Lễ Thánh Gia năm B (Lc 2,22.39-40)

Lễ Thánh Gia năm B (Lc 2,22.39-40)

Lễ Thánh Gia năm B (Lc 2,22.39-40)

“Cha mẹ không biết là con có bổn phận
ở nhà của Cha con sao ?”
(Lc 2,49)

BÀI ĐỌC I: Hc 3,2-6.12-14

Bài trích sách Huấn ca

Đức Chúa làm cho người cha được vẻ vang vì con cái, cho người mẹ thêm uy quyền đối với các con. Ai thờ cha thì bù đắp lỗi lầm, ai kính mẹ thì tích trữ kho báu. Ai thờ cha sẽ được vui mừng vì con cái, khi cầu nguyện, họ sẽ được lắng nghe. Ai tôn vinh cha sẽ được trường thọ, ai vâng lệnh Đức Chúa sẽ làm cho mẹ an lòng. Con ơi, hãy săn sóc cha con, khi người đến tuổi già; bao lâu người còn sống, chớ làm người buồn tủi. Người có lú lẫn, con cũng phải cảm thông, chớ cậy mình sung sức mà khinh dể người. Vì lòng hiếu nghĩa đối với cha sẽ không bị quên lãng, và sẽ đền bù tội lỗi cho con.

Đó là Lời Chúa.

ĐÁP CA: Tv 127, 1-2. 3. 4-5

Đáp: Phúc thay những bạn nào tôn sợ Thiên Chúa, bạn nào ăn ở theo đường lối của Người (x. c. 1).

1) Phúc thay những bạn nào tôn sợ Thiên Chúa, bạn nào ăn ở theo đường lối của Người! Công quả tay bạn làm ra bạn an hưởng, bạn được hạnh phúc và sẽ gặp may. - Đáp.

2) Hiền thê bạn như cây nho đầy hoa trái, trong gia thất nội cung nhà bạn. Con cái bạn như những chồi non của khóm ô-liu ở chung quanh bàn ăn của bạn. Đó là phúc lộc dành để cho người biết tôn sợ Đức Thiên Chúa. - Đáp.

3) Nguyện xin Thiên Chúa từ Sion chúc phúc cho bạn, để bạn nhìn thấy cảnh thịnh đạt của Giêrusalem hết mọi ngày trong đời sống của bạn, và để bạn nhìn thấy lũ cháu đoàn con! - Đáp.

BÀI ĐỌC II: Cl 3,12-21

Bài trích thư của thánh Phaolô Tông đồ gửi tín hữu Côlôxê.

Thưa anh em, anh em là những người được Thiên Chúa tuyển lựa, hiến thánh và yêu thương. Vì thế, anh em hãy có lòng thương cảm, nhân hậu, khiêm nhu, hiền hoà và nhẫn nại. Hãy chịu đựng và tha thứ cho nhau, nếu trong anh em người này có điều gì phải trách móc người kia. Chúa đã tha thứ cho anh em, thì anh em cũng vậy, anh em phải tha thứ cho nhau. Trên hết mọi đức tính, anh em phải có lòng bác ái: đó là mối dây liên kết tuyệt hảo. Ước gì ơn bình an của Đức Ki-tô điều khiển tâm hồn anh em, vì trong một thân thể duy nhất, anh em đã được kêu gọi đến hưởng ơn bình an đó. Bởi vậy, anh em hãy hết dạ tri ân.

Ước chi lời Đức Ki-tô ngự giữa anh em thật dồi dào phong phú. Anh em hãy dạy dỗ khuyên bảo nhau với tất cả sự khôn ngoan. Để tỏ lòng biết ơn, anh em hãy đem cả tâm hồn mà hát dâng Thiên Chúa những bài thánh vịnh, thánh thi và thánh ca, do Thần Khí linh hứng. Anh em có làm gì, nói gì, thì hãy làm hãy nói nhân danh Chúa Giê-su, và nhờ Người mà cảm tạ Thiên Chúa Cha.

Người làm vợ hãy phục tùng chồng, như thế mới xứng đáng là người thuộc về Chúa. Người làm chồng hãy yêu thương chứ đừng cay nghiệt với vợ. Kẻ làm con hãy vâng lời cha mẹ trong mọi sự, vì đó là điều đẹp lòng Chúa. Những bậc làm cha mẹ đừng làm cho con cái bực tức, kẻo chúng ngã lòng.

Đó là Lời Chúa.

Tin mừng: Lc 2, 22.39-40

22 Khi ấy, đủ ngày thanh tẩy theo luật Môsê, cha mẹ Chúa Giêsu liền đem Người lên Giêrusalem để hiến dâng cho Chúa.

39 Khi hai ông bà hoàn tất mọi điều theo luật Chúa, thì trở lại xứ Galilêa, về thành mình là Nadarét.

40 Và Con Trẻ lớn lên, thêm mạnh mẽ, đầy khôn ngoan, và ơn nghĩa Thiên Chúa ở cùng Người.


Bài giảng của Lm. Ignatio Hồ Văn Xuân

Giáo lý cho bài giảng Lễ Thánh Gia năm B:

WHĐ (29.12.2023) - Để hỗ trợ các nhà giảng thuyết thuận tiện hơn trong việc thêm giáo lý vào bài giảng, Ban Biên tập xin được trích dẫn những điểm giáo lý phù hợp với các bài đọc Kinh Thánh của các lễ Chúa nhật, lễ trọng theo sự theo hướng dẫn của Bộ Phụng tự và Kỷ luật các Bí tích trong Tập sách Hướng dẫn giảng thuyết được công bố qua Sắc lệnh ký ngày 29.06.2014.

Số 531-534: Thánh Gia

Số 1655-1658, 2204-2206: Gia đình Kitô giáo, một Hội Thánh tại gia

Số 2214-2233: Bổn phận của các phần tử trong gia đình

Số 529, 583, 695: Việc dâng Chúa Giêsu vào Đền thờ

Số 144-146, 165, 489, 2572, 2676: Ông Abraham và bà Sara là những mẫu gương đức tin

Bài Ðọc I: Hc 3, 3-7. 14-17a

Bài Ðọc II: Cl 3, 12-21

Phúc Âm: Lc 2, 22-40

Số 531-534: Thánh Gia

531. Phần lớn cuộc đời Người, Chúa Giêsu đã chia sẻ thân phận của đại đa số con người: một cuộc sống thường ngày không có vẻ cao trọng nào, một cuộc sống lao động tay chân, một cuộc sống suy phục Luật Thiên Chúa trong Do Thái giáo[1], một cuộc sống trong cộng đoàn. Về toàn bộ quãng đời này, chúng ta được mạc khải là Chúa Giêsu đã vâng phục cha mẹ Người[2] và “ngày càng thêm khôn ngoan, thêm cao lớn, và thêm ân nghĩa đối với Thiên Chúa và người ta” (Lc 2,52).

532. Sự vâng phục của Chúa Giêsu đối với Mẹ Người và cha nuôi của Người là chu toàn cách trọn hảo điều răn thứ tư. Sự vâng phục ở trần gian là hình ảnh của sự vâng phục con thảo của Người đối với Cha trên trời của Ngươi. Việc Chúa Giêsu hằng ngày vâng phục thánh Giuse và Mẹ Maria loan báo và tham dự trước vào sự tuân phục của lời cầu nguyện trong vườn Cây Dầu: “Xin đừng cho ý con thể hiện…” (Lc 22,42). Sự vâng phục của Đức Kitô trong các hoàn cảnh thường ngày của cuộc đời ẩn dật đã khởi đầu công trình tái tạo những gì mà ông Ađam đã phá huỷ vì bất tuân[3].

533. Cuộc đời ẩn dật ở Nazareth cho phép mọi người hiệp thông với Chúa Giêsu qua những lối sống thông thường nhất:

“Ngôi nhà Nazareth là mái trường nơi chúng ta bắt đầu học về cuộc đời Chúa Giêsu; đây là trường dạy Tin Mừng. Trước hết là bài học về thinh lặng. Ước gì chúng ta biết quý chuộng sự thinh lặng, vì đó là bầu khí tuyệt vời và tối cần cho tâm hồn…. Kế đến là bài học về đời sống gia đình: Ước gì Nazareth dạy chúng ta biết gia đình là gì, sự hiệp thông tình yêu của gia đình là gì, vẻ đẹp quan trọng và bừng sáng của gia đình là gì, tính chất thánh thiêng và bất khả xâm phạm của gia đình là gì…. Sau cùng là bài học về lao động. Ôi Nazareth, ngôi nhà của “Con bác thợ mộc”, chính tại đây, chúng ta muốn hiểu biết và đề cao bổn phận lao động của con người, tuy nhọc nhằn nhưng đem lại ơn cứu chuộc…. Sau hết, tại đây chúng tôi muốn chào mừng mọi người lao động trên toàn thế giới, và chỉ cho họ một mẫu mực vĩ đại, là người anh thần linh của họ”[4].

534. Việc tìm thấy Chúa Giêsu trong Đền thờ[5] là biến cố duy nhất phá vỡ sự im lặng của các sách Tin Mừng về những năm tháng ẩn dật của Chúa Giêsu. Ở đây, Chúa Giêsu cho chúng ta thoáng thấy mầu nhiệm của sự tận hiến của Người cho sứ vụ xuất phát từ tư cách làm Con Thiên Chúa của Người. “Cha mẹ không biết là con có bổn phận ở nhà của Cha con sao?” (Lc 2,49) Đức Maria và thánh Giuse “không hiểu” lời này, nhưng đón nhận lời ấy trong đức tin, và Đức Maria “hằng ghi nhớ những điều ấy trong lòng”, suốt những năm dài Chúa Giêsu ẩn mình trong sự thinh lặng của cuộc đời bình thường.

 

Số 1655-1658, 2204-2206: Gia đình Kitô giáo, một Hội Thánh tại gia

1655. Đức Kitô đã muốn được sinh ra và lớn lên trong gia đình thánh của thánh Giuse và Mẹ Maria. Hội Thánh không là gì khác hơn là “gia đình của Thiên Chúa”. Ngay từ những buổi đầu, hạt nhân của Hội Thánh thường gồm những người trở thành tín hữu “cùng với cả nhà”[6]. Khi trở lại, họ ao ước cho “cả nhà mình” cũng được cứu độ[7]. Những gia đình trở thành tín hữu này, là những tiểu đảo của đời sống Kitô giáo giữa một thế giới ngoại giáo.

1656. Ngày nay, giữa một thế giới thường xa lạ và thậm chí thù nghịch với đức tin, gia đình các tín hữu là hết sức quan trọng, với tính cách là những lò lửa đức tin sống động và chiếu sáng. Vì vậy, Công đồng Vaticanô II dùng một thuật ngữ cổ xưa, gọi gia đình là Hội Thánh tại gia (Ecclesia domestica)[8]. Trong tổ ấm gia đình, cha mẹ phải là “những người đầu tiên truyền dạy đức tin cho con cái mình, bằng lời nói và gương sáng, cũng như cổ võ ơn gọi riêng của từng đứa con, đặc biệt quan tâm đến ơn gọi thánh thiêng”[9].

1657. Nơi đây, một cách đặc biệt, người cha, người mẹ, con cái, mọi phần tử trong gia đình, thực thi chức tư tế do Phép Rửa “trong việc lãnh nhận các bí tích, trong kinh nguyện và tạ ơn, qua chứng từ của một đời sống thánh thiện, qua sự từ bỏ, và qua lòng bác ái sống động”[10]. Bằng cách đó, gia đình là trường học đầu tiên về đời sống Kitô hữu và là “một trường học làm người cách phong phú hơn”[11]. Ở đó, người ta học được sự kiên nhẫn và niềm vui của lao động, tình yêu thương huynh đệ, sự tha thứ quảng đại, thậm chí tha thứ nhiều lần, và nhất là việc phụng thờ Thiên Chúa qua kinh nguyện và qua sự hiến dâng cuộc đời mình.

1658. Cũng phải nhắc đến một số người, phải sống trong những hoàn cảnh cụ thể – và thường là ngoài ý muốn – đặc biệt gần gũi với trái tim Chúa Giêsu, họ đáng được Hội Thánh, nhất là các mục tử, yêu thương và quan tâm chăm sóc: đó là đông đảo những người sống độc thân. Nhiều người trong số này không lập gia đình được, thường vì điều kiện nghèo khó. Trong hoàn cảnh của mình, có những người sống theo tinh thần các mối phúc, phục vụ Thiên Chúa và tha nhân một cách gương mẫu. Phải mở ra cho tất cả những người này, cánh cửa của các gia đình là “Hội Thánh tại gia” và cánh cửa của gia đình lớn là Hội Thánh. “Trên đời này, không ai phải thiếu gia đình: vì Hội Thánh là nhà và là gia đình cho tất cả mọi người, nhất là cho những ai ‘đang vất vả mang gánh nặng nề’ (Mt 11,28)”[12].

2204. “Gia đình Kitô giáo bày tỏ và thể hiện một cách đặc biệt sự hiệp thông trong Hội Thánh, vì lẽ đó... phải được gọi là một ‘Hội Thánh tại gia’[13]. Gia đình Kitô giáo là một cộng đoàn đức tin, đức cậy và đức mến; gia đình có một tầm quan trọng độc đáo trong Hội Thánh, như thấy rõ trong Tân Ước[14].

2205. Gia đình Kitô giáo là sự hiệp thông giữa các nhân vị, là dấu vết và hình ảnh của sự hiệp thông giữa Chúa Cha và Chúa Con trong Chúa Thánh Thần. Hoạt động sinh sản và giáo dục của gia đình là phản ánh công trình tạo dựng của Chúa Cha. Gia đình được kêu gọi tham dự vào việc cầu nguyện và hy lễ của Đức Kitô. Việc cầu nguyện hằng ngày và việc đọc Lời Chúa củng cố gia đình trong đức mến. Gia đình Kitô giáo có sứ vụ loan báo Tin Mừng và truyền giáo.

2206. Các tương quan trong gia đình mang lại sự đồng cảm về cảm xúc, tình cảm, và tình nghĩa, chủ yếu phát xuất từ sự tôn trọng lẫn nhau giữa các nhân vị. Gia đình là một cộng đồng ưu việt được kêu gọi để thực hiện một kế hoạch chung của đôi phối ngẫu và sự cộng tác chu đáo của cha mẹ trong việc giáo dục con cái[15].

 

Số 2214-2233: Bổn phận của các phần tử trong gia đình

Bổn phận của con cái

2214. Tình phụ tử thần linh là nguồn mạch của tình phụ tử nhân loại[16]; chính tình phụ tử đó đặt nền tảng cho việc tôn kính cha mẹ. Lòng tôn kính của con cái, còn nhỏ hay đã trưởng thành, đối với cha và mẹ mình[17] được nuôi dưỡng bằng tình cảm tự nhiên xuất phát từ mối dây kết hợp họ. Lòng tôn kính đó được đòi buộc bởi một điều răn của Thiên Chúa[18].

2215. Lòng tôn kính cha mẹ (lòng hiếu thảo) dựa trên sự biết ơn đối với những người, bằng việc trao ban sự sống, bằng tình yêu và công lao của mình, đã sinh ra các con cái mình, giúp chúng có khả năng lớn lên về tuổi tác, về sự khôn ngoan và ân sủng. “Cha con, con hãy hết lòng tôn kính, và đừng quên ơn mẹ đã mang nặng đẻ đau. Hãy luôn nhớ công ơn dưỡng dục sinh thành, công ơn ấy, con sẽ lấy chi đáp đền cho cân xứng ?” (Hc 7,27-28).

2216. Lòng hiếu thảo được bày tỏ qua sự ngoan ngoãn và vâng phục chân thành. “Hỡi con, lệnh cha con truyền, hãy lo tuân giữ; lời mẹ con dạy, chớ bỏ ngoài tai… Những lời đó sẽ hướng dẫn con lúc con tới lui, sẽ giữ gìn con khi con nằm xuống, sẽ cùng con chuyện trò khi con thức dậy” (Cn 6,20-22). “Con khôn giữ lời cha nghiêm huấn, kẻ nhạo báng chẳng nghe lời sửa dạy” (Cn 13,1).

2217. Bao lâu còn chung sống với cha mẹ, con cái phải tuân giữ mọi điều cha mẹ dạy liên quan đến lợi ích bản thân hoặc của gia đình. “Kẻ làm con hãy vâng lời cha mẹ trong mọi sự, vì đó là điều đẹp lòng Chúa” (Cl 3,20)[19]. Con cái cũng phải vâng theo những lời dạy bảo hữu lý của những người giáo dục chúng, và của những người cha mẹ đã giao phó chúng cho họ chăm sóc. Nhưng nếu người con theo lương tâm, thấy vâng theo một lệnh truyền nào đó là làm điều xấu về mặt luân lý, thì không được vâng lời.

Khi trưởng thành, con cái vẫn phải tôn kính cha mẹ. Con cái phải biết đón trước những điều cha mẹ mong muốn, sẵn sàng hỏi ý kiến và đón nhận những lời khuyên bảo chính đáng của cha mẹ. Sự vâng lời của con cái đối với cha mẹ ngưng khi con cái không còn sống chung với cha mẹ nữa, nhưng lòng tôn kính thì không như thế, mà phải tồn tại luôn mãi. Thật ra, lòng tôn kính này có gốc rễ từ lòng kính sợ Thiên Chúa, là một trong các hồng ân của Chúa Thánh Thần.

2218. Điều răn thứ tư còn nhắc cho những người con, khi đã trưởng thành, nhớ các trách nhiệm của họ đối với cha mẹ. Con cái phải trợ giúp cho cha mẹ về vật chất và tinh thần, bao nhiêu có thể, trong những năm tháng của tuổi già, hoặc suốt thời gian bệnh tật, cô đơn hoặc túng thiếu. Chúa Giêsu nhắc lại bổn phận biết ơn này[20].

“Chúa làm cho người cha được vẻ vang vì con cái, cho người mẹ thêm uy quyền đối với các con. Ai thờ cha thì bù đắp lỗi lầm, ai kính mẹ thì tích trữ kho báu. Ai thờ cha sẽ được vui mừng vì con cái, khi cầu nguyện, họ sẽ được lắng nghe. Ai tôn vinh cha sẽ được trường thọ, ai vâng lệnh Chúa sẽ làm cho mẹ an lòng” (Hc 3,2-6).

“Con ơi, hãy săn sóc cha con, khi người đến tuổi già, bao lâu người còn sống, chớ làm người buồn tủi. Người có lú lẫn, con cũng phải cảm thông, chớ cậy mình sung sức mà khinh dể người... Ai bỏ rơi cha mình thì khác nào kẻ lộng ngôn, ai chọc giận mẹ mình, sẽ bị Chúa nguyền rủa” (Hc 3, 12-13.16).

2219. Lòng hiếu thảo củng cố sự hài hoà trong toàn bộ đời sống gia đình, ảnh hưởng cả đến các tương quan giữa anh chị em. Lòng hiếu thảo đối với cha mẹ làm rạng rỡ bầu khí gia đình. “Triều thiên của người già là đàn con cháu, vinh dự của con cái là chính người cha” (Cn 17,6). “Anh em hãy ăn ở thật khiêm tốn, hiền từ và nhẫn nại; hãy lấy tình bác ái mà chịu đựng lẫn nhau” (Ep 4,2).

2220. Các Kitô hữu còn phải biết ơn đặc biệt những ai đã giúp mình lãnh nhận hồng ân đức tin, ân sủng bí tích Rửa Tội và sự sống trong Hội Thánh. Những người này có thể là cha mẹ, những phần tử khác của gia đình, ông bà, các vị mục tử, các giáo lý viên, thầy cô giáo hay bạn bè. “Tôi hồi tưởng lại lòng tin không giả hình của anh, lòng tin đã có nơi cụ Lôít, bà ngoại anh, nơi bà Êunikê, mẹ anh, cũng như chính nơi anh, tôi xác tín như vậy” (2 Tm 1,5).

Bổn phận của cha mẹ

2221. Sự phong phú của tình yêu phu phụ không chỉ giới hạn ở việc sinh sản con cái, mà còn phải mở rộng đến cả việc giáo dục luân lý và đào tạo thiêng liêng cho con cái. “Nhiệm vụ của cha mẹ trong việc giáo dục hết sức quan trọng đến nỗi, nếu thiếu, chắc chắn là không gì thay thế được”[21]. Quyền và bổn phận giáo dục con cái là quyền và bổn phận hàng đầu và bất khả nhượng của cha mẹ[22].

2222. Cha mẹ phải xem con cái của mình như những người con của Thiên Chúa và tôn trọng chúng như những nhân vị. Họ phải dạy cho con cái biết chu toàn Luật Thiên Chúa, bằng cách cho con cái thấy chính họ cũng vâng phục thánh ý Cha trên trời.

2223. Cha mẹ là những người đầu tiên có trách nhiệm giáo dục con cái. Họ thể hiện trách nhiệm này trước hết trong việc xây dựng gia đình, trong đó, tình âu yếm, lòng tha thứ, sự tôn trọng lẫn nhau, lòng chung thủy và sự phục vụ vô vị lợi phải là những chuẩn mực. Gia đình là nơi thích hợp cho việc giáo dục các nhân đức. Việc giáo dục này đòi phải tập bỏ mình, tập phán đoán lành mạnh, tập tự chủ, là những điều kiện để có sự tự do đích thực. Cha mẹ phải dạy cho con cái biết “đặt những gì là vật chất và tự nhiên phụ thuộc những gì thuộc nội tâm và tinh thần”[23]. Cha mẹ có trách nhiệm quan trọng là phải nêu gương tốt cho con cái. Khi biết nhìn nhận những thiếu sót của mình trước mặt con cái, cha mẹ có uy tín hơn để hướng dẫn và sửa dạy con cái:

“Thương con thì cho roi cho vọt... Ai biết giáo dục con sẽ được thỏa lòng về con” (Hc 30,1-2).

“Những bậc làm cha mẹ đừng làm cho con cái tức giận, nhưng hãy thay mặt Chúa giáo dục chúng bằng cách khuyên răn và sửa dạy” (Ep 6,4).

2224. Gia đình là môi trường tự nhiên để khai tâm cho nhân vị về tình liên đới và về các trách nhiệm trong cộng đồng. Cha mẹ phải dạy cho con cái biết giữ mình khỏi những nguy hiểm và những sa đọa đang đe dọa xã hội loài người.

2225. Nhờ ân sủng của bí tích Hôn Phối, cha mẹ nhận trách nhiệm và đặc ân loan báo Tin Mừng cho con cái. Cha mẹ khai tâm cho con cái về các mầu nhiệm đức tin ngay từ lúc đầu đời, chính họ là “những sứ giả đầu tiên”[24] của đức tin đối với con cái mình. Lúc chúng còn thơ ấu, cha mẹ phải cho con cái hoà nhập vào đời sống của Hội Thánh. Cách sống của gia đình có thể nuôi dưỡng những tâm tình tốt đẹp, những tâm tình đó vẫn luôn là sự chuẩn bị và sự nâng đỡ đích thực cho đức tin sống động trong suốt cuộc đời.

2226Việc giáo dục đức tin cho con cái phải được cha mẹ bắt đầu ngay từ tuổi ấu thơ của chúng. Việc giáo dục này đã khởi đầu, khi các phần tử trong gia đình giúp nhau lớn lên trong đức tin, nhờ chứng từ của một đời sống Kitô hữu theo Tin Mừng. Việc dạy giáo lý trong gia đình đi trước, đồng hành và làm phong phú các hình thức khác của việc giáo dục đức tin. Cha mẹ có sứ vụ dạy con cái cầu nguyện và khám phá ra ơn gọi làm con Thiên Chúa[25]. Giáo xứ là cộng đồng Thánh Thể và là trung tâm đời sống phụng vụ của các gia đình Kitô giáo; đó là nơi tốt nhất để dạy giáo lý cho con cái và cho cha mẹ chúng.

2227. Về phần mình, con cái cũng làm cho cha mẹ chúng tăng trưởng trong sự thánh thiện[26]. Mọi người và mỗi người phải biết quảng đại và luôn sẵn sàng tha thứ cho nhau khi gặp những xúc phạm, gây gỗ, bất công và bỏ rơi. Tình yêu thương lẫn nhau gợi lên điều đó. Tình yêu đối với Đức Kitô đòi buộc điều đó[27].

2228. Khi con cái còn nhỏ, sự tôn trọng và yêu thương của cha mẹ được biểu lộ trước hết qua việc chăm sóc và lưu tâm nhằm dạy dỗ con cái mình, để đáp ứng những nhu cầu vật chất và tinh thần của chúng. Khi chúng lớn lên, cũng vẫn sự tôn trọng và tận tụy đó thúc đẩy cha mẹ giáo dục con cái để chúng biết sử dụng lý trí và sự tự do của mình một cách đúng đắn.

2229. Cha mẹ là những người đầu tiên có trách nhiệm giáo dục con cái, nên có quyền lựa chọn cho con cái một trường học đáp ứng được những xác tín riêng của mình. Quyền này là một quyền căn bản. Cha mẹ có bổn phận, bao nhiêu có thể, lựa chọn những trường học nào giúp mình cách tốt nhất, để chu toàn nhiệm vụ của mình là nhà giáo dục Kitô giáo[28]. Công quyền có bổn phận bảo đảm quyền này của các bậc cha mẹ và tạo những điều kiện thực tế để cha mẹ thực thi quyền đó.

2230. Khi đến tuổi trưởng thành, con cái có bổn phận và có quyền lựa chọn nghề nghiệp và bậc sống của mình. Con cái đảm nhận những trách nhiệm mới trong tương quan đầy tin tưởng đối với cha mẹ, sẵn sàng bàn hỏi và đón nhận các ý kiến và lời khuyên của cha mẹ. Cha mẹ phải lưu ý để không ép buộc con cái trong việc chọn nghề nghiệp hoặc chọn bạn trăm năm. Bổn phận giữ sự chừng mực này không ngăn cản họ – mà trái lại – trong việc trợ giúp con cái bằng những lời khuyên khôn ngoan, nhất là khi con cái có ý định lập gia đình.

2231. Có những người không lập gia đình, để đảm nhận việc chăm sóc cha mẹ hoặc anh chị em mình, hoặc để dồn hết tâm trí vào một nghề nghiệp hay vì những động lực cao đẹp khác. Họ có thể góp phần lớn lao vào lợi ích của gia đình nhân loại.

Gia đình và Nước Trời

2232. Các mối liên hệ trong gia đình dù quan trọng, nhưng không phải tuyệt đối. Cũng như đứa trẻ tăng trưởng trong sự trưởng thành và sự tự lập về mặt nhân bản và thiêng liêng, thì cũng vậy, ơn gọi riêng của nó, ơn gọi đến từ Thiên Chúa, cũng được khẳng định một cách rõ ràng hơn và mạnh mẽ hơn. Cha mẹ phải tôn trọng ơn gọi này và khuyến khích con cái đáp trả bằng việc đi theo ơn gọi đó. Phải xác tín rằng ơn gọi thứ nhất của Kitô hữu là đi theo Chúa Giêsu[29]. “Ai yêu cha mẹ hơn Thầy thì không xứng với Thầy. Ai yêu con trai, con gái hơn Thầy thì không xứng với Thầy” (Mt 10,37).

2233. Trở thành môn đệ Chúa Giêsu là chấp nhận lời mời gọi thuộc về gia đình Thiên Chúa, sống theo cách sống của Người: “Ai thi hành ý muốn của Cha tôi, Đấng ngự trên trời, người ấy là anh chị em tôi, là mẹ tôi” (Mt 12,50).

Cha mẹ phải đón nhận và tôn trọng, với tâm tình vui mừng và tạ ơn, ơn gọi mà Chúa dành cho một người nào đó trong số con cái mình để đi theo Người trong sự trinh khiết vì Nước Trời, trong đời sống thánh hiến hay trong thừa tác vụ tư tế.

 

Số 529, 583, 695: Việc dâng Chúa Giêsu vào Đền thờ

529. Việc dâng Chúa Giêsu vào Đền thờ[30] cho thấy Người có tư cách là “con đầu lòng” thuộc về Thiên Chúa như sở hữu riêng của Ngài[31]. Cùng với ông Simêon và bà Anna, toàn thể dân Israel đến gặp gỡ Đấng Cứu Độ mà họ trông chờ (truyền thống Byzantin gọi biến cố này như vậy). Chúa Giêsu được nhìn nhận là Đấng Messia được mong đợi đã quá lâu, là “ánh sáng muôn dân”, là “vinh quang của Israel”, nhưng cũng là “dấu hiệu cho người đời chống báng”. Lưỡi gươm của đau khổ được tiên báo cho Đức Maria, loan báo một việc dâng hiến khác, hoàn hảo và duy nhất, là việc dâng hiến trên thập giá, việc dâng hiến này sẽ mang lại ơn cứu độ mà Thiên Chúa “đã dành sẵn cho muôn dân”.

583. Chúa Giêsu, cũng như các Tiên tri trước Người, tỏ lòng tôn kính rất sâu xa đối với Đền thờ Giêrusalem. Ở đó, Người đã được thánh Giuse và Đức Maria tiến dâng, bốn mươi ngày sau khi Người ra đời[32]. Lúc mười hai tuổi, Người quyết định ở lại trong Đen thờ để nhắc cha mẹ Người nhớ rằng Người phải lo việc của Cha Người[33]. Trong quãng đời ẩn dật của Người, Người đều lên Đền thờ mỗi năm ít nhất để mừng lễ Vượt Qua[34]; thừa tác vụ công khai của Người được đánh dấu như theo nhịp điệu những lần Người hành hương lên Giêrusalem vào những dịp lễ lớn của người Do Thái[35].

695. Sự xức dầu. Sự xức dầu cũng là một biểu tượng nói về Chúa Thánh Thần, đến độ từ này trở thành đồng nghĩa với Chúa Thánh Thần[36]. Trong nghi thức khai tâm Kitô giáo, việc xức dầu là dấu chỉ bí tích của phép Thêm Sức, mà các Giáo Hội Đông phương gọi cách chính xác là “Sự Xức dầu thánh” (“Christmatio”)Nhưng để hiểu thật rõ, phải trở lại với cuộc xức dầu đầu tiên bởi Chúa Thánh Thần: cuộc xức dầu cho Chúa Giêsu. “Kitô” (tiếng Do thái là Messia) có nghĩa là “người được xức dầu” bằng Thần Khí Thiên Chúa. Trong Cựu Ước, có một số nhân vật là “những người được xức dầu” của Chúa[37], nổi bật là vua Đavid[38]. Nhưng Chúa Giêsu là Đấng Được Xức Dầu của Thiên Chúa một cách độc nhất vô nhị: nhân tính mà Chúa Con đảm nhận, “được xức dầu bằng Chúa Thánh Thần” một cách trọn vẹn. Chúa Giêsu được Chúa Thánh Thần thiết đặt làm “Đức Kitô”[39]. Đức Trinh Nữ Maria thụ thai Đức Kitô bởi Chúa Thánh Thần, Đấng đã dùng Thiên thần loan báo rằng Người là Đức Kitô khi Người giáng sinh[40], và là Đấng thúc đẩy ông Simêon đen đền thờ để ông được thấy Đức Kitô của Chúa[41]; Đức Kitô được đầy Thánh Thần[42], và sức mạnh của Chúa Thánh Thần xuất phát từ Đức Kitô trong những hành vi chữa lành và cứu độ của Người[43]. Cuối cùng chính Chúa Thánh Thần làm cho Chúa Giêsu sống lại từ cõi chết[44]. Lúc đó Chúa Giêsu, được thiết đặt làm Đức Kitô một cách trọn vẹn trong nhân tính đã chiến thắng sự chết của Người[45], tuôn đổ Chúa Thánh Thần cách tràn đầy cho đến khi “các Thánh”, trong sự kết hợp với nhân tính của Con Thiên Chúa, làm nên “con người trưởng thành tới tầm vóc viên mãn của Đức Kitô” (Ep 4,13), làm nên “Đức Kitô toàn thể” (“totum Christum”) theo cách nói của thánh Augustinô[46].

 

Số 144-146, 165, 489, 2572, 2676: Ông Abraham và bà Sara là những mẫu gương đức tin

144. Vâng phục (ob-audire: nghe, lắng nghe) bằng đức tin là tự nguyện quy thuận lời đã nghe, bởi vì chân lý của lời đó được Thiên Chúa là chính Chân Lý, bảo đảm. Thánh Kinh trưng dẫn tổ phụ Abraham như gương mẫu của sự vâng phục đó. Còn Đức Trinh Nữ Maria là người thể hiện sự vâng phục đó cách hoàn hảo.

145. Thư gửi tín hữu Do thái, trong bài tán dương đức tin của các bậc tổ tiên, đã đặc biệt nhấn mạnh đến đức tin của ông Abraham: “Nhờ đức tin, ông Abraham đã vâng nghe tiếng Chúa gọi mà ra đi đến một nơi ông sẽ được lãnh nhận làm gia nghiệp, và ông đã ra đi mà không biết mình đi đâu” (Dt 11,8)[47]. Nhờ đức tin, ông đã sống như kẻ mới nhập cư và người lữ hành trong Đất hứa[48]. Nhờ đức tin, bà Sara đã thụ thai người con của lời hứa. Cuối cùng, nhờ đức tin, ông Abraham đã dâng hiến con một mình làm hy lễ[49].

146. Như vậy, ông Abraham đã thực hiện điều Thư gửi tín hữu Do thái định nghĩa về đức tin: “Đức tin là bảo đảm cho những điều hy vọng, là bằng chứng của những điều ta không thấy” (Dt 11,1). “Ông Abraham đã tin Thiên Chúa, và vì thế được kể là người công chính” (Rm 4,3)[50]. “Nhờ niềm tin, ông đã nên vững mạnh” (Rm 4,20), ông Abraham trở thành “tổ phụ của tất cả những người tin” (Rm 4,11.18)[51].

165. Chính lúc đức tin bị cám dỗ, chúng ta phải hướng về các nhân chứng đức tin: về ông Abraham, là người “mặc dầu không còn gì để trông cậy, ông vẫn trông cậy và vững tin” (Rm 4,18); về Đức Trinh Nữ Maria, là người, “trong cuộc lữ hành đức tin”[52], đã tiến đến tận “đêm tối của đức tin”[53] khi tham dự vào đêm tối là cuộc khổ hình thập giá của Con ngài, và đêm tối là phần mộ của Người[54]; và chúng ta phải hướng về biết bao nhiêu nhân chứng đức tin khác nữa: “Được ngần ấy nhân chứng đức tin như đám mây bao quanh, chúng ta hãy cởi bỏ mọi gánh nặng và tội lỗi đang trói buộc mình, và hãy kiên trì chạy trong cuộc đua dành cho ta, mắt hướng về Chúa Giêsu là Đấng khai mở và kiện toàn lòng tin” (Dt 12,1-2).

489. Suốt thời Cựu Ước, sứ vụ của Đức Maria đã được chuẩn bị bởi sứ vụ của những phụ nữ thánh thiện. Ngay từ đầu, là bà Evà: bất chấp sự bất tuân phục của mình, bà đã nhận được Lời Hứa rằng một hậu duệ của bà sẽ chiến thắng ma quỷ[55] và Lời Hứa rằng bà sẽ là mẹ của tất cả chúng sinh[56]. Do lời hứa đó, bà Sara, mặc dù đã cao niên, vẫn thụ thai một người con trai[57]. Trái với mọi niềm hy vọng nhân loại, Thiên Chúa đã chọn những gì bị coi như bất lực và yếu đuối[58] để chứng tỏ Ngài luôn trung tín với lời Ngài đã hứa: bà Anna, mẹ của tiên tri Samuel[59], bà Đêbôra, bà Ruth, bà Juđitha, bà Esther và nhiều phụ nữ khác. Đức Maria “trổi vượt giữa những người khiêm hạ và nghèo hèn của Chúa, những người hy vọng và đón nhận ơn cứu độ từ nơi Ngài với lòng tin tưởng. Cuối cùng, sau sự trông đợi lâu dài Lời Chúa đã hứa, thời gian đã đến hồi viên mãn và một Nhiệm cục mới đã bắt đầu với Đức Maria, người Con Gái Sion cao trọng nhất”[60].

2572. Trong cuộc thanh luyện cuối cùng về đức tin, Thiên Chúa đã đòi ông Abraham, người “đã nhận được lời hứa” (Dt 11,17), phải sát tế đứa con mà Thiên Chúa đã ban cho ông. Ông Abraham vẫn vững tin: “Lễ toàn thiêu, chính Thiên Chúa sẽ liệu” (St 22,8), vì nghĩ rằng “Thiên Chúa có quyền năng cho người chết trỗi dậy” (Dt 11,19). Như vậy, vị tổ phụ của những người tin đã nên giống Chúa Cha, Đấng chẳng tha chính Con Một của Ngài, nhưng đã trao nộp Người vì hết thảy chúng ta[61]. Nhờ cầu nguyện con người được phục hồi tình trạng “giống như Thiên Chúa” và được tham dự vào quyền năng của tình yêu Thiên Chúa, là quyền năng cứu độ muôn người[62].

2676. Hai động thái (một là “ngợi khen” Chúa vì “những điều cao cả” Ngài đã làm cho Mẹ; hai là dâng lên Mẹ Chúa Giêsu những lời cầu khẩn và ca ngợi của con cái Thiên Chúa) của kinh nguyện dâng lên Đức Maria được diễn tả cách độc đáo trong kinh Kính Mừng:

“Kính mừng Maria” (Ave, Maria – Laetare, Maria): lời chào của thiên sứ Gabriel mở đầu kinh Kính mừng. Chính Thiên Chúa, qua vị thiên sứ của Ngài, chào Đức Maria. Lời kinh của chúng ta dám lặp lại lời chào Đức Maria với tâm tình của Thiên Chúa khi Ngài đoái thương nhìn đến người nữ tỳ hèn mọn của Ngài[63] và hân hoan vì niềm vui mà Thiên Chúa gặp được nơi Đức Maria[64].

“Bà đầy ân phúc, Đức Chúa Trời ở cùng bà”: hai phần lời chào của vị thiên sứ soi sáng cho nhau. Đức Maria đầy ân sủng vì Chúa ở cùng Mẹ. Ân sủng, mà Mẹ được ban tràn đầy, chính là sự hiện diện của Đấng là nguồn mạch mọi ân sủng. “Reo vui lên… hỡi thiếu nữ Giêrusalem… Đức Chúa, Thiên Chúa của ngươi đang ngự giữa ngươi” (Sp 3,14.17a). Đức Maria, vì được chính Chúa đến và ngự nơi Mẹ, nên Mẹ chính là thiếu nữ Sion, là Hòm bia Giao Ước, nơi vinh quang Chúa ngự trị: chính Mẹ là “nhà tạm Thiên Chúa ở cùng nhân loại” (Kh 21,3). Được “đầy ơn phúc”, Mẹ đã tận hiến cho Đấng đến ngự nơi Mẹ và là Đấng Mẹ sắp trao ban cho thế gian.

“Bà có phúc lạ hơn mọi người nữ và Giêsu con lòng bà gồm phúc lạ”. Sau lời chào của thiên sứ, chúng ta lấy lời chào của bà Êlisabeth làm lời chào của chúng ta. “Được tràn đầy Thánh Thần” (Lc 1,41), bà Êlisabeth là người đầu tiên trong chuỗi dài những thế hệ tung hô Đức Maria là người có phúc[65]: “Em thật có phúc vì đã tin…” (Lc 1,45). Đức Maria “có phúc lạ hơn mọi người nữ” vì Mẹ đã tin rằng lời Chúa sẽ được hoàn thành. Nhờ đức tin, ông Abraham đã trở thành phúc lành cho “mọi gia tộc trên mặt đất” (St 12,3). Nhờ đức tin, Đức Maria đã trở thành Mẹ của các kẻ tin; nhờ Mẹ, mọi dân tộc trên mặt đất được đón nhận Đấng là chính phúc lành của Thiên Chúa: “Giêsu, con lòng bà gồm phúc lạ”.

Bài giảng Đức Thánh Cha – Lễ Thánh Gia năm B

Đức Phanxicô:

27.12.2020 - Tái khám phá giá trị giáo dục trong gia đình

31.12.2017 - Gia đình Nazaret yêu thương nhau và tin tưởng Thiên Chúa

28.12.2014 - Sứ điệp đức tin đến từ Thánh Gia

Đức Bênêđictô XVI:

28.12.2008 - Thánh Gia chăm chú tuân hành ý muốn của Thiên Chúa

 

1. Suy niệm (TGM Giuse Nguyễn Năng)

Suy niệm: Với lòng thành tín của người cha nuôi, Thánh Giuse đã chẳng quản ngại trời đông giá rét, đêm tối đường xa. Người vội vã đem Hài Nhi và mẹ người trốn sang Ai Cập.

Hình ảnh người cha hiền, người chồng trung tín luôn yêu thương bảo vệ gia đình của Thánh Giuse phản ánh tính tuyệt vời của Thiên Chúa, của Ðức Giêsu đối với Giáo Hội, đối với nhân loại.

Cầu nguyện: Lạy Chúa Giêsu, qua bài Tin mừng hôm nay, mẫu gương của Thánh Giuse dạy cho chúng con: Tất cả vì hạnh phúc gia đình, và tuân hành ý Chúa. Xin cho các bậc gia trưởng, các vị hiền mẫu và những người con luôn chu toàn vai trò của mình. Gia đình hạnh phúc, Thiên Chúa được vinh danh, xã hội luôn an bình. Amen.

Ghi nhớ: “Con trẻ lớn lên, đầy khôn ngoan”.

 

2. Suy niệm (Lm. Antôn Nguyễn Cao Siêu, S.J.)

MỘT LƯỠI GƯƠM ĐÂM THÂU

Trong phòng của Đức Thánh Cha Phanxicô

có tượng thánh Giuse đang nằm ngủ.

Lần đầu tiên nhìn thấy tượng này, ai cũng ngạc nhiên,

vì quen thấy thánh Giuse ở bên Chúa Giêsu hay Đức Mẹ,

hay đang thức để làm một công việc gì đó.

Thánh Giuse nằm nghiêng, ngủ một mình, có vẻ ngủ say,

còn mặc nguyên bộ quần áo khi đi đường.

Chúng ta không thể đoán ngài ngủ ở đâu, vào dịp nào,

nhưng hầu chắc ngài đang cần nghỉ ngơi để lấy lại sức.

Làm cha nuôi của Đức Giêsu hẳn không dễ.

Làm người bạn đường của Đức Mẹ cũng thật cam go.

Ta thường hình dung Thánh Gia như một gia đình đặc biệt,

luôn đầy ắp tiếng cười, đầy ắp niềm vui,

chẳng có chuyện gì trục trặc, chẳng bao giờ gợn chút sóng gió.

Ta thường nghĩ vì Thánh Gia là gia đình của ba vị thánh,

gần gũi với Thiên Chúa, nên dĩ nhiên là phải luôn bình an.

Thật ra, nếu đọc kỹ Tin Mừng, ta sẽ có một cái nhìn khác.

Đời sống của Thánh Gia khá giống với đời sống của chúng ta.

Không phải vì Đức Giêsu là Con Thiên Chúa,

nên Thánh Gia được hưởng những đặc quyền, đặc ân.

Thật ra Thánh Gia đã sống cuộc đời vất vả, long đong,

đã trải qua bao nỗi buồn vui như những gia đình khác.

Vì thế Thánh Gia mới thật là mẫu mực để chúng ta noi theo.

Xem ra Thánh Gia không có gì phi thường ở làng Nadarét.

Khi Đức Giêsu về giảng tại hội đường ở quê nhà,

Nhiều người dân làng đưa ra lời bình phẩm:

“Ông này không phải là bác thợ, con bà Maria,

và là anh em của các ông Giacôbê, Giôxết, Giuđa và Simôn sao ?

Chị em của ông không phải là láng giềng với ta sao ?” (Mc 6,3).

Chúng ta đều biết chuyện ông Giuse suýt chia tay Maria,

khi biết vị hôn thê của mình mang thai (Mt 1,19).

Chúng ta cũng rõ chuyện Thánh Gia lúng túng ở Belem.

Người nghèo thường không có chỗ trọ (Lc 2,7).

Khi sinh con đầu lòng, Maria phải đặt con nằm trong máng cỏ.

Hoảng hốt đem Hài nhi trốn sang Ai-cập trong đêm khuya,

rồi bươn chải kiếm sống để có thể ở lại Ai-cập như một di dân:

đó là những trải nghiệm kinh khủng đối với đôi vợ chồng trẻ.

Người ta thường cho rằng thánh Giuse qua đời sớm,

Nếu đúng thế thì bà quả phụ Maria phải đảm đương thay chồng.

Ngày Đức Giêsu chia tay Mẹ để lên đường làm việc của Chúa Cha,

Mẹ Maria bây giờ sống dựa vào ai ?

Mẹ sống dựa vào ai sau khi Con của Mẹ về trời ?

Chúng ta mong một gia đình hạnh phúc, không có nước mắt.

Nhưng Thánh Gia không tránh khỏi nước mắt.

Maria có thể đã khóc khi lạc con ba ngày ở Đền thờ (Lc 2,46).

Maria có thể đã khóc khi nghe người ta nói con mình mất trí,

và Mẹ đã đôn đáo cùng với thân nhân đi tìm Con (Mc 3,21).

Chắc chắn Mẹ đã khóc khi đứng gần thập giá treo xác Con (Ga 19,25).

Mẹ đã nói tiếng Xin Vâng trước cái chết quá trẻ của Con mình.

Mẹ Maria có thể đặt nhiều câu hỏi tại sao với Thiên Chúa

về những biến cố đau buồn hay mất mát trong đời mình.

Trong Đền thờ, Mẹ đã dâng Con cho Thiên Chúa,

và rồi Mẹ chẳng còn quyền gì trên người Con này nữa.

Đúng là có một lưỡi gươm đâm thấu tâm hồn Mẹ (Lc 2,35).

Mẹ Maria vui khi thấy con mình lớn lên về mọi mặt.

Nước mắt Mẹ được lau khô khi Chúa phục sinh hiện ra với Mẹ.

Ngày nay Thánh Gia là gia đình nhiều người muốn noi theo,

không phải vì có tam đại đồng đường hay phúc lộc thọ.

Nhưng vì đó là gia đình đã trung tín theo Chúa đến cùng,

bất chấp những trắc trở và khó khăn của cuộc sống.

CẦU NGUYỆN

Lạy Chúa,

Xin nhìn đến các gia đình đang bị khép kín,

các trẻ em không được cắp sách đến trường,

một số cha mẹ không thể ra ngoài;

một số thì bị cách ly vì dịch bệnh.

Xin Chúa giúp đỡ họ khám phá những cách thức mới,

những con đường mới để diễn tả tình yêu, và sự sống chung

trong hoàn cảnh khó khăn hiện nay.

Thời gian thử thách lại có thể là một cơ hội tốt

để tìm lại tình yêu thương đích thực,

và tinh thần sáng tạo trong gia đình.

Chúng con cầu xin Chúa cho các gia đình.

Mong sao các tương quan gia đình trong lúc này

được luôn triển nở và mang lại những điều tốt đẹp.

(Phỏng theo ý của Đức Thánh Cha Phanxicô 16/3/2020)

 

3. Suy niệm (Lm. Giuse Đinh Lập Liễm)

XÂY DỰNG GIA ĐÌNH KITÔ HỮU

+++

A. DẪN NHẬP

Hôm nay Giáo hội cho chúng ta mừng lễ kính Thánh gia, một mẫu gương cho các gia đình Kitô giáo. Tuy bài Tin mừng hôm nay không trực tiếp nói đến đời sống Thánh gia, chỉ có vài đoạn đề cập đến nhân đức âm thầm của Đức Maria, đức tin phó thác của thánh Giuse, sự vâng phục của Đức Giêsu, nhưng đó cũng là gương mẫu cho các gia đình noi theo.

Các gia đình ngày nay đang xuống dốc, làm lung lay cả nền tảng xã hội. Chúng ta là những gia đình Kitô hữu cần phải được củng cố lại cho bền vững, để nêu gương cho các gia đình khác đang bị lung lay, bằng cách làm cho mái ấm gia đình thấm nhuần đức tin Kitô giáo: biết yêu thương đùm bọc lẫn nhau, sống trên thuận dưới hoà, biết phục vụ, tha thứ cho nhau và trung thành trong đời sống hôn nhân.

B. TÌM HIỂU LỜI CHÚA

+ Bài đọc 1: Hc 3,2-6,12-14

Khi nói về những đức tính phải có trong đời sống gia đình, Ben Sira, tác giả sách Huấn ca, nói ngay đến lòng hiếu thảo của con cái đối với cha mẹ. Sách Huấn ca này được viết vào khoảng năm 190 trước Chúa Kitô, bàn về cách sống khôn ngoan trong nhiều lãnh vực. Đây là tuyển tập các phương ngôn, phản ánh sự khôn ngoan của xã hội thời đó, một sự khôn ngoan dựa trên kinh nghiệm và lương tri.

Theo tác giả sách Huấn ca, lòng hiếu thảo đưa đến nhiều lợi ích:

- Đền bù tội lỗi.

- Được con cái cháu chắt thảo hiếu lại.

- Sẽ được Chúa nhận lời.

- Phải thảo kính nhất là khi cha mẹ già yếu.

+ Bài đọc 2: Cl 3,12-21

Trong lễ Thánh gia hôm nay, Giáo hội trích đoạn thư của thánh Phaolô gửi cho tín hữu Côlôssê trong khi Ngài đang bị cầm tù lần thứ nhất. Ngài nói về “nếp sống mới” của những người đã cùng chết và sống lại với Đức Kitô. Theo đó, người theo nếp sống mới phải có những đức tính nhân bản: từ bi, nhân hậu, khiêm cung, ôn hoà, nhẫn nại, chịu đựng lẫn nhau và tha thứ cho nhau.

Nền tảng của những đức tính này là Thiên Chúa. Nếu thánh Gioan tông đồ nói: “Thiên Chúa là tình yêu” thì căn bản của đời sống gia đình cũng là thực tình yêu thương nhau trong Chúa. Nếu Thiên Chúa đã xử đối với chúng ta thế nào thì chúng ta cũng phải xử đối với nhau như vậy.

+ Bài Tin mừng: Lc 2,22-30

Thánh Luca đã tường thuật việc thánh Giuse và Đức Maria đem con lên đền thờ Giêrusalem để dâng Con cho Thiên Chúa theo luật dạy. Cuộc hành hương lên Giêrusalem này hé mở cho chúng ta biết một số đặc tính của gia đình Thánh gia:

- Thánh gia là một gia đình nghèo, của lễ dâng chỉ là cặp bồ câu.

- Cặn kẽ giữ luật Chúa mặc dầu Luật không đòi buộc các Ngài phải giữ.

- Gia đình hiệp nhất cùng đi dâng lễ.

Trong dịp này, thánh Giuse và Đức Maria đã nhìn thấy rõ và xác định được sứ mạng của Người Con các ngài, qua lời tiên tri của cụ già Simêon và bà Anna: sứ mạng của con trẻ này sẽ vừa bị thương vừa vinh quang. Tuy thế, các Ngài hoàn toàn tuân phục Thiên Chúa, các Ngài đã quảng đại chấp nhận và thi hành ý Chúa.

C. THỰC HÀNH LỜI CHÚA: Xây dựng mái ấm gia đình

I. NGÀY LỄ THÁNH GIA

1. Lý do mừng lễ

Lễ Thánh gia được thiết lập vào cuối thế kỷ 19, tương đối mới. Đức Giáo hoàng Lêô XIII bấy giờ rất quan tâm đến các vấn đề xã hội. Người thấy nhân loại đang đi vào một nền văn minh mới. Lý trí và khoa học đòi quyền tự lập và tự chủ. Ảnh hưởng đạo đức bớt dần. Và trong phạm vi gia đình, người ta đã nói nhiều đến tự do, ly dị, cởi mở... Những phong trào “gia đình công giáo” có từ thế kỷ 16 ráo riết cổ động người ta noi gương Thánh gia. Đức Giáo hoàng Lêô XIII cũng như các vị kế tiếp muốn chúc phúc cho những phong trào này. Và lễ Thánh gia được thiết lập theo bối cảnh ấy.

Do đó, Giáo hội muốn cho chúng ta mừng lễ này là nhằm đề cao vai trò của gia đình và đưa ra một mẫu gương tuyệt hảo cho mọi người noi theo.

2. Thánh gia, một gia đình gương mẫu

Dựa theo Tin mừng chúng ta có thể biết được rằng: gia đình Thánh gia là một gia đình gương mẫu trong việc giữ luật Chúa, mặc dù luật không buộc các ngài phải giữ, nhưng các Ngài đã làm như thế để nêu gương cho chúng ta. Các nghi lễ đó là:

a) Lễ nghi cắt bì: Theo luật, mỗi con trai người Do thái phải chịu cắt bì ngày thứ tám sau khi sinh, và trong ngày này con trẻ được đặt tên. Thánh Giuse và Đức Maria cũng cho con trẻ được cắt bì và đặt tên là Giêsu, tên mà thiên sứ đã báo trước khi truyền tin cho Đức Maria.

b) Chuộc con đầu lòng: Theo sách Đệ nhị luật (13,2) thì mọi con đầu lòng, dù người hay súc vật đều được dành riêng cho Thiên Chúa. Người ta quy định rằng dâng một số tiền 5 shekel, cha mẹ có thể chuộc lại đứa con từ nơi Chúa, hoặc dâng một số lễ vật khác như chiên hay đôi chim câu. Thánh Giuse và Đức Maria cũng đã chuộc lại con trẻ Giêsu bằng đôi chim câu.

c) Lễ thanh tẩy sau khi sinh: Theo luật, khi người đàn bà sinh con trai thì người mẹ bị ô uế trong 40 ngày, nếu sinh con gái thì bị ô uế 80 ngày. Khi thời gian quy định chấm dứt, người mẹ phải vào đền thờ, để được tẩy uế và đem theo con chiên làm của lễ toàn thiêu và một chim bồ câu non làm của lễ chuộc tội. Nếu người nghèo không có chiên thì dâng bồ câu thứ hai thay vì chiên. Đức Maria nghèo nên dâng lễ theo kiểu này.

Ba nghi lễ này là nghi lễ cổ và lạ, nhưng cũng hàm chứa một niềm tin rằng: con cái là hồng phúc Chúa ban cho. Trong các hồng phúc Chúa đưa đến không có ơn nào khiến ta mang nhiều trách nhiệm với Chúa cho bằng con cái. Sinh con ra, chúng ta còn lo nuôi dưỡng và giáo dục chúng cho nên người.

II. NÓI VỀ GIA ĐÌNH KITÔ HỮU

1. Ý nghĩa gia đình

Đức Giáo hoàng Gioan Phaolô II khẳng định rằng: “Gia đình là nền tảng của xã hội”. Chính vì vậy, mà năm 1994 Liên hợp quốc đã chọn làm năm quốc tế về gia đình. Nếu gia đình là nền tảng của xã hội mà ngày nay đang bị khủng hoảng một cách trầm trọng thì tương lai xã hội sẽ ra sao ?

Vì thế, đứng về phương diện Giáo hội, chúng ta coi gia đình là một “Tổ ấm” hay một “Mái ấm”, một “Giáo hội nhỏ” và là một “trường dạy đức tin”.

a) Gia đình là một tổ ấm yêu thương

Gia đình là tổ ấm yêu thương, là chiếc nôi hạnh phúc. Dù ai ở trong giai cấp nào trong xã hội, nếu tìm thấy niềm an vui trong gia đình, thì họ chính là người hạnh phúc nhất, vì gia đình tồi tàn đi nữa thì đối với một con người, chẳng nơi nào có thể so sánh được với gia đình. Nhưng nếu có người phản đối cho rằng: gia đình là nguồn hạnh phúc, vậy sao gia đình cũng là nguồn đau khổ của đời người ? Thực ra, đau khổ, bế tắc chính là cơ hội để mỗi thành viên trong gia đình động não, sáng tạo và thể hiện tình yêu của mình một cách thuyết phục nhất.

Tổ ấm hay mái ấm gia đình thì cũng vậy. Khi nói tới mái ấm thì nhiều người có rất nhiều ý tưởng cao đẹp về hình ảnh này, một hình ảnh gợi cảm và thân thương nhất mà ai cũng mơ ước.

Truyện: Mái ấm gia đình là gì ?

Mới đây một tờ báo ở London, thủ đô nước Anh, đã gửi câu hỏi “Mái ấm gia đình là gì, theo anh chị” tới 1000 người. Có 800 người đã trả lời, tập trung vào các ý tưởng sau đây:

. Mái ấm: một thế giới xung đột khép lại, một thế giới tình thương mở ra.

. Mái ấm: nơi chuyện nhỏ là quan trọng, chuyện quan trọng là chuyện nhỏ.

. Mái ấm: vương quốc của cha, thế giới của mẹ và thiên đàng của con cái.

. Mái ấm: nơi chúng ta cằn nhằn nhiều nhất nhưng được đối đãi tốt nhất.

. Mái ấm: trung tâm của tình thương mà mọi lời ước nguyện của con tim quyện vào đây.

. Mái ấm: nơi dạ dày chúng ta ăn 3 lần mỗi ngày và tâm hồn ăn ngàn lần mỗi ngày.

. Mái ấm: nơi duy nhất nơi trần gian mà mọi lỗi lầm và thất bại của con người được che đậy dưới lớp áo bác ái che đậy. (GM Arthur Tone, Góp nhặt, tr 125-126).

b) Gia đình là một Giáo hội nhỏ

Đức Giáo hoàng Gioan Phaolô II trong tông huấn về Gia đình cũng dạy: “Giữa những nghĩa vụ căn bản của gia đình Kitô hữu, có một nghĩa vụ có thể nói là có tính cách Hội thánh, vì nghĩa vụ này đặt gia đình vào chỗ phục vụ cho việc xây dựng Nước Thiên Chúa trong lịch sử, đó là tham dự vào cuộc sống và sứ mạng của Hội thánh” (GĐ số 49).

Mối liên hệ giữa gia đình và Hội thánh rất sâu sắc và nhiều đến nỗi có thể gọi gia đình công giáo là “Hội thánh tại gia” (L.G. số 11), hay “Hội thánh rút gọn”, “Hội thánh bỏ túi”. Gia đình công giáo có nhiều liên hệ đến Hội thánh.

* Về phía Hội thánh: Mẹ Hội thánh sinh ra, dưỡng dục và xây dựng gia đình công giáo bằng cách thực hiện cho gia đình sứ mạng Hội thánh đã nhận từ Đức Kitô.

* Về phía gia đình: Gia đình công giáo đã được tháp nhập vào Hội thánh; sứ mạng tháp nhập này cho phép gia đình dự phần vào sứ mạng cứu rỗi của Hội thánh theo cách thức riêng của mình. Nếu Hội thánh được tham dự vào 3 chức năng của Chúa Kitô: tư tế, tiên tri và vương giả, thì gia đình công giáo là Hội thánh tại gia cũng phải xây dựng nếp sống theo mẫu mực Hội thánh gồm 3 chức năng ấy và cũng phải thực hiện 3 chức năng ấy theo chiều kích Hội thánh toàn cầu.

c) Gia đình, một trường dạy đức tin

Trong tông huấn về gia đình, Đức Giáo hoàng Gioan Phaolô II nói: “Gia đình là trường học đầu tiên dạy các đức tính xã hội mà không đoàn thể nào khác có thể vượt qua” (GĐ số 3). Ta cũng có thể nói: gia đình là môi trường thuận lợi cho việc giáo dục đức tin cho con cái. Gia đình là trường dạy đức tin tốt nhất.

Giáo dục đức tin đây không có nghĩa là dạy giáo lý cho các em khi các em còn quá nhỏ không thể tiếp thu được. Cha mẹ chỉ dạy con bằng cách nói về Chúa. Dạy các em biết lạy Chúa, chào Chúa, làm dấu thánh giá hay đọc kinh Lạy Cha, Kính mừng, Sáng danh… Nhưng cách dạy tốt nhất là cha mẹ cứ đọc kinh cầu nguyện để chúng bắt chước, nhất là khi hai vợ chồng cầu nguyện có đứa con ở giữa.

Truyện: Dạy bằng gương sáng

Thực là cảm động khi thấy đứa trẻ ngây thơ nhưng chăm chú nhìn xem nét mặt dịu dàng của bà mẹ đang cầu nguyện.

Bà Vaugham là một trong những người mẹ đáng kể làm gương. Bà đặt tất cả uy tín của bà trong tình yêu thương và lòng đạo đức. Cầu nguyện, bà thường để những đứa nhỏ ngồi bên. Và các em sung sướng học được lòng mến Chúa trên khuôn mặt bà. Cô nhỏ Gladys lần kia đã kêu lên: “Mẹ ơi, sao khi mẹ ở trong nhà thờ, mẹ xinh đẹp thế!”. Bà mỉm cười: “Con ơi, vì có Chúa Giêsu ở đấy”. Cô bé lui ra, vừa đi vừa nhẩm lại lời của mẹ (Bùi Đức, Vinh quang bà mẹ, 1959, tr 124).

2. Đời sống trong gia đình

a) Trật tự trong gia đình

Trong gia đình Thánh gia chỉ có 3 thành viên: Đức Giêsu, Đức Maria và thánh Giuse. Theo pháp lý, thánh Giuse phải là chủ gia đình vì là chồng và là cha. Đức Maria và Đức Giêsu phải phục tùng thánh Giuse như người có quyền trên hết.

Trong cuộc sống gia đình chúng ta cũng vậy: “Kim chỉ phải có đầu”, không thể sống trong cảnh “cá đối bằng đầu”. Gia đình và xã hội phải có trật tự, như bài hát sinh hoạt của thiếu nhi, nếu không sẽ rối loạn:

Con vỏi con voi,
Cái vòi đi trước,
Hai chân trước đi trước,
Hai chân sau đi sau,
Còn cái đuôi thì đi sau rốt...

Một nhà văn viết: “Trật tự là tất cả đều ở trong vị trí của mình, để điều động cho tất cả, với một mục tiêu cho tất cả”.

Nếu tục ngữ Việt Nam nói: “Kim chỉ phải có đầu” thì ngạn ngữ Tây phương cũng nói: “Piscis e capite vivit et e capite faetet”: cá sống tự đầu và cá thối cũng tự đầu .

Thánh Phaolô nói: “Người chồng là đầu người vợ”(Ep 5,23). Thánh nhân cũng biết đầu thì rất hay và cũng rất dở theo kiểu nói Tây phương “cá sống cũng tự đầu và cá thối cũng tự đầu”, nên Ngài còn thêm mấy chữ khác vào câu nói trên: “Người chồng là đầu người vợ như Chúa Giêsu là đầu Hội thánh”.

Do đó, ta có thể kết luận: Người chồng là đầu sống của người vợ nghĩa là làm cho vợ sống, chứ không làm cho nó hư đi như cá thối tự đầu, vậy: nghĩa là chồng phải yêu thương vợ như yêu thương chính mình.

b) Đạo Hiếu trong gia đình

Trong bài đọc I của sách Huấn ca có câu: “Ai thờ cha thì bù đắp lỗi lầm, ai kính mẹ thì tích trữ kho báu”. Như thế, Thiên Chúa chúc phúc và ban ơn lành cho những kẻ biết thờ cha kính mẹ theo như điều răn thứ bốn dạy: “Hãy thảo kính cha mẹ”. Ai giữ điều răn đó thì làm đẹp lòng Thiên Chúa.

Tư tưởng trên cũng rất giống với tư tưởng của người Việt Nam chúng ta mà các em nhỏ đã hiểu khi đọc câu ca dao này:

Công cha như núi Thái Sơn,
Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra.
Một lòng thờ mẹ kính cha,
Cho tròn chữ Hiếu mới là Đạo con.

Hai từ ngữ THỜ và KÍNH là hai từ dùng trong những việc làm của tôn giáo. Thờ kính cha mẹ là có hiếu với cha mẹ, và người ta nâng chữ Hiếu lên thành một ĐẠO. Do đó, chúng ta phải ý thức rằng: thảo kính cha mẹ không còn là những tình cảm chủ quan tuỳ tiện, cũng không phải chỉ là lẽ công bằng mà là một Đạo. Mà lỗi Đạo là phạm tội chứ không phải chỉ là một thiếu sót.

Truyện: Hàn Bá Du có hiếu

Hàn Bá Du ăn ở với mẹ rất có hiếu. Những khi có lỗi mẹ thường đánh đòn. Một hôm Hàn Bá Du phải đòn, khóc mãi. Mẹ thấy vậy hỏi:

- Mọi khi mẹ đánh con, con biết lỗi, con cam chịu ngay. Lần này sao con khóc dai như thế ?

Bá Du thưa:

- Mọi khi mẹ đánh, con thấy đau, con biết mẹ còn mạnh khoẻ. Lần này mẹ đánh con, con thấy không đau mấy, con biết sức mẹ đã yếu, cho nên con nghĩ, con thương mẹ mà con khóc.

Ôi! con ăn ở với mẹ, tuy khó nhọc, khổ sở cũng không dám oán. Như Bá Du trong truyện này, không những không oán mẹ, lại còn thương mẹ già yếu, tình con yêu mẹ thế mới là thắm thiết (Nguyễn Văn Ngọc, Cổ học tinh hoa, quyển 2, tr 18).

c) Hoà hợp trong gia đình

Ai cũng có một ngôi nhà để ở, nếu không, phải ở đầu đường xó chợ hoặc phải đi ở nhờ nhà người khác. Chỗ ở là một nơi rất quan trọng vì người ta nói: “An cư lạc nghiệp”, muốn làm việc cần phải có chỗ ở đã. Việc lập gia đình ví như việc xây dựng một ngôi nhà. Nhà nào cũng là nhà, lớn nhỏ, đẹp xấu, tùy theo khả năng của mình. Nhưng ngôi nhà phải luôn ấm cúng. Vì thế, ngôi nhà của gia đình được gọi là MÁI ẤM. Mái ấm này trước tiên được vợ chồng xây dựng, sau này con cái góp phần làm cho mái ấm trở nên khang trang, đẹp đẽ và ấm cúng hơn.

Người ta thường nói: “Đàn ông dựng nhà, đàn bà xây tổ ấm”. Xây dựng được ngôi nhà thì dễ còn làm sao cho ngôi nhà trở nên ấm cúng thì càng khó. Có những ngôi nhà trong đó có những người không hoà hợp với nhau, bề ngoài tuy đồ sộ nguy nga, nhưng bên trong thì lạnh lẽo, vắng vẻ, tiêu điều.

Ngược lại, có những ngôi nhà tuy đơn sơ, có khi còn nghèo nàn như một túp lều tranh mà lại ấm cúng vì trong đó có những người biết sống hòa hợp thương yêu nhau, biết mưu cầu hạnh phúc cho nhau, biết quên mình phục vụ, biết nhịn nhục nhau, tha thứ cho nhau... để ngôi nhà đơn sơ đó trở nên một hình ảnh rất đẹp “Một mái nhà tranh, hai trái tim vàng”. Mái ấm đó được thành hình do sự cộng tác và hoà hợp của vợ chồng như hình ảnh:

Em về cắt rạ đánh tranh
Chặt tre chẻ lạt cho anh lợp nhà.
Sớm khuya hòa thuận đôi ta
Hơn ai gác tía, lầu hoa một mình (ca dao)

Thánh gia thất Đức Giêsu, Đức Maria và thánh Giuse là một gia đình kiểu mẫu đáng cho mọi gia đình Kitô hữu noi theo, trong đó mọi người yêu thương nhau, đùm bọc lẫn nhau trong tình bác ái, mỗi thành viên làm trọn nhiệm vụ của mình để xây đắp cho gia đình. Gia đình không phải là nơi tạm trú, mà phải là nơi thường trú của mọi người, không ai có thể rời bỏ được. Nếu hiểu được ý nghĩa thực của gia đình thì phải nói gia đình là một kho tàng quí giá.

Truyện: Gia đình là một kho tàng

Ông George đã đến tuổi 70, ông không lập gia đình, ông là một thuỷ thủ, cả cuộc đời lênh đênh trên biển cả. Ông không có nhà riêng. Cháu trai ông tên là BILL rất thương bác George nên đã mời bác về sống với Bill, với vợ và 5 con của Bill. Đó là sự giúp đỡ lẫn nhau: bác George có nhà ở, còn gia đình của Bill có dịp làm những chuyến viễn du tưởng tượng quanh thế giới, mỗi khi lắng nghe bác George kể lại kinh nghiệm của mình.

Đôi khi Bill cảm thấy nhàm chán và bất mãn với cuộc sống gia đình. Được rảo quanh thế giới không lo lắng, thảnh thơi vui sướng biết bao. Và Bill đã bày tỏ nỗi lòng cho bác.

Một chiều kia, bác George nhắc đến một nơi xa xăm. Bác có đánh dấu trên bản đồ một kho tàng chôn giấu. Bill ghi nhớ điều đó, nên sau khi bác George chết vài năm, Bill coi lại đồ đạc của bác và tìm thấy một bao thư đề tên Bill, trong đó có một tấm bản đồ. Tim đập mạnh, tay run run, Bill cố gắng tìm ra nơi cất giấu kho tàng. Sau cùng chàng cũng xác định được địa điểm: Đó là căn nhà của chàng, nơi mà chàng đang đứng.

Bác George đã trối lại cho chàng một kho báu là ý thức rằng: nhà của chàng, gia đình riêng của chàng là kho báu (Góp nhặt 4, tr 109).

 

4. Suy niệm (song ngữ)

Feast of Holy Family
Reading I: Gen. 15: 1-6; 21:1-3
Reading II: Hebrews 11: 8, 11-12, 17-19

Lễ Thánh Gia
Bài Đọc I: St 15: 1-6; 21:1-3
Bài Đọc II: Dt 11: 8, 11-12, 17-19

Gospel
Luke 2:22-40

22 And when the time came for their purification according to the law of Moses, they brought him up to Jerusalem to present him to the Lord

23 (as it is written in the law of the Lord, Every male that opens the womb shall be called holy to the Lord)

24 and to offer a according to what is said in the law of the Lord, a pair of turtledoves, or two young pigeons.

25 Now there was a man in Jerusalem, whose name was Simeon, and this man was righteous and devout, looking for the consolation of Israel, and the Holy Spirit was upon him.

26 And it had been revealed to him by the Holy Spirit that he should not see death before he had seen the Lords Christ

27 And inspired by the Spirit he came into the temple; and when the parents brought in the child Jesus, to do for him according to the custom of the law,

28 he took him up in his arms and blessed God and said,

29 Lord, now lettest thou thy servant depart in peace, according to thy word;

30 for mine eyes have seen thy salvation

31 which thou hast prepared in the presence of all peoples,

32 a light for revelation to the Gentiles, and for glory to thy people Israel.

33 And his father and his mother marveled at what was said about him;

34 and Simeon blessed them and said to Mary his mother, Behold, this child is set for the fall and rising of many in Israel, and for a sign that is spoken against

35 (and a sword will pierce through your own soul also), that thoughts out of many hearts my be revealed.

36 And there was a prophetess, Anna, the daughter of Phanu-el, of the tribe of Asher; she was of a great age, having lived with her husband seven years from her virginity,

37 and as a widow till she was eighty-four. She did not depart from the temple, worshiping with fasting and prayer night and day.

38 And coming up at that very hour she gave thanks to God, and spoke of him to all who were looking for the redemption of Jerusalem.

39 And when they had performed everything according to the law of the Lord, they returned into Galilee, to their own city, Nazareth.

40 And the child grew and became strong, filled with wisdom; and the favor of God was upon him.

Phúc Âm

Luca 2,22-40

22 Khi đã đến ngày lễ thanh tẩy của các ngài theo luật Mô-sê, bà Ma-ri-a và ông Giu-se đem con lên Giê-ru-sa-lem, để tiến dâng cho Chúa,
23 như đã chép trong luật Chúa rằng:
Mọi con trai đầu lòng phải được gọi là của thánh, dành cho Chúa,

24 và cũng để dâng của lễ theo Luật Chúa truyền, là một đôi chim gáy hay một cặp bồ câu non.

25 Và này đây, tại Giê-ru-sa-lem, có một người tên là Si-mê-on. Ông là người công chính và sùng đạo, ông những mong chờ niềm an ủi của Ít-ra-en, và Thánh Thần hằng ngự trên ông.

26 Ông đã được Thánh Thần linh báo cho biết là ông sẽ không thấy cái chết trước khi được thấy Đấng Ki-tô của Đức Chúa.

27 Được Thần Khí dun dủi, ông lên Đền Thờ. Vào lúc cha mẹ Hài Nhi Giê-su đem con tới để chu toàn tập tục Luật đã truyền liên quan đến Người,

28 thì ông ẵm lấy Hài Nhi trên tay, và chúc tụng Thiên Chúa rằng:

29 Muôn lạy Chúa, giờ đây theo lời Ngài đã hứa, xin để tôi tớ này được an bình ra đi.

30 Vì chính mắt con được thấy ơn cứu độ

31 Chúa đã dành sẵn cho muôn dân:

32 Đó là ánh sáng soi đường cho dân ngoại, là vinh quang của Ít-ra-en Dân Ngài.

33 Cha mẹ Hài Nhi ngạc nhiên vì những lời ông Si-mê-on vừa nói về Người.

34 Ông Si-mê-on chúc phúc cho hai ông bà, và nói với bà Ma-ri-a, mẹ của Hài Nhi: Thiên Chúa đã đặt cháu bé này làm duyên cớ cho nhiều người Ít-ra-en phải vấp ngã hay được chỗi dậy. Cháu còn là dấu hiệu bị người đời chống bang

35 còn chính bà, thì một lưỡi gươm sẽ đâm thâu tâm hồn bà, ngõ hầu những ý nghĩ từ thâm tâm nhiều người phải lộ ra.

36 Lại cũng có một nữ ngôn sứ tên là An-na, con ông Pơ-nu-en, thuộc chi tộc A-se. Bà đã nhiều tuổi lắm. Từ khi xuất giá, bà đã sống với chồng được bảy năm

37 rồi ở góa, đến nay đã tám mươi tư tuổi. Bà không rời bỏ đền thờ, những ăn chay cầu nguyện, sớm hôm thờ phượng Thiên Chúa.

38 Cũng vào lúc ấy, bà tiến lại gần bên, cảm tạ Thiên Chúa, và nói về Hài Nhi cho hết những ai đang mong chờ ngày Thiên Chúa cứu chuộc Giê-ru-sa-lem.

39 Khi hai ông bà đã làm xong mọi việc như Luật Chúa truyền, thì trở về nơi cư ngụ là thành Na-da-rét, miền Ga-li-lê.

40 Còn Hài Nhi, ngày càng lớn lên, thêm vững mạnh, đầy khôn ngoan, và hằng được ân nghĩa cùng Thiên Chúa.

Interesting Details

  • Background: Luke drew from the first two chapters of the first book of Samuel, where Samuel was Gods gift to his barren mother, who offered Samuel to God and was received by the high priest Eli. Jesus story here has some of the same components: the unusual birth of a child as a promised gift who was offered to the Lord and received by a person in the Temple.
  • (vv.22-23) The Lord accepts and complies with the Jewish laws. Two laws are applied here: the purification of a mother (40 days after birth of a son or 80 days after birth of a girl) and the consecration of the first born.
  • (v.24) The law prescribes a yearling ram for purification, but allows two turtledoves or young pigeons for the poor. The Holy Familys gifts indicate that they were poor.
  • (v.25) Simeon means God has heard. Though he is not a priest, his service of God associates him with the temple. In this scene, three sources join force to declare the greatness of Jesus: the Law, the prophetic spirit, and the temple tradition.
  • (vv.29-32) These verses form the center of the message. This is a prayer about the fulfilled promise that satisfies Simeons life.
  • (v.32) The salvation is for all peoples, for the whole world, not just Israel.
  • (v.36) Anna means grace, favor. Unusual for his time, Luke commonly pairs man and woman as equal: Simeon and Anna here, Zechariah and Elizabeth in chapter 1 (parents of John the Baptist), and five other such couples in the rest of the Gospel.

Chi Tiết Hay

  • Bối cảnh: Luca rút từ hai chương đầu của sách Samuel thứ nhất, Samuel là tặng vật của Chúa cho bà mẹ hiếm muộn, bà đã dâng Samuel cho Chúa qua thượng tế Eli. Chuyện Đức Giêsu ở đây cũng tương tự: một trẻ sinh ra cách bất thường như một tặng vât đã đươc hứa, rồi được dâng cho Chúa qua một người trong đền thờ.
  • (cc.22-23) Chúa chấp nhận và tuân hành luật Do thái. Hai luật được áp dụng ở đây: lễ thanh tẩy người Mẹ (40 ngày sau khi sanh con trai hoặc 80 ngày sau khi sanh con gái) và lễ dâng con trai đầu lòng.
  • (c.24) Theo luật thì lễ vật để dâng trong lễ thanh tẩy cho người nghèo là một đôi chim gáy hay một cặp bồ câu non. Lễ vật Thánh Gia dâang là lễ vật của người nghèo.
  • (c.25) Simeon có nghĩa Chúa đã nghe. Dù ông ta không phải là thày cả, nhưng ông phụng thờ Chúa nên cũng có những liên hệ mật thiết với đền thờ. Trong cảnh này cả ba nguồn ca tụng sự cao cả của Đức Giêsu: lề luật, tiên tri, và đền thờ.
  • (cc.29-32) Bài ca này là trung tâm của sứ điệp. Đây là một lời kinh về sự mãn nguyện của Simeon đối với một lời hứa đã được thực hiện
  • (c.32) Ơn cứu độ là cho mọi người, cho toàn nhân loại, không phải riêng cho dân Do Thái.
  • (c.36) Anna có nghĩa hồng ân. Việc Luca thường đề cập đến đàn ông và đàn bà cách ngang hàng là điều khác thường vào thời đó: như Simeon và Anna ở đây, Zecharia và Elizabeth ở chương I (cha mẹ của Gioan Tẩy Giả), và năm cặp khác trong phần còn lại của Phúc Âm Luca.

One Main Point

The Lord has come as promised to save all peoples.

Một Điểm Chính

Chúa đến như đã hứa để cứu chuộc mọi người.

Reflections

  1. Simeons life was satisfied by seeing Jesus. What am I looking for in this life ? What would satisfy me ?
  2. What do the people around me consider as their goal, their satisfaction, or their salvation, by the way they live ? How much does that influence me ?

Suy Niệm

  1. Đời Simeon được mãn nguyện vì được thấy Đức Giêsu. Tôi trông đợi gì ở đời này ? Điều gì sẽ làm tôi mãn nguyện ?
  2. Những người xung quanh tôi coi mục đích cuộc đời, sự mãn nguyện, sự cứu rỗi là gì - qua cách họ sống ? Điều đó ảnh hưởng thế nào đến tôi ?

Top