nam.

Tuy nhiên từ biến cố đáng ghi nhớ đó, ta có thể tự đặt ra một số vấn nạn:

– Hàng ngũ các vị tử đạo có nhiều quốc tịch khác nhau, vậy chúng ta có quan tâm đủ các người dân tộc khác với ta trên đất nước này chưa, ví dụ người Khmer, Trung Hoa, Chà, các dân bản địa miền rừng núi cao nguyên ...

– Câu chuyện Hội nhập văn hoá đã được vận dụng thế nào trong truyền giáo? Những cuộc hội thảo, giao lưu văn hoá nên được tổ chức thường xuyên hơn. Việc Thờ Kính Tổ Tiên gây tranh cãi trong một thời gian lâu dài, nay có nhiều cơ hội cho các tín hữu tìm hiểu kỹ lưỡng hơn về “chữ Hiếu” trong nền văn hoá dân tộc.

– Vấn đề đối thoại tôn giáo cần được mở ra theo những hướng nào? HĐGMVN đã thiết lập “Uỷ Ban Đối Thoại Liên Tôn” nhằm tìm hiểu và đối thoại với những tôn giáo khác như Phật giáo, Tin Lành, Hoà Hảo, Cao Đài, Hồi giáo, đạo Ông Bà. Trong chương trình huấn luyện tại các Chủng viện, Học viện, bộ môn thần học về các tôn giáo đã được quan tâm để nhắm tới mục tiêu này (x. Georg Evers, The Churches in Asia, ISPCK 2005, tr. 361, mục nói về VN).

Thực ra tại Việt Nam, Giáo Hội đang chuẩn bị cho đối thoại, và hiện nay chỉ nhắm tới việc sống chung, cộng tác làm việc từ thiện chung với các tôn giáo khác mà thôi. Còn việc đối thoại với Nhà Nước, cần được thực hiện với nhiều khôn ngoan, đạo đức. Tóm lại. đối thoại với nhau luôn luôn là việc cần thiết để tìm ra những hướng giải quyết tốt nhất và thuận lợi nhất cho sứ mạng Loan Báo Tin Mừng của Giáo Hội.

Mối tương quan với Nhà Nước

Ngoài những văn thư gởi dân Chúa, các Đức Giám Mục trong HĐGMVN cũng có những văn thư kính gởi Lãnh đạo Nhà Nước, để trình bày về những sinh hoạt tôn giáo, những đóng góp của giáo dân trong công tác xây dựng quê hương, đồng thời thường xuyên xác định mục tiêu của Giáo Hội trong việc sống và truyền đạo là luôn thích hợp với lợi ích của toàn dân. Những phát biểu của quý Đức Cha cũng nói lên những khó khăn cần sự quan tâm giải quyết của Nhà Nước mới có thể tháo gỡ được (x. HĐGMVN 1980 – 2000, tr. 423 – 430).

Thời điểm này (26/10/1993), Đức Cha Phaolô Maria Nguyễn Minh Nhật, chủ tịch Hội Đồng Giám Mục Việt Nam, đã gởi một bản góp ý của HĐGMVN đến Chính phủ, nội dung gồm những góp ý về việc xây dựng đất nước và những yêu cầu bức thiết của tôn giáo. Một điểm quan trọng có thể được nhắc lại: “Trong các quyền của con người thì quyền tự do tôn giáo là đặc biệt rất quan trọng nên phải được tôn trọng như một quyền lợi chứ không phải như một đặc ân. số II, 3” (x. HĐGMVN 1980 – 2000, tr. 434). Ngoài những góp ý trên đây, còn những kiến nghị khác nêu lên những vấn đề của Giáo Hội mà toàn thể dân Chúa mong được Nhà Nước quan tâm, như về mục vụ – nhân sự – cơ sở – giáo dục – dòng tu – việc xuất bản v..v… (x. HĐGMVN 1980 – 2000, tr. 437 - 447).

Dù không phải là rao giảng Lời Chúa, nhưng việc các Đức Giám Mục ngỏ lời trong các văn thư gởi Nhà Nước được coi như một “thái độ ngôn sứ” theo khuôn mẫu Gioan Tẩy Giả đã thực hiện. Thái độ đó khuyến khích giáo dân tin tưởng mạnh mẽ hơn và hiệp thông gắn bó hơn với các vị chủ chăn trong sứ mạng Loan Báo Tin Mừng.

Góp ý với Hội Đồng Giám Mục thế giới

Hoà nhịp với sứ mạng Loan Báo Tin Mừng trên thế giới, Hội Đồng Giám Mục Việt Nam cũng tích cực tham gia góp tiếng nói với Giáo Hội toàn cầu, như đệ đạt ý kiến về bản văn Lineamenta nhằm đóng góp cho việc soạn thảo Instrumentum laboris (x. HĐGMVN 1980 – 2000, tr. 448 - 464). Những ý kiến này rất có giá trị về mặt thần học. Sau đó (17/3/1995) Hội Đồng Giám Mục Việt Nam đã tham dự Thượng Hội Đồng Giám Mục tại Á Châu từ 19/4 đến 15/5/1998 mà Việt Nam là một trong những thành viên sáng lập từ năm 1970 (x. Georg Evers, The Churches in Asia, ISPCK 2005, tr. 333, mục nói về VN 1954 - 1975).

Trong những văn bản được công bố tại Thượng Hội Đồng, các Giám Mục Việt Nam đã nêu những vấn đề về Kitô học, Giáo Hội học, Truyền Giáo học ; những thử thách cũng như những mời gọi của hoàn cảnh đất nước cho việc truyền giáo ; đồng thời nói lên quyết tâm thực hiện sứ mạng để đáp lại những thách đố hiện nay khi bước vào ngàn năm thứ III trong bối cảnh Châu Á (x. HĐGMVN 1980 – 2000, tr. 465 - 500).

Hội Đồng Giám Mục Việt Nam đã cử phái đoàn tham dự Đại hội Truyền Giáo “Kể chuyện Chúa Giêsu tại Á Châu” (Telling the story of Jesus in Asia) tại Thái Lan 18 – 22/10/2006, trong đó đoàn Việt Nam đã trình bày một phương thức truyền giáo qua con đường hội nhập văn hoá, trong khi vẫn quan tâm diễn đạt câu chuyện Chúa Giêsu trong lịch sử của Giáo Hội và trong mối tương quan với các tôn giáo khác. Đức Hồng Y Gioan Baotixita Phạm Minh Mẫn cũng đã thay lời Hội Đồng Giám Mục gởi thư chúc mừng, và không quên phó thác đại hội trong tay Mẹ La Vang và các Thánh Tử Đạo Việt Nam.

Sau đó, Đức Cha Phaolô Nguyễn Văn Hoà, chủ tịch HĐGMVN, trong hội nghị truyền giáo Fidei Donum (Hồng Ân Đức Tin) tại Rôma từ 08 - 11/5/2007, đã phát biểu ngắn gọn về sự lớn mạnh tại Giáo Hội Việt Nam. “Năm 1960 lúc mà Toà Thánh thiếp lập hàng Giáo Phẩm cho Giáo Hội VN thì gia tài Đức Tin các vị thừa sai để lại là một Giáo Hội có 20 giáo phận với hơn 2 triệu tín hữu. Con số này hiện nay đã tăng lên 26 giáo phận với khoảng hơn 6 triệu giáo dân” (x. hội nghị truyền giáo Fidei Donum (Hồng Ân Đức Tin) tại Rôma từ 08 - 11/5/2007, tr. 4). Đồng thời ngài cũng nói tới công cuộc truyền giáo của người Việt Nam ở nước ngoài: “nhiều Linh Mục dòng, triều và Tu sĩ của các giáo phận và Dòng tu được gửi đi từ Việt Nam đã có mặt và phục vụ tại nhiều nơi trên thế giới như: Nhật Bản, Hàn Quốc, Đài Loan, Uc, Ba Lan, Pháp, Hoa Kỳ, Paraquay, Phi Luật Tân, Tân Tây Lan, Mongolia … hiện nay có hơn 500.000 người công giáo Việt Nam sống ở nước ngoài. Ở đâu họ cũng làm cho các xứ đạo sống động hơn, họ tham gia tích cực vào các sinh hoạt giáo xứ. Gia đình công giáo Việt Nam cung cấp nhiều Linh Mục và Tu sĩ cho các Giáo Hội địa phương. Trong sự quan phòng của Thiên Chúa, cuộc di cư củ ahọ đã trở thành một cuộc truyền giáo” (x. hội nghị truyền giáo Fidei Donum (Hồng Ân Đức Tin) tại Rôma từ 08 - 11/5/2007, tr. 4 - 5).

Trong thời điểm hiện nay, HĐGMVN cũng quan tâm đặc biệt đến việc truyền giáo cho anh chị em sắc tộc trên toàn quốc, và đã cử một phái đoàn tham dự hội nghị chuyên đề về công tác đó, được tổ chức tại Thái Lan ngày 21 – 24/8/2009 “Evangelization among indigenous/tribal communities”. Phái đoàn Việt Nam đã trình bày phương cách truyền giáo cho 24 sắc tộc tại một số giáo phận như Kon Tum – Ban Mê Thuột – Đà Lạt – Phú Cường – Hưng Hoá – Bắc Ninh – Cần Thơ. Bản tham luận của phái đoàn Việt Nam nhấn mạnh tới những điểm hướng dẫn của HĐGM trong những văn thư đã ban hành trước đây, đặc biệt về sự thờ cúng tổ tiên, hội nhập văn hoá, huấn luyện cán bộ truyền giáo, thiết lập những giáo điểm và giải quyết những vấn đề xã hội theo chân lý Phúc Âm.

6. TRUYỀN GIÁO THIÊN NIÊN KỶ THỨ III

Đây là một thời kỳ đầy hứa hẹn và nhiều thách thức. Trong vòng 7 năm gần đây (2001 – 2007), số người theo đạo trung bình mỗi năm khoảng 35.000 người. Nếu quan sát các lớp giáo lý tân tòng, ta thấy có tới 80% – 90% người muốn theo đạo là để lập gia đình với người có đạo. Vậy động lực theo đạo thực sự của họ là gì? Họ có thể sống đạo và giữ đạo lâu dài không? Nếu nghĩ rằng truyền giáo chỉ để “rửa tội” để nâng con số người “theo đạo”, thì đây đúng là một khía cạnh đáng quan tâm cho công cuộc Loan Báo Tin Mừng. Chúng ta cũng vẫn duy trì quan điểm trên theo lệnh Chúa truyền: “Hãy đi giảng dạy và rửa tội cho muôn dân” (Mt 28, 18-20). Nhưng nhiệm vụ Rao Giảng Tin Mừng (= giảng dạy) cần phải được nhấn mạnh trong thời điểm hiện tại, còn cái rửa tội sẽ được Chúa ban thưởng sau.

Uỷ Ban Loan Báo Tin Mừng có đưa ra một đề án cho công cuộc truyền giáo như sau:

Truyền giáo “ad intra”

– Đào tạo nhân sự: tổ chức các khoá học và thực hành truyền giáo tại các giáo phận, dòng tu, nhất là tại các trung tâm mục vụ của các giáo phận và giáo xứ.

– Đào tạo nội dung truyền giáo cho các giảng viên giáo lý với chương trình dài hạn và ngắn hạn.

– Tổ chức các lớp giáo lý tân tòng và hậu hôn nhân với nội dung đầy đủ, nhấn mạnh khía cạnh Loan Báo Tin Mừng.

– Truyền giáo qua truyền thông: sách vở, băng dĩa, tờ “Hiệp Thông” và các báo lưu hành nội bộ, các trang mạng và báo điện tử.

– Phát triển Uỷ Ban LBTM trực thuộc HĐGM và Ban LBTM các giáo phận, giáo xứ.

– Truyền giáo bằng đường lối giáo dục, ít nhất là chương trình khai tâm cho các lớp nhà trẻ.

– Thiết lập thêm các giáo điểm truyền giáo tại những khu dân cư mới, hoặc nương theo phong trào di dân trong toàn quốc.

– Tiếp cận với các tôn giáo bạn trong tinh thần cộng tác, phục vụ và yêu thương.

– Tiếp cận với chính quyền trong sự thật và công lý.

Truyền giáo “ad extra”

– Huấn luyện ơn gọi thừa sai nơi các dòng tu và các giáo phận.

– Hoạt động của các Linh Mục, Tu Sĩ thừa sai VN đang truyền giáo ở nước ngoài cũng cần được chia sẻ để hiệp thông trong sứ mạng Loan Báo Tin Mừng.

– Hội Thừa Sai Việt Nam cũng cần được phát triển để chia sẻ sứ mạng truyền giáo với các nước trong khu vực mà Liên hiệp HĐGM Á Châu đã đề ra từ năm 1970. hội Thừa Sai Việt Nam chính là “con đẻ” của HĐGMVN.

MỞ RA HƯỚNG MỚI

Sứ mạng Loan Báo Tin Mừng không bao giờ có hồi kết, bởi vì chúng ta phải “loan truyền việc Chúa chịu chết và tuyên xưng việc Chúa sống lại cho tới khi Chúa lại đến”. Ở đây chúng tôi xin đề xuất hướng tới của nhiệm vụ tối hậu này:

– Lưu tâm Campuchia, Lào, những người láng giềng gần nhà mà xa ngõ với Giáo Hội Việt Nam.

– Cần đào tạo nâng cao các thừa sai giáo dân “vì bổn phận và trách nhiệm của người giáo dân mà không ai có thể làm thay họ cách đầy đủ” (Apostolicam Actuositatem 13)

– Để truyền giáo hữu hiệu, cần nghiên cứu thấu đáo về văn hóa, xã hội của các vùng truyền giáo đặc trưng như vùng Tây Nguyên, vùng Cực Bắc, Đồng Bằng Sông Cửu Long, …

– Vận dụng mọi phương pháp để khơi dậy niềm khao khát nơi các thành phần dân Chúa: hội thảo, sách báo, phim ảnh, du khảo, hành hương …

– Phối hợp chặt chẽ giữa các Uỷ Ban Giám Mục để hoạt động Loan Báo Tin Mừng

– Vận động các cha sở, các vị có trách nhiệm mục vụ, tạo môi trường và hoàn cảnh thuận lợi, đồng thời hướng dẫn giáo dân góp phần vào sứ mạng Loan Báo Tin Mừng theo chỉ dẫn của HĐGM.

– Tổ chức phát động đồng bộ giữa các giáo phận và dòng tu về việc thiết lập và phát triển 4 hội Giáo Hoàng Truyền Giáo theo huấn thị Cooperatio missionalis về cộng tác truyền giáo theo chỉ thị của Hội Thánh và HĐGMVN. (Người thừa sai trên cánh đồng sứ vụ, đúc kết, tr. 11).

AD VENIAT REGNUM TUUM, DOMINE!

bài liên quan mới nhất

bài liên quan đọc nhiều

Top