Bạn trẻ Công giáo nói không với thủ dâm, tại sao?
WHĐ (2.7.2020) - Có nhận xét rằng không có hình thức tình dục nào mà được bàn cãi một cách thông thường hơn, bị kết tội, và đồng thời được thực hành một cách rộng rãi hơn là thủ dâm (masturbation). Trong thái độ liên quan đến hiện tượng thủ dâm, có nguy hiểm rơi vào hai thái cực. Một mặt, có những người tiếp tục bị ám ảnh bởi vấn đề thủ dâm, như thể thủ dâm là vấn đề cơ bản của đời sống tính dục Kitô hữu. Trong quá trình như vậy, họ quên rằng khiết tịnh bao gồm không chỉ sự vắng mặt đơn thuần của các biểu hiện như thủ dâm và các hành vi dâm dục, nhưng đúng hơn là nỗ lực hướng đến sự hội nhập trưởng thành và tăng trưởng của tính dục trong nhân vị.
Mặt khác, khi đối diện với những cường điệu cứng nhắc của quá khứ, con người dễ dàng rơi vào một thái cực khác. Họ xem thủ dâm như thể là nó chất chứa các giá trị làm cho nó đáng ước ao, có ích. Một lập trường thái quá như vậy có thể đi xa đến mức cho rằng cái nguy hiểm duy nhất liên quan đến thủ dâm là một cảm giác sai lầm tội lỗi, vốn nên được lấy đi bởi một sự giáo dục đúng đắn.[1]
Không đi đến hai thái cực như vậy, nhiều người thực tế chấp nhận thủ dâm một cách êm thấm và không gắn kết chút tội lỗi nào với nó, coi nó như là một hiện tượng tự nhiên, phổ biến.[2]
Đối diện với các lập trường đối nhau như vậy, luân lý tính dục Công giáo ngày nay cần phải trình bày một cách hệ thống giáo huấn về hành vi thủ dâm trong một cách thức tôn trọng cả các dữ liệu thu thập được từ các nguồn khôn ngoan luân lý Công giáo và cả khoa học thực nghiệm.
I. Định nghĩa và tần suất thủ dâm
Thủ dâm là hành động cố ý kích thích các cơ quan sinh dục, ngoài hành vi giao hợp, với mục đích đạt được khoái lạc tình dục (x. Giáo Lý Hội Thánh Công Giáo, GLHTCG số 2352), thường là đạt đến kích thích cực độ (orgasm), nơi người nam biểu hiện bằng sự xuất tinh, nơi người nữ biểu hiện bằng sự xuất tiết chất nhầy ở âm đạo. Thủ dâm có thể thực hiện bằng tiếp xúc cơ thể hoặc bằng những hình ảnh kích dục hay sự tưởng tượng (thủ dâm trong tư tưởng) hay có khi vừa cả kích thích thân xác lẫn tư tưởng. Theo nghĩa rộng hơn thủ dâm có thể giữa hai người khi đương sự đụng chạm vào cơ quan sinh dục của nhau.[3]
Điều đáng lưu ý là theo nghiên cứu của James McCary, tác giả của Human Sexuality, có đến 90% nam và khoảng 50% nữ thủ dâm, với mức độ thường xuyên khác nhau.[4] Theo vài đánh giá y khoa, thủ dâm là một hành vi có thể hình thành thói quen rất nhanh chóng ở cả nam và nữ, không kể tuổi tác.[5]
II. Các loại thủ dâm trên quan điểm tâm lý lâm sàng
Tác động của hành vi thủ dâm trên thân thể
Chất Endorphins được tiết ra từ hệ thần kinh trung ương và tuyến yên. Chúng có tác dụng giảm đau và tạo cảm giác vui thú, thỏa mãn. Endorphins được phóng thích để đáp ứng với các căng thẳng, đau đớn, nhưng cũng được phóng thích trong các hoạt động khác như ăn uống, thể thao, hay hoạt động tình dục.[6] Thủ dâm cũng gây phóng thích endorphins và gây cảm xúc vui thú.
Thủ dâm thường xuyên sẽ làm cho trung khu thần kinh luôn ở trong trạng thái hưng phấn quá mức, gây ức chế trung khu cảm giác tình dục. Khi đó, ở người nam thủ dâm, chỉ cần một kích thích nhẹ ở cơ quan sinh dục cũng có thể xuất tinh, gây xuất tinh sớm. Mặt khác, thủ dâm nhiều trong thời gian dài khiến cơ thể có thể quen dần với kích thích và nhiều trường hợp phải những kích thích thật mạnh mới xuất tinh, gây rối loạn cương dương, thậm chí là liệt dương. Người thủ dâm thường xuyên có thể sẽ đạt cực khoái quá sớm khiến bạn đời của mình không cảm thấy thỏa mãn, ảnh hưởng đến hạnh phúc gia đình. Những người nam thủ dâm quá nhiều, số lượng tinh trùng giảm còn gần một nửa người bình thường, tỷ lệ sống và mức độ di động của tinh trùng cũng giảm sút nhiều, làm giảm khả năng sinh sản.[7]
Phân loại
Ngày nay nhiều tác giả có khuynh hướng phân biệt thủ dâm thành nhiều loại khác nhau. Thủ dâm có thể là một “triệu chứng” với nhiều ý nghĩa khác nhau. Công bố của vài nghiên cứu tương ứng với hiểu biết này, các hiểu biết mới trong khoa học hành vi, phát triển thần học, và phán đoán của kinh nghiệm con người. Công bố này cũng nhấn mạnh rằng các cố gắng để thoát khỏi thủ dâm cần tìm hiểu nguyên nhân của hành vi ấy.
Donald Goergen, trong The Sexual Celibate[8], phân biệt bốn loại thủ dâm:
1. Thủ dâm trẻ thơ: trẻ thơ khám phá vùng khoái cảm của bộ phận. Tác giả Goergen cho rằng đây chỉ là một giai đoạn phát triển bình thường. Tuy nhiên, theo tôi, khó có thể xem trường hợp này là thủ dâm thực sự, vì đứa trẻ chưa hiểu gì.
2. Thủ dâm thiếu niên: đi cùng với tuổi dậy thì - tò mò với thân thể đang trưởng thành và thể nghiệm - có thể biến thành tật xấu hay thói quen.
3. Thủ dâm người trưởng thành: có thể không xảy ra nếu có thể diễn tả trong các kênh tâm lý, tình cảm khác, giải thoát bức xúc tạm thời.
4. Thủ dâm lạm dụng: có tác dụng phá hủy và không toàn nhập, nghiêng hẳn về thủ dâm, ngay cả khi có điều kiện sinh hoạt tình dục bình thường.
Ngoài ra, thông thường một số tác giả phân loại thủ dâm như sau:
1. Thủ dâm nơi thiếu niên (adolescent masturbation)
Dậy thì là dấu hiệu khởi phát của những thay đổi quan trọng trong đời sống của thanh thiếu niên. Sự hiếu kỳ bị đánh thức bởi kinh nghiệm đầu tiên của áp lực tình dục nổi dậy trong thanh thiếu niên dẫn đến một quá trình tự khám phá và gây ra một khuynh hướng nào đó đóng kín trên chính mình. Sự kiện rằng ở tuổi này tình dục chưa được hướng về bạn khác phái thường dẫn đến việc tìm tòi giảm áp lực và thỏa mãn những nhu cầu thân xác bên trong chính mình.
2. Thủ dâm bù trừ (compensatory masturbation)
Ở những người thanh niên thấy rằng sự phát triển lành mạnh của họ hướng về sự tự quyết và trách nhiệm cá nhân bị đè bẹp bởi cha mẹ độc đoán hay bị bóp nghẹt bởi những cha mẹ chăm sóc quá đáng, không phải là không thông thường cho các thanh niên này quay sang thủ dâm như một dấu hiệu phản ứng. Gốc rễ của vấn đề này là đời sống gia đình không lành mạnh, vốn cần được thay đổi nếu muốn giải quyết vấn đề thủ dâm. Khi không thể thay đổi bầu khí gia đình, thì thầy cô giáo, bạn bè có thể là nguồn giúp đỡ quan trọng bằng cách biểu lộ quan tâm và khuyến khích trong các hoạt động động viên đương sự tự diễn tả và tự giải quyết.
3. Thủ dâm do nhu cầu (masturbation of necessity)
Một số người, dưới sự thúc bách mạnh mẽ của đòi hỏi sinh lý là một phần của tình dục con người tại vài thời điểm nhất định tìm thấy nơi thủ dâm một sự giảm nhẹ khỏi áp lực nhu cầu tình dục. Những người độc thân, đàn ông có vợ phải xa nhà vì công tác, phục vụ quân đội hay bị tù, hay những vợ chồng vì lý do sức khỏe hay lý do nào đó buộc không được quan hệ thân xác trong một thời gian dài có thể gặp tình huống này. Thủ dâm thay thế giao hợp nơi những người trưởng thành mà bị lấy đi cơ hội của việc diễn tả bình thường của xung động tình dục qua giao hợp. Một số tu sĩ gặp khủng hoảng trong đời sống tu trì cũng có thể rơi vào hành vi thủ dâm, lâu ngày tạo thói quen xấu khó dứt bỏ.
Một thực tế và điều quan tâm cho nhiều người, đặc biệt đối với những người độc thân, từ niềm tin rằng không thể kết hợp xác thịt ngoài hôn nhân, họ thực hiện thủ dâm như để giải tỏa đòi hỏi xác thịt. Họ cảm thấy tội lỗi khi làm như thế, họ cương quyết không làm nữa, nhưng rồi họ vẫn tiếp tục… và họ lại mặc cảm về chính mình. Thủ dâm dường như thoát khỏi vòng kiểm soát của ý chí của họ. Việc thực hành thủ dâm để có được sự giảm nhẹ áp lực đòi hỏi tình dục hay để giữ sự trung thành hôn nhân dường như là vấn đề của sự chọn lựa thận trọng các giá trị.
4. Thủ dâm bệnh lý (pathological masturbation)
Thủ dâm bệnh lý khi hành vi thủ dâm thực ra là một triệu chứng của vài rối loạn tâm thần hay tâm lý. Cách thích ứng vụng về tâm lý có thể đôi khi là gốc rễ của hành vi thủ dâm. Nguyên nhân này đặc biệt cần nghĩ đến khi mà xung động đưa đến thủ dâm gần như cưỡng bách, mang đến rất ít hoặc không có sự thỏa mãn nhưng lại thường lặp lại mặc dù không có giải thích hữu lý cho hành vi như vậy. Thủ dâm có thể là biểu hiện sự ngưng phát triển nhân cách hay ngưng sự trưởng thành tâm sinh lý ở một giai đoạn nào đó.
Có những người thường thích thủ dâm ngay cả khi có cơ hội cho giao hợp vợ chồng, có thể là do tình dục không được hòa hợp trọn vẹn. Tư vấn để hiểu biết những nguyên nhân sâu xa hơn của hành vi như vậy có thể tìm cách giải thoát thích hợp.
Người thủ dâm trong trường hợp bệnh lý có thể có biểu hiện kích thích thần kinh, như trong các hội chứng cưỡng bách - ám ảnh và trầm cảm nặng, hoặc rối loạn tâm thần như tâm thần phân liệt (schizophrenia), mất trí tuổi già, hay trong các rối loạn hưng - trầm cảm (manic depressive disorders).
5. Thủ dâm vì lý do y khoa
Trường hợp cần tinh trùng để xét nghiệm như trong chẩn đoán và điều trị hiếm muộn nam, trong tiến trình thụ tinh nhân tạo, hiến tặng tinh trùng.
6. Thủ dâm hưởng lạc (hedonistic masturbation)
Thủ dâm đơn giản chỉ để tìm thú vui, không một nỗ lực để kiểm soát hay hội nhập nhân cách. Thủ dâm này có thể là dấu chỉ của sự quay vào chính mình, cô lập hay đổ vỡ tương quan. Khai thác tình dục của mình một cách tự do, cố ý và thường xuyên trong cách thức này sẽ tạo nên một ngăn trở lớn cho sự tăng trưởng và hội nhập nhân cách và cấu thành một sự đảo lộn trật tự luân lý của tình dục - sự đảo lộn này là trọng tâm của tính xấu luân lý của thủ dâm.
Về mặt mục vụ, sẽ có hiệu quả rất ít nếu chỉ kết án tính tội lỗi của từng hành vi thủ dâm. Một sự hoán cải tận gốc rễ của người thủ dâm là cần thiết trong nhân cách, và cái nhìn về bản chất và ý nghĩa của tính dục con người.
Giải Thích Hiện Tượng Thủ Dâm theo Quan điểm Hiện sinh - Hiện tượng luận[9]
Theo Thomas Hora, hành động thủ dâm tự bản chất là một sự lạm dụng bản ngã. Nó là hành động buông thả, chiều chuộng bản thân, dồn nén, tầm thường hóa chiều kích tính dục của con người.
a. Chiều chuộng bản thân (self-indulgent): là một cách thể hiện diện không chính thực, đi tìm sự thỏa mãn tạm thời, và không bao giờ đạt được.
b. Dồn nén sự diễn tả tính dục chính thực - ảnh hưởng đến sự hội nhập hài hòa giữa tâm linh và thể xác.
c. Một sự diễn tả giả tạo hay không chính thực về tình dục - tầm thường hóa tình dục. Thủ dâm tầm thường hóa tính linh thánh và bí nhiệm và ý nghĩa của việc giao hợp.
III. Phân định luân lý
1. Kinh Thánh
Cả Cựu Ước và Tân Ước không đề cập trực tiếp đến thủ dâm. Nhiều đoạn đôi khi được trích như là kết án thực hành này (Lv 15, 16; Đnl 23, 9-11; St 39; 1 Thes 4, 3-4; Rm 1, 24 và Cr 1, 6-10), nhưng các nhà Kinh Thánh ngày nay không tìm thấy chứng cứ thuyết phục rằng các tác giả Thánh đang chỉ đến thủ dâm trong các bản văn trên. Bản văn hay được dùng trong truyền thống thần học luân lý để chỉ tội lỗi của ngừa thai là đoạn St 38, 6-10 (tội của Onan) không nói đến thủ dâm. Thực sự điều bị khiển trách trong đoạn này là sự không tuân theo luật nối dõi của Onan. Đây là vi phạm luật hôn nhân Lêvi (Đnl 25, 5-10), vốn phải giữ tài sản của người chết trong cùng một bộ tộc, để tránh làm nghèo đi bộ tộc đó và do đó ngăn ngừa sự khởi phát của những bất bình đẳng kinh tế xã hội.
Tuy nhiên, Kinh Thánh nhiều lần nói đến việc người Kitô hữu phải giữ gìn sự thanh sạch của thân xác.[10] Chẳng hạn đoạn 1 Cr. 6, 15-18 “Nào anh em chẳng biết rằng thân xác anh em là phần thân thể của Đức Kitô sao? Ai đã kết hợp với Chúa, thì nên một tinh thần với Người… Hay anh em lại chẳng biết rằng thân xác anh em là Đền Thờ của Thánh Thần sao? Mà Thánh Thần đang ngự trong anh em là Thánh Thần chính Thiên Chúa đã ban cho anh em. Như thế, anh em đâu còn thuộc về mình nữa, vì Thiên Chúa đã trả giá đắt mà chuộc lấy anh em. Vậy anh em hãy tôn vinh Thiên Chúa nơi thân xác anh em.”
Về mặt truyền thống, Huấn quyền luôn hằng định trong việc xem thủ dâm như là một sai trái luân lý, thậm chí trầm trọng. Nhưng có sự khác nhau các ý kiến về lý do giải thích tính tội lỗi của thủ dâm.
2. Truyền thống Giáo Hội và Huấn Quyền hiện tại
Lược qua vài tuyên bố của Huấn Quyền về thủ dâm, chúng ta thấy có sự phát triển theo lịch sử.
1054: Đức Giáo Hoàng Leo IX ban hành giáo huấn đầu tiên chính thức về thủ dâm, khi Ngài tuyên bố rằng “người thủ dâm không nên được nhận vào chức thánh”.
1679: Đức Giáo Hoàng Innocent XI kết án ý kiến sau của Caramuel là tai tiếng và nguy hiểm: “thủ dâm không bị cấm bởi luật tự nhiên, vì vậy nếu Thiên Chúa không cấm, nó có thể là tốt”.
1904: Tòa Ân Giải Tối Cao (The Sacred Penitentiary) tuyên bố rằng “một hành động thủ dâm hoàn toàn của một phụ nữ khi vắng chồng là hoàn toàn không hợp luật luân lý và bất cứ vị giải tội nào đồng ý việc thực hành này sẽ bị tố cáo lên Tòa Thánh”.
1929: Tòa Thánh trả lời “Không” đối với câu hỏi sau: “Thủ dâm trực tiếp được cho phép không, khi làm với mục đích lấy tinh dịch cho xét nghiệm y khoa nhằm tìm bệnh và việc điều trị?”
1952: Đức Piô XII đã chống lại nguồn dư luận cho rằng sự thủ dâm của thanh thiếu niên là một hiện tượng thông thường không mang sắc màu tội lỗi: “Ta bác bỏ ý kiến của những ai cho rằng trong tuổi dậy thì không thể nào tránh những sa ngã được, và do đó người ta không nên bận tâm đến chúng nhiều lắm, gần như chúng chắc không phải tội trọng, bởi vì, những kẻ ấy nói thêm, sức lực đam mê thường thường loại bỏ quyền tự do cần thiết để một hoạt động luân lý có thể bị quy trách được.”[11]
Đức Piô XII trong thông điệp “Giáo dục Kitô giáo cho giới trẻ” nói rằng: “ Chúng tôi bác bỏ ý kiến của những người cho rằng sa ngã (thủ dâm) là không tránh khỏi trong những năm thiếu niên, và do đó không cần phải xem xét, như thể chúng không phải là những lỗi nặng...”
1961: Thánh Bộ Tu Sĩ ban hành hướng dẫn sau cho các linh hướng thiêng liêng của các ứng sinh các dòng tu: “ứng sinh nào có thói quen thủ dâm (solitary sins) và những ai không chứng tỏ hy vọng rằng người đó có thể dứt bỏ thói quen này trong một thời gian xác định, người ấy không nên được nhận vào tập viện… Một chính sách chặt chẽ hơn phải được áp dụng đối với những người làm lời khấn cuối hay chịu chức thánh. Không ai nên được chấp nhận khấn cuối hay tiến lên chịu chức thánh trừ khi người đó phải tập được một thói quen vững chắc của sự tiết dục và chứng tỏ được sự khiết tịnh đều đặn ít nhất một năm. Nếu sa ngã trở lại, ứng sinh không nên được chấp nhận vào chức thánh.”
1971: Hướng dẫn Tôn giáo và Đạo Đức cho các Dịch vụ chăm sóc y tế Công giáo của Hội Đồng Giám Mục Hoa Kỳ: “sự sử dụng bộ phận sinh dục bên ngoài sự sử dụng hợp pháp của các cặp vợ chồng là không bao giờ được phép ngay cả vì lý do y khoa hay các mục đích tốt khác, ví dụ thủ dâm như là một phương tiện để lấy được tinh dịch.”
1974: Bộ Giáo Dục Công Giáo trong “A Guide to Formation in Priestly Celibacy” cho lời khuyên sau “một trong những nguyên nhân của thủ dâm là bất quân bình tình dục. Những nguyên nhân khác thông thường thứ phát và không hằng định, mặc dù đóng góp trong việc khởi phát thủ dâm và tiếp tục thực hành. Trong giáo dục, nỗ lực nên được hướng về nguyên nhân hơn là đối đầu với vấn đề trực tiếp. Chỉ với cách này chúng ta có thể thúc đẩy sự tăng trưởng hiệu quả vượt qua bản năng trẻ con - nghĩa là tăng trưởng nội tâm hướng về chiến thắng bản năng. Đây là sự tăng trưởng có thể ngăn cản những nguyên nhân kể trên.
Tốt nhất cần tránh sợ hãi, đe dọa thiêng liêng hay thể lý. Những điều này có thể thúc đẩy tạo ra ám ảnh, và thỏa hiệp khả năng của một thái độ quân bình tình dục, làm cho người ấy quay vào với chính mình hơn nữa, thay vì cởi mở với người khác. Thành công luôn luôn tùy thuộc vào mức độ ý thức nguyên nhân thực sự của vấn đề. Đây chính là điều mà việc huấn luyện cần phải quan tâm đặc biệt.
Tự lạm dụng gây nguy hại cho loại đời sống mà nhà giáo dục nhắm đến. Nhà giáo dục không thể dửng dưng với thái độ đóng kín hậu quả của việc tự lạm dụng. Tuy nhiên, nhà giáo dục không nên bi thảm hóa sự kiện thủ dâm, cũng không nên đánh giá thấp và giảm lòng tốt đối với cá nhân thủ dâm. Khi người thụ huấn đi sâu hơn vào tình yêu xóa mình và siêu nhiên của nhà giáo dục, người trẻ đó buộc phải ý thức vị trí của mình trong sự hiệp thông bác ái và sẽ bắt đầu được kéo ra khỏi sự cô lập chính mình.”
Khi cố gắng giải quyết từng khó khăn, tốt hơn là không nên áp dụng giải pháp có sẵn “nhận nó hay từ bỏ nó”. Tốt hơn, dùng cơ hội cho sự tăng trưởng nội tâm thực sự, giúp đỡ và khuyến khích người thủ dâm để chính người ấy tìm ra thuốc chữa cho chính mình. Không chỉ người thủ dâm khi ấy giải quyết vấn đề chính mình, mà sẽ học hỏi nghệ thuật giải quyết các vấn đề khác mà người ấy sẽ phải đối phó.
1975: Bộ Giáo Lý Đức Tin trong “Tuyên Ngôn về một số vấn đề liên quan đến luân lý tính dục” dạy như sau:
“Ngày nay người ta tỏ ra nghi ngờ hay chối bỏ luân lý Công Giáo truyền thống rằng thủ dâm tạo nên một sai trái luân lý nặng. Người ta nói rằng tâm lý học và xã hội học cho thấy rằng nó là một hiện tượng bình thường của phát triển tính dục, đặc biệt nới những người trẻ… Ý kiến này trái nghịch với giáo huấn và thực hành mục vụ của Giáo Hội Công Giáo. Sức mạnh của một số lập luận về bản chất sinh học, triết học, vốn thỉnh thoảng được dùng bởi các thần học gia, và thực thì cả Huấn Quyền - trong suốt dòng truyền thống hằng định - và với cảm thức luân lý của tín hữu đã công bố một cách không ngần ngại rằng thủ dâm là một hành vi sai trái nghiêm trọng tự nội tại. Lý do chính là, với bất kỳ động cơ nào cho hành động như thế, sự sử dụng cố ý chức năng sinh dục ngoài tương quan vợ chồng bình thường là đối nghịch một cách chủ yếu với mục đích của cơ quan sinh dục. Bởi vì nó thiếu sót tương quan tình dục trong trật tự luân lý, đó là tương quan thực hiện ý nghĩa trọn vẹn của việc tự trao hiến cho nhau và truyền sinh trong bối cảnh yêu thương thực sự. Tất cả thực hành tình dục chủ ý phải dành riêng cho tương quan thông thường này.”
Giáo Lý Hội Thánh Công Giáo (GLHTCG) số 2352: “Dựa theo truyền thống bền vững, cả Huấn quyền và cảm thức luân lý của các Kitô hữu, không hoài nghi khẳng định rằng, thủ dâm là một hành vi tự bản chất là vô trật tự cách nghiêm trọng”. “Với bất cứ lý do nào, việc chủ ý sử dụng khả năng tình dục ngoài quan hệ phu phụ đúng đắn cũng là sai mục đích của nó”.
Bản văn trên phản ánh lập trường truyền thống của Giáo hội, xem các hành động tự kích thích hay thỏa mãn dục tình tự mình đều không hợp luân lý. Cơ quan sinh dục không phải công cụ mà chúng ta có thể sử dụng đơn thuần cho sự vui thú. Chúng là một phần của chính con người chúng ta. Các hành vi tình dục luôn phải thực hiện trong bối cảnh hôn nhân và tình yêu dâng hiến nam nữ. Khi tôn trọng sức mạnh, ý nghĩa và chức năng của cơ quan sinh dục, chúng ta tôn trọng thân xác mà, qua bí tích rửa tội, trở thành một thân thể với Chúa Kitô và là đền thờ của Chúa Thánh Thần.
“Để có phán đoán đúng đắn về trách nhiệm luân lý của đương sự, cũng như đưa ra một đường hướng mục vụ, cần lưu ý đến tình trạng thiếu trưởng thành tình cảm, áp lực của các thói quen đã có, tâm trạng lo âu cũng như những yếu tố khác về tâm lý và xã hội. Các nhân tố trên có thể làm cho sự quy tội luân lý được giảm nhẹ, thậm chí đến mức tối thiểu” (GLHTCG số 2352)
Về mặt luân lý, nên phân biệt thủ dâm được thực hiện với đầy đủ ý thức và lòng muốn; và thủ dâm đôi khi xảy ra theo một xung động mạnh mẽ nhất thời thúc đẩy của đòi hỏi cơ thể mà chính người đó khó có thể cưỡng lại trong khoảnh khắc, như sự thiếu trưởng thành của tuổi thiếu niên. Trên phương diện sinh lý, nhiều thiếu niên về mặt thể lý đã sẵn sàng khả năng cho hoạt động tình dục, nhưng về mặt xã hội chưa đủ đảm nhận được trách nhiệm, về mặt nhân bản chưa trưởng thành đủ cho hôn nhân. Ở những thiếu niên này, thủ dâm đến như một cái “valve” sinh lý tự nhiên an toàn. Về mặt trách nhiệm luân lý, hành động thứ hai thường ít nghiêm trọng hơn hành vi thứ nhất. Cá nhân không nên quá lo sợ về hành vi ấy, mặc cảm tội lỗi. Điều quan trọng là cá nhân phải tranh đấu vượt thắng không để hành vi thủ dâm trở thành thói quen, vì khi ấy nó trở thành tật xấu và phải nỗ lực lớn để thoát khỏi.
Giáo Hội cũng công nhận những nghiên cứu tâm lý ngày nay cho thấy thủ dâm có thể xảy ra trong hoàn cảnh chán chường, cô đơn, hình ảnh về chính mình nghèo nàn, thiếu thốn tương quan nam nữ, xung đột với cha mẹ, cộng đoàn, nhiều áp lực xã hội, công việc. Trong vài trường hợp, không phải hành vi thủ dâm là vấn đề phải xem xét, nhưng là những xung đột, hoàn cảnh gây ra thủ dâm, và cần thiết phải được tâm lý liệu pháp. Trách nhiệm cá nhân về các hành vi thủ dâm trong các hoàn cảnh này được giảm nhẹ, mặc dù hành vi đó là vấn đề nghiêm trọng.
Huấn quyền nhấn mạnh mặc dù thủ dâm được thực hành thông thường hơn là người ta muốn nhìn nhận nó, thủ dâm luôn là một lạm dụng ước muốn tình dục tự nhiên của bản năng và vi phạm điều răn Thứ Sáu. Tình dục được Thiên Chúa tạo dựng cho hôn nhân và chỉ trong hôn nhân. Đúng là nhiều người phải đấu tranh vượt qua thói quen thủ dâm. Vì vui thú tình dục rất mạnh mẽ, và thủ dâm là cách thức rất dễ dàng để “cố gắng” thỏa mãn thú vui đó. Cần nhắc lại rằng thủ dâm chỉ là một cách thức để “cố gắng” thỏa mãn ước ao tình dục. Chắc chắn, nhiều người cảm thấy một thỏa mãn nào đó, vì khi thủ dâm, endorphins trong cơ thể được phóng thích tạo ra một thỏa mãn vui thú thể lý. Nhưng nó không bao giờ có khả năng của một sự thỏa mãn trọn vẹn. Chỉ trong hôn nhân, tình dục mới có thể tìm thấy sự viên mãn đích thực của nó.
IV. Mục vụ
Phải xem xét người thủ dâm trong bối cảnh cá nhân và tiến trình:
- Tuổi: tùy lứa tuổi, có những động cơ khác nhau – vị thành niên: sự thúc bách thể lý, điều mới lạ, khám phá sức mạnh bản thân, khoái cảm... Người trưởng thành: có những động cơ như trên và nhiều động cơ khác như giảm stress, mặc cảm...
- Tần số: cần phải để ý đến yếu tố này, hằng tháng, hằng tuần, hàng ngày, thỉnh thoảng tùy hoàn cảnh, hay bị thúc bách... ảnh hưởng khác nhau trên đời sống thiêng liêng.
- Cường độ: thời gian đầu tư vào đó, cố tình dấn thân vào đó, hay chỉ là một sự bộc phát ngắn ngủi, ảnh hưởng khác nhau trên đời sống thiêng liêng và tương quan thân mật.
Nguy hiểm luân lý liên quan đến thủ dâm thường xuyên là nó hấp dẫn, trở thành một lối thoát giảm nhẹ áp lực và khai phá những cảm giác tình dục. Thay vì dấn thân một cách trưởng thành vào tương quan liên vị, người thủ dâm có thể làm thinh lặng tiếng của Chúa Thánh Thần thúc đẩy yêu thương người khác, và kết quả, người thủ dâm kết thúc trở thành trống rỗng hơn, cô đơn hơn. Giáo dục tính dục cho thanh thiếu niên cần chú ý đến điều này, giúp đương sự có những hoạt động xã hội, thể thao và tinh thần lành mạnh để một phần hướng những đòi hỏi xác thịt vào hướng phục vụ tha nhân và phát triển nhân cách lành mạnh.
Theo Romeo Intengan, linh mục Dòng Tên, nhà thần học luân lý và là một bác sĩ, tính trái luân lý của thủ dâm hệ tại trong khuynh hướng của nó làm tổn hại sự phát triển hòa hợp của nhân cách con người... Sự tác hại với mức độ khác nhau của thủ dâm trên sự trưởng thành tâm lý tính dục và luân lý tùy thuộc nhiều yếu tố như cường độ của hành động, tính thường xuyên, giai đoạn phát triển tâm lý tính dục, mức độ tham gia của nhân cách vào hành động, và mức độ tự do và trách nhiệm của chính người đó.
Trong phương cách giúp đỡ người thủ dâm, đặc biệt ở thanh thiếu niên,
Cần tránh những thái độ bi quan:
- Không có hy vọng nào trong việc giúp ngăn ngừa thủ dâm ở thiếu niên.
- Tạo nên một não trạng căng thẳng, báo động
- Thái độ lên án, phán xét.
- Thái độ điều tra, hỏi cặn kẽ, chi tiết.
- Hù dọa những hậu quả…
Cũng phải tránh thái độ lạc quan quá đáng:
- Tầm thường hóa vấn đề, bỏ qua
- Rước lễ hằng ngày - Chúa sẽ giúp vượt qua.
- Xem thủ dâm chỉ là một hiện tượng bình thường của phát triển và tăng trưởng…
Cần phối hợp giữa thể lý, tâm lý, luân lý và tâm linh, về vấn đề thủ dâm, và có một sự khám phá mẫu thức thủ dâm và những cách thức cụ thể. Không quá bi quan, cũng không quá lạc quan, hoặc xem thường vấn đề.
1. Thủ dâm ở thanh thiếu niên[12]
Những cách tiếp cận sai lầm
Là quan điểm cho rằng các thanh thiếu niên khi lớn lên sẽ không còn thủ dâm nữa. Đôi khi người ta đã giới thiệu thủ dâm như một biện pháp tốt làm dịu căng thẳng cơ thể, như một hình thức giải tỏa ức chế tình dục. Còn vài nhà tư vấn khác thu hẹp vấn đề, không đưa ra bất cứ lời khuyên nào trừ câu nói: “đừng nên lo lắng chuyện này”.
Một vài cách tiếp cận hiệu quả
Một mặt các em bị các phương tiện truyền thông tấn công với những hình ảnh kích thích, gợi dục, mặt khác các phụ huynh và các giáo viên không thể hướng dẫn các em về đạo đức, ngay cả các tu sĩ và cha xứ vẫn giữ thái độ im lặng với vấn đề này nên số đông các thanh thiếu niên hiểu biết mù mờ về tính luân lý liên quan đến thủ dâm. Một số em đã có thói quen này trước khi nhận thức đầy đủ tính sai trái của thủ dâm. Thậm chí có bạn trẻ cảm thấy khó chịu khi nghe nói thủ dâm là một hành động sai trái.
Các em rơi vào thói quen thủ dâm cảm thấy bất lực khi cố kiểm soát thói quen ấy, và trong nỗi xấu hổ và mặc cảm ấy, các em e ngại khi thảo luận vấn đề này với người tư vấn, và thường rất ít nói với các linh mục, cha xứ. Hoài nghi về bản thân, bối rối vì những giá trị nhân văn, và thường chưa sẵn sàng các mối quan hệ nghiêm túc với người khác phái, những bạn trẻ này sẵn sàng rút vào thế giới tưởng tượng của sự lãng mạn và những thú vui tình dục. Thêm vào đó, những lời dạy mơ hồ, sai lạc ở trường lớp về thói thủ dâm, các bạn trẻ thường lờ đi vấn đề thủ dâm khi xưng tội. Vì thế, các linh mục phải trả lời nghiêm túc với các bạn trẻ khi câu hỏi này được nêu lên.
Các em cần được khích lệ dũng cảm để trở nên khiết tịnh. Thái độ đúng đắn có lẽ là phải xử trí thói thủ dâm bằng cách mở ra các giải pháp để người đó tham gia vào một chương trình trợ giúp tâm linh. Người thủ dâm phải gánh vác trách nhiệm vì tương lai của chính mình.
Cần phải linh hướng cho các em đầy đủ, cần nhận ra ước muốn trở nên thanh sạch của các em cũng như cho những lời khuyên cụ thể về vấn đề này. Các em cần được truyền đạt về tác động của thủ dâm lên sự trưởng thành nhân cách, hiểu biết tính luân lý của vấn đề này. Những yếu tố tâm lý thường cản trở việc sử dụng ý chí tự do. Nhiều thanh niên đã không tham dự Bí tích Thánh thể vào ngày Chúa Nhật vì họ cảm thấy không thể vượt qua thói quen xấu này. Hướng dẫn sự chú ý đến từng hành vi thủ dâm có thể cản trở sự phát triển nhân vị vì sự tập trung vào chính mình và đào sâu cảm giác thiếu thốn nơi người thiếu niên. Hướng dẫn các em vào các hoạt động củng cố sự tự tin và khuyến khích sự tăng trưởng và tương quan với người khác và tiến bộ trong phát triển nhân cách, trong hầu hết trường hợp thủ dâm sẽ dần biến mất.
2 . Người trẻ độc thân[13]
Ngày nay, với nhiều lý do, người trẻ thường trì hoãn hôn nhân, với việc kéo dài thời gian hẹn hò, cùng với những kích thích thường xuyên trong thời gian bên người yêu, và sức cám dỗ từ các phương tiện truyền thông, điều này dễ dẫn họ đến hành vi vuốt ve nhau để đạt khoái cảm. Đây thực sự là hành vi thủ dâm lẫn nhau. Những người tham gia vào hành vi này tự xem mình vẫn còn trong trắng vì họ chưa quan hệ tình dục qua đường sinh dục. Được gọi là trinh trắng “theo nguyên tắc”, nhưng thực ra họ cần phải tìm lại ý nghĩa và sống đức khiết tịnh.
Một số người độc thân không thật sự hẹn hò với người khác vì nhiều lý do, không có hướng sống rõ ràng, không bị ràng buộc với vợ/chồng hay con cái, họ thường trú ẩn vào thế giới tưởng tượng như tiểu thuyết diễm tình, phim ảnh khiêu dâm, thường lui tới quán bar vào những tối cuối tuần... Họ dường như bận rộn với nhiều người quen biết nhưng thực ra lại rất cô đơn. Việc thủ dâm của họ nhiều khi vượt qua giới hạn bằng việc quan hệ thân xác khi có cơ hội. Họ hưởng thụ khoái lạc của hoạt động tình dục mà không muốn gánh trách nhiệm. Có thể khi bước sang tuổi ba mươi và bắt đầu nhận ra trên đời còn nhiều thứ ý nghĩa hơn là tình dục, họ sẽ tìm kiếm những hướng dẫn về tâm linh. Ở đây, hoạt động tình dục không phải là vấn đề chính yếu, nhưng đó là dấu hiệu của sự thiếu hụt sâu sắc về mặt tâm linh.
Theo kinh nghiệm một số chuyên viên, người tín hữu thủ dâm thường xuyên sẽ có cảm giác xấu hổ và tội lỗi. Nếu người ấy không tìm đến ai để linh hướng thì người ấy sẽ tiếp tục bị tình trạng này đè nặng đến tuổi trung niên hoặc cả đến tuổi già. Họ có thể thành công ở những khía cạnh khác của cuộc sống nhưng lại tuyệt vọng vì một tội lỗi bí mật. Dường như không có ai để họ tỏ bày nỗi niềm với hy vọng giải quyết vấn đề, hay nếu có linh hướng thì những vị này không cung cấp một giải pháp thỏa đáng cho người ấy để họ đương đầu với tình trạng này.
Trách nhiệm cá nhân trong vấn đề thủ dâm
Người mục tử phải phân biệt được người có vấn đề thủ dâm theo thói quen và người thủ dâm do sự thôi thúc, không cưỡng lại được. Bằng định nghĩa, người có thói quen thủ dâm vẫn còn kiểm soát được hành vi của mình, cố gắng kiềm chế một thời gian, rồi lại tái phát. Cô đơn và suy sụp tinh thần là những tác nhân mạnh ảnh hưởng cả nam lẫn nữ giới. Ở vài trường hợp, người ấy đã vượt qua lằn ranh từ thói quen sang sự thôi thúc, không cưỡng lại được. Khi đó họ nhận ra rằng họ thủ dâm thường xuyên dù họ có áp dụng biện pháp thông thường để tránh. Khi đó, họ phải đối mặt với tình trạng nghiện tình dục.
Nếu là trường hợp “thủ dâm bị thúc bách” (compulsive) nên cần sự giúp đỡ chuyên nghiệp để khám phá ra nguyên nhân. Ý hướng tốt lành và ý chí không đủ trong trường hợp này. Cần phối hợp giữa thiêng liêng và các phương cách tâm lý khác. Cần nhấn mạnh còn hy vọng cho người nghiện thủ dâm vì nhiều lý do. Trước hết, người ấy cần hiểu rằng anh/chị không phải là kẻ xấu, nhưng là một người đang chịu đựng một căn bệnh có thể chữa trị và vượt qua. Chừng nào người ấy còn căm ghét bản thân và xem mình là kẻ chẳng ra gì, thì anh/chị vẫn còn thất vọng, thiếu niềm tin. Với sự giúp đỡ của các vị linh hướng và chuyên gia trị liệu, anh/chị có thể nhận ra rằng mình vẫn được Thiên Chúa yêu thương, và có thể vượt qua chứng nghiện.[14]
Vài điểm linh hướng:
Theo linh mục John F. Harvey, OSFS, những hướng dẫn sau đây đã chứng minh được tính hữu ích của chúng:
a. Hãy giúp người ấy suy gẫm về ý nghĩa cuộc sống, về niềm hy vọng, về tài năng mà anh/chị ấy có, về sự chán chường, sự thất vọng và nỗi cô đơn của mình. Giúp họ tìm ra điều gì đang gặm nhấm con người mình bởi vì thủ dâm là dấu hiệu của một tâm hồn đang thao thức, không bình an và chúng ta cần đi vào ngay vào điểm đó.
b. Nếu người ấy đang buông xuôi, phó mặc cho số phận, hãy giúp họ một kế hoạch tâm linh.
c. Giúp người ấy nhận thức rằng nhiều người cũng có khuynh hướng chui vào thế giới hấp dẫn của trí tưởng tượng trong khi thực tế lại phũ phàng. Thủ dâm phát xuất từ những hình ảnh tưởng tượng về tình dục. Chiến lược ở đây là làm thế nào để ra khỏi thế giới tưởng tượng tình dục để quay lại thực tại ngay khi người ấy ý thức rằng mình đang để tâm đến những gì tưởng tượng trong đầu. Một cách hữu hiệu đối với một số người là đọc một lời nguyện vắn tắt, sau đó thực hiện một hành động bên ngoài bằng chân tay ví dụ như dọn dẹp nhà cửa, sửa chữa đồ đạc, đi dạo... Bạn có bao giờ thấy mình đang tưởng tượng chuyện này chuyện kia vì tức giận, ganh ghét, hay vì bị hấp dẫn tình dục, rồi bất ngờ điện thoại reo lên, bạn nhấc máy trả lời, và thế là những gì đang tưởng tượng bỗng nhiên biến mất không? Hữu ích là ở chỗ làm sao luôn ở trong thực tại.
d. Bên cạnh việc chia sẻ khó khăn của mình với vị linh hướng, hãy cố gắng tìm một nhóm trợ giúp. Nhiều người nghiện thủ dâm và thủ dâm theo thói quen đã tìm được tình bạn đích thực nhờ những buổi họp mặt của các nhóm như thế. Trong khi tạo ý thức về giá trị bản thân, việc nuôi dưỡng những mối quan hệ đích thực với những con người chân thực sẽ làm suy giảm đáng kể mãnh lực cuốn hút mà những gì người đó tưởng tượng về tình dục.
3. Thủ dâm trong giới chủng sinh[15]
Các vị linh hướng của các chủng sinh cần rất cẩn trọng trong việc đánh giá mức độ xứng hợp tâm linh của các chủng sinh. Thủ dâm được xem như một vấn đề nghiêm trọng mà một người phải vượt qua trước khi tuyên khấn hoặc trước khi nhận chức phó tế. Người ấy được yêu cầu phải bỏ được thói quen thủ dâm ít nhất là một năm trước khi trở thành phó tế hoặc khi làm lời khấn. Nếu tình trạng thủ dâm trở nên không kiểm soát được, người ấy phải tìm biện pháp trị liệu, bởi không nên có người nào bước vào bậc sống độc thân tu trì mà còn mang gánh nặng tội lỗi và xấu hổ vì sự yếu đuối này.
Các chủng sinh nên được biết rằng họ bắt buộc phải có một vị linh hướng thường xuyên hơn là chuyển từ vị linh hướng này sang một vị linh hướng khác. Điều cần thiết trước hết là những chỉ dẫn căn bản về mức độ nghiêm trọng của hành vi và trách nhiệm cá nhân để giải quyết vấn đề này.
Để giúp đỡ các chủng sinh vượt qua thói quen thủ dâm, những nguyên tắc đã áp dụng cho người độc thân cũng được áp dụng cho các chủng sinh với điểm khác biệt sau: Các chủng sinh sống độc thân còn người giáo dân có thể tìm đến hôn nhân. Chủng sinh nào sợ rằng mình không có khả năng sống độc thân vì khó khăn hiện tại mà anh gặp phải, anh cũng nên xem xét khả năng rời khỏi chủng viện hoặc đời sống tu trì. Trước khi quyết định như thế, anh ta nên nhận thức rằng anh ta cần được tham vấn cả với nhà tâm lý lẫn với linh mục giám quản, người được phép hội ý với người khác liên quan tới trường hợp của chủng sinh. Vị linh mục giám quản và nhà tâm lý nên phối hợp làm việc với nhau.
Các vị linh hướng của chủng viện, ban đào tạo của dòng tu cần có một đường hướng rõ ràng liên quan đến đức khiết tịnh nội tâm, bao gồm cả đòi hỏi tình trạng không mắc phải thói thủ dâm để được thụ phong và tuyên khấn. Vị linh hướng trong chủng viện cần xem xét kỹ lưỡng tiểu sử những cá nhân gặp vấn đề với những cám dỗ ám ảnh dẫn tới thủ dâm. Những cám dỗ này có thể không hẳn là những ham muốn thông thường và sẽ không có cách gì để hiểu được chúng nếu không dựa vào một số cách thức tham vấn. Đôi khi nếu một cá nhân không chắc chắn về ơn gọi của mình, anh có thể sẽ bị nhấn chìm trong thế giới khiêu dâm. Có lẽ anh ta nên hướng động lực vào gốc rễ của ơn gọi.
Mỗi hoàn cảnh sẽ khác nhau. Nếu vị linh hướng hoặc nhà tâm lý hoặc chủng sinh còn hoài nghi về ơn gọi, có lẽ một năm vắng mặt khỏi chủng viện với một công tác mục vụ nào đó sẽ có ích lợi. Vào cuối thời kỳ ấy, việc đánh giá kết quả sẽ lại được thực hiện. Nên nhớ rằng bất cứ chương trình đào tạo của chủng viện hay dòng tu nào cũng không thực sự đối nghịch với thế giới thường ngày. Cuộc sống chủng viện là cuộc sống trong một môi trường tương đối được bảo vệ, nơi các trở ngại thông thường của cuộc sống được soi kỹ, nơi mà các khó khăn tình cảm có thể trở thành nỗi ám ảnh. Trong những tình huống như thế, chẳng có gì lạ khi trí tưởng tượng bị vuột khỏi tầm kiểm soát, khơi dậy những hình ảnh tình dục và cám dỗ thủ dâm.
Theo linh mục John F. Harvey, ngày nay chúng ta có những phương cách tốt hơn để loại bỏ thói thủ dâm. Nhóm hỗ trợ tinh thần cố gắng giúp cá nhân trở nên thanh sạch. Chúng ta đã có cái nhìn hiểu biết hơn về hành vi thủ dâm kể cả nguyên nhân của nó. Các vị linh hướng nhìn con người theo cách toàn diện. Một mặt, cá nhân có những tiến bộ đáng kể sau một thời gian vượt qua cám dỗ thủ dâm cần được khuyến khích tiếp tục đời tu. “Tiến bộ”, không chỉ là việc tránh xa thói thủ dâm mà còn bao gồm một sự chuyển biến cái nhìn, thái độ của người đó về tính dục, một thái độ chấp nhận bản chất thể xác của con người, và một sự hòa hợp của ham muốn tình dục với nhận thức về vai trò của người đó trong đời sống linh mục hoặc tu sĩ, là “sự thăng hoa của những ham muốn tình dục”.
Mặt khác, nếu chúng ta nhận thấy cố gắng của cá nhân không dẫn đến tiến triển nào để vượt qua thói ấy, ngay cả sau khi tham vấn tâm lý, thì có lẽ chúng ta nên khuyên anh ta từ bỏ đời sống tu sĩ hoặc chủng sinh. Nếu không tiến bộ, điều đó sẽ làm gia tăng mối hoài nghi về ơn gọi tu sĩ. Mối hoài nghi ấy cần được giải quyết vì lợi ích của Giáo Hội.
4. Giới linh mục và nam tu sĩ[16]
Nói chung, các cám dỗ của thói thủ dâm trong giới linh mục và tu sĩ liên quan đến những yếu tố tình cảm như là nỗi cô đơn, thất bại, chán ghét bản thân, tức giận và những vấn đề liên quan với quá khứ. Họ có thể xem những cám dỗ này không đến nỗi đáng sợ như những người chưa được chịu chức linh mục hay khấn trọn đời bởi họ đã có một vị thế an toàn nào đó rồi. Tuy nhiên, họ thường cảm thấy như họ đang sống hai mặt. Họ vẫn cảm thấy xấu hổ khi phạm thói thủ dâm, và thường thì không thể cưỡng lại được thói quen này.
Điều cần thiết là phải thực sự nghiêm túc tránh xa những kích thích tình dục và cố gắng sống trong thực tại. Người đó cần hình thành và tuân theo một khuôn phép, một thói quen xưng tội đều hàng tháng, hay hằng tuần, cần được trợ giúp tâm lý và tâm linh. Ở nước ngoài, có một số linh mục và nam tu sĩ đã đều đặn tham dự những buổi họp nhóm trợ giúp tâm linh để từ bỏ hành vi tình dục của họ.
5. Giới nữ tu[17]
Những yếu tố dẫn đến thói quen thủ dâm trong giới nữ tu không khác biệt lắm so với những phụ nữ độc thân, có gia đình hay ly dị. Có một yếu tố cũng tương tự như vấn đề thủ dâm ở các nam tu sĩ, đó là sự thiếu chín chắn về tình cảm. Nghĩa là những cá nhân này chưa trưởng thành về mặt tình cảm trong tương quan với người khác phái và cũng như các thanh thiếu niên, họ dễ dàng bỏ nhiều thì giờ vào việc tưởng tượng và có khuynh hướng thủ dâm như một hồi kết. Thế nhưng cũng như các nam tu sĩ, chỉ số - mức độ của tội tăng lên với nhận thức khi cá nhân ấy đang sống một cuộc sống hai mặt.
Các nữ tu dường như hiếm khi vượt quá giới hạn để đi quan hệ với người khác. Tuy nhiên có nhiều nữ tu khi gặp khó khăn áp lực, cô đơn trong cộng đoàn, thất bại trong công tác... họ có thể bắt đầu có liên hệ tình cảm với những người khác. Theo cách đó, sự liên tưởng đến tình dục càng tăng và nếu thiếu cầu nguyện, họ có thể cảm thấy khó cưỡng lại hành vi thủ dâm. Vì e sợ hoạt động tình dục với người khác nên họ giải quyết bằng cách tưởng tượng và thủ dâm. Một số khác sống trong những dòng tu kín tách biệt, có những thói quen truyền thống, không có ai để thổ lộ tâm tư trừ với vị linh mục linh hướng. Nỗi cô đơn như thế tạo thuận lợi cho những tưởng tượng tình dục. Dĩ nhiên có những yếu tố khác như bị thương tổn hồi còn bé, sự cô đơn, tức giận và tự ti.
Trong thời đại của dịch HIV/AIDS hiện nay, hành vi thủ dâm lẫn nhau giữa hai người đã trở thành một hình thức được gọi là “tình dục an toàn”. Có thể nó an toàn về mặt y khoa, nhưng nó phá hủy mối tương quan giữa con người với Thiên Chúa, đồng thời ngăn cản con người, không làm con người trở nên hòa nhập về giới tính trong mối tương quan với chính mình. Ngay cả khi thói quen thủ dâm là hành vi không tự nguyện, nó vẫn biểu hiện sự thiếu thống nhất trong con người. Dù là tự nguyện hay không, hành vi thủ dâm gây ra những cảm giác tội lỗi và xấu hổ nơi bản thân người đó. Thế nên, điều cần thiết là phải tìm hiểu những cảm giác này.
V. Vài bước cụ thể để dứt bỏ thói quen thủ dâm[18]
Sau đây là vài lời khuyên cụ thể của các chuyên viên:
Hãy bận rộn với công việc và tập trung vào công việc.
Giới hạn sự cô độc, tìm một lối thoát sử dụng thì giờ và năng lượng. Lấp đầy đời sống hằng ngày với những hoạt động dấn thân phục vụ. Sự hứng thú khi làm công việc khác có thể thay thế sự thúc bách thủ dâm.
Hãy sáng tạo. Tiến trình xoay chuyển các thúc bách tình dục vào các lối ra sáng tạo (được gọi là sự thăng hoa) là điều mà các tu sĩ và người khôn ngoan đã đưa ra hàng nhiều thế kỷ. Bắt đầu viết lách, học một loại nhạc cụ, vẽ, sơn, hay làm bất cứ hoạt động gì làm cảm thấy mình đang làm điều gì sinh ích lợi.
Tìm kiếm một loại giải trí mới, hay tập luyện một kỹ năng mới. Học hỏi một điều gì mà cần một thời gian để thuần thục khiến có thể tái tập trung não bộ để đạt được mục tiêu lâu dài thay vì sự thỏa mãn nhất thời của việc thủ dâm. Thử luyện các kỹ năng như nấu ăn, điêu khắc, làm bánh, làm vườn…
Cống hiến thì giờ. Hãy tìm cách hoạt động xã hội, phục vụ tha nhân, người nghèo, người bệnh nhiều hơn theo mức độ có thể. Cống hiến năng lực để giúp đỡ người kém may mắn, như làm việc phục vụ tại một mái ấm, dạy phụ đạo các học sinh kém, tham gia công ích. Có thể tham gia các câu lạc bộ lành mạnh, ca đoàn, hội đoàn cầu nguyện, làm việc từ thiện, kết bạn với nhiều người thiện chí. Các điều này giúp bạn cảm nhận được lòng vị tha từ việc giúp đỡ người khác và bạn có ít giờ để quay lại với việc thủ dâm.
Giữ chế độ ăn uống lành mạnh. Trái cây và rau củ có hiệu quả lành mạnh trên thân thể và cung cấp chất dinh dưỡng cần thiết để gia tăng năng lượng khiến bạn sáng tạo hơn trong suốt ngày sống.
Chơi thể thao. Cần kỷ luật và kiên trì thực hành một môn thể thao. Một hình thức thể dục thể thao nào đó sẽ giúp giảm nhẹ áp lực, cảm thấy vui vẻ hơn, và làm cho bạn tập trung vào hoạt động thể lý theo cách tích cực. Thực hành bơi lội hay chạy bộ, hay chơi môn thể thao mang tính tập thể như đá banh, bóng rổ, quần vợt… có thể giúp cảm thấy thư thái hơn và giảm bớt sự thúc bách thủ dâm thình lình.
Lên kế hoạch để tránh thủ dâm vào những thời khắc thường thủ dâm. Vào các thời khắc thường thủ dâm, hãy cố gắng làm điều gì khác để tránh cám dỗ thủ dâm. Thí dụ, nếu thường xảy ra vào lúc đêm khuya, hãy nhảy khỏi giường, nằm trên sàn nhà và đừng đứng lên cho đến khi cơ thể quá mệt không thể làm điều gì ngoài việc chìm vào giấc ngủ. Nếu là tu sĩ, khi ấy có thể vào nhà nguyện ngồi trước mặt Chúa cho đến khi mệt nhoài chỉ có thể đi ngủ mà thôi. Có thể ăn nhẹ cái gì đó cho cảm giác trôi qua hoặc đọc sách, xem một bộ phim hài... Mục đích của lời khuyên này không gì khác là “rẽ” cảm giác của bạn sang một hướng khác. Nếu thời gian đi tắm rất cám dỗ, hãy dùng nước thật lạnh, và chỉ cần thời gian ngắn thôi. Nếu thường thủ dâm khi trở về nhà sau công việc, hãy có kế hoạch làm việc rõ ràng để ngăn chặn cảm giác chán chường. Nếu có cám dỗ thủ dâm vào buổi sáng, hãy cố gắng ngủ với lớp quần áo dày để việc sờ chạm thân thể khó khăn hơn. Rời khỏi giường ngay khi đã tỉnh ngủ vào buổi sáng và bắt đầu ngày mới bằng một hoạt động có ý nghĩa!
Hãy ngưng ngay việc xem phim khiêu dâm trên máy vi tính. Một trong các lý do thủ dâm quá nhiều là do xem phim khiêu dâm dễ dàng trên máy vi tính riêng. Hãy ngưng ngay việc xem phim xấu. Nếu bạn chưa có đủ ý chí để ngưng ngay việc xem phim khiêu dâm, hãy cố gắng áp dụng các biện pháp khác để bảo đảm không thể xem phim đồi trụy được như:
- Gắn phần mềm kiểm duyệt ngăn chặn phim khiêu dâm trên máy vi tính của bạn. Bạn sẽ không tìm biết password để vượt qua hàng rào cản này. Đây là cách thức tốt nhất để giúp bạn vượt qua thử thách ban đầu.
- Nếu bạn có khuynh hướng thủ dâm khi đang xem phim khiêu dâm trên máy vi tính, hãy đem máy vi tính của bạn đặt ở phòng chung mà những người khác có thể nhìn thấy bạn.
- Nếu bạn có giữ lại phim khiêu dâm, hãy hủy bỏ chúng ngay lập tức.
- Hãy tìm sự giúp đỡ.
Hãy kiên trì và nhẫn nại, ngừng ghiền thủ dâm không phải như việc khóa vòi nước ngay lập tức. Đây là một tiến trình đòi hỏi sự dấn thân kiên trì, và đôi khi lại rơi vào lỗi lầm. Cuộc chiến đấu này thực sự kéo dài, và hãy dấn thân ngay từ bây giờ, đừng để lỗi lầm ngăn trở bạn đứng dậy hoán cải.
- Có thể tự thưởng cho mình sau một thành công có được hành vi đúng đắn. Thí dụ một người bỏ được không hề thủ dâm trong một hay hai tuần liên tiếp, tự thưởng cho mình một món ăn ngon thích thú, một giờ thư giãn nghe thánh ca.
- Thưởng là tốt, nhưng KHÔNG BAO GIỜ tự thưởng bằng cái chính mình đang muốn chiến thắng, đó là thủ dâm. Nếu sau một thời gian ngưng thủ dâm, “tự thưởng” bằng một lần thủ dâm, thì chỉ làm cho ghiền thủ dâm trở thành cái không thể dứt bỏ được, thậm chí ngày càng thích hơn.
Hãy có suy tư tích cực, đúng đắn.
- Ngưng sỉ vả bản thân. Hãy nhìn nhận sự yếu đuối của thân phận người và nài xin lòng thương xót của Chúa chữa lành. Phẩm giá mỗi người luôn cao quý, vì mang hình ảnh Thiên Chúa.
- Hãy tin rằng mọi sự sẽ tốt hơn. Hãy tin rằng mình có đức tin, và đủ sức mạnh sẽ tìm được cách dứt bỏ thói quen thủ dâm. Mỗi khi bị rơi vào lỗi lầm thủ dâm, đừng than van “tôi lại phá hủy cuộc đời tôi, hay ngày sống của tôi”, mà hãy suy nghĩ đến chuyện khác, làm việc cho đến mệt nhoài, nếu không đầu óc lại quanh quẩn suy nghĩ về việc thủ dâm, tạo vòng lẩn quẩn.
KẾT
Kiểm soát bản năng chúng ta là một công việc của cả đời sống và cấu thành một phần toàn vẹn của công việc lớn hơn là tìm hiểu và phát triển chính con người chúng ta. Bước đầu tiên và cũng là bước quyết định nhất chính là ý chí của người thủ dâm. Một khi người ấy vượt qua được chính mình, dứt khoát từ bỏ dục vọng của bản thân, chấm dứt thói quen thủ dâm thì mọi chuyện sẽ trở nên dễ dàng.
Thay đổi và lớn lên về mặt luân lý nhân cách luôn là một khả năng có thể, nếu người đó phấn đấu. Giáo hội kết án hành vi tội lỗi nhưng đầy lòng thương xót đối với con người phạm tội và hiểu rõ yếu đuối của thân phận làm người. Đức hy vọng là một nhân đức cần thiết trong đời sống luân lý đức tin hằng ngày. Tin rằng tình thương và lòng thương xót của Chúa luôn lớn hơn tội ta đã phạm. Điều quan trọng là sau sa ngã, con người biết chạy đến lòng thương xót của Thiên Chúa để Ngài chữa lành cho chúng ta.
Trong Tông huấn “Chúa Kitô đang sống” (số 26-27), Đức Thánh Cha Phanxicô mời gọi các bạn trẻ chiêm ngắm tuổi trẻ của Đức Giêsu để lớn lên và trưởng thành cách toàn diện theo gương của Người: “Trong thời gian sống tại Nazarét, Đức Giêsu vâng lời cha mẹ, ‘lớn lên, thêm khôn ngoan và đầy ân sủng trước mặt Thiên Chúa và người ta’ (Lc 2, 52). Đức Giêsu đang ở trong thời gian chuẩn bị, và trong giai đoạn này, Người đi sâu vào mối tương quan với Chúa Cha và với tha nhân. Người không chỉ lớn lên về mặt thể lý, mà còn về tâm linh nữa. Trong những năm tuổi trẻ, Người đã ‘tự rèn luyện’, chuẩn bị sẵn sàng để thực hiện kế hoạch của Chúa Cha. Người đã hướng tuổi niên thiếu và tuổi trẻ của mình theo sứ mạng cao cả ấy”.[19]
Trích Tập san Hiệp Thông / HĐGM VN, Số 117 (tháng 3 & 4 năm 2020)
[1] X. Donald Goergen, The Sexual Celibate, (New York, The Seabury Press, 1974),201.
[2] BS Hồ Đắc Duy, “Thủ dâm nhìn dưới góc độ khoa học”
[3] X. John F. Harvey, OSFS, “Vượt qua thói thủ dâm”
[4] James McCary, Human Sexuality, 3rd ed. (New York: D. Van Nostrand, 1978), tr. 293-294.
[6] “Why Do We Need Endorphins?”
[7] BS Đinh Mạnh Trí, “Thủ dâm gây tác hại gì? (20/5/2019)
[8] X. Donald Goergen, The Sexual Celibate (Seabury Pr, 1/4/1975).
[9] Trích trong Nguyễn Đình Vịnh, “Cảm tính và dục tính: Những vấn đề liên quan đến tính dục đối với các Tu sĩ/ Linh mục”, Tài liệu riêng.
[10] X. Bộ Giáo Lý Đức Tin “Tuyên Ngôn về một số vấn đề liên quan đến luân lý tính dục” (1975).
[11] Diễn Văn qua đài phát thanh vào “Ngày Các Gia Đình”, 23-3-1952
[12] X. John F. Harvey, OSFS, “Vấn đề mục vụ liên quan đến thủ dâm”,
[13] X. John F. Harvey, OSFS, “Vấn đề mục vụ liên quan đến thủ dâm”
[14] X. John F. Harvey, OSFS, “Vấn đề mục vụ liên quan đến thủ dâm”.
[15] X. John F. Harvey, OSFS, “Vấn đề mục vụ liên quan đến thủ dâm”
[16] X. John F. Harvey, OSFS, “Vấn đề mục vụ liên quan đến thủ dâm”.
[17] X. John F. Harvey, OSFS, “Vấn đề mục vụ liên quan đến thủ dâm”.
[19] Được trích lại trong Thư Chung 2019 của Hội Đồng Giám Mục Việt Nam.
bài liên quan mới nhất
- Những định hướng căn bản để bảo vệ trẻ vị thành niên trong Hội thánh
-
Cơ hội nào cho người trẻ “chữa lành”… -
Vì sao người trẻ dấn thân - Động lực hay phản lực? -
Vatican phát động cuộc thi nhiếp ảnh cho giới trẻ đánh dấu Năm Thánh Thể thao 2025 -
Giới trẻ tham gia đời sống Giáo hội -
Giới trẻ Công giáo Việt Nam loan báo Tin mừng trong không gian kỹ thuật số -
Đức Thánh Giáo hoàng Gioan Phaolô II: Giới trẻ và thiếu nhi tham gia vào đời sống Giáo hội -
Giải Bóng Đá LAUDATO SI 2024 -
ĐTC Phanxicô nói với sinh viên: Hãy thực hiện "cuộc cách mạng bác ái và phục vụ" -
Sứ điệp Ngày Giới trẻ Thế giới năm 2024 – “Những người cậy trông Đức Chúa thì được thêm sức mạnh (Is 40,31)
bài liên quan đọc nhiều
- Thư gửi sinh viên, học sinh Công giáo nhân dịp mừng Lễ Chúa Phục Sinh 2024
-
Người trẻ và việc phân định: Ơn gọi Độc thân Thánh hiến hay Ơn gọi Hôn nhân -
Giới trẻ, định hướng cho cuộc đời -
JMJ Lisbon 2023: Mười lời khuyên của Đức Phanxicô cho Giới Trẻ -
Công bố Logo Năm Mục vụ Giới trẻ 2021 -
Các Thế hệ trẻ và Mục vụ Giới trẻ -
Ban Mục Vụ Giới Trẻ -
Sứ điệp Ngày Giới trẻ Thế giới lần thứ 35 (năm 2020) của Đức thánh cha Phanxicô -
Bài hát chủ đề Đại hội Giới trẻ Thế giới Lisbon 2023, phiên bản Việt ngữ -
Chương trình mục vụ giới trẻ 2020-2022: Mỗi tháng một hình ảnh hay tước hiệu Đức Giê-su