Chúa nhật IV Mùa Vọng A

Chúa nhật IV Mùa Vọng A

4th Sunday of Advent
Reading I: Isaiah 7:10-14 II: Romans 1:1-7

Chúa Nhật 4 Mùa Vọng
Bài Đọc I: Isaia 7:10-14 II: Roma 1:1-7

Gospel
Matthew 1:18-24

18 Now this is how the birth of Jesus Christ came about. When his mother Mary was betrothed to Joseph, but before they lived together, she was found with child through the holy Spirit.

19 Joseph her husband, since he was a righteous man, yet unwilling to expose her to shame, decided to divorce her quietly.

20 Such was his intention when, behold, the angel of the Lord appeared to him in a dream and said, "Joseph, son of David, do not be afraid to take Mary your wife into your home. For it is through the holy Spirit that this child has been conceived in her.

21 She will bear a son and you are to name him Jesus, because he will save his people from their sins."

22 All this took place to fulfill what the Lord had said through the prophet:

23 "Behold, the virgin shall be with child and bear a son, and they shall name him Emmanuel," which means "God is with us.

24 When Joseph awoke, he did as the angel of the Lord had commanded him and took his wife into his home.

Phúc Âm
Mátthêu 1:18-24

18 Sau đây là gốc tích Đức Giêsu Kitô: bà Maria, mẹ Người, đã thành hôn với ông Giuse. Nhưng trước khi hai ông bà về chung sống, bà đã có thai do quyền năng Chúa Thánh Thần.

19 Ông Giuse, chồng bà, là người công chính và không muốn tố giác bà, nên mới định tâm bỏ bà cách kín đáo.

20 Ông đang toan tính như vậy, thì kìa sứ thần Chúa hiện đến báo mộng cho ông rằng: "Này ông Giuse, là con cháu Đavít, đừng ngại đón bà Maria vợ ông về, vì người con bà cưu mang là do quyền năng Chúa Thánh Thần.

21 Bà sẽ sinh con trai và ông phải đặt tên cho con trẻ là Giêsu, vì chính Người sẽ cứu dân Người khỏi tội lỗi của họ.

22 Tất cả sự việc này đã xảy ra, là để ứng nghiệm lời xưa kia Chúa phán qua miệng ngôn sứ:

23 Này đây, Trinh Nữ sẽ thụ thai và sinh hạ một con trai, người ta sẽ gọi tên con trẻ là Emmanuen, nghĩa là "Thiên-Chúa-ở-cùng-chúng-ta".

24 Khi tỉnh giấc, ông Giu-se làm như sứ thần Chúa dạy và đón vợ về nhà.

Interesting Details

• Context: The beginning of the Matthew (Mt 1:1-17) gives the "genesis" (birth record) of Jesus from King David. The reading today is the genesis from the Holy Spirit.

• (v.18) Engagement was arranged by elders and had legal consequences for young people as early as twelve for girls and thirteen for boys. The girl stayed with her father until the marriage several years later. During that time if she had a sexual relationship with another man, both could be stoned to death (Dt 22:23-27). An alternative was for the husband to sign a divorce warrant with two witnesses and the wife could be free to marry someone else.

• (v.20) "Angel of the Lord" is a familiar Old Testament figure who is the Lord or the Lord's messenger making known the will of God at crucial historical moments. "Dream" was another familiar way to find God's will, such as by Jacob and Joseph in Genesis (28:10-17 and 37:5-11).

• While Luke's central character was Mary, Joseph here emerged as a major figure through his connection to King David, and his development from confusion to trust and enlightenment. Through this story Matthew declared that Jesus was the Son of God from conception.

Chi Tiết Hay

• Phúc âm thánh Matthêu bắt đầu bằng một "genesis". Chữ này có nhiều nghiã. Một nghĩa ở dây là gia phả. Một nghiã khác, như trong sách Sáng Thế Ký, có nghiã là khởi nguyên. Bài đọc hôm nay cũng là một khởi nguyên từ Chúa Thánh Thần.

• (c.18) Thời đó những người lớn tuổi trong dân Do Thái sắp đặt chuyện đính hôn cho các cô từ 12 trở lên và các cậu từ 13 trở lên. Đính hôn có giá trị trước pháp luật. Sau khi đính hôn, các cô tiếp tục ở với bố mẹ thêm vài năm trước khi về nhà chồng. Trong thời gian chờ đợi đó, nếu cô ta ăn nằm với chàng nào khác thì cả hai có thể bị ném đá chết, theo sách Đệ Nhị Luật 22:23-27. Thay vì hình phạt đó, chàng rể tương lai có thể ký giấy ly dị trước hai nhân chứng và người phụ nữ đã đính hôn có quyền lấy người khác.

• (c. 20) Trong Cựu Ước thiên thần Chúa hay hiện ra để cho biết ý Chúa trong những giây phút quan trọng trong lịch sử. Báo mộng là một cách khác mà Chúa dùng, như với Jacob và Giuse trong Sáng Thế Ký (28:10-17 và 37:5-11).

• Phúc âm thánh Luca nhấn mạnh tới Đức Mẹ, còn Matthêu nói nhiều hơn về Giuse vì ông ta là giòng dõi vua Đa-vít, và vì ông ta trưởng thành dần trong Chúa, đi từ chỗ thắc mắc khó khăn tới chỗ tin tưởng và được Chúa soi sáng. Qua câu chuyện này, thánh Matthêu cho thấy Chúa Giêsu là Con Thiên Chúa ngay từ đầu.

One Main Point

Our King, Jesus, Son of God, comes to dwell among us through such simple, struggling and heroic figures as Joseph and Mary.

Một Điểm Chính

Chúa Giêsu, là Vua và là Con Thiên Chúa, xuống thế và sống giữa chúng ta, với những nhân vật đơn sơ nhưng anh hùng như Giuse và Maria.

Reflections

1. What do I plan to do to prepare for the arrival of Jesus into my home and my soul this Christmas, coming in a few days?

2. Have I grown from confusion to trust and enlightenment like Joseph, or to despair and withdrawal?

3. How do I find the will of the Lord?

Suy Niệm

1. Tôi muốn sưả soạn tâm hồn tôi như thế nào để đón Chúa Hài Đồng?

2. Tôi có trưởng thành dần trong Chúa, đi tới chỗ tin tưởng và được soi sáng, hay rút lui dần vào chỗ thất vọng?

3. Làm sao tôi biết được ý Chúa?

CHÚA NHẬT 4 MÙA VỌNG A
Lời Chúa: Is 7,10-14; Rm 1,1-7; Mt 1,18-24

MỤC LỤC

1. Chúa ở cùng chúng ta 
2. Thiên Chúa ở cùng chúng ta 
3. Đừng ngại 
4. Emmanuel: Thiên Chúa Ở Cùng Chúng Ta 
5. Chúa Cứu Thế giáng sinh 
6. Điều kiện để đón tiếp Chúa – ĐTGM Ngô Quang Kiệt
7. Giải quyết một vấn đề nhờ đức tin 
8. Mùa Vọng: Mùa trong veo – ĐGM Vũ Duy Thống 

SUY NIỆM

1. Chúa ở cùng chúng ta

Tại Việt Nam và nhất là tại Trung Hoa, người ta có tục tảo hôn, cha mẹ định liệu việc vợ chồng cho con cái từ khi chúng còn nhỏ. Trong tác phẩm “Vượt khỏi Đông và Tây”, tác giả John Wu đã mô tả như sau: “Trước đám cưới, vợ tôi và tôi chả bao giờ thấy mặt nhau. Cả hai chúng tôi đều được giáo dục theo đường lối cổ xưa của người Trung Hoa. Bố mẹ đã đính hôn chúng tôi với nhau khi chúng tôi mới lên sáu. Đến năm mười mấy tuổi tôi mới biết được nhà nàng ở đâu. Tôi khao khát được thoáng nhìn nàng thử xem, nên thỉnh thoảng lúc tan học về, tôi cố tình đi ngang qua nhà nàng, thế nhưng chả bao giờ tôi được may mắn nhìn thấy nàng”.

Từ đoạn văn trên chúng ta sẽ dễ dàng hiểu được mối liên hệ giữa thánh Giuse và Mẹ Maria trước lúc Chúa chào đời. Theo tập tục Do Thái, mỗi cuộc hôn nhân thường trải qua ba giai đoạn:

• Giai đoạn thứ nhất là đính hôn. Việc này thường do cha mẹ hay người mai mối thực hiện, còn đôi bạn trẻ thường chẳng hề biết trước về cuộc đính hôn này.

• Giai đoạn thứ hai là hứa hôn. Giai đoạn này thường kéo dài một năm để đôi bạn có dịp quen biết nhau... Khi đã hứa hôn, thì mọi người đều xem đôi bạn như là vợ chồng, mặc dù họ chưa thực sự chung sống với nhau. Lễ hứa hôn này được tổ chức rất long trọng, nên chỉ có sự ly dị mới xoá bỏ được nó.

• Giai đoạn thứ ba là kết hôn theo đúng nghĩa. Thánh Giuse hay tin Mẹ Maria có thai khi hai người ở trong giai đoạn thứ hai, tức là đã hứa hôn với nhau.

Tuy nhiên tôi muốn chia sẻ về một điểm khác quan trọng hơn, đó là việc Thiên Chúa ở cùng chúng ta. Thánh Matthêu đã khởi đầu Phúc Âm bằng việc trích dẫn lời tiên tri Isaia: Một trinh nữ sẽ thụ thai và sinh hạ một con trai, người ta sẽ gọi tên Con Trẻ là Emmanuel, nghĩa là Thiên Chúa ở cùng chúng ta. Đồng thời thánh Matthêu cũng đã kết thúc Phúc Âm bằng lời hứa của Chúa Giêsu: Này đây Ta sẽ ở cùng các con mọi ngày cho đến tận thế. Vậy thì Thiên Chúa, Ngài đã ở cùng chúng ta như thế nào?

Trước hết, Ngài hiện diện giữa chúng ta qua việc sáng tạo, và đặc biệt qua quyền năng nâng đỡ của Ngài, bởi vì Ngài không phải chỉ tạo dựng mà còn gìn giữ nó được tồn tại trong một trật tự lạ lùng cho đến ngày hôm nay.

Tiếp đến, Ngài còn hiện diện giữa chúng ta qua lời Ngài trong Kinh Thánh. Chúng ta có thể sánh ví Kinh Thánh như là một bức thư của người cha gởi cho con cái mình. Người cha biểu lộ ý nghĩ của mình cho con cái trong bức thư như thế nào thì Thiên Chúa cũng mạc khải ý nghĩ của Ngài cho chúng ta trong Kinh Thánh như vậy.

Cuối cùng Ngài hiện diện giữa chúng ta một cách đặc biệt qua Đức Kitô, Con Một của Ngài. Cùng với việc giáng sinh của Đức Kitô, Thiên Chúa đã bước thêm một bước khổng lồ để đến và cư ngụ giữa chúng ta. Đồng thời nhờ đó chúng ta có thể nhìn ngắm, lắng nghe chính Thiên Chúa. Hay nói một cách khác với mầu nhiệm Giáng Sinh, Thiên Chúa hiện diện giữa chúng ta qua một cách cụ thể và sống động qua một con người bằng máu thịt của Đức Kitô.

2. Thiên Chúa ở cùng chúng ta

Bản văn này khơi lên nhiều câu hỏi. Chẳng hạn, chúng ta có thể thắc mắc tại sao Matthêu, ngược lại với Luca, đã trình bày khuôn mặt của Giuse chứ không phải của Maria như là người đón nhận tin báo của Thiên Chúa về cuộc sinh hạ Đấng Cứu Độ Israel. Chúng ta có thể tự hỏi đâu là những động lực thúc đẩy Giuse muốn lìa bỏ hôn thê của mình (vì bản văn không nêu rõ những động lực này). Chúng ta một lần nữa có thể đặt vấn đề (rất phổ biến gần đây) về sự trình bày các chi tiết lịch sử ở đây nhằm mô tả cuộc sinh hạ đồng trinh và về ý nghĩa của cuộc sinh hạ đó đối với niềm tin của chúng ta. Chúng ta có thể xem xét ý nghĩa của việc đặt tên và ý nghĩa của cái tên Giêsu -”Chúa Cứu Thế”- chúng ta cũng có thể đặt vấn đề đâu là ý định ban đầu của vị ngôn sứ qua trích dẫn Isaia 7,14 -một câu trích dẫn mang ý nghĩa rất gây tranh luận ở đây.

Song đó là những vấn đề không thuộc phạm vi mà bài suy niệm ngắn này muốn đề cập đến.

Ở đây chúng ta dành quan tâm đến cái tên “Emmanuel” -cái tên công bố rằng “Thiên Chúa ở cùng chúng ta” nơi con người Giêsu này. Rất đáng đề cập một hàm nghĩa khác nữa của “Thiên Chúa ở cùng chúng ta”, một hàm nghĩa không hề vu vơ hay vô căn cứ. Khi chúng ta nói rằng con người –trong tư cách là một tạo vật- chắc chắn có mối quan hệ với Thiên Chúa, rằng Thiên Chúa là Chúa và là cùng đích của con người -và nếu gạt Ngài ra thì cuộc sống của chúng ta sẽ mất hết ý nghĩa, rằng Ngài là Đấng phù trợ và là Đấng Cứu Độ của chúng ta- chúng ta ở trong sự quan phòng hồng phúc của Ngài, rằng Ngài với lòng nhân hậu sẽ thứ tha tội lụy chúng ta, rằng chúng ta phải trả lời về trách nhiệm của mình trước toà phán xét của Ngài, rằng đối với những ai tin vào Ngài, trông cậy vào Ngài và yêu mến Ngài, Ngài dọn sẵn cho họ cuộc sống hạnh phúc vĩnh cửu… Khi nói như thế là chúng ta đã giải thích “Thiên Chúa ở cùng chúng ta” theo đúng chiều hướng và đã vận dụng sự thực ấy vào các chiều kích khác nhau. Thật hồng phúc tuyệt vời biết bao nếu tất cả mọi người có thể nhận ra ý nghĩa “Thiên Chúa ở cùng chúng ta” ấy trong cuộc sống của họ. Tất cả những giải thích ấy cuối cùng đều được quy hướng –trong niềm hy vọng- về một mầu nhiệm thâm sâu hơn nữa của “Thiên Chúa ở cùng chúng ta”.

Nhưng không một giải thích nào trong những giải thích nói trên lột tả được cảm thức tuyệt đối Kitô giáo về ý nghĩa “Thiên Chúa ở cùng chúng ta”. Nếu cho rằng Thiên Chúa gần gũi chúng ta chỉ trong những ân huệ hữu hạn của Ngài, chỉ trong việc Ngài đặt chúng ta –là những hữu thể có năng lực sáng tạo- vào trong thực tại riêng của mình và trong việc Ngài hướng dẫn thực tại ấy tới sự hoàn thành định mệnh của nó xuyên qua sự thứ tha tội lụy chúng ta và sự chuẩn nhận chung cuộc tình trạng hiện hữu trưởng thành của chúng ta; nếu cho rằng Thiên Chúa gần gũi chúng ta chỉ trong mức độ bởi vì tất cả những thực tại thụ tạo của con người đều xuất phát từ Ngài và quy chiếu về Ngài đồng thời nhắc nhở chúng ta quy hướng về Ngài trong thái độ nhận hiểu và biết ơn, trong thái độ cầu nguyện chan hoà cảm mến… nếu chỉ thế thì quả chúng ta đã sai lầm về bản chất nền tảng của nhận thức Kitô giáo về “Thiên Chúa ở cùng chúng ta”.

Chính Thiên Chúa ở cùng chúng ta. Ngài ở cùng chúng ta bằng chính bản thân Ngài chứ không chỉ bằng trung gian của những ân sủng hữu hạn ban cho một tạo vật hữu hạn. Thánh Kinh và Truyền Thống làm chứng cho bản chất rất độc đáo của huyền nhiệm chung cục của cuộc hiện sinh chúng ta, đó là, Thiên Chúa thông ban chính bản thân Ngài cho chúng ta trong chính thực tại vô hạn và bất khả thấu hiểu của Ngài. Ngài trao ban cho ta Thánh Thần của Ngài, Đấng thể hiện tư tưởng của Thiên Chúa, Đấng chính là sự sống nội tại của Thiên Chúa. Vì thế Chúa Cha và Chúa Con đến cư ngụ trong chúng ta, như Chúa Con là một với Chúa Cha từ đời đời. Chúng ta tham dự vào thiên tính, chúng ta không còn chỉ là tôi tớ nhưng đích thực là con ruột của Thiên Chúa, chúng ta sẽ nhìn thấy và yêu mến Thiên Chúa –không phải lờ mờ trong gương kiểu như một trung gian tạo vật- nhưng là một cách trực tiếp diện đối diện. Vì thế, thần học truyền thống –nhằm bảo vệ cho bản chất nền tảng của giáo huấn Thánh Kinh này khỏi bị giảm trừ dần về sau- đã nói về “ơn phi tạo” của việc cảm nhận trực tiếp Thiên Chúa không thông qua trung gian một thực tại thụ tạo. Thần học cổ điển nói về sự cư ngụ trực tiếp của Thiên Chúa Ba Ngôi trong con người nhân loại và về sự tự thông truyền của Ngài.

Tất cả những điều này thoạt nghe có vẻ trừu tượng. Song đó là sự thật cuối cùng về con người chúng ta, dù chúng ta đã đạt đến nó và nhận ra nó trong cuộc hiện sinh bình dị hằng ngày của mình hay chưa. Là những hữu thể hữu hạn, khi chúng ta sống đóng kín nơi mình mà thôi, chúng ta dễ hàng phục một xu hướng bất khả kháng để suy nghĩ một cách thuần tuý hữu hạn về chính mình và về sự hoàn thành của mình. Chúng ta có khuynh hướng đánh giá sai lầm về tiềm năng nơi mình và từ đó thoả mãn với những gì mà mình trông thấy và sờ thấy được. Nếu đây chỉ là vấn đề quan điểm riêng của mình mà thôi thì hẳn chúng ta không có gì sai trái khi cảm thấy hài lòng với một hạnh phúc hữu hạn. Nhưng mọi tội lỗi trên trần gian đều có chung một đặc tính là tuyệt đối hoá cái tương đối –do đó cho thấy sự hài lòng nói trên của chúng ta là một thái độ sai lầm, một sai lầm ta không dễ gì bứt ra.

Chúng ta không được phép dễ dãi hài lòng như thế, đây không chỉ bởi một quy luật ngoại giới nào đó không cho phép ta (luật này còn khá xa lạ với chúng ta), mà còn bởi sự kiện rằng Thiên Chúa –trong bản tính vô hạn của Ngài và với lòng khoan dung nhân hậu siêu việt của Ngài, đã tự làm cho chính Ngài trở thành luật nội tại khắc ghi trong bản tính chúng ta, trước khi ta ý thức về chính mình và sợ hãi không dám gieo mình vào cõi vô hạn bất khả thấu hiểu ấy- cái vô hạn vốn lấp đầy chúng ta tận trong cốt lõi thâm sâu của hữu thể mình, rồi chúng ta đi tìm náu ẩn trong những vành đai hữu hạn của cuộc hiện sinh và cố tìm kiếm hạnh phúc của mình ở đó. Tuyên bố rằng Thiên Chúa ở cùng chúng ta (như các Kitô hữu nhận thức một cách đầy đủ) là nói rằng chúng ta khao khát mấy cũng không vừa trong nỗi khát khao mà chính Thiên Chúa đã ban tặng cho ta, trong khát vọng tự do, hạnh phúc, trong khát vọng gần gũi thân tình, khát vọng hiểu biết, an bình và khát vọng thành toàn ở chung cuộc. Ngẫm cho kỹ, mọi sự thái quá mang dấu ấn tội luỵ trong đời ta chung quy chỉ là một tình trạng thiếu kiểm soát dẫn ta đến chỗ coi một thực tại hữu hạn nào đó là cái không thể thiếu cho hạnh phúc của mình. Một người như vậy là một người ở trong tội, bởi vì người ấy không dám thực hiện bước nhảy –bước nhảy của niềm tin, của lòng trông cậy và của tình yêu- vào trong cõi hạnh phúc đích thực khôn cùng và bất khả thấu hiểu, là chính Thiên Chúa và chỉ là Ngài mà thôi.

Sự diễn giải có tính trừu tượng như thế về ý nghĩa “Thiên Chúa ở cùng chúng ta” của bản văn Tin Mừng hôm nay thật ra không xa xăm như ấn tượng có thể có lúc ban đầu. Sở dĩ ta cảm thấy xa xăm bởi vì ta vốn xa xăm với “siêu nhiên tính” của chính mình, tức xa xăm với chính Thiên Chúa. Bất cứ khi nào chúng ta nghe trong chính mình tiếng gào réo bất tận đòi tồn sinh, ta cảm thấy không chấp nhận điều kiện hay giới hạn nào nữa ngoài một điều rằng ta là cái vô hạn đang ở chặng khởi đầu chứ chưa phải ở mức hoàn thành; bất cứ khi nào ta khắc khoải muốn yêu thương vô điều kiện bằng một tình yêu rộng mở hướng về người khác đến độ dám liều bỏ mình; bất cứ khi nào đứng trước thật gần bóng tối mịt mù của sự chết và ta vẫn tin rằng chính cái chết cũng chỉ là một cái gì hữu hạn –còn niềm hy vọng sống vĩnh cửu mới là vô cùng… Trong những cảm nghiệm như thế về cuộc nhân sinh, ta cảm nghiệm niềm hy vọng và niềm tin rằng chỉ có Thiên Chúa –chứ không phải bất cứ một thực tại hữu hạn nào- mới là sự lấp đầy cho một kiếp người hữu hạn.

Đó là ý nghĩa của “ơn phi tạo”. Ân sủng này được thông ban nơi Đức Giêsu Kitô, tuy nhiên nó vẫn hoạt động xuyên suốt giòng lịch sử thế giới và lịch sử nhân loại –biểu hiện nơi tiềm năng hiện thực hoá thâm sâu nhất của chính ân sủng này. Vì thế, nó là cốt lõi nền tảng của mọi cuộc hiện sinh.

Nhưng giáo thuyết về “ơn phi tạo” không đóng khung ở chỗ chỉ nói lên một niềm phấn khích khôn tả về tương lai loài người. Với ơn sủng này, chúng ta đạt đến chiều sâu nhất của nhận thức Kitô giáo về con người. Vị “Thiên Chúa ở cùng chúng ta” không còn chỉ là một mầu nhiệm mông lung, một mầu nhiệm cứ mãi còn là mầu nhiệm tuyệt đối ngay cả trong nỗ lực trực tiếp nắm bắt Ngài; và con người chỉ có thể cảm nhận được điều ấy khi chính nhận thức của họ được đổ tràn tình yêu. Vâng, chỉ tình yêu mới có thể làm cho chúng ta hiểu ra rằng Thiên Chúa (Đấng là tình yêu) vĩ đại hơn cả cõi lòng mình, một cõi lòng luôn luôn bỏng cháy niềm khát khao giác ngộ.

Vị “Thiên Chúa ở cùng chúng ta” này không phải chỉ là Thiên Chúa của sự tự do tuyệt đối (của những quyết định không còn có thể bị phủ định, và của những sự sắp đặt tất yếu phải được nhận chịu trong sự hàng phục vô điều kiện của tình yêu –một tình yêu biết cảm mến sự tự do thần linh này đến mức đó). Đúng hơn, chính sự gần gũi kỳ diệu của Thiên Chúa là nhân tố đặt nền tảng căn bản cho nền “luân lý” Kitô giáo. Với số cuộc đổi thay diễn ra trong lịch sử loài người và trong cuộc đời riêng mỗi người được thấy như là không thích đáng nếu lấy bản tính của con người và của thế giới hữu hạn này làm thước đo –vì thế, những đổi thay ấy bị tẩy chay một cách khách quan bởi những nguyên tắc đạo đức của con người, nhưng chúng không thực sự phá đổ mối tương quan tích cực cuối cùng với Thiên Chúa là Đấng tự trao ban chính Ngài và –do đó, gần gũi chúng ta đến mức không ngờ. (Có nhiều tội “khách quan” không bao hàm chút “sai quấy chủ quan” nào và do đó không gây cản ngại cho ơn cứu độ –thần học kinh viện đã khẳng định như thế).

Tuy nhiên, sự tự do của con người (là cái tác động đến cơ cấu những nguyên tắc đạo đức thế trần) không ngừng chống cưỡng lại Thiên Chúa là Đấng vô cùng gần gũi, cho dù nó không tự đặc tả nó như vậy. Thế là chúng ta có tội (“tội trọng”) theo nghĩa Kitô giáo. Tội không chỉ là đi ngược lại cơ cấu khách quan của con người và thế giới và qua đó đi ngược lại các lệnh truyền của Thiên Chúa là Đấng muốn có những cơ cấu ấy (dĩ nhiên ý muốn của Thiên Chúa không mâu thuẫn với bản tính hữu hạn và có điều kiện của những cơ cấu này); tội còn là nói “không” với chính Thiên Chúa, Đấng vô cùng gần gũi chúng ta. Đó là lời nói “không” của sự tự do của con người, qua đó nó chối từ cuộc phiêu lưu liều lĩnh của tình yêu Thiên Chúa và tình yêu của chính mình.

Sống trong sự gần gũi kỳ diệu của Thiên Chúa là một cái gì vừa rất khủng khiếp vừa đầy sức ủi an. Được chính Thiên Chúa yêu thương cũng thế –đến nỗi quà tặng đầu tiên và cuối cùng mà ta nhận được chính là cái vô cùng vượt ngoài khả năng thấu hiểu của ta. Nhưng ta đâu còn có sự chọn lựa nào khác. Vì Thiên Chúa ở cùng chúng ta đây rồi!.

3. Đừng ngại (Trích trong ‘Manna’)

Suy Niệm

Tin Mừng Luca nói đến việc truyền tin cho Đức Mẹ, còn Tin Mừng Mátthêu lại nói đến việc truyền tin cho Giuse. Sứ thần Chúa giải tỏa nỗi lúng túng và bối rối của ông, khi báo cho ông hay thai nhi nơi người vợ chưa cùng ông chung sống là do quyền năng Thánh Thần. Sứ thần mời gọi ông cứ đón nhận Maria làm vợ, và chấp nhận thai nhi như con mình. Giuse đã nói tiếng Xin Vâng. Ông đón lấy những mầu nhiệm mà ông không hiểu hết.

Maria là một mầu nhiệm. Người con sắp sinh ra bởi Thánh Thần cũng là mầu nhiệm. Giuse đã để cho các mầu nhiệm vây bọc mình. Cả cuộc đời Giuse là chiêm ngắm các mầu nhiệm diễn ra một cách bình thường, sát bên ông. Và chính cuộc đời của ông cũng là một mầu nhiệm.

Giuse chấp nhận ý định của Thiên Chúa dù nó phá vỡ ước mơ ông ấp ủ từ lâu. Ông muốn làm chồng cô Maria, người ông yêu mến, nhưng Thiên Chúa lại muốn ông làm bạn của cô thôi. Ông muốn là cha của một đàn con đông đúc, nhưng ông chỉ là cha nuôi của Đức Giêsu.

Bề ngoài, Giuse vẫn gánh trách nhiệm làm chồng, làm cha, nhưng căn tính sâu xa của ông, ít ai biết. Ông sống một mình mầu nhiệm đời ông trước Thiên Chúa.

Giuse đã mau mắn nói tiếng Xin Vâng.

Ông luôn bị đánh thức vào lúc đang an nghỉ. Sứ thần Chúa bảo ông chỗi dậy để làm điều gì đó. Ông bỏ dở giấc ngủ và lên đường giữa đêm khuya. Từ Nadarét lên Bêlem, từ Bêlem đi Ai cập, rồi lại trở về. Giuse chịu trách nhiệm về những kho báu Chúa giao.

Vâng phục một cách đơn sơ: đó là thái độ của Giuse.

Hôm nay có thể Chúa không nói với tôi qua giấc mơ, nhưng qua bao con đường khác, rất riêng tư, mà chỉ mình tôi cảm nhận được. Nếu tôi mau mắn nói tiếng Xin Vâng như Giuse, tôi sẽ góp phần vào việc cứu độ cả thế giới.

Để Con Thiên Chúa làm người, cần tiếng Xin Vâng của Maria, nhưng cũng cần tiếng Xin Vâng khiêm tốn của Giuse. Nhận Maria đang mang thai về nhà mình, và đặt tên cho Hài Nhi trong tư cách một người cha: những hành động ấy đã cho Giuse một chỗ đứng đặc biệt trong lịch sử cứu độ. Chúng ta không thể đoán được điều gì sẽ xảy ra, nếu như Giuse cứ cương quyết bỏ Đức Maria.

Nhờ Giuse, Đức Giêsu đã là người thuộc nhà Đavít. Những lời hứa của Thiên Chúa đã ứng nghiệm (x. 2Sm 7,13).

Cùng với Giuse, xin được gọi tên Con Thiên Chúa là GIÊSU.

Cùng với cả vũ hoàn, xin gọi tên Ngài là EMMANUEL. GIÊSU là Thiên-Chúa-ở-với-ta cho đến tận thế.

Gợi Ý Chia Sẻ

- Theo kinh nghiệm của bạn, Thiên Chúa thường nói với bạn bằng những cách thức nào? Có khi nào bạn xin vâng khi dự tính của bạn bị tan vỡ không?

- Con Thiên Chúa được gọi bằng nhiều tên: Giêsu, Kitô, Con vua Đavít, Emmanuel. Bạn thích tên nào hơn cả? Tại sao?

Cầu Nguyện

Lạy Chúa Giêsu, sống cho Chúa thật là điều khó. Thuộc về Chúa thật là một thách đố cho con.

Chúa đòi con cho Chúa tất cả để chẳng có gì trong con lại không là của Chúa.

Chúa thích lấy đi những gì con cậy dựa để con thực sự tựa nương vào một mình Chúa.

Chúa thích cắt tỉa con khỏi những cái rườm rà để cây đời con sinh thêm hoa trái.

Chúa cương quyết chinh phục con cho đến khi con thuộc trọn về Chúa.

Xin cho con dám ra khỏi chính mình, ra khỏi những bận tâm và tính toán khôn ngoan để sống theo những đòi hỏi bất ngờ của Chúa, dù phải chịu mất mát và thua thiệt.

Ước gì con cảm nghiệm được rằng trước khi con tập sống cho Chúa và thuộc về Chúa thì Chúa đã sống cho con và thuộc về con từ lâu. Amen.

4. Emmanuel: Thiên Chúa Ở Cùng Chúng Ta (Trích trong ‘Niềm Vui Chia Sẻ’)

Ngày xưa, có một chú bé Phi Châu tên là Emmanuel. Chú ta luôn tò mò thắc mắc. Ngày nọ, chú hỏi thầy giáo: “Thiên Chúa nói bằng thứ tiếng nào?”. Thầy giáo chỉ biết gãi đầu và nói:

“Nói thực là thầy không biết”. Sau đó Emmanuel đi hỏi các nhà trí thức trong làng cũng như các vùng lân cận: “Thiên Chúa nói bằng thứ tiếng nào?”. Nhưng họ cũng chỉ biết lắc đầu mà thôi.

Tuy nhiên, Emmanuel vẫn tin chắc có người biết được điều ấy. Vì thế chú lên đường đến các quốc gia và cả những lục địa khác để tìm hỏi, nhưng ở đâu chú cũng chẳng nhận được câu trả lời. Một đêm nọ sau khi bị kiệt sức vì đi quá nhiều nơi. Chú cố tìm một chỗ nghỉ đêm trong các nhà trọ, nhưng tất cả các nơi đều không còn chỗ. Vì thế chú quyết định tìm một cái hang ngoài trời để trú đêm. Cuối cùng quá nửa đêm chú mới tìm được một cái hang. Nhưng khi bước vào hang, chú nhận ra đã có một đôi vợ chồng và một hài nhi đang trú ngụ. Nhìn thấy chú, bà mẹ trẻ liền nói: “Hân hạnh đón chào Emmanuel, chúng tôi đang mong chờ con”.

Chú bé quá sửng sốt: Làm sao bà này biết tên mình? Và chú càng ngạc nhiên hơn khi nghe bà ấy nói: “Đã từ lâu, con đi tìm kiếm khắp thế giới để hỏi xem Thiên Chúa nói bằng thứ tiếng nào. Giờ đây cuộc hành trình của con kể như đã đến đích. Đêm nay chính mắt con đã thấy được Thiên Chúa nói bằng thứ tiếng nào. Ngài nói bằng “ngôn ngữ của tình yêu” – “Thiên Chúa đã quá yêu thương thế gian đến nỗi đã ban cho thế gian chính Con Một của Ngài” (Ga 3,16).

Trái tim Emmanuel trào dâng niềm xúc động, chú vội quỳ gối xuống trước Hài nhi và mừng rỡ khóc lên. Giờ đây chú đã biết rằng Thiên Chúa nói bằng thứ tiếng của tình yêu, thứ tiếng mà mọi người thuộc bất cứ dân tộc hay thời đại nào cũng đều có thể hiểu được. Và thế là Emmanuel ở lại đó vài ngày để giúp đỡ Đức Maria và Thánh Giuse. Sau đó đến lúc chú phải chia tay để đi loan báo cho mọi người Tin Mừng về ngôn ngữ Chúa dùng: “Thiên Chúa nói bằng thứ tiếng của tình yêu”.

Lủi thủi một mình, Emmanuel vừa rảo bước vừa suy nghĩ: “Nếu tôi muốn kẻ cho mọi người biết Thiên Chúa dùng thứ tiếng nào để nói, thì chính tôi cũng phải nói bằng thứ tiếng Chúa nói, tức là ngôn ngữ của tình yêu. Bởi vì đó chính là thứ tiếng nói duy nhất mà mọi người trên thế giới đều hiểu được”.

Thưa anh chị em,

“Thiên Chúa là Tình Yêu” (1Ga 4,8). Khi trao ban cho thế gian Con Một của Ngài, Thiên Chúa đã muốn dạy cho mọi người nói chung một thứ ngôn ngữ tức là ngôn ngữ của tình yêu. Chính vì thế mà Ngài đã mang tên gọi là EMMNUEL, nghĩa là “Thiên -Chúa - ở –cùng – chúng - ta”, tên gọi được báo trước qua lời Ngôn sứ Isaia cũng như qua lời Thiên Sứ báo tin cho ông Giuse: “Này đây, Trinh nữ sẽ thụ thai và sinh hạ con trai, người ta sẽ gọi tên con trẻ là Emmanuel, nghĩa là Thiên- Chúa – ở – cùng – chúng - ta”. Ngài đến ở cùng chúng ta để làm gì, nếu không phải là để nói cho chúng ta về tình yêu vô biên của Thiên Chúa bằng cả cuộc sống yêu thương đến tột cùng của Ngài, từ lúc sinh ra trong hang đá Bêlem đến cái chết treo trên thập giá. Đó là tất cả tiếng nói của tình yêu Thiên Chúa.

Thiên Chúa yêu thương chúng ta, nên đã làm người như chúng ta. Ngài đã đến tận nơi chúng ta sinh sống, trong nhà, trong làng mạc, trong xứ sở, trên trái đất của chúng ta, để chung sống, đồng hành, chia sẻ cuộc đời với chúng ta. Ngài là Thiên Chúa, nhưng đã trở thành anh em với nhân loại. Ngài đã nhập cuộc liên đới với toàn thể nhân loại để đưa cả loài người chúng ta lên với Thiên Chúa.

Hơn nữa, Ngài còn muốn làm người nghèo giữa những người nghèo khổ, bị áp bức và bỏ rơi. Ngài muốn cho ngày Giáng Sinh trở thành ngày trời đất giao hoà, để cho Thiên Chúa và loài người gặp gỡ yêu thương, cho hoà bình chớm nở trên trái đất. Ngài muốn cho ngày Giáng Sinh trở thành ngày Đấng Tối Cao xa lạ trở thành thân quen, thành bạn hữu của loài người, để kêu gọi loài người hãy nhận nhau là anh em, là bạn hữu. Ngài muốn cho ngày Giáng Sinh trở thành ngày Đấng giàu sang khôn sánh trở thành người nghèo khó, để cho người nghèo khó nhất cũng được trở nên ngang hàng với Con Thiên Chúa. Và như vậy để loài người biết yêu thương và tôn trọng người nghèo, như yêu thương và kính trọng chính Thiên Chúa.

Vì vậy, thưa anh chị em, vấn đề quan trọng không phải là ăn lễ Giáng Sinh hay là mừng lễ Giáng Sinh, cho dù là sốt sắng đến đâu đi nữa, mà là hiểu sống và thực hiện bài học Giáng Sinh: đó là cùng với Chúa nhập cuộc liên đới với những anh em nghèo hèn trong nhân loại. Và một khi chúng ta biết mở rộng tâm hồn đón tiếp và yêu thương những ai bé nhỏ, khó hèn, coi họ ngang hàng với Con Một Thiên Chúa, thì khi ấy, chính tâm hồn chúng ta sẽ trở thành hang đá Bêlem, và ánh sao Noel sẽ bừng lên trong ánh mắt chúng ta.

Anh chị em thân mến, EMMNUEL, Thiên Chúa đã làm người và ở cùng chúng ta. Ngài đã nói với loài người chúng ta bằng ngôn ngữ của tình yêu và Ngài muốn dạy cho mọi người nói chung một ngôn ngữ của tình yêu này. Ngài còn biết rằng một khi người ta bắt đầu nói bằng ngôn ngữ của tình yêu thì những điều kỳ diệu sẽ lập tức xuất hiện khắp nơi: các quốc gia sẽ chia sẻ nguồn lợi và tài nguyên cho nhau, mọi chủng tộc sẽ tôn trọng nhau, mọi gia đình sẽ hoà thuận thương yêu nhau, khắp nơi mọi người sẽ xiết chặt tay nhau trong tình thân hữu. Và như thế, “vinh quang Thiên Chúa trên trời, hoà bình dưới thế cho loài người Chúa yêu”.

5. Chúa Cứu Thế giáng sinh

Chúa nhật IV Mùa vọng hướng tâm trí chúng ta đến thật gần mầu nhiệm Nhập Thể của Con Thiên Chúa, mầu nhiệm mà mỗi người con của Giáo Hội được mời gọi đón nhận với tâm hồn được chuẩn bị kỹ lưỡng trong suốt bốn tuần Mùa vọng. Tất cả ba bài đọc trong Phụng vụ Lời Chúa hôm nay đều hướng về sự kiện căn bản này: “Con Thiên Chúa Nhập Thể và sinh ra bởi Người Nữ Đồng Trinh, nhờ quyền năng của Chúa Thánh Thần”, theo như lời hứa của Thiên Chúa trong lịch sử dân Chúa.

Bài tường thuật biến cố Con Thiên Chúa Giáng Sinh nơi Phúc Âm thánh Luca sẽ được dùng trong Thánh Lễ Giáng Sinh vào Chúa nhật IV Mùa vọng, Giáo Hội nhắc đến biến cố căn bản qua bài tường thuật của Phúc Âm thánh Mátthêu (x. Mt 1,18-24). Dĩ nhiên, tác giả Phúc Âm theo thánh Mátthêu không tường thuật biến cố Nhập Thể và Giáng Sinh của Con Thiên Chúa trong cùng một cách thức như Phúc Âm thánh Luca. Tác giả Phúc Âm thánh Mátthêu nhắc đến biến cố trong vai trò của thánh Giuse, thánh nhân được mạc khải cho biết mầu nhiệm Ngôi Lời Nhập Thể, tức Con Thiên Chúa được sinh ra trong cung lòng Đồng Trinh của Mẹ Maria, do quyền phép của Chúa Thánh Thần. Thánh Giuse được mạc khải cho biết và đồng thời mời gọi Ngài tích cực tham dự vào chương trình đó, là người cha nuôi của Con Thiên Chúa, là Đấng bảo vệ cho Mẹ Maria và Chúa Giêsu.

Qua đó, Thánh Giuse được mạc khải cho biết nguồn gốc thần linh của Đấng được Mẹ Maria cưu mang. Trong mạc khải đó, Thánh Giuse được nhắc lại cho biết lời tiên tri được loan báo trong dân Israel và được ghi chép lại trong sách Isaia nơi chương VII mà bài đọc I Chúa nhật IV Mùa vọng đã nhắc lại, đó là lời tiên tri được loan báo gần 8 thế kỷ trước khi biến cố thực sự xảy ra. Là một người Công Chính như thánh Giuse, chắc chắn Ngài đã đọc Kinh Thánh Cựu Ước và biết về lời tiên tri này như bao thành phần tốt của dân Israel thời đó. Tuy nhiên, khi biến cố thực sự xảy đến trước mắt mình và có liên quan đến chính mình, thì thánh Giuse có phản ứng đầu tiên là không chấp nhận, như Phúc Âm thánh Mátthêu ghi lại như sau: “Thánh Giuse định tâm lìa bỏ Maria cách kín đáo”. Luật Do Thái phạt nặng nề một người phụ nữ đã đính hôn mà đi ngoại tình với kẻ khác. Giuse có thể đi tố cáo Mẹ Maria, vì khi thấy Bạn mình chưa về chung sống mà đã mang thai. Phúc Âm không nói gì, nhưng người ta có thể hiểu là Maria có thể đã kể cho Giuse biết biến cố thiên thần truyền tin và việc mang thai là do quyền phép Chúa Thánh Thần như lời thiên thần loan báo, nhưng có thể thánh Giuse không hiểu, không tin hoặc tin lời Maria nói nhưng lại cảm thấy mình không xứng đáng, không muốn tham dự vào chương trình cao cả của Thiên Chúa, vì thế mà Ngài định tâm rút lui.

Thánh Giuse có thể tố cáo Maria dựa trên luật Israel lúc đó, nhưng ông không làm như vậy, Ông muốn trốn đi, vì việc này có thể được mọi người xung quanh hiểu như là một hành động bỏ trốn trách nhiệm làm cha, và trên bình diện siêu nhiên thì có thể được hiểu như là việc chối từ cộng tác với chương trình cứu rỗi của Thiên Chúa. Nhưng Thiên Chúa đã muốn cho Giuse một cơ hội, nên đã sai sứ thần đến xác nhận cho Giuse biết là: “Đừng ngại nhận Maria về làm Bạn mình, vì Maria mang thai là bởi phép Chúa Thánh Thần”, và thiên thần mạc khải thêm về thân thế của Đấng Cứu Thế đang được cưu mang trong cung lòng Mẹ Maria và mời gọi Giuse cộng tác và Ngài sẽ đặt tên cho Con Trẻ là Giêsu. Việc đặt tên cho con là quyền của người cha, như vậy khi mời gọi Giuse đặt tên cho Con Trẻ không do chính máu huyết của mình, có nghĩa là mời gọi Giuse chấp nhận quyền hay đúng hơn sứ mạng làm cha của Con Trẻ trên bình diện pháp lý.

Thánh Giuse có thể từ chối, nhưng Ngài đã không từ chối mà vâng phục lời thiên thần truyền, Ngài chu toàn vai trò Thiên Chúa muốn trong việc cứu rỗi. Khi Mẹ Maria sinh Con Trẻ thì Giuse đặt tên Con Trẻ là Giêsu. Ngoài mẫu gương hành động của Giuse, Phụng vụ Lời Chúa hôm nay nơi bài đọc II nhắc chúng ta nhớ đến một mẫu gương hành động trước mầu nhiệm Nhập Thể của Con Thiên Chúa, đó là mẫu gương của thánh Phaolô tông đồ, một khi chấp nhận mầu nhiệm Nhập Thể của Con Thiên Chúa, thì con người không thể nào có thái độ dửng dưng được nữa, nhưng phải để cho Con Thiên Chúa Nhập Thể là Chúa Giêsu Kitô chiếm lấy, biến mình trở thành môn đệ, thành người cộng tác với Chúa để mang ơn cứu độ đến cho mọi người, mọi dân tộc.

Mùa Giáng Sinh sắp đến, mầu nhiệm của Con Thiên Chúa làm người được người đồ đệ suy niệm bắt chước, nhưng không dừng lại hưởng niềm vui cứu rỗi nơi mình, nhưng cần để cho ơn Chúa chiếm lấy nơi mình và dấn thân mang ơn cứu rỗi đến cho mọi người. Chúng ta cầu chúc cho mọi người được ân sủng và bình an của Thiên Chúa Cha. Amen.

6. Điều kiện để đón tiếp Chúa – ĐTGM Ngô Quang Kiệt

Ngày 17 tháng 12 vừa qua, ta đã đọc bài Phúc Âm nói về gia phả Đức Giêsu, trong đó Chúa Giêsu sinh bởi dòng dõi vua Đavít. Hôm nay, Phúc Âm lại trình bày cho ta một gốc tích khác của Người: Chúa Giêsu sinh ra bởi Đức Maria do quyền năng của Chúa Thánh Thần. Phải chăng thánh sử Matthêu mâu thuẫn khi đưa ra hai gốc tích khác nhau như thế?

Thánh sử Matthêu không mâu thuẫn, nhưng khi trình bày cho ta hai gốc tích khác nhau của Chúa Giêsu, thánh sử có một dụng ý thần học. Chúa Giêsu là Thiên Chúa, nên việc thụ thai phải do quyền năng của Chúa Thánh Thần. Nhưng Chúa Giêsu cũng là người nên phải sinh ra bởi một con người. Thiên Chúa ban Con Một cho loài người. Đức Maria đã đại diện loài người lãnh nhận. Nhưng quyền năng Chúa Thánh Thần tác động trên Đức Maria chỉ diễn ra trong riêng tư, âm thầm. Chính thánh Giuse đưa Chúa Giêsu ra công khai khi nhận Ngài vào dòng tộc Đavít. Qua trung gian của thánh Giuse, Chúa Giêsu đã chính thức gia nhập gia đình nhân loại, trong một đất nước, trong một dân tộc, trong một dòng họ. Tên tuổi của Người được ghi trong lịch sử của dân tộc, của dòng họ, của gia đình. Vận mệnh của Người gắn chặt với dân tộc, dòng họ, gia đình ấy. Người thực là Emmanuel, là “Thiên Chúa ở với chúng ta”.

Nhờ đâu mà thánh Giuse và Đức Maria được diễm phúc là những người đầu tiên, đại diện nhân loại tiếp đón Đấng Cứu Thế. Qua bài Phúc Âm Truyền Tin và bài Phúc Âm hôm nay, ta thấy thánh Giuse và Đức Maria có những đặc điểm sau đây.

1) Các Ngài có tâm hồn khiêm nhường sâu xa.

Đức Maria là một thiếu nữ có tâm hồn khiêm nhường. Từ nhiều thế kỷ qua, lời sấm về Đấng Cứu Thế vẫn được truyền tụng trong dân Do Thái. Thiếu nữ nào cũng mong được làm mẹ Đấng Cứu Thế. Đó là một hạnh phúc, một vinh dự không chỉ cho cá nhân mà còn cho cả gia đình, cho dòng họ, cho đất nước. Vậy mà khi nghe thiên thần loan báo tin làm mẹ Đấng Cứu Thế, Đức Maria chỉ khiêm tốn thưa: “Này là tôi tớ Chúa, tôi xin vâng như lời thiên thần truyền”. Khi bà Êlisabeth ca tụng Ngài, Đức Maria đã đáp lại: “Vì Chúa đã đoái thương phận tôi tớ thấp hèn. Người nâng cao những người bé nhỏ”. Đức Maria nhận ra sự thật là: Nếu Ngài được ơn Chúa ban thì không phải vì công trạng của mình, nhưng do lòng từ bi thương xót của Chúa. Vì khiêm tốn, nên Đức Maria âm thầm ghi nhớ tất cả mọi việc Chúa làm, mọi lời Chúa phán. Ghi nhớ để suy gẫm trong lòng. Càng suy gẫm lại càng thêm khiêm nhường. Càng khiêm nhường lại càng kín đáo.

Thánh Giuse cũng có tâm hồn khiêm nhường không kém. Đọc Phúc Âm, ta có cảm tưởng là thánh Giuse luôn tự rút lui vào trong bóng tối. Ngài luôn sống âm thầm khiêm tốn trong công việc tầm thường của thợ thuyền. Sự khiêm tốn ấy đặc biệt thể hiện trong bài Phúc Âm hôm nay. Khi biết tin Đức Mẹ đang mang thai Đấng Cứu Thế, thánh Giuse đã âm thầm bỏ đi. Ngài không dám tự cho mình cái vinh dự được làm cha Đấng Cứu Thế. Ngài không dám chiếm hữu quyền làm cha của Thiên Chúa. Ngài không dám mạo nhận công việc của Chúa Thánh Linh. Ngài là người công chính vì khiêm tốn sống đúng thân phận của mình. Ngài là người công chính vì trả lại cho Thiên Chúa những gì thuộc về Thiên Chúa.

2) Các Ngài mau mắn vâng lời Thiên Chúa.

Các Ngài có chương trình cho đời sống. Chương trình ấy được suy nghĩ kỹ lưỡng vì được thực hành nghiêm chỉnh. Đức Maria khấn giữ mình đồng trinh. Thánh Giuse muốn sống âm thầm trong bóng tối. Nhưng khi nghe biết thánh ý Thiên Chúa các Ngài đã mau mắn xin vâng, bỏ dở chương trình riêng tư, chuyển hướng cuộc đời để thi hành thánh ý Thiên Chúa. Đức Maria đã thưa “xin vâng” bất chấp những đau khổ, khó khăn đang chờ đón. Thánh Giuse đã mau mắn vâng lời dù thánh ý Thiên Chúa chỉ mơ hồ giữa bóng đêm dày đặc, trong một giấc mộng lãng đãng mơ hồ.

Vì Chúa, các Ngài đã từ bỏ ý riêng mình. Vì Chúa, các Ngài đã thay đổi toàn bộ đời sống. Thay đổi quyết liệt. Từ bỏ dứt khoát. Vâng lời mau mắn.

Thái độ của các Ngài rất gần với thái độ của Chúa Giêsu. Chúa Giêsu xuống trần trong một thái độ tự hạ mình thẳm sâu. Dù là Thiên Chúa, Người đã không đòi cho mình quyền được ngang hàng với Thiên Chúa, nhưng đã tự hạ làm một người bé nhỏ nghèo hèn. Người luôn vâng lời Đức Chúa Cha, vâng lời cho đến chết trên thập giá.

Đồng thanh tương ứng, đồng ý tương cầu. Giống nhau thì tìm đến nhau. Chúa Giêsu xuống trần trong một thái độ khiêm hạ và vâng phục thánh ý Chúa Cha đã tìm được nơi cư trú tâm đắc nơi Đức Maria và thánh Giuse, hai tâm hồn khiêm nhường và tuyệt đối vâng lời.

Lạy Chúa Giêsu bé nhỏ, bây giờ thì con đã hiểu biết phải dọn một máng cỏ như thế nào cho Chúa. Chúa muốn con khoét một hang sâu khiêm nhường trong lòng con, trải trên đó những sợi cỏ vâng lời mau mắn. Như thế con sẽ được hạnh phúc đón tiếp Chúa, Đấng rất khiêm nhường và rất vâng lời. Amen.

KIỂM ĐIỂM ĐỜI SỐNG

1) Ngày càng có nhiều người mừng lễ Chúa Giáng Sinh. Nhưng Lễ Giáng Sinh đã bị thương mại hóa. Bạn sẽ chuẩn bị Lễ Giáng Sinh thế nào cho phù hợp với tinh thần của Chúa?

2) Sống khiêm nhường và vâng lời trong xã hội hôm nay có dễ không?

3) Bạn nghĩ gì về việc Chúa Giêsu tự nguyện xuống thế, làm một người, làm con trong một gia đình?

7. Giải quyết một vấn đề nhờ đức tin (Trích trong ‘Lương Thực Ngày Chúa Nhật’)

Nếu đây không phải là một bài Thánh Kinh, người ta sẽ có thể rút ra từ bài tường thuật của thánh Matthêu những yếu tố của một thảm kịch lạ lùng. Song ở Thiên Chúa gọi ta suy nghĩ sâu xa, một suy tư vượt quá óc phân tích, vượt quá nghệ thuật. Những cõi lòng đơn sơ, nghĩa là những ai không vướng mắc vào một hệ thống tư tưởng phiền phức, nhận ra trong biến cố tường thuật lại đây một ‘phát minh’ của tình yêu Thiên Chúa. Một trong những hậu quả lớn lao nhất của mọi mối tình, và dấu hiệu của nó, là làm cho trí khôn phải sửng sốt. Ở đây là tình yêu của Thiên Chúa; nó còn làm trí khôn sửng sốt gấp bội. Nó làm cho trí khôn chưng hửng không phải để hạ thấp trí khôn, song là để nâng cao nó lên nếu nó biết khiêm tốn.

Tác giả Phúc Âm báo trước Chúa Giêsu sẽ sinh ra bởi một người mẹ đồng trinh. Sự kiện đó không phải là không gây ra vấn đề cho hai người trong cuộc, là Maria và Giuse. Thánh Giuse bị đặt ở điểm then chốt của một hoàn cảnh bi đát. Trước hết, cũng như Maria, Người được Chúa mời giải quyết vấn đề của mình, từ ‘trên cao’ nghĩa là bởi một hành vi đức tin. Điều đã nói về Maria: bà có phúc vì đã tin, cũng áp dụng cho Giuse.

Thử rút ra từ đoạn Phúc Âm này hai ý tưởng:

1) Maria đã để cho Thiên Chúa làm việc báo tin cho Giuse biết tình trạng của Người.

Có những kinh nghiệm tinh thần liên quan tới kẻ khác mà người ta vẫn không thể nói tới, bởi vì chúng xảy ra ở một bình diện quá sâu xa. Chúng tôi không nói: Maria và Giuse không hề nói với nhau về việc thụ thai lạ lùng, chẳng hạn sau khi Thiên Chúa can thiệp với Giuse, nhưng Đức Trinh Nữ phó thác cho Chúa việc khai triển ‘cái lý’ của biến cố và các phương tiện của biến cố. Ở những trình độ khiêm tốn hơn nhiều, cũng xảy ra như vậy trong đời sống, nhất là đời sống giữa vợ chồng Kitô hữu. Mọi Kitô hữu ý thức, đều có những ơn sủng riêng tư, nhưng không ơn nào chỉ dành cho mình mà thôi; ơn sủng của Chúa, dù riêng tư nhất, vẫn có một chiều kích hiệp thông huynh đệ. Tuy thế loại ơn này cần phải được giữ gìn kín đáo. Vừa phải đón nhận nó trọn vẹn, vừa phải phó thác cho Chúa công việc làm cho kẻ khác hiểu biết, nhìn nhận nó. Người ta có thể mang trong mình một ơn Chúa làm cho người khác thắc mắc: nếu đó là ơn đích thực, phải để mặc cho Chúa phương tiện giải đáp thắc mắc ấy, hay nói đúng hơn: hãy giao cho Chúa trước đã; phần việc ta có thể sẽ tới sau.

2) Ta nên lưu ý tới tình hình rất cao đẹp của thánh Giuse.

Người đã có thể chiều theo luật lệ sơ đẳng của xã hội đương thời mà tố giác Maria. Một sự ngay thẳng căn bản khiến người hành động cách khác. Qua hành động này ta thấy một giá trị nhân bản sâu xa, vượt xa mặt chữ của lề luật. Lúc đó Thiên Chúa can thiệp. Sự kiện này gợi cho ta một câu hỏi: ta có xác tín rằng các hồng ân cao cả nhất Chúa ban, cái mà ta gọi là các ơn siêu nhiên, cần được dựa trên nền móng các nhân đức tự nhiên như: tính ngay thẳng, lương thiện, can đảm, tinh thần phục vụ, tấm lòng cởi mở… hay không? Sau Đức Mẹ, thánh Giuse nêu cho ta tấm gương đầu tiên trong Hội Thánh về sự thánh thiện được phát triển từ những nền tảng nhân bản rất cao quý.

8. Mùa Vọng: Mùa trong veo – ĐGM Vũ Duy Thống

Trên chuyến xe xuôi miền lục tỉnh, người ta chuyển đến tôi một cuốn truyện cũ đã mất bìa để đọc cho quên đường dài. Truyện kể lại mối tình giữa một chàng trai là con sĩ quan học tập và một cô gái là con cán bộ chức quyền. Họ thương nhau và muốn kết hôn với nhau, nhưng khi công khai ý định ấy, họ đã gặp phải những lực cản từ hai phía gia đình. Đã có nhiều nghi ngờ từ phía cha chàng trai và cũng có lắm nghi ngại từ phía cha cô gái. Giải pháp phải chọn là chia xa đôi lứa.

Đành lòng làm thế, nhưng họ vẫn âm thầm chờ đợi nhau, cho đến khi cha chàng trai mãn hạn học tập về nhà và cha cô gái đã đến tuổi về hưu. Hai người cha có dịp gần gũi cảm thông làm chất keo thân ái cho tình yêu đôi trẻ có điều kiện gắn hàn. Kết truyện là đám cưới.

Truyện có hậu và có nét hấp dẫn riêng của thể loại, nhưng điều hấp dẫn hơn hết đối với tôi không phải là cốt truyện cho bằng chính tựa đề “Tình yêu trong veo”: trong veo giữa hai người cha biết xoá tan ngờ vực để thêm gần gũi; trong veo giữa hai bạn trẻ biết vượt qua thử thách để giữ vững tình yêu. Xin mượn tựa đề “Tình yêu trong veo” ấy để gọi tên Mùa Vọng là mùa trong veo một tình yêu.

1) Bằng tình yêu trong veo, Thiên Chúa trao thân cho con người.

Trong khi người Do Thái còn đang mải miết với một vì Chúa ở trên cao và dường như say sưa về một Đấng ở xa con người, đến nỗi trong quan hệ nguyện cầu, thay vì xin những biểu tỏ gần gũi để dễ dàng nắm bắt, họ lại chỉ dám xin một dấu lạ điềm thiêng mãi tận trời cao vượt quá tầm nhìn; và trong niềm mong chờ Đấng Cứu Thế, vốn là mạch sống hy vọng cho cả dân tộc, họ những tưởng nghĩ rằng Người sẽ đến, nhưng là đến trong cung cách của một vị Chúa oai phong lẫm liệt, cho muôn dân nếu không phải cúi đầu sợ hãi thì cũng phải bái phục tôn thờ. Có ngờ đâu, khi Chúa đến, Người lại chọn cho mình một cách đến rất khác lạ.

Người đến thật gần: trong thân phận của một con người để làm người giữa muôn người trần thế. Người đến thật thấp: thấp đến nỗi chọn cho mình cách sống của một người cùng khổ dưới đáy xã hội. Người yêu thương con người để sẵn sàng trao thân cho họ, chấp nhận phải điều đình, chấp nhận được cưu mang, chấp nhận được sinh hạ, chấp nhận được làm người: “Ngôi Lời đã làm người và cư ngụ giữa chúng ta” (Ga 1,14)

Phải chăng khi trao thân cho con người như thế, Thiên Chúa sẽ được thêm vinh quang? Phải chăng nếu không trao thân cho nhân loại, Thiên Chúa vẫn là Chúa, nhưng là một vị Chúa không được ai biết đến hay là một vị Chúa bị kết án phải cô đơn? Thưa không phải thế. Chính khi trao thân cho con người trong mầu nhiệm Nhập Thể, Thiên Chúa không còn úp mở như trong thời Cựu Ước nữa, Người đã dứt khoát cho thấy mình là Đấng giải cứu con người và sẵn sàng làm hết cách để thực hiện bằng được chương trình của Người mà không đợi chờ mảy may vinh quang nào ngoài lợi ích cứu độ cho người trần gian. Để độ thế, Thiên Chúa đã nhập thể; để cứu người, Thiên Chúa đã làm người.

Chính hai Danh xưng được nêu lên trong phần Phụng Vụ Lời Chúa hôm nay đã nói lên tất cả. Danh xưng Emmanuel khẳng định “Thiên Chúa ở cùng chúng ta”, Danh xưng Giêsu bộc lộ “Thiên Chúa là Đấng Cứu Độ” (Mt 1,23-25). Nối kết hai Danh xưng ấy nơi Đấng Cứu Thế, ta sẽ thấy một tình yêu trong veo Thiên Chúa dành cho con người: Người là Thiên Chúa ở cùng ta để cho ta ơn cứu rỗi, và Người là Thiên Chúa cứu độ ta bằng cách ở cùng ta.

2) Bằng tình yêu trong veo, con người gửi phận cho Thiên Chúa.

Nếu bằng tình yêu trong veo cứu độ, Thiên Chúa trao thân cho con người, thì Chúa Nhật thứ tư Mùa Vọng cho thấy những nhân vật gần gũi với mầu nhiệm Giáng Sinh nhất là Đức Maria và thánh Giuse đã bằng tình yêu trong veo tự nhiên gửi phận mình cho Thiên Chúa.

Đối với Đức Maria, tình yêu trong veo đã rõ qua tín điều Vô Nhiễm Nguyên Tội, mà Phụng Vụ hữu ý mừng kính ở đầu Mùa Vọng. Tình yêu ấy đã rõ trong việc Mẹ dâng mình vào Đền Thánh, nhưng tình yêu ấy còn rõ ràng hơn khi tiếp cận với mầu nhiệm Nhập Thể của Con Thiên Chúa. Ngày Truyền Tin, mới gặp sứ thần, Đức Maria đã bối rối, thứ bối rối của một tình yêu trong sạch buổi đầu gặp gỡ. Rồi, lúc được đề xuất làm Mẹ Đấng Cứu Thế, Đức Maria đã băn khoăn, thứ băn khoăn của một tình yêu trong sáng muốn được giải thích đôi câu. Và chính lúc thưa “Xin vâng” (Lc 1,38) là cả một tình yêu trong veo như chưa bao giờ trong đến thế, Đức Maria đã gửi trọn phận mình vào tay Thiên Chúa, bất chấp đó là một mạo hiểm chết người: trinh nữ mà lại mang thai, phải ăn nói ra sao với thánh Giuse? Mới đính hôn thôi mà sắp thành mẹ, phải dàn xếp thế nào cho hợp luật pháp?

Còn thánh Giuse, con người lặng thầm nhất của Mùa Vọng, đã được đặt vào một tình huống khó xử đến độ ray rứt, nhất là trong những ngày trước lúc Đấng Cứu Thế giáng sinh như Phúc Âm hôm nay mô tả. Nhưng chính ở đây ông đã chứng minh bằng những nét đẹp kín đáo hào hùng về một tình yêu trong veo từ lâu đã dệt nên đời sống qua những lựa chọn xé lòng. Là người công chính, dù ghi nhận ít nhiều dấu hiệu chuyển biến nơi Đức Maria, ông cũng chẳng dám nghi ngờ mà chỉ một thoáng băn khoăn, để rồi định chọn cho mình giải pháp âm thầm rút lui. “Đào vi thượng sách” là giải pháp an toàn nhất. Nhưng chính lúc ấy, được tỏ nguồn cơn, ông đã tiếp nhận ý Chúa và tiếp đón Đức Maria về nhà mình bằng một tình yêu trong veo, mà người trần mắt thịt dẫu có bản lĩnh cách mấy cũng khó mà dám xâm mình mạo hiểm (Mt 1,24).

Nhìn như thế, tình yêu trong veo đã liên kết Đức Maria và thánh Giuse, để mái nhà chung sống không chỉ là nơi che nắng trú mưa cho qua ngày đoạn tháng, mà đã trở thành một mái ấm của những tấm lòng biết mở ra cưu mang Con Thiên Chúa và sẵn sàng để sinh Người ra cho dương thế, cho dẫu tình yêu trong veo ấy trên đường cứu độ như một bản trường ca sẽ không thiếu những quãng nghịch, mà việc khó xử hôm nay trong Phúc Âm mới chỉ là những nốt nhạc mở đầu.

3) Cũng bằng tình yêu trong veo, ta đón mừng lễ Giáng Sinh.

Hiểu như trên, Chúa Nhật thứ tư Mùa Vọng rõ ràng là một tình yêu hai chiều trao gửi: Thiên Chúa trao thân cho con người để con người biết gửi phận mình cho Thiên Chúa. Đồng thời cũng là Chúa Nhật trong veo của những tấm lòng biết gửi trao tấm lòng trong ơn cứu độ.

Trên nền tảng ấy, tình yêu trong veo đã trở nên tinh thần phải có để đón Chúa Giáng Sinh. Trong những ngày này, đi ra phố xá, đã nghe vang lên những bài ca Giáng Sinh quen thuộc; ngang qua nhà thờ, đã thấy trưng bày những bộ Noel với hang đá, cây thông, đèn sao đẹp mắt; và đi tới chỗ nào cũng thấy thấp thoáng Giáng Sinh với muôn màu lấp lánh. Nhưng có một màu được xem là không thể quên hay không bao giờ quên đối với mọi tín hữu mừng lễ Giáng Sinh, màu đó không ở trên áo quần giầy dép, môi mép tóc tai, hoa cài áo khoác, mà là ở trong tấm lòng kìa! Đó là màu trong veo của những tâm hồn trinh trong biết cưu mang ý Chúa và biết sinh hoa kết trái trong cuộc sống công minh chính trực của mình.

Nếu ngày xưa trong khúc hát quan họ Sion, câu xướng “Ai được lên Núi Chúa?” đã nhận được lời đáp “Chỉ những người thật thà ngay chính tay sạch lòng thanh mới được bước tới Thánh Cung” (Tv 23,3-4), thì hôm nay cũng thế, trong bài ca cuộc sống ai cũng nôn nao xôn xao ồn ào huyên náo tiếp cận lễ Giáng Sinh cả, kẻ tiếp thị, người tiếp tân; nhưng chỉ có những tấm lòng trinh trong mới xứng đáng trở nên Hang đá tiếp đón Chúa sinh vào. Chúa chỉ một lần đến sinh ra trên trần thế là đủ để cứu chuộc muôn người, nhưng giả như Người có đến sinh ra nhiều lần hơn nữa cũng vẫn thiếu, nếu lòng người chưa sẵn sàng một tình yêu trong veo mở ra đón nhận. Liệu ta hôm nay đã sẵn có một tâm hồn như thế trước lễ Giáng Sinh?

Hơn nữa, tình yêu trong veo cũng là tiếng nói cuối cùng của Mùa Vọng thúc đẩy ta đến với những người xung quanh. Không thể có Mùa Vọng đầy đủ nếu bỏ quên chiều kích tha nhân trong tình yêu của mình, và cũng chẳng tiếp đón Chúa cho đủ nếu từ chối tiếp nhận anh chị em gần gũi với mình trong những sinh hoạt hằng ngày.

Trong Phúc Âm, Giuse biết tiếp nhận ý Chúa “qua giấc mơ”, để rồi sau đó “tỉnh dậy” ông mau mắn đón Đức Maria nên bạn đường bạn đời của mình, cho dẫu hậu thế có kẻ điều ong tiếng ve xem ông như kẻ “vô tư”. Nhưng đó lại là bước đột phá của một tình yêu trong veo biết nhận ra rằng: Thiên Chúa đã ân cần trao thân cho mình qua mầu nhiệm Nhập Thể, thì mình cũng tín thác gửi phận mình trong mầu nhiệm quan phòng của Thiên Chúa. Đó là hai chiều gặp gỡ của tình yêu Giáng Sinh.

Tóm lại, tình yêu trong veo là động lực khiến Chúa đến với con người và là nguồn lực thúc đẩy con người tiếp đón Chúa, để trong cuộc sống cụ thể trở thành nỗ lực của mọi tín hữu đón lễ Giáng Sinh. Trong khi còn chuẩn bị và chưa thực sự được tiếp đón Chúa, hãy bắt đầu bằng cách thực tập tiếp đón những hình ảnh sống động của Chúa là những người ta gặp hoặc những người gặp ta bằng một tình yêu trong veo luôn thăng tiến. “Nếu không gặp Ngài trong nghèo khổ, sẽ chẳng gặp Ngài giữa cao sang. Nếu không gặp Ngài ở dưới đất, sẽ chẳng gặp Ngài chốn Thiên Đàng” (thơ Xuân Ly Băng).

Đến đây, xin được khép lại những chia sẻ Mùa Vọng năm nay. Xin cám ơn Mùa Vọng đã đem đến những ý nghĩ đẹp màu. Xin cám ơn cộng đoàn đã vui lòng lắng nghe. Hy vọng những tâm tình chia sẻ cũng cung cấp chút ý tưởng giúp mỗi người hình thành được Máng Cỏ tâm hồn. Và cám ơn đứa cháu nhỏ đã tình cờ viết lộn chữ Mùa Vọng thành chữ “Màu Vọng” để có được bốn sắc màu chia sẻ nơi đây. Qua xanh đến tím gặp hồng, dìu ta đón Chúa với lòng trong veo.

Top