Tài liệu Làm việc (Instrumentum Laboris) cho Khoá họp thứ hai của Đại hội Thượng Hội đồng Giám mục (tháng 10/2024)

Tài liệu Làm việc (Instrumentum Laboris) cho Khoá họp thứ hai của Đại hội Thượng Hội đồng Giám mục (tháng 10/2024)

Tài liệu Làm việc (Instrumentum Laboris) cho Khoá họp thứ hai của Đại hội Thượng Hội đồng Giám mục (tháng 10/2024)

WHĐ (28.07.2024) - Ngày 09.07.2024, Ban Thư ký Thượng Hội đồng Giám mục về tính hiệp hành đã công bố Tài liệu làm việc (Instrumentum Laboris) cho Khoá họp thứ hai của Đại hội Thượng Hội đồng Giám mục vào tháng 10/2024. Sau đây là toàn văn bản dịch Việt ngữ của Tài liệu làm việc do Thầy Giuse Phan Văn Phi, O.Cist. và Thầy Anrê Phú Yên Hồ Văn Tòng, O.Cist. thực hiện.

ĐẠI HỘI THƯỜNG LỆ LẦN THỨ XVI

CỦA THƯỢNG HỘI ĐỒNG GIÁM MỤC

 

Làm thế nào để trở thành một Giáo hội Hiệp hành truyền giáo

 

Tài liệu làm việc 2

(Instrumentum laboris)

cho Khóa họp thứ hai (tháng 10 năm 2024)

 

Chuyển ngữ:

Giuse Phan Văn Phi, O.Cist.

Anrê Phú Yên Hồ Văn Tòng, O.Cist.

 

Mục lục

Các chữ viết tắt

Nhập đề

Cuộc hành trình ba năm qua

Một công cụ làm việc cho Khoá họp thứ hai

Các nguyên tắc cơ bản

Giáo hội, Dân Chúa, bí tích của sự hiệp nhất

Ý nghĩa chung của tính hiệp hành

Hiệp nhất là sự hài hòa trong đa dạng

Anh chị em trong Đức Kitô: một sự hỗ tương được đổi mới

Lời mời gọi hoán cải và canh tân

Phần I – Các mối tương giao

Trong Đức Kitô và trong Thánh Thần: Khai tâm Kitô giáo

Đối với Dân Chúa: các đặc sủng và thừa tác vụ

Với các thừa tác viên có chức thánh: phục vụ sự hòa hợp

Giữa các Giáo hội và trên thế giới: tính cụ thể của sự hiệp thông

Phần II – Các lộ trình

Một sự đào luyện toàn diện và chia sẻ

Sự phân định của Giáo hội đối với sứ vụ

Các tiến trình đưa ra quyết định

Tính minh bạch, trách nhiệm giải trình và đánh giá

Phần III – Các nơi chốn

Các địa hạt [giáo xứ, giáo hạt] là nơi để cùng nhau bước đi

Các Giáo hội địa phương trong một Giáo hội Công giáo duy nhất

Những mối dây hình thành sự hiệp nhất của Giáo hội

Sự phục vụ cho sự hiệp nhất của Giám mục Rôma

Kết luận – Giáo hội hiệp hành trên thế giới

 

Các chữ viết tắt

AG Công đồng Vaticanô II, Sắc lệnh Ad gentes (07.12.1965)

CD Công đồng Vaticanô II, Sắc lệnh Christus Dominus (28.10.1965)

CIC Bộ Giáo luật [Codex iuris canonici] (25.1.1983)

ITC Ủy ban Thần học Quốc tế, Tính hiệp hành trong Đời sống và Sứ vụ của Giáo hội (2.3.2018)

DCS Văn phòng Tổng thư ký Thượng Hội đồng, Tài liệu cho Giai đoạn Lục địa (27.10.2022)

DV Công đồng Vaticanô II, Hiến chế Dei Verbum (18.11.1965)

EG Đức Giáo hoàng Phanxicô, Tông huấn Evangelii Gaudium (24.11.2013)

GS Công đồng Vaticanô II, Hiến chế Gaudium et spes (7.12.1965)

LG Công đồng Vaticanô II, Hiến chế Lumen Gentium (21.11.1964)

LS Đức Giáo hoàng Phanxicô, Thông điệp Laudato si’ (24.5.2015)

PE Đức Giáo hoàng Phanxicô, Tông hiến Praedicate Evangelium (19.3.2022)

SR Thượng Hội đồng Giám mục XVI, Báo cáo tổng hợp (28.10.2023)

SC Công đồng Vaticanô II, Hiến chế Sacrosanctum Concilium (4.12.1963)

UR Công đồng Vaticanô II, Sắc lệnh Unitatis redintegratio (21.11.1964)

UUS Đức Gioan Phaolô II, Thông điệp Ut unum sint (25.5.1995)

***

Nhập đề

“Ngày ấy, trên núi này, Đức Chúa các đạo binh sẽ đãi muôn dân một bữa tiệc: tiệc thịt béo, tiệc rượu ngon, thịt béo ngậy, rượu ngon tinh chế.

Trên núi này, Người sẽ xé bỏ chiếc khăn che phủ mọi dân, và tấm màn trùm lên muôn nước.

Người sẽ vĩnh viễn tiêu diệt tử thần. Đức Chúa là Chúa Thượng sẽ lau khô dòng lệ trên khuôn mặt mọi người, và trên toàn cõi đất, Người sẽ xóa sạch nỗi ô nhục của dân Người. Đức Chúa phán như vậy.” (Is 25,6-8)

Ngôn sứ Isaia diễn tả một bữa tiệc thịnh soạn và phong phú được Chúa chuẩn bị trên đỉnh núi, biểu tượng của tình thân ái và hiệp thông dành cho tất cả các dân tộc. Vào thời điểm trở về cùng Chúa Cha, Đức Giêsu giao phó cho các môn đệ của Người nhiệm vụ đến với tất cả các dân tộc để phục vụ họ một bữa tiệc mang lại cho họ sự sống và niềm vui trọn vẹn. Thông qua Giáo hội của Người, được dẫn dắt bởi Thánh Thần, Chúa muốn khơi dậy hy vọng trong lòng nhân loại, khôi phục niềm vui và cứu tất cả, đặc biệt là những người có khuôn mặt bị nhòe đi vì nước mắt và kêu cầu Người trong khổ đau. Những tiếng kêu của họ đến tai tất cả các môn đệ của Đức Kitô, người nam và người nữ, những người bước đi trong sâu thẳm của các vấn đề nhân sinh. Tiếng kêu la của họ thậm chí còn lớn hơn trong thời điểm này, khi tiến trình của Thượng Hội đồng đi kèm với sự bùng nổ của các cuộc chiến tranh và xung đột vũ trang mới, vốn đã quá nhiều, nay vẫn tiếp tục đổ máu trên thế giới.

Trọng tâm của Thượng Hội đồng 2021-2024, “Vì một Giáo hội hiệp hànhhiệp thông, tham gia và sứ vụ”, đó chính là một lời kêu gọi vui mừng và canh tân cho Dân Chúa, những người bước theo Chúa, được mời gọi dấn thân phục vụ sứ mạng của Người. Lời kêu gọi trở thành môn đệ truyền giáo được đặt nền tảng trên căn tính chung của phép Rửa, bắt nguồn từ sự đa dạng của bối cảnh trong đó Giáo hội[1] hiện diện và tìm thấy sự hiệp nhất của mình trong Chúa Cha, Chúa Con và Thánh Thần. Đó là một lời kêu gọi dành cho tất cả những người đã được rửa tội, không có ngoại lệ: “Toàn thể Dân Chúa là tác nhân loan báo Tin Mừng. Mỗi người đã được rửa tội đều được mời gọi trở thành tác nhân chính của sứ vụ truyền giáo vì tất cả chúng ta đều là những môn đệ truyền giáo” (ITC, số 53). Sự canh tân này được thể hiện trong Giáo hội, được Thánh Thần quy tụ qua Lời Chúa và Bí tích Thánh Thể (x. CD 11), công bố ơn cứu độ mà Giáo hội liên tục trải nghiệm cho một thế giới đói khát ý nghĩa và khao khát hiệp thông và liên đới. Chính vì thế gian này mà Chúa đã chuẩn bị một bữa tiệc trên núi thánh của Người.

Thực hành tính hiệp hành chính là một cách để chúng ta canh tân sự dấn thân của mình đối với sứ vụ này ngày hôm nay, vốn là một biểu hiện chính bản chất của Giáo hội. Trưởng thành như những môn đệ truyền giáo có nghĩa là đáp lại lời mời gọi đi theo Đức Giêsu, đáp lại hồng ân chúng ta đã lãnh nhận khi chúng ta chịu phép Rửa nhân danh Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần. Nó có nghĩa là học cách đồng hành với nhau như một dân lữ hành đang hành trình xuyên lịch sử hướng tới một cùng đích chung, đó là thành đô thiên quốc. Khi bước đi trên con đường này, được nuôi dưỡng bởi Lời Chúa và Bí tích Thánh Thể, chúng ta được biến đổi thành những gì chúng ta đã lãnh nhận. Do đó, chúng ta hiểu rằng căn tính của chúng ta với tư cách là một Dân được cứu độ và thánh hiến, có một chiều kích cộng đồng thiết yếu bao trùm tất cả các thế hệ tín hữu đi trước chúng ta và sẽ theo sau chúng ta. Ơn cứu độ được đón nhận và làm chứng có tính chất tương quan, vì không ai được cứu một mình. Hay đúng hơn, bằng cách sử dụng những lời đóng góp của một Hội đồng Giám mục Á châu, chúng ta dần dần phát triển nhận thức này: “Tính hiệp hành không chỉ đơn giản là một mục tiêu, mà là một cuộc hành trình của tất cả các tín hữu, được cùng nhau thực hiện. Đây là lý do tại sao việc hiểu đầy đủ ý nghĩa của nó cần có thời gian” (Hội đồng Giám mục Bangladesh).[2] Thánh Augustinô nói về đời sống Kitô hữu như một cuộc hành hương trong tình liên đới, cùng nhau bước đi “hướng về phía Thiên Chúa không phải bằng những bước chân, nhưng bằng tình thương” (thánh Augustinô, Khảo luận 306 B,1), chia sẻ đời sống cầu nguyện, loan báo Tin mừng và yêu thương người lân cận.

Công đồng Vaticanô II dạy rằng: “Tất cả mọi người đều được mời gọi kết hợp với Đức Kitô, Đấng chính là ánh sáng thế gian, là cội nguồn, là sức sống và là cùng đích của tất cả chúng ta” (LG, số 3). Trọng tâm của con đường hiệp hành là ước muốn, cổ xưa và luôn mới mẻ, truyền đạt cho mọi người lời hứa và lời mời gọi của Chúa, được bảo tồn trong truyền thống sống động của Giáo hội, nhận ra sự hiện diện của Đấng Phục Sinh giữa chúng ta và chào đón nhiều hoa trái từ hoạt động của Thánh Thần. Viễn tượng này của Giáo hội, với tư cách là một dân của những người lữ hành, ở mọi nơi trên thế giới, tìm kiếm sự hoán cải mang tính hiệp hành để phục vụ cho sứ vụ, là kim chỉ nam cho chúng ta khi chúng ta tiến bước với niềm hân hoan và hy vọng trên con đường đến với Thượng Hội đồng. Viễn tượng này trái ngược hoàn toàn với thực tế của một thế giới đang gặp khủng hoảng, nơi những vết thương và sự bất bình đẳng đầy tai tiếng vang vọng một cách đau đớn trong tâm hồn của tất cả các môn đệ Chúa Kitô. Điều này thúc giục chúng ta cầu nguyện cho tất cả những nạn nhân của bạo lực và bất công, đồng thời canh tân sự dấn thân của chúng ta bên cạnh những người nam và người nữ ở mọi nơi trên khắp thế giới, đang hoạt động như những người kiến tạo công lý và hòa bình.

Cuộc hành trình ba năm qua

Sau khi khai mạc tiến trình Thượng Hội đồng vào ngày mùng 9 và ngày mùng 10 tháng 10 năm 2021, các Giáo hội địa phương trên toàn thế giới đã bắt đầu giai đoạn lắng nghe đầu tiên với những tiến trình và cách thức khác nhau. Thuộc về Giáo hội có nghĩa là trở thành một phần của Dân Thiên Chúa, gồm những người và những cộng đoàn hiện hữu trong những thời gian và nơi chốn cụ thể. Việc lắng nghe Thượng Hội đồng bắt đầu từ những cộng đoàn này, chuyển đến các giai đoạn giáo phận, quốc gia và lục địa như một phần của cuộc đối thoại liên tục mà Ban Thư ký Thượng Hội đồng đã giúp thúc đẩy bằng cách công bố các bản tóm tắt và Tài liệu Làm việc. Tính tuần hoàn [circularity] của tiến trình hiệp hành này là một cách nhìn nhận và phát huy các cội nguồn địa phương của Giáo hội trong các bối cảnh khác nhau, đồng thời củng cố các mối dây liên kết hiệp nhất chúng.

Điểm mới lạ của giai đoạn đầu tiên này là kinh nghiệm của các hội nghị cấp châu lục, nơi quy tụ các Giáo hội địa phương trong cùng một khu vực vĩ mô, mời gọi họ học cách lắng nghe nhau, đồng hành với nhau, bằng cách cùng nhau bước đi để phân định những điểm chính yếu, những thách thức mà họ gặp phải khi thực thi sứ vụ.

Khoá họp thứ nhất Đại hội thường lệ lần thứ XVI của Thượng Hội đồng Giám mục (tháng 10 năm 2023) đã mở ra giai đoạn thứ hai, chào đón những thành quả của việc lắng nghe này để phân định trong cầu nguyện và đối thoại những bước mà Thánh Thần đang mời gọi chúng ta thực hiện. Giai đoạn này sẽ tiếp tục cho đến khi kết thúc Khoá họp thứ hai (tháng 10 năm 2024), Khoá họp sẽ dâng lên Đức Giáo hoàng những thành quả công việc này, nhằm hướng tới việc tất cả các Giáo hội địa phương thực hiện mạnh mẽ hơn.

Việc chuẩn bị cho Khoá họp thứ hai nhất thiết phải dựa trên những gì nổi lên từ Khoá họp thứ nhất và đã được thu thập trong bản Báo cáo Tổng hợp (SR). Trên cơ sở này, phù hợp với tính tuần hoàn đặc trưng của toàn bộ tiến trình hiệp hành và nhằm định hướng chính xác công việc của Khoá họp thứ hai, một cuộc tham vấn mới của tất cả các Giáo hội địa phương đã được đưa ra, dựa trên câu hỏi cơ bản này: “Làm thế nào để trở thành một Giáo hội hiệp hành trong sứ vụ?” Như tài liệu Hướng tới tháng 10 năm 2024[3] giải thích, mục tiêu của cuộc tham vấn là “xác định những con đường mà chúng ta có thể đi theo và những công cụ mà chúng ta có thể áp dụng trong các bối cảnh và hoàn cảnh khác nhau để nâng cao đóng góp độc đáo của mỗi người đã được rửa tội và của mỗi Giáo hội địa phương trong một sứ mạng duy nhất là công bố Chúa Phục Sinh và Tin Mừng của Người cho thế giới ngày nay. Do đó, đây không phải là một yêu cầu giới hạn chúng ta vào một kế hoạch cải tiến kỹ thuật hoặc thủ tục để làm cho cơ cấu của Giáo hội hoạt động hiệu quả hơn, mà là một lời mời gọi suy tư về các hình thức cụ thể của sứ vụ truyền giáo mà chúng ta được gọi, diễn tả động lực giữa sự hiệp nhất và đa dạng đặc trưng của một Giáo hội hiệp hành.”

Việc soạn thảo Tài liệu Làm việc cho Khoá họp thứ hai đã được thực hiện dưới ánh sáng của các câu trả lời cho câu hỏi hướng dẫn được gửi đến hầu hết các Hội đồng Giám mục và các nhóm lục địa của họ, các Giáo hội Công giáo Đông phương, các Giáo phận không thuộc Hội đồng Giám mục, các Bộ của Giáo triều Rôma, Liên hiệp các Bề Trên Tổng quyền và Liên hiệp Quốc tế của Các Bề Trên Tổng quyền đại diện cho đời sống thánh hiến, cũng như các lời chứng về các kinh nghiệm và thực hành từ khắp nơi trên thế giới và các quan sát của gần hai trăm nhóm: các khoa đại học, các hội đoàn tín hữu, các cộng đồng và cá nhân từ khắp nơi trên thế giới. Theo cách này, nó được gắn bó với đời sống của Dân Thiên Chúa hiện diện trên toàn thế giới.

Những tiếng nói này đã bày tỏ lòng biết ơn về hành trình đã thực hiện và chứng thực những khó khăn mà nó đôi khi đòi hỏi, nhưng trên hết, họ đã nói về mong muốn tiến lên phía trước. Như một Hội đồng Giám mục Bắc Mỹ nói: “Lòng biết ơn sâu sắc đối với tiến trình hiệp hành này. Dù những căng thẳng vẫn còn, đòi hỏi chúng ta phải tiếp tục suy tư và đối thoại, lấy cảm hứng từ ý tưởng về văn hóa gặp gỡ do Đức Giáo hoàng Phanxicô đề xuất. Nhưng những căng thẳng này không phá vỡ được sự hiệp thông bác ái trong Giáo hội”. Những căng thẳng đó cũng nhắc nhở chúng ta rằng vẫn còn một chặng đường dài phía trước.

Như trong các giai đoạn trước, kết quả của việc áp dụng phương pháp đối thoại trong Thánh Thần đã được tái khẳng định. Chẳng hạn, một liên Hội đồng các Giám mục báo cáo: “Nhiều tổng hợp từ khắp Á châu bày tỏ sự nhiệt tình đáng kinh ngạc đối với phương pháp luận hiệp hành, vốn sử dụng cuộc đối thoại trong Thánh Thần làm điểm khởi đầu cho tiến trình Thượng Hội đồng. Nhiều Giáo phận và Hội đồng Giám mục đã áp dụng phương pháp này vào cơ cấu hiện có của họ và đạt được thành công to lớn.” Sự nhiệt tình này đã được chuyển thành các bước được thực hiện để thử nghiệm một cách tiến hành mang tính hiệp hành hơn. Trong một Hội đồng Giám mục châu Âu: “đã quyết định [trong ánh sáng này] thực hiện giai đoạn thử nghiệm hiệp hành kéo dài 5 năm. Các hình thức tham vấn hiệp hành, đối thoại, phân định, ra quyết định và đưa ra quyết định sẽ được phát triển, đánh giá và hoàn thiện ở cấp quốc gia. Kinh nghiệm ở cấp Giáo phận và sự phát triển hiệp hành trong Giáo hội hoàn vũ sẽ được tính đến. Chúng ta đang bắt đầu một hành trình học tập đầy thử thách nhưng quan trọng.” Các báo cáo nhận thức rõ giá trị của các Giáo hội địa phương và hành trình của họ, sự phong phú mà họ mang theo và nhu cầu cần nghe thấy tiếng nói của họ. Theo một báo cáo nhận được từ một Hội đồng Giám mục châu Phi: “Các Giáo hội địa phương không nên bị coi và đối xử giản lược như những người nhận Tin Mừng với những đóng góp rất ít hoặc không có gì.”

Những đóng góp này được bổ sung bởi các thành quả của Cuộc Họp Quốc tế “Các cha sở với Thượng Hội đồng” (Sacrofano [Rôma], 28 tháng 4 - 2 tháng 5 năm 2024), đã cho phép các cha sở làm việc mục vụ Giáo xứ được lắng nghe. Các bản tóm tắt của các nhóm làm việc diễn tả, “trên hết niềm vui của họ về cơ hội thực sự lắng nghe nhau. Đó là một kinh nghiệm phong phú trong việc thúc đẩy một sự hiểu biết sâu sắc và trân trọng những khác biệt độc đáo của nhau.” Họ cũng bày tỏ “sự cần thiết phải có một sự hiểu biết mới về vai trò của các cha sở trong một Giáo hội hiệp hành, tôn trọng sự đa dạng của các truyền thống khác nhau trong Giáo hội” và mối quan tâm về việc không thể tiếp cận đầy đủ các vùng ngoại vi và những người sống bên lề: “Nếu Giáo hội muốn có tính hiệp hành, thì Giáo hội phải lắng nghe những người này.”

Tương tự như vậy, năm nhóm nghiên cứu được thành lập bởi văn phòng Tổng Thư ký Thượng Hội đồng, bao gồm các chuyên viên thuộc nhiều nguồn gốc địa lý, giới tính và điều kiện giáo hội khác nhau, đã cung cấp tài liệu cho việc soạn thảo Tài liệu làm việc này. Các nhóm này hoạt động theo phương pháp hiệp hành nhằm đào sâu thần học và giáo luật về khái niệm tính hiệp hành và những hàm ý của nó đối với đời sống của Giáo hội.[4]

Một nhóm chuyên viên, bao gồm các Giám mục, linh mục, những người thánh hiến và giáo dân nam nữ, các nhà thần học, các chuyên viên Giáo luật và các chuyên viên Kinh thánh từ tất cả các châu lục, và với các vai trò khác nhau trong Giáo hội, được giao nhiệm vụ đọc tất cả các đóng góp và tất cả các tài liệu nhận được, và trình bày rõ ràng các câu trả lời cho câu hỏi cơ bản nhằm soạn thảo Tài liệu làm việc này. Những suy tư của nhóm này, cũng như của năm nhóm nghiên cứu được đề cập ở trên, cũng sẽ cung cấp sự hỗ trợ đi kèm với Tài liệu làm việc này, bằng cách đào sâu nền tảng thần học của một số nội dung nhất định.

Song song với công việc chuẩn bị cho Khoá họp thứ hai, công việc của mười Nhóm Nghiên cứu[5] đã bắt đầu. Họ được giao nhiệm vụ đào sâu vào mười chủ đề[6] nổi bật từ bản Báo cáo Tổng hợp và được Đức Giáo hoàng xác định vào cuối cuộc tham vấn Quốc tế. Những Nhóm Nghiên cứu này, gồm các mục tử và các chuyên viên từ tất cả các châu lục, sử dụng phương pháp làm việc hiệp hành và “được thành lập theo thỏa thuận chung giữa các Bộ của Giáo triều Rôma chịu trách nhiệm về các chủ đề khác nhau và Ban Thư ký Thượng Hội đồng, được giao nhiệm vụ điều phối”, theo Tự sắc do Đức Giáo hoàng Phanxicô ký ngày 16 tháng 2 năm 2024 và trong tinh thần của Tông hiến Praedicate evangelium (điều 33). Nếu được, họ sẽ hoàn thành nghiên cứu chuyên sâu của mình vào tháng 6 năm 2025, nhưng sẽ đưa ra một báo cáo tiến độ cho Thượng Hội đồng vào tháng 10 năm 2024. Trước khi kết thúc Khoá họp thứ hai, Đức Giáo hoàng Phanxicô đã chấp nhận một số yêu cầu của Khoá họp thứ nhất và bắt đầu công việc triển khai theo hình thức được dự kiến bởi Tông hiến Episcopalis Communio: “Cùng với các cơ quan có thẩm quyền của Giáo triều Rôma, cũng như các cơ quan khác liên quan theo những cách thức khác nhau tùy theo chủ đề và hoàn cảnh, về phần mình, Ban Thư ký Thượng Hội đồng thúc đẩy việc triển khai các khuyến nghị của Thượng Hội đồng đã được Đức Giáo hoàng phê duyệt” (điều 20, c. 1). Hơn nữa, theo thỏa thuận với Hội đồng Toà thánh về các Bản văn Luật [Dicastery for Legislative Texts], một Ủy ban Giáo luật đã được thành lập để phục vụ Thượng Hội đồng. Cuối cùng, theo yêu cầu của Khoá họp thứ nhất (x. SR 16q), vào ngày 25 tháng 4 năm 2024, Hội đồng Giám mục châu Phi và Madagascar (SECAM) đã thông báo về việc thành lập một Ủy ban Đặc biệt để phân định các ý nghĩa thần học và mục vụ của chế độ đa thê đối với Giáo hội ở châu Phi.

Một công cụ làm việc cho Khoá họp thứ hai

Trong một cuộc hành trình được dệt bằng sự thinh lặng, cầu nguyện, lắng nghe Lời Chúa, đối thoại huynh đệ và những cuộc gặp gỡ vui tươi, đôi khi không phải là không gặp khó khăn, với tư cách là Dân Thiên Chúa, chúng ta đã trưởng thành, nhận thức sâu sắc hơn về mối tương giao của chúng ta như anh chị em trong Chúa Kitô, với trách nhiệm chung là trở thành một cộng đồng những người được cứu độ, công bố vẻ đẹp của Nước Thiên Chúa cho toàn thế giới, bằng lời nói và bằng đời sống chúng ta. Danh hiệu Dân Thiên Chúa không phải là một khái niệm trừu tượng mà là một kinh nghiệm sống động, có một danh xưng và một diện mạo cụ thể. Trong thời gian chuẩn bị cho Khoá họp thứ hai và trong quá trình làm việc của Đại hội này, chúng ta tiếp tục tự hỏi mình câu hỏi này: làm thế nào để căn tính của Dân Thiên Chúa đang truyền giáo có thể được cụ thể hóa trong các mối tương giao, những con đường và những nơi chốn mà đời sống Giáo hội diễn ra trong đó?

Tài liệu Làm việc này phục vụ cho mục đích đó, cũng phù hợp với những gì đã được nói về Tài liệu Làm việc chuẩn bị cho Khoá họp thứ nhất: “Tài liệu Làm việc này không phải là một Huấn quyền của Giáo hội, cũng không phải là báo cáo của một cuộc điều tra xã hội học; nó không nhằm mục đích hình thành các chỉ dẫn, mục đích và mục tiêu hoạt động, cũng không phải là một sự phát triển hoàn chỉnh của viễn tượng thần học” (số 10, x. DCS, số 8). Để hiểu tài liệu này, điều cần thiết là phải đặt nó trong toàn bộ tiến trình hiệp hành. Trên thực tế, chính tính tuần hoàn của cuộc đối thoại giữa các Giáo hội đã đặc trưng cho tiến trình này, được sinh động và đồng hành bởi công việc của Ban Thư ký Thượng Hội đồng. Khoá họp thứ nhất của Đại hội (2023) đã thu thập những thành quả của cuộc tham vấn kép ở cấp độ địa phương cũng như ở cấp độ châu lục trong việc tìm kiếm “những dấu hiệu đặc trưng của một Giáo hội hiệp hành và về động lực của sự hiệp thông, sứ vụ và sự tham gia trong đó” (SR, Nhập đề). Qua cầu nguyện, đối thoại và phân định, Khoá họp thứ nhất đã rút ra và diễn đạt trong Báo cáo Tổng hợp các điểm hội tụ, các vấn đề cần giải quyết và các đề xuất. Từ đây xuất hiện những gì chúng ta có thể mô tả như câu trả lời đầu tiên cho câu hỏi: “Một Giáo hội hiệp hành được tự mô tả như thế nào?” Khoá họp thứ hai không lặp lại các bước tương tự, nhưng được kêu gọi đi xa hơn, tập trung vào câu hỏi hướng dẫn của nó: “Làm thế nào để trở thành một Giáo hội hiệp hành trong sứ vụ truyền giáo?” Các câu hỏi khác nảy sinh trong suốt hành trình sẽ là chủ đề của công việc tiếp tục theo những cách khác, ở cấp độ của các Giáo hội địa phương cũng như trong mười Nhóm Nghiên cứu. Hai Khoá họp này không thể tách rời nhau, càng không thể đối lập nhau: chúng liên tục, và trên hết, chúng là một phần của một tiến trình rộng lớn hơn, dựa trên những gì được chỉ ra bởi Tông hiến Episcopalis communio, sẽ không kết thúc vào cuối tháng 10 năm 2024.

Cụ thể hơn, Tài liệu làm việc này mở đầu bằng một phần dành cho những Nguyên tắc cơ bản để hiểu về tính hiệp hành, trong đó nhắc lại nhận thức đã đạt được trong quá trình thực hiện và đã được Khoá họp thứ nhất phê chuẩn. Tiếp theo là ba phần đan xen chặt chẽ, soi sáng đời sống hiệp hành truyền giáo của Giáo hội từ những góc độ khác nhau: I) từ quan điểm về các mối tương giao - với Chúa, giữa anh chị em và giữa các Giáo hội - duy trì sức sống của Giáo hội theo những cách sâu sắc hơn là cấu trúc đơn thuần; II) từ quan điểm của những con đường hỗ trợ tính năng động của các mối tương giao trong Giáo hội của chúng ta; III) từ góc độ các Nơi chốn, chống lại sự cám dỗ của chủ nghĩa phổ quát trừu tượng, nói về đặc điểm cụ thể của các bối cảnh, trong đó các mối tương giao được thể hiện, với sự đa dạng, đầy tính đa dạng và mối liên hệ hỗ tương của chúng, cũng như với nguồn gốc của chúng trong nền tảng vững chắc của việc tuyên xưng đức tin. Mỗi Phần này sẽ là chủ đề của việc cầu nguyện, trao đổi và phân định trong một trong các học phần cấu trúc nên công việc của Khoá họp thứ hai. Mỗi người tham gia sẽ được mời gọi “cống hiến sự đóng góp của mình như một quà tặng cho người khác, chứ không phải như một sự chắc chắn tuyệt đối” (SR, Nhập đề) trên con đường mà các thành viên của Khoá họp được mời gọi cùng nhau bước đi. Trên cơ sở này, một tài liệu chung kết sẽ được soạn thảo, liên quan đến toàn bộ quá trình cho đến nay, tài liệu chung kết này sẽ đưa ra những hướng dẫn của Đức Giáo hoàng về các bước phải tuân theo và những cách thức cụ thể để đạt được điều này.

Chúng ta có thể mong đợi sự hiểu biết sâu sắc hơn về tính hiệp hành, tập trung tốt hơn vào các thực hành của một Giáo hội hiệp hành và cả đề xuất về một số thay đổi trong bộ Giáo luật (có thể có những phát triển quan trọng và sâu sắc hơn, sau khi đề xuất cơ bản được suy nghĩ và sống sâu sắc hơn), nhưng chắc chắn không phải là câu trả lời cho tất cả mọi vấn đề. Ngoài ra, các đề xuất khác sẽ nảy sinh trên hành trình hoán cải và cải cách mà Khoá họp thứ hai sẽ mời gọi toàn thể Giáo hội thực hiện. Trong số những lợi ích của tiến trình này, chắc chắn chúng ta có thể kể đến sự thật là chúng ta đã trải nghiệm và học được một phương pháp để cùng nhau giải quyết các vấn đề, trong đối thoại và phân định. Chúng ta vẫn đang học cách trở thành một Giáo hội hiệp hành trong sứ vụ, nhưng đó là một nhiệm vụ mà chúng ta đã trải nghiệm và có thể đảm nhận một cách hân hoan.

 

Các nguyên tắc cơ bản

Phần này của Tài liệu Làm việc tìm cách phác thảo nền tảng của tầm nhìn về một Giáo hội có tính hiệp hành truyền giáo, mời gọi chúng ta đào sâu sự hiểu biết về mầu nhiệm của Giáo hội. Nó không đưa ra một luận thuyết hoàn chỉnh về Giáo hội học mà được đặt vào phục vụ cho công việc phân định cụ thể sẽ được thực hiện bởi Thượng Hội đồng tháng 10 năm 2024. Để trả lời câu hỏi “Làm thế nào để trở thành một Giáo hội có tính hiệp hành trong sứ vụ truyền giáo?” đòi hỏi tầm nhìn trong đó đặt các suy tư và các đề xuất mục vụ và thần học, giúp định hướng chúng ta trên con đường hoán cải và biến đổi. Đổi lại, các biện pháp cụ thể được Giáo hội thực hiện sẽ cho phép tập trung rõ ràng hơn và hiểu sâu hơn về các nền tảng cần đạt được trong sự hỗ tương mang tính sinh sản giữa suy tư thần học và thực hành mục vụ đánh dấu toàn bộ lịch sử của Giáo hội.

Trong Đức Kitô, ánh sáng của tất cả các dân nước, chúng ta là một Dân Thiên Chúa, được kêu gọi trở thành dấu chỉ và khí cụ của sự hiệp nhất với Thiên Chúa và của sự hiệp nhất của toàn nhân loại. Chúng ta thực hiện điều này bằng cách cùng nhau đi trong lịch sử, sống hiệp thông là sự tham dự vào đời sống của Ba Ngôi Thiên Chúa, và thúc đẩy sự tham gia của mọi người cùng nhìn về sứ mạng chung của chúng ta. Cái nhìn này có gốc rễ sâu và mạnh mẽ trong truyền thống sống động của Giáo hội. Tiến trình thượng Hội đồng chỉ đơn giản là cho phép một sự nhận thức mới mẻ về tầm nhìn này được lớn lên. Sự đổi mới này được diễn tả trong các điểm đồng thuận đã nổi lên trong suốt hành trình từ năm 2021 và đã được tập hợp bởi Khoá họp thứ nhất của Đại hội Thượng Hội đồng (tháng 10 năm 2023). Báo cáo Tổng hợp của nó đã trình bày chúng cho toàn thể Giáo hội để giúp việc phân định sẽ hoàn thành trong Khoá họp thứ hai.

Giáo hội, Dân Chúa, bí tích của sự hiệp nhất

1. Phép Rửa Tội nhân danh Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần tạo nên bản tính huyền nhiệm, năng động và cộng đoàn của Dân Thiên Chúa. Nó hướng chúng ta đến sự viên mãn của cuộc sống mà Đức Giêsu đã đi trước chúng ta, rồi đến sứ vụ mời gọi mọi người nam và nữ đón nhận hồng ân cứu độ trong tự do (x. Mt 28,18-19). Trong Bí tích Thanh tẩy, Đức Giêsu mặc cho chúng ta chính Người và chia sẻ căn tính và sứ mạng của Người với chúng ta (x. Gl 3,27).

2. Thiên Chúa đã vui lòng “thánh hóa và cứu độ loài người không riêng từng cá nhân hay không liên quan ràng buộc họ với nhau, mà lập họ thành một dân tộc, dân sẽ nhận biết Người trong sự thật và phụng sự Người trong sự thánh thiện” (LG 9), chia sẻ trong sự thông hiệp của Ba Ngôi Thiên Chúa. Trong và qua dân Người, Thiên Chúa thực hiện và biểu lộ sự cứu rỗi mà Người ban cho chúng ta trong Đức Kitô. Tính hiệp hành được bén rễ sâu trong tầm nhìn năng động này của Dân Thiên Chúa với ơn gọi phổ quát đến sự thánh thiện và sứ mạng truyền giáo, trong khi tiến bước về với Chúa Cha theo bước chân của Đức Kitô và được Thánh Thần thúc đẩy. Dân Thiên Chúa có tính hiệp hành và sứ vụ truyền giáo này công bố và làm chứng cho Tin Mừng cứu độ trong các bối cảnh khác nhau nơi họ đang sống. Đi cùng với mọi dân tộc trên trái đất, được định hình bởi các nền văn hóa và tôn giáo của họ, đối thoại và đồng hành với họ.

3. Tiến trình thượng Hội đồng đã phát triển một nhận thức sâu sắc hơn trong chúng ta về ý nghĩa của việc trở thành Dân Thiên Chúa được tụ họp như “Giáo hội thuộc mọi dân, mọi chi tộc, mọi nước và mọi ngôn ngữ” (SR, số 5), sống cuộc hành trình của mình hướng về Vương Quốc trong các bối cảnh và văn hóa khác nhau. Dân Thiên Chúa là chủ thể chung trải qua các giai đoạn của lịch sử cứu độ trên con đường hoàn tất. Dân Thiên Chúa không bao giờ chỉ đơn thuần là tổng hợp của những người đã được rửa tội; đúng hơn, đó là đại từ “chúng ta” để chỉ Giáo hội, chủ thể cộng đồng và lịch sử của tính hiệp hành và sứ mạng, để tất cả mọi người có thể nhận được ơn cứu độ do Thiên Chúa chuẩn bị. Được gia nhập vào dân tộc này qua đức tin và phép Rửa Tội, chúng ta được đồng hành bởi Đức Trinh Nữ Maria, “dấu chỉ chắc chắn của hy vọng và niềm an ủi cho dân lữ hành của Thiên Chúa” (LG 68), bởi các tông đồ, bởi những người đã làm chứng cho đức tin của họ đến mức hy sinh mạng sống, và với các thánh đã đi trước chúng ta.

4. “Đức Kitô là Ánh sáng của Muôn dân” (LG, số 1), và ánh sáng này chiếu trên khuôn mặt của Giáo hội, vốn “ở trong Đức Kitô như một Bí tích hay một dấu chỉ khí cụ của sự kết hợp mật thiết với Thiên Chúa và của sự hiệp nhất toàn thể nhân loại” (sđd). Giống như mặt trăng, Giáo hội tỏa sáng với ánh sáng phản chiếu: do đó, Giáo hội không thể hiểu sứ mệnh của mình một cách tự quy chiếu nhưng nhận trách nhiệm trở thành Bí tích của những mối dây, những mối tương giao và hiệp thông để phục vụ sự hiệp nhất của toàn thể nhân loại. Chúng ta gánh trách nhiệm này trong thời đại hiện đang bị thống trị bởi cuộc khủng hoảng về sự tham gia, sự thiếu vắng ý thức rằng chúng ta có một số phận chung, và một quan niệm quá thường mang tính cá nhân chủ nghĩa về hạnh phúc và do đó, về sự cứu rỗi. Khi thực hiện sứ mạng này, Giáo hội truyền đạt kế hoạch của Thiên Chúa nhằm hiệp nhất toàn thể nhân loại với chính Người trong ơn cứu độ. Khi làm như vậy, nó không tự tuyên bố “nhưng là Đức Giêsu Kitô” (2Cr 4,5). Nếu không như vậy, nó sẽ mất đi sự hiện hữu của nó trong Đức Kitô “như một Bí tích” (x. LG, số 1) và do đó, mất đi căn tính và lý do tồn tại của chính nó. Trên đường tới sự viên mãn, Giáo hội là Bí tích của Nước Thiên Chúa trên trần gian.

Ý nghĩa chung của tính hiệp hành

5. Các thuật ngữ Tính hiệp hành và Hiệp hành, xuất phát từ thực hành Giáo hội cổ xưa và liên tục của việc tụ họp trong Thượng Hội đồng, đã được hiểu rõ hơn và trên hết, được sống nhờ vào kinh nghiệm của những năm gần đây. Chúng ngày càng được liên kết với “mong muốn của chúng ta về một Giáo hội như là nhà và gia đình của Thiên Chúa, một Giáo hội gần gũi hơn với cuộc sống của Dân mình, ít quan liêu hơn và mang tính tương quan hơn” (SR, số 1b). Trong Khoá họp thứ nhất, Đại Hội đồng đã đồng ý về ý nghĩa của ‘tính hiệp hành,’ một sự hiểu biết làm nền tảng cho Tài liệu Làm việc này. Các Nhóm Nghiên cứu chuyên sâu hiện đang làm việc nhằm tập trung hơn vào quan điểm Công giáo về khía cạnh cấu thành này của Giáo hội trong một cuộc đối thoại với các truyền thống Kitô giáo khác tôn trọng sự khác biệt và đặc thù của mỗi truyền thống. Theo nghĩa rộng nhất: “Tính hiệp hành có thể được hiểu là việc các Kitô hữu bước đi trong hiệp thông với Chúa Kitô hướng tới Vương quốc, cùng với toàn thể nhân loại; hướng tới sứ vụ, nó bao gồm việc gặp gỡ nhau ở các cấp độ khác nhau của đời sống Giáo hội, lắng nghe nhau, đối thoại, thực hiện phân định cộng đồng, tìm kiếm sự đồng thuận như một cách thể hiện sự hiện diện của Chúa Kitô trong Thánh Thần, và đưa ra các quyết định trong khuôn khổ về sự đồng trách nhiệm trong sự khác biệt” (SR, số 1h).

6. Do đó, tính hiệp hành biểu thị “một phong cách cụ thể mà nó xác định đời sống và sứ vụ của Giáo hội” (ITC, số 70a), một phong cách bắt đầu từ việc lắng nghe như hành động đầu tiên của Giáo hội. Đức tin, sinh ra từ việc lắng nghe công bố Tin Mừng (x. Rm 10,17), sống từ việc lắng nghe: lắng nghe Lời Chúa, lắng nghe Chúa Thánh Thần, lắng nghe lẫn nhau, lắng nghe truyền thống sống động của Giáo hội và Huấn Quyền. Trong các giai đoạn của tiến trình thượng Hội đồng, Giáo hội một lần nữa đã trải nghiệm những gì Kinh thánh dạy: chỉ có thể công bố những gì đã nghe.

7. Tính hiệp hành “phải được biểu hiện trong cách sống và làm việc bình thường của Giáo hội. Modus vivendi et operandi [Cung cách sống và hoạt động] này thực hiện nhờ việc cộng đoàn lắng nghe Lời Chúa và cử hành Thánh Thể, tình huynh đệ [và tình chị em] hiệp thông và đồng trách nhiệm, cũng như sự tham gia của toàn thể Dân Thiên Chúa trong đời sống và sứ vụ của mình, ở mọi cấp độ, phân biệt giữa các thừa tác vụ và vai trò khác nhau” (sđd). Thuật ngữ này sau đó chỉ ra các cấu trúc và quá trình Giáo hội trong đó bản chất hiệp hành của Giáo hội được biểu hiện ở cấp độ thiết định, và cuối cùng chỉ định những sự kiện cụ thể trong đó Giáo hội được cơ quan có thẩm quyền triệu tập (x. sđd). Trong việc mô tả Giáo hội, khái niệm tính hiệp hành không phải là một sự thay thế cho khái niệm hiệp thông. Thực tế, trong bối cảnh của Giáo hội học về Dân Thiên Chúa được trình bày bởi Công đồng Vaticanô II, khái niệm hiệp thông biểu hiện bản chất sâu sắc của mầu nhiệm và sứ mạng của Giáo hội, có nguồn gốc và đỉnh cao trong việc cử hành Thánh Thể, tức là trong sự hiệp thông với Thiên Chúa Ba Ngôi và sự hiệp nhất giữa con người được thực hiện trong Đức Kitô qua Chúa Thánh Thần. Trong cùng bối cảnh đó, tính hiệp hành “là modus vivendi et operandi cụ thể của Giáo hội, Dân Thiên Chúa, nó chứng tỏ và mang lại bản chất cho Giáo hội là sự hiệp thông, khi tất cả các thành viên của Giáo hội cùng nhau hành trình, quy tụ trong cộng đoàn và tham gia tích cực vào sứ vụ loan báo Tin Mừng của Giáo hội” (ITC, số 6).

8. Tính hiệp hành không hề giảm giá trị của thẩm quyền và nhiệm vụ cụ thể mà Đức Kitô trao cho các mục tử: các Giám mục cùng với các linh mục, cộng tác viên của họ, và Đức Giáo hoàng “là nguyên lý và nền tảng vĩnh viễn, hữu hình của sự hợp nhất giữa các Giám mục cũng như giữa các tín hữu” (LG, số 23). Ngược lại, nó cung cấp “khung diễn giải phù hợp nhất để hiểu về chính chức vụ thứ bậc” (Đức Giáo hoàng Phanxicô, Diễn văn kỷ niệm 50 năm thành lập Thượng Hội đồng Giám mục, 17 tháng 10 năm 2015), mời gọi toàn thể Giáo hội, bao gồm cả những người thực thi quyền bính, hướng tới biến đổi và hoán cải đích thực.

9. Tính hiệp hành tự nó không phải là mục tiêu cuối cùng. Trong chừng mực nó mang lại khả năng thể hiện chính bản chất của Giáo hội và góp phần đánh giá cao tất cả các đặc sủng, ơn gọi và thừa tác vụ trong Giáo hội, nó giúp cộng đoàn của những người “hướng về Đức Kitô trong đức tin” (LG 9) công bố Tin Mừng một cách thích hợp nhất đến mọi người nam và người nữ ở mọi nơi, mọi thời, và trở thành “Bí tích hữu hình” (sđd) của sự hiệp nhất cứu độ mà Thiên Chúa muốn. Do đó, tính hiệp hành và sứ vụ được liên kết mật thiết với nhau. Khoá họp thứ hai, tập trung vào các khía cạnh cụ thể của đời sống hiệp hành, nhằm mục đích củng cố tính hiệu quả của việc truyền giáo. Đồng thời, tính hiệp hành là điều kiện tiên quyết để tiến bộ trên con đường đại kết hướng tới sự hiệp nhất hữu hình của tất cả các Kitô hữu. Việc tiếp nhận những thành quả của hành trình đại kết vào các thực hành của Giáo hội được Nhóm Nghiên cứu số 10 đề cập đến.

Hiệp nhất là sự hài hòa trong đa dạng

10. Do đó, động lực của sự hiệp thông Giáo hội và tính hiệp hành của Giáo hội, tìm thấy mẫu gương và sự hoàn thành của nó trong cử hành phụng vụ Thánh Thể. Trong đó, sự hiệp thông của các tín hữu (communio fidelium) đồng thời là sự hiệp thông của các Giáo hội (communio Ecclesiarum), được thể hiện trong sự hiệp thông của các Giám mục (communio episcoporum), vì nguyên tắc rất cổ xưa rằng “Giáo hội ở trong Giám mục và Giám mục ở trong Giáo hội” (thánh Cyprianô, Ep 66.8). Chúa đã đặt tông đồ Phêrô (x. Mt 16,18) và những người kế vị ngai tòa Phêrô để phục vụ sự hiệp thông. Nhờ thừa tác vụ Phêrô, Giám mục Rôma là “nguyên lý và nền tảng vĩnh viễn, hữu hình” (LG, số 23) của sự hiệp nhất của Giáo hội, được thể hiện trong sự hiệp thông của tất cả các tín hữu, của tất cả các Giáo hội, của tất cả các giám mục. Đây là cách thể hiện sự hòa hợp mà Thánh Thần hoạt động trong Giáo hội, Đấng hòa hợp trong con người (x. thánh Basiliô, Chú giải về Thánh vịnh 29,1).

11. Trong suốt tiến trình Thượng Hội đồng, mong muốn hiệp nhất của Giáo hội đã tăng trưởng cùng với nhận thức về sự đa dạng của nó. Chính sự chia sẻ giữa các Giáo hội đã nhắc nhở chúng ta rằng không có sứ mạng nào mà không có bối cảnh, nghĩa là, không có nhận thức rõ ràng rằng hồng ân của Tin Mừng được ban tặng cho những người và cộng đoàn sống trong những thời điểm và nơi chốn cụ thể, không đóng kín trong chính mình nhưng là những người mang những câu chuyện phải được công nhận, tôn trọng, mở rộng đến những chân trời rộng lớn hơn. Một trong những hồng ân lớn nhất nhận được trên hành trình này là cơ hội gặp gỡ và tôn vinh vẻ đẹp của “khuôn mặt đa dạng của Giáo hội” (thánh Gioan Phaolô II, Novo Millennio Ineunte, số 40). Sự canh tân hiệp hành thúc đẩy sự đánh giá các bối cảnh như là nơi mà lời mời gọi phổ quát của Thiên Chúa để trở thành một phần của dân Người, của Vương Quốc Thiên Chúa, đó là “sự công chính, bình an và hoan lạc trong Thánh Thần” (Rm 14,17), được hiện diện và thực hiện. Bằng cách này, các nền văn hóa khác nhau có thể nắm bắt sự hiệp nhất làm nền tảng và hoàn thiện sự đa dạng sống động của chúng. Đánh giá các bối cảnh, văn hóa và sự đa dạng là chìa khóa để phát triển như một Giáo hội hiệp hành truyền giáo.

12. Tương tự như vậy, chúng ta đã ý thức được sự đa dạng của các đặc sủng và ơn gọi mà Chúa Thánh Thần không ngừng khơi dậy trong Dân Thiên Chúa. Nhận thức này khơi dậy khát vọng phát triển khả năng phân định các đặc sủng này, trong mỗi Giáo hội và hiểu mối liên hệ hỗ tương của chúng trong đời sống cụ thể của mỗi Giáo hội và của toàn thể Giáo hội nói chung, và trên hết là thể hiện chúng vì lợi ích của sứ vụ. Cũng cần phải đào sâu vấn đề về sự tham gia của mọi người trong mối liên hệ với sự hiệp thông và sứ vụ. Ở mỗi giai đoạn của tiến trình đều có mong muốn mở rộng khả năng tham gia và thực thi đồng trách nhiệm cho tất cả những người đã được rửa tội, nam cũng như nữ, trong sự đa dạng về đoàn sủng, ơn gọi và sứ vụ của họ. Mong muốn này được định hướng theo ba trục. Đầu tiên là nhu cầu “cập nhật” khả năng công bố và truyền tải đức tin bằng những phương tiện thích hợp với bối cảnh đương đại. Thứ hai là việc đổi mới đời sống phụng vụ và bí tích, bắt đầu bằng lời mời gọi trải nghiệm những cử hành phụng vụ đẹp đẽ, trang nghiêm, dễ tiếp cận, có sự tham gia đầy đủ, hội nhập văn hóa tốt và có khả năng nuôi dưỡng động lực truyền giáo. Trục thứ ba xuất phát từ nỗi buồn do thiếu sự tham gia của nhiều thành viên Dân Chúa vào tiến trình đổi mới Giáo hội này và do Giáo hội gặp khó khăn trong việc sống trọn vẹn mối tương giao công bằng giữa nam và nữ, giữa các thế hệ khác nhau và giữa những người và các nhóm thuộc các nền văn hóa và điều kiện xã hội khác nhau, đặc biệt là những người nghèo và bị loại trừ. Việc thiếu sự hỗ tương, sự tham gia và hiệp thông cản trở sự đổi mới toàn diện của Giáo hội hướng tới tính hiệp hành truyền giáo.

Anh chị em trong Đức Kitô: một sự hỗ tương được đổi mới

13. Sự khác biệt đầu tiên mà chúng ta gặp phải với tư cách là con người là sự khác biệt giữa nam và nữ. Ơn gọi Kitô hữu của chúng ta bao gồm việc tôn vinh sự khác biệt do Thiên Chúa ban tặng này bằng cách sống trong Giáo hội một mối tương giao hỗ tương năng động như một chứng nhân cho thế giới. Sự suy tư của Thượng Hội đồng về những đóng góp được thu thập ở tất cả các giai đoạn đã nhấn mạnh sự cần thiết phải thúc đẩy tốt hơn các đặc sủng, ơn gọi và vai trò của phụ nữ trong mọi lĩnh vực của đời sống Giáo hội như một bước thiết yếu để thúc đẩy mối tương giao hỗ tương này. Quan điểm hiệp hành nêu bật ba điểm tham chiếu thần học như một hướng dẫn cho việc phân định: a) sự tham gia bắt nguồn từ cấp độ các hàm ý Giáo hội học của phép rửa; b) với tư cách là dân đã được rửa tội, chúng ta được mời gọi không chôn vùi tài năng của mình, nhưng nhận ra những hồng ân mà Chúa Thánh Thần tuôn đổ trên mỗi người vì lợi ích của cộng đồng và thế giới; c) Về ơn gọi của mỗi người và mọi người, các ơn Chúa Thánh Thần ban cho các tín hữu được trao cho nhau. Và nguyên tắc đồng trách nhiệm phải hướng dẫn sự cộng tác giữa tất cả những người đã được rửa tội. Để soi sáng suy tư của chúng ta, chúng ta có thể dựa vào chứng từ của Kinh thánh: Thiên Chúa đã chọn phụ nữ làm nhân chứng và sứ giả đầu tiên của sự phục sinh. Nhờ bí tích rửa tội, họ có cùng một vị trí bình đẳng, họ nhận được cùng một ân sủng của Chúa Thánh Thần và được mời gọi phục vụ sứ vụ của Đức Kitô.

14. Để làm được điều này, trước tiên chúng ta phải thực hiện một sự thay đổi não trạng: một sự hoán cải hướng tới một viễn tượng về các mối tương giao, về sự phụ thuộc lẫn nhau và sự hỗ tương giữa nam giới và nữ giới, giữa anh chị em trong Đức Kitô, cùng nhau thực hiện một sứ vụ chung. Việc thiếu vắng sự hoán cải này, cả trong các mối tương giao cũng như trong các cơ cấu, sẽ ảnh hưởng tiêu cực đến sự hiệp thông, sự tham gia và sứ vụ của Giáo hội. Như đóng góp của Hội đồng Giám mục Châu Mỹ Latinh cho thấy, “một Giáo hội trong đó mọi thành viên có thể cảm thấy đồng trách nhiệm cũng là một nơi hấp dẫn và đáng tin cậy.”

15. Những đóng góp của các Hội đồng Giám mục thừa nhận rằng nhiều lĩnh vực của đời sống Giáo hội rộng mở cho sự tham gia của phụ nữ. Tuy nhiên, họ cũng lưu ý rằng những cơ hội tham gia này thường không được tận dụng đúng mức. Đây là lý do tại sao họ đề nghị rằng Khoá họp thứ hai sẽ thúc đẩy nhận thức về họ và khuyến khích sự phát triển hơn nữa của họ trong các giáo xứ, giáo phận và các thực tại khác của Giáo hội, bao gồm cả trách nhiệm mục vụ. Họ cũng kêu gọi khám phá các hình thức mục vụ và mục vụ khác nhằm thể hiện tốt hơn các đặc sủng mà Chúa Thánh Thần tuôn đổ trên phụ nữ để đáp ứng các nhu cầu mục vụ của thời đại chúng ta. Đây là cách một Hội đồng Giám mục Châu Mỹ Latinh bày tỏ: “Trong nền văn hóa của chúng ta, sự hiện diện của chủ nghĩa gia trưởng vẫn còn rất lớn, trong khi một sự tham gia tích cực hơn của phụ nữ trong tất cả các lĩnh vực Giáo hội là cần thiết. Như Đức Giáo hoàng Phanxicô đã khẳng định, quan điểm của họ là không thể thiếu trong các quá trình ra quyết định và trong việc đảm nhận các vai trò trong các hình thức chăm sóc mục vụ và truyền giáo khác nhau.”

16. Những yêu cầu cụ thể xuất hiện từ các đóng góp của các Hội đồng Giám mục cho Khoá họp thứ hai xem xét, bao gồm: a) thúc đẩy các lĩnh vực đối thoại trong Giáo hội để phụ nữ có thể chia sẻ kinh nghiệm, đặc sủng, kỹ năng và những hiểu biết thiêng liêng, thần học và mục vụ của họ vì lợi ích của toàn thể Giáo hội; b) mở rộng sự tham gia của phụ nữ vào các quá trình phân định Giáo hội và tất cả các giai đoạn của các quá trình ra quyết định (soạn thảo và ra quyết định); c) mở rộng khả năng tiếp cận các vị trí trách nhiệm trong các Giáo phận và các tổ chức Giáo hội, phù hợp với các quy định hiện có; d) công nhận và hỗ trợ nhiều hơn cho đời sống và đặc sủng của các nữ tu và việc họ đảm nhận các vị trí có trách nhiệm; e) tiếp cận các vị trí trách nhiệm trong các chủng viện, học viện và khoa thần học; f) sự gia tăng số lượng thẩm phán nữ trong tất cả các tiến trình giáo luật. Các báo cáo nhận được cũng tiếp tục kêu gọi chú ý nhiều hơn đến việc sử dụng ngôn ngữ bao gồm hơn và một loạt các hình ảnh từ Kinh thánh và Thánh truyền trong việc rao giảng, giáo huấn, dạy giáo lý và soạn thảo các văn kiện chính thức của Giáo hội.

17. Trong khi một số Giáo hội địa phương kêu gọi tiếp nhận phụ nữ vào chức vụ phó tế, thì những Giáo hội khác lại tái khẳng định sự phản đối của họ. Về chủ đề này, vốn sẽ không phải là chủ đề công việc của kỳ họp thứ Hai, điều tốt là nên tiếp tục suy tư thần học, với thời gian và phương thức thích hợp. Thành quả của Nhóm Nghiên cứu số 5 sẽ góp phần vào sự trưởng thành của nó, có tính đến kết quả của hai Ủy ban đã giải quyết vấn đề này trong quá khứ.

18. Nhiều yêu cầu nêu trên cũng áp dụng cho những người nam giáo dân, những người thường bị chỉ trích vì ít tham gia vào đời sống Giáo hội. Nói chung, việc suy tư về vai trò của phụ nữ thường nêu bật mong muốn củng cố tất cả các mục vụ do giáo dân (nam và nữ) thực hiện. Chúng tôi cũng yêu cầu các tín hữu giáo dân, nam cũng như nữ, được đào tạo đầy đủ, góp phần vào việc rao giảng Lời Chúa, ngay cả trong khi cử hành Bí tích Thánh Thể.

Lời mời gọi hoán cải và canh tân

19. Đức Giêsu bắt đầu sứ vụ công khai của Người với lời kêu gọi hoán cải (x. Mc 1,15). Lời kêu gọi này thể hiện một lời mời gọi suy nghĩ lại các cách sống cá nhân và cộng đoàn và để cho mình được Thánh Thần biến đổi. Không một cuộc biến đổi nào có thể chỉ giới hạn ở các cơ cấu mà phải bắt nguồn từ sự biến đổi nội tâm theo “ý muốn của Đức Kitô” (Pl 2,5). Đối với một Giáo hội hiệp hành, sự hoán cải đầu tiên là lắng nghe, việc tái khám phá điều này là một trong những hoa quả lớn nhất của cuộc hành trình cho đến nay. Điều này, trước hết, là lắng nghe Chúa Thánh Thần, nhân vật chính thực sự của Thượng Hội đồng, và sau đó là lắng nghe lẫn nhau như một thái độ căn bản cho sứ vụ.

20. Phong cách hiệp hành của Giáo hội mang lại cho nhân loại nhiều hiểu biết quan trọng. Trong một thời đại đánh dấu bởi sự gia tăng bất bình đẳng, sự vỡ mộng ngày càng tăng với các mô hình quản trị truyền thống, sự thất vọng dân chủ và sự thống trị của mô hình thị trường trong các tương tác của con người, và cám dỗ giải quyết xung đột bằng sức mạnh thay vì đối thoại, tính hiệp hành có thể mang lại cảm hứng cho tương lai của các xã hội của chúng ta. Sự hấp dẫn của nó xuất phát từ thực tế rằng nó không phải là một chiến lược quản lý mà là một thực hành để được sống và cử hành trong tinh thần biết ơn. Cách sống hiệp hành trong các mối tương giao là một chứng tá xã hội đáp ứng nhu cầu sâu xa của con người để được chào đón và công nhận trong một cộng đồng cụ thể. Thực hành tính hiệp hành thách thức sự cô lập ngày càng tăng của con người và chủ nghĩa cá nhân về văn hóa, mà ngay cả Giáo hội cũng đã thường mắc phải và kêu gọi chúng ta chăm sóc lẫn nhau, sự phụ thuộc lẫn nhau và đồng trách nhiệm vì lợi ích chung. Tương tự, nó cũng là một thách thức đối với chủ nghĩa xã hội chung cường điệu quá mức làm nghẹt thở con người và không cho phép họ trở thành chủ thể tự do của sự phát triển của chính mình. Sự sẵn sàng lắng nghe tất cả, đặc biệt là những người nghèo, một sự sẵn sàng mà cách sống hiệp hành thúc đẩy, đứng trong sự tương phản rõ ràng với một thế giới mà sự tập trung quyền lực quá mức loại trừ những tiếng nói của người thiểu số nghèo nhất, bị gạt ra ngoài lề. Tính cụ thể của tiến trình hiệp hành đã cho thấy bản thân Giáo hội cần phát triển đến mức nào trong chiều kích này. Nhóm Nghiên cứu số 2 cũng đang nghiên cứu vấn đề này.

21. Ở mọi giai đoạn của tiến trình hiệp hành, nhu cầu hàn gắn chữa lành, hòa giải và khôi phục niềm tin trong Giáo hội và xã hội đều vang lên mạnh mẽ. Đó là định hướng căn bản về sự dấn thân truyền giáo của Dân Chúa trong thế giới chúng ta, đồng thời là một hồng ân mà chúng ta phải cầu khẩn từ trời cao. Ước muốn bước đi trên con đường này tự nó là thành quả của sự đổi mới hiệp hành.

 

Phần I – Các mối tương giao

Trong suốt tiến trình Thượng Hội đồng và ở mọi vĩ độ, chúng ta đã yêu cầu một Giáo hội không quan liêu nhưng có thêm khả năng nuôi dưỡng các mối tương giao: với Chúa, giữa người nam và người nữ, giữa những người trong gia đình, trong cộng đồng, giữa các nhóm xã hội. Chỉ có một mạng lưới các mối tương giao đan kết với nhau bằng nhiều thứ thuộc về nhau mới có khả năng hỗ trợ con người và cộng đồng, mang lại cho họ những điểm tham chiếu và định hướng, đồng thời thể hiện vẻ đẹp của cuộc sống theo Tin Mừng: đó là trong các mối tương giao - với Chúa Kitô, với người khác, trong cộng đồng - đức tin đó được loan truyền.

Như một yêu cầu của sứ vụ, tính hiệp hành không nên được coi là một phương tiện tổ chức; nó phải được sống và vun trồng như tất cả những phương tiện qua đó các môn đệ của Chúa Giêsu dệt nên những mối tương giao hỗ trợ, có khả năng đáp ứng tình yêu thần linh liên tục gắn kết với họ và tình yêu mà họ được mời gọi làm chứng trong những bối cảnh cụ thể nơi họ gặp gỡ nhau. Do đó, việc hiểu cách trở thành một Giáo hội hiệp hành trong sứ vụ đòi hỏi một sự hoán cải trong các mối tương giao, nhằm định hướng lại các ưu tiên và hành động của mỗi người, đặc biệt là những người có nhiệm vụ sinh động các mối tương giao phục vụ sự hiệp nhất, cụ thể là ‘trao đổi hồng ân’, giải phóng và làm phong phú cho tất cả mọi người.

Trong Đức Kitô và trong Thánh Thần: Khai tâm Kitô giáo

22. “Tự bản tính, Giáo hội lữ hành là người được sai đi, vì chính Giáo hội được khởi sinh từ việc Chúa Con và Chúa Thánh Thần được sai đến theo ý định của Thiên Chúa Cha” (AG, số 2). Cuộc gặp gỡ với Đức Giêsu, việc gắn bó đức tin vào Người và việc cử hành các Bí tích khai tâm Kitô giáo đưa chúng ta vào chính đời sống của Ba Ngôi. Nhờ ân sủng của Chúa Thánh Thần, Đức Giêsu làm cho những ai lãnh nhận Phép Rửa được tham gia vào mối tương giao của Người với Chúa Cha. Thánh Thần mà Đức Giêsu đã được tràn đầy và hướng dẫn (Lc 4,1), Đấng đã xức dầu và sai Người đi rao giảng Tin Mừng (Lc 4,18), đã làm cho Người sống lại từ cõi chết (Rm 8,11) cũng chính là Thánh Thần xức dầu cho mọi phần tử của Dân Thiên Chúa. Thánh Thần này làm chúng ta trở thành con cái và thừa kế của Thiên Chúa, chính nhờ Thánh Thần mà chúng ta kêu lên với Chúa và gọi Người: “Abba, Cha ơi!” (Ga 4,6; Rm 8,15).

23. Để hiểu bản chất của một Giáo hội hiệp hành trong sứ vụ, không thể thiếu việc nắm bắt nền tảng Ba Ngôi này, và đặc biệt là mối liên kết không thể tách rời giữa công việc của Đức Kitô và công việc của Chúa Thánh Thần trong lịch sử nhân loại và Giáo hội: “Chúa Thánh Thần, Đấng ngự trong các tín hữu, cũng là Đấng làm sung mãn và hướng dẫn toàn thể Giáo hội, chính Người thực hiện sự thông hiệp kỳ diệu ấy nơi các tín hữu, và liên kết tất cả trong Đức Kitô cách mật thiết đến nỗi Người trở thành Nguyên Lý hợp nhất Giáo hội” (UR, số 2). Đây là lý do tại sao tiến trình khai tâm Kitô giáo cho người lớn là bối cảnh đặc biệt để hiểu đời sống hiệp hành của Giáo hội. Nó nêu bật nguồn gốc và nền tảng của nó: các mối tương giao hiệp nhất và phân biệt Ba Ngôi Thiên Chúa. Với các ân sủng của phép rửa, Chúa Thánh Thần làm cho chúng ta nên giống Đức Kitô, tư tế, ngôn sứ và vương giả, làm cho chúng ta trở thành chi thể của Thân Mình Người là Giáo hội, và làm cho chúng ta trở nên con cái của một Chúa Cha. Như thế, chúng ta nhận được lời kêu gọi truyền giáo và đồng trách nhiệm về những gì hiệp nhất chúng ta trong một Giáo hội duy nhất. Những hồng ân này có ba chiều hướng không thể tách rời: cá nhân, cộng đoàn và truyền giáo. Chúng trao quyền và dấn thân cho mọi người nam hay người nữ đã được rửa tội xây dựng các mối tương giao chân thành, như anh chị em, trong cộng đoàn Giáo hội của mình, để tìm kiếm một sự hiệp thông sâu sắc và rõ ràng hơn bao giờ hết với tất cả những người mà họ cùng chịu phép rửa, và với việc loan báo và làm chứng cho Tin Mừng.

24. Nếu, một mặt tính hiệp hành truyền giáo bắt rễ trong khai tâm Kitô giáo, thì mặt khác, nó phải chiếu sáng cách Dân Thiên Chúa sống hành trình khai tâm, biến nó thành của riêng mình theo đúng ý nghĩa thực của nó. Điều này bao gồm việc vượt qua một tầm nhìn giới hạn và cá nhân về khai tâm mà không liên kết đủ với việc theo chân Đức Kitô và đời sống trong Thánh Thần và nhờ đó phục hồi giá trị năng động và biến đổi của việc khai tâm Kitô giáo. Trong Giáo hội sơ khai, các Kitô hữu đọc những lời trong sách Sáng thế “vào ngày thứ sáu”, Thiên Chúa phán: “Chúng ta hãy làm ra loài người theo hình ảnh của chúng ta, giống như chúng ta” (St 1,26), các Kitô hữu đã nhận ra rằng tính năng động tương quan đã được ghi khắc trong nhân học tạo dựng này. Họ nhìn thấy nơi hình ảnh Chúa Con nhập thể và giống như khả năng tuân phục ngày càng gia tăng, một biểu hiện của cuộc phiêu lưu hạnh phúc được tự do lựa chọn ở với và nên giống Đức Kitô. Cuộc phiêu lưu này bắt đầu bằng việc lắng nghe Lời Chúa, nhờ đó người dự tòng dần dần bước theo Đức Giêsu Kitô. Phép rửa nhằm phục vụ tính năng động của sự giống nhau, đó là lý do tại sao nó không phải là một hành động chỉ diễn ra một lần và kết thúc vào lúc cử hành nó. Đúng hơn, nó là một hồng ân phải được xác nhận, nuôi dưỡng và làm nổi bật qua việc dấn thân hoán cải, phục vụ sứ vụ và tham gia vào đời sống cộng đoàn. Thực vậy, việc khai tâm Kitô giáo đạt đến đỉnh cao trong Bí tích Thánh Thể ngày Chúa nhật, được cử hành hàng tuần, một dấu chỉ của quà tặng ân sủng không ngừng làm cho chúng ta nên giống Đức Kitô, làm cho chúng ta trở thành chi thể của thân thể Người và nuôi dưỡng chúng ta trên con đường hoán cải và truyền giáo.

25. Theo nghĩa này, cộng đoàn cử hành Bí tíchThánh Thể biểu lộ và nuôi dưỡng đời sống hiệp hành truyền giáo của Giáo hội. Với sự tham gia của tất cả các Kitô hữu, với sự hiện diện của các thừa tác vụ khác nhau và sự chủ toạ của Giám mục hoặc linh mục, cộng đoàn Kitô hữu trở nên hữu hình, trong đó việc đồng trách nhiệm khác biệt của tất cả mọi người đối với sứ mạng được thực hiện. Phụng vụ, như là “đỉnh cao hướng tới mọihoạt động của Giáo hội và đồng thời, là nguồn từ đó tất cả sức mạnh của Giáo hội tuôn chảy” (SC, số 10), đồng thời là nguồn sống hiệp hành của Giáo hội và là mẫu mực của mọi sự kiện hiệp hành, làm cho mầu nhiệm của Thiên Chúa Ba Ngôi hiện ra “như trong một tấm gương” (1Cr 13,12; x. DV, số 7).

26. Điều cần thiết là các đề xuất mục vụ và thực hành phụng vụ phải duy trì và làm cho mối liên kết giữa hành trình khai tâm Kitô giáo với cuộc sống hiệp hành và sứ vụ của Giáo hội trở nên rõ ràng hơn bao giờ hết. Bằng cách này, chúng ta tránh giản lược cuộc hành trình này thành một công cụ sư phạm duy nhất hoặc một dấu chỉ của sự thuộc về xã hội đơn thuần và thay vào đó, chúng ta thúc đẩy việc chấp nhận món quà cá nhân này hướng tới sứ vụ và xây dựng cộng đồng. Những sắp xếp mục vụ và phụng vụ thích hợp phải được phát triển trong nhiều hoàn cảnh và văn hóa khác nhau mà các Giáo hội địa phương đang hòa nhập, đồng thời chú ý đến sự khác biệt giữa những hoàn cảnh mà việc khai tâm Kitô giáo chủ yếu liên quan đến người trẻ hoặc người lớn và những hoàn cảnh liên quan chủ yếu, nếu không riêng chỉ là trẻ em.

Đối với Dân Chúa: các đặc sủng và thừa tác vụ

27. “Có nhiều đặc sủng khác nhau, nhưng chỉ có một Thánh Thần; có nhiều việc phục vụ khác nhau, nhưng chỉ có một Chúa; có nhiều hoạt động khác nhau, nhưng chính Thiên Chúa là Đấng hành động mọi sự trong mọi người. Thần khí tỏ mình ra nơi mỗi người một cách, là vì lợi ích chung” (1Cr 12,4.7). Sự tự do của Chúa Thánh Thần là nguồn gốc của sự đa dạng về đặc sủng (quà của ân sủng) và thừa tác vụ (hình thức phục vụ trong Giáo hội nhằm thực hiện sứ mạng của Giáo hội). Thánh Thần ban phát và làm việc không ngừng để họ biểu hiện sự hiệp nhất trong đức tin và thuộc về Giáo hội Công giáo duy nhất trong sự đa dạng của từng cá nhân, văn hóa và từng nơi khác nhau. Các đặc sủng, tuy nhỏ mọn và thông thường nhất, đều được ban cho để đáp ứng các nhu cầu của Giáo hội và cho sứ vụ của Giáo hội (x. LG, số 12). Đồng thời, chúng đóng góp một cách hiệu quả vào đời sống xã hội, trong các khía cạnh khác nhau. Các đặc sủng thường được chia sẻ, tạo nên các hình thức đời sống thánh hiến khác nhau và sự đa dạng của các hiệp hội, nhóm và phong trào Giáo hội.

28. Lĩnh vực chính mà trong đó các đặc sủng của mỗi người lãnh nhận khi chịu phép Rửa được kêu gọi biểu hiện không phải là tổ chức các hoạt động hoặc cấu trúc Giáo hội mà là trong hoạt động đời sống thường nhật, trong các mối tương giao gia đình và xã hội. Trong những tình huống đa dạng nhất, các Kitô hữu, cả cá nhân và cộng đoàn được kêu gọi làm triển nở các món quà ân sủng mà họ đã nhận được vì lợi ích của tất cả mọi người. Giống như các thừa tác vụ, sự sinh hoa kết quả của các đặc sủng phụ thuộc vào hành động của Thiên Chúa, ơn gọi mà Thiên Chúa ngỏ đến mỗi người, sự chấp nhận quảng đại và khôn ngoan của người đã chịu phép Rửa, cũng như sự chấp nhận và đồng hành của giới lãnh đạo. Do đó, chúng không thể được hiểu là của riêng của những ai nhận và sử dụng chúng, cũng như không nhằm mục đích phục vụ ích lợi riêng của họ.

29. Như một biểu hiện của sự tự do của Thánh Thần trong việc ban phát các ân sủng và để đáp ứng nhu cầu của các cộng đoàn cụ thể, trong Giáo hội có nhiều loại thừa tác vụ khác nhau mà bất kì người nam hay ngừoi nữ đã được rửa tội có thể thực hiện được. Những công việc này mang hình thức của phụng vụ thường lệ và được thẩm quyền cộng đoàn công nhận. Có thể được gọi là thừa tác vụ rửa tôi để chỉ ra gốc của chúng (phép Rửa) và để phân biệt chúng với các thừa tác vụ có chức thánh dựa trên Bí tích Truyền Chức. Chẳng hạn, có những người nam và người nữ thực hiện thừa tác vụ điều phối một cộng đồng nhỏ của Giáo hội, thừa tác vụ dẫn dắt các buổi cầu nguyện (tại các dịp tang chế hay những dịp khác), thừa tác vụ rước lễ ngoại thường, hoặc các tác vụ khác không nhất thiết là phụng vụ. Các quy tắc của Giáo hội Rôma và Đông phương đã quy định rằng, trong một số trường hợp, các tín hữu giáo dân nam hay nữ, cũng có thể là thừa tác viên ngoại thường của Bí tích rửa tội. Theo các quy tắc của Giáo hội Latinh, Giám mục có thể ủy quyền cho các tín hữu giáo dân nam hay nữ chứng hôn. Việc tiếp tục suy nghĩ về cách giao phó các thừa tác vụ này cho giáo dân một cách ổn định hơn là hữu ích. Những suy tư này cần đi kèm với sự cân nhắc thêm về cách chúng ta có thể thúc đẩy nhiều hình thức thừa tác vụ giáo dân hơn, bao gồm cả ngoài lĩnh vực phụng vụ.

30. Thời gian gần đâymột số phương thức phục vụ vốn đã hiện diện từ lâu trong đời sống Giáo hội đã nhận được một cấu hình mới như là các thừa tác vụ được thiết lập [instituted], bao gồm cả thừa tác vụ đọc sách và thừa tác vụ giúp lễ (x. Tông thư dưới hình thức tự sắc Spiritus Domini, ngày 10 tháng 1 năm 2021). Thừa tác vụ được thành lập dành cho các giáo lý viên cũng đã được triển khai (x. Tông thư dưới dạng Tự sắc Antiquum Ministryium, ngày 10 tháng 5 năm 2021). Các thừa tác vụ được thiết lập được Giám mục trao ban cho nam giới và phụ nữ một lần trong đời thông qua một nghi thức đặc biệt sau khi có sự phân định thích hợp và được đào tạo đầy đủ. Thời gian và cách thức thực hiện chúng phải được xác định bởi sự ủy quyền của cơ quan có thẩm quyền hợp pháp. Một số vấn đề thần học và giáo luật liên quan đến các hình thức thừa tác vụ chuyên biệt của Giáo hội - đặc biệt vấn đề về sự tham gia cần thiết của phụ nữ vào đời sống và sự lãnh đạo của Giáo hội - đã được giao phó cho Bộ Giáo lý Đức tin, trong cuộc đối thoại với Ban Thư ký Thượng Hội đồng (Nhóm Nghiên cứu số 5).

31. Mặc dù không phải tất cả các đặc sủng đều có những hình thức của tác vụ mục vụ, nhưng tất cả các tác vụ đều dựa trên các đặc sủng được ban cho một số thành phần nhất định của Dân Chúa, những người được kêu gọi hành động theo những cách khác nhau để mỗi người trong cộng đoàn có thể tham gia vào việc xây dựng thân thể của Đức Kitô (x. Ep 4,12), trong sự phục vụ lẫn nhau. Giống như các đặc sủng, các thừa tác vụ cũng phải được công nhận, thăng tiến và trân trọng. Quá trình hiệp hành đã nhiều lần nhấn mạnh việc phân định và cổ vũ các đoàn sủng và mục vụ, cũng như việc xác định nhu cầu của các cộng đoàn và xã hội mà chúng dự định đáp ứng, là một khía cạnh mà các Giáo hội địa phương cần phải phát triển, tự đặtcho mình các tiêu chí, công cụ và quy trình phù hợp. Công đồng Vaticanô II dạy rằng nhiệm vụ của các mục tử là “công nhận các tác vụ và các đặc sủng của họ [các tín hữu], để mọi người theo cách thức riêng của mình đồng lòng cộng tác vào trọng trách chung này” (LG 30). Việc phân định các đặc sủng và thừa tác vụ là một hành vi đúng đắn của Giáo hội: để thừa nhận và thăng tiến chúng, Giám mục buộc phải lắng nghe tiếng nói của tất cả những người liên quan: cá nhân tín hữu, cộng đoàn và các tổ chức tham gia. Để đạt được mục tiêu này, các thủ tục phù hợp với các bối cảnh khác nhau phải được xác định, luôn quan tâm để có thể đạt được sự đồng thuận thực sự về tiêu chuẩn và kết quả của sự phân định. Kết quả của cuộc họp “Các cha xứ tham dự Thượng Hội đồng” nhấn mạnh mạnh mẽ đến những nhu cầu này.

32. Cũng được nhấn mạnh là lời mời gọi phát triển đức tin sâu sắc hơn vào hoạt động của Chúa Thánh Thần, lòng can đảm và tính sáng tạo lớn hơn trong việc phân định cách sử dụng các ân sủng đã nhận được và đón nhận để phục vụ sứ vụ của Giáo hội theo cách phù hợp với các bối cảnh địa phương khác nhau. Chính sự đa dạng của các bối cảnh, và do đó, nhu cầu của các cộng đoàn, đã gợi ý rằng các Giáo hội địa phương, dưới sự hướng dẫn của các mục tử và các nhóm của họ “ở những vùng rộng lớn cùng chung một nền văn hoá xã hội” (AG 22), hãy thực hiện một cách khiêm tốn và tin tưởng vào sự phân định sáng tạo về những thừa tác vụ nào họ được thừa nhận, ủy thác hoặc thành lập để đáp ứng các nhu cầu mục vụ và xã hội. Vì vậy, các tiêu chuẩn và cách thức để thực hiện việc phân định này phải được xác định. Suy tư trên cũng phải xem xét cách ủy thác các thừa tác vụ do phép rửa (không được thiết lập và được thiết lập) vào thời điểm mà người ta di cư một cách càng dễ dàng hơn, xác định rõ thời gian và khu vực thực hiện chúng.

33. Cuộc hành trình cho đến nay đã dẫn đến sự thừa nhận rằng một Giáo hội hiệp hành là một Giáo hội biết lắng nghe, có khả năng chào đón và đồng hành, như một gia đình. Ở tất cả các châu lục đều xuất hiện một nhu cầu liên quan đến những người, vì những lý do khác nhau, bị hoặc cảm thấy bị loại trừ hoặc bị gạt ra bên lề Giáo hội hoặc những người đang đấu tranh để tìm được sự nhìn nhận đầy đủ về phẩm giá và các ân sủng của mình trong cộng đoàn Giáo hội. Việc thiếu sự chào đón này khiến họ cảm thấy bị từ chối, cản trở hành trình đức tin và gặp gỡ Chúa của họ, đồng thời tước đi sự đóng góp của Giáo hội cho sứ vụ.

34. Điều có vẻ thích hợp là tạo ra một thừa tác vụ lắng nghe và đồng hành được xác nhận và thiết lập phù hợp, điều này sẽ làm cho điểm đặc trưng này của một Giáo hội hiệp hành trở thành một thực tại lâu dài và hữu hình. Cần có một 'cánh cửa rộng mở' của cộng đoàn, cho phép mọi người bước vào mà không cảm thấy bị nhòm ngó hay bị phán xét. Các hình thức thi hành thừa tác vụ này sẽ cần phải thích ứng với hoàn cảnh địa phương tùy theo sự đa dạng về kinh nghiệm, cơ cấu, bối cảnh xã hội và các nguồn lực sẵn có. Điều này mở ra một không gian cho việc phân định diễn ra ở cấp địa phương, với sự tham gia của các Hội đồng Giám mục quốc gia hoặc lục địa. Tuy nhiên, sự hiện diện của một thừa tác vụ cụ thể không có nghĩa là bảo lưu cam kết chỉ lắng nghe các thừa tác vụ này. Ngược lại, nó có tính chất tiên tri. Một mặt, nó nhấn mạnh rằng việc lắng nghe và đồng hành là một chiều kích bình thường trong đời sống của một Giáo hội hiệp hành, một Giáo hội thu hút tất cả những người đã được rửa tội theo những cách khác nhau và trong đó tất cả các cộng đoàn đều được mời gọi phát triển; mặt khác, nó nhắc nhở chúng ta rằng việc lắng nghe và đồng hành là một công việc phục vụ của Giáo hội, không phải là một sáng kiến cá nhân, giá trị của nó như vậy đã được công nhận. Nhận thức này là thành quả trưởng thành của tiến trình hiệp hành.

Với các thừa tác viên có chức thánh: phục vụ sự hòa hợp

35. Các dữ liệu tương phản xuất hiện từ tiến trình hiệp hành liên quan đến việc thực thi thừa tác viên có chức thánh trong dân Chúa. Một mặt, niềm vui, sự dấn thân và sự cống hiến của các Giám mục, linh mục và phó tế khi thực hiện công việc phục vụ của mình được nhấn mạnh; mặt khác, họ đã chia sẽ sự mệt mỏi nhất định, trước hết liên quan đến cảm giác bị cô đơn, đơn độc, bị cắt đứt khỏi các mối tương giao tốt lành và bền vững, và bị quá tải vì bị yêu cầu phải đáp ứng cho mọi nhu cầu. Đây có thể là một trong những tác động độc hại của chủ nghĩa giáo sĩ trị. Đặc biệt, hình ảnh vị Giám mục thường bị quá tải với những kỳ vọng phi thực tế về những gì một người có thể đạt được một cách hợp lý.

36. Trong cuộc họp “Các cha sở với Thượng Hội đồng” đã liên kết sự mệt mỏi này với khó khăn của các Giám mục và linh mục trong việc thực sự cùng nhau đồng hành trong thừa tác vụ chung của mình. Do đó, việc hình dung lại thừa tác thánh chức trong tầm nhìn của Giáo hội hiệp hành truyền giáo không chỉ là một yêu cầu về sự gắn kết mà còn là một cơ hội để thoát khỏi những gánh nặng này, miễn là nó đi kèm với một sự chuyển đổi hiệu quả các thực hành, tạo ra sự thay đổi và mang lại lợi ích xuất phát từ điều đó rõ ràng đối với các thừa tác viên có chức thánhvà các tín hữu khác. Ngoài hành trình hoán cải của các thừa tác viên có chức thánh, con đường này sẽ đòi hỏi một cách suy nghĩ mới và tổ chức hoạt động mục vụ, trong đó tính đến sự tham gia của tất cả những người nam và người nữ đã được rửa tội vào sứ mạng của Giáo hội, đặc biệt nhằm mục đích làm nổi bật, thừa nhận và làm sinh động các đặc sủng và thừa tác vụ khác nhau do phép rửa mang lại. Câu hỏi “Làm thế nào để trở thành một Giáo hội hiệp hành truyền giáo?” thúc giục chúng ta suy gẫm một cách cụ thể về các mối tương giao, cấu trúc và tiến trình có thể thúc đẩy một tầm nhìn đổi mới về thừa tác vụ có chức thánh, chuyển từ cách thức thực thi thẩm quyền kim tự tháp sang cách thức hiệp hành. Trong khuôn khổ thúc đẩy các đặc sủng và thừa tác vụ rửa tội, có thể bắt đầu tái phân bổ các nhiệm vụ mà việc thực hiện không đòi hỏi có chức thánh. Một sự phân chia trách nhiệm chi tiết hơn sẽ thuận lợi cho việc ra quyết định và thực hiện các quy trình mang dấu ấn phong cách đồng hành rõ ràng hơn.

37. Trong các bản văn của Công đồng, thừa tác vụ có chức thánh được hiểu chủ yếu như là phục vụ trong Giáo hội vì sự tồn tại của chính Giáo hội. Công đồng đã phục hồi hình thức thừa tác vụ có chức thánh của Giáo hội thời sơ khai, một thừa tác vụ mà “được thực hiện trong các phẩm trật khác nhau bởi những người từ xưa nay được gọi là Giám mục, linh mục và phó tế” (LG 28). Trong sự phân chia này, phẩm Giám mục và phẩm linh mục tương ứng với sự tham dự đặc biệt vào chức linh mục của Đức Kitô, mục tử và đầu của cộng đoàn Giáo hội, trong khi chức phó tế “không phải cho chức linh mục, mà cho thừa tác vụ” (LG 29). Các phẩm trật khác nhau có mối liên hệ hữu cơ với nhau, trong sự phụ thuộc lẫn nhau và sự đặc thù của mỗi phẩm trật. Những người có chức thánh không thể nghĩ về mình như những cá nhân biệt lập được trao quyền, mà phải xem mình như những người được chia sẻ các ân huệ (munera) được trao qua Bí tích Truyền Chức, trong tinh thần hiệp thông với các thừa tác viên có chức thánh khác và trong mối liên kết hữu cơ với Dân Chúa mà họ là một thành phần trong đó, dù theo cách khác nhau, cũng chia sẻ những ân huệ của Đức Kitô trong chức linh mục chung được thiết lập nhờ Bí tích Rửa Tội.

38. Giám mục có nhiệm vụ lãnh đạo Giáo phận của mình, là nguyên lý hữu hình của sự hiệp nhất trong Giáo hội và là mối liên kết của sự hiệp thông trong Giáo hội. Tính chất đặc biệt của thừa tác vụ của ngài đòi hỏi một thẩm quyền riêng, thẩm quyền mà mỗi Giám mục thực hiện một cách cá nhân nhân danh Đức Kitô (x. LG 27) trong việc rao giảng Lời Chúa, cử hành Bí tích Thánh Thể và các Bí tích khác, cũng như hướng dẫn mục vụ. Điều này không có nghĩa là ngài bị tách rời khỏi phần Dân Chúa được giao phó cho ngài (x. CD 11), mà ngài được kêu gọi để phục vụ nhân danh Đức Kitô Mục Tử Nhân Lành. Sự thật rằng “sự viên mãn của Bí tích Truyền Chức được trao qua việc truyền chức Giám mục” (LG 21) không phải là lý do biện minh cho một thừa tác vụ Giám mục mang tính chất ‘quân chủ’, được hiểu như là một sự tích lũy quyền lực từ đó tất cả các đặc sủng và thừa tác vụ khác phát sinh. Thay vào đó, nó khẳng định khả năng và nhiệm vụ đón nhận và phân phát mọi ân huệ mà Thánh Thần tuôn đổ trên các tín hữu và các cộng đoàn khác nhau. Một số khía cạnh của thừa tác vụ Giám mục, bao gồm cả tiêu chí lựa chọn các ứng viên cho chức Giám mục, hiện đang được Nhóm Nghiên cứu số 7 xem xét.

39. Thừa tác vụ của các linh mục cũng nên được hiểu và sống theo ý nghĩa hiệp hành. Cụ thể, các linh mục “cùng với Giám mục của mình cấu thành nên linh mục đoàn” (LG 28) phục vụ cho phần Dân Chúa, đó là Giáo hội địa phương (x. CD 11). Điều này đòi hỏi chúng ta không coi Giám mục là người đứng ngoài hàng linh mục nhưng là người lãnh đạo Giáo hội địa phương, trước hết là người đứng đầu hàng linh mục của mình, trong đó ngài là người có có phẩm chất đặc biệt được kêu gọi để thực hiện việc quan tâm đặc biệt đến hàng linh mục của mình.

40. Các Giám mục và linh mục được phó tế hỗ trợ trong mối liên kết phụ thuộc lẫn nhau giữa hai loại thừa tác vụ cho việc thực hiện sứ vụ tông đồ. Các Giám mục và các linh mục không thể tự mình hoàn tất công việc mà không cần đến phó tế và ngược lại. Vì chức năng của các phó tế rất đa dạng - như truyền thống, lời cầu nguyện phụng vụ và thực hành sau Công đồng Vaticanô II cho thấy - chúng phải được liên kết với sự đặc thù và tính chất của từng Giáo hội địa phương. Trong mọi trường hợp, việc phục vụ của mỗi phó tế phải được quan niệm một cách hài hòa và hiệp thông với tất cả các phó tế khác, phù hợp với bản chất của thừa tác vụ phó tế và trong khuôn khổ sứ vụ trong một Giáo hội hiệp hành.

41. Ngoài việc thúc đẩy sự hiệp nhất trong Giáo hội địa phương, Giám mục Giáo phận hoặc Giám mục Giáo hội Đông phương, được hỗ trợ bởi các linh mục và phó tế, cũng chịu trách nhiệm về mối liên hệ với các Giáo hội địa phương khác và toàn thể Giáo hội quanh Giám mục Rôma trong sự trao đổi ân huệ lẫn nhau. Việc khôi phục mối liên kết truyền thống giữa việc là một Giám mục và việc lãnh đạo một Giáo hội địa phương là rất quan trọng, khôi phục sự tương hợp hiệp thông giữa các Giám mục (communio episcoporum) và hiệp thông các Giáo hội (communio Ecclesiarum).

Giữa các Giáo hội và trên thế giới: tính cụ thể của sự hiệp thông

42. Tinh thần hiệp hành được thực hiện qua sự đan xen giữa con người, cộng đoàn, đoàn thể và một loạt các quy trình cho phép sự trao đổi hiệu quả các ân huệ giữa các Giáo hội và một cuộc đối thoại truyền giáo với thế giới. Cùng đồng hành như những người đã chịu phép Rửa trong sự đa dạng của các đặc sủng, ơn gọi và thừa tác vụ, cũng như trong sự trao đổi ân huệ giữa các Giáo hội, là một dấu hiệu Bí tích quan trọng cho thế giới hôm nay; một mặt, đang trải nghiệm những hình thức kết nối ngày càng sâu sắc, mặt khác đang bị chìm đắm trong một nền văn hóa hưởng thụ mà trong đó gạt bỏ tính bất vụ lợi.

43. Theo Công đồng, chính nhờ tính Công giáo của Giáo hội mà “mỗi phần tử thực thi những đóng góp của riêng mình cho các phần tử khác và cho toàn thể Giáo hội” (LG 13), “giữa các thành phần khác nhau của Giáo hội còn có mối dây hiệp thông mật thiết, nhờ đó họ chia sẻ những ơn phúc thiêng liêng, những người làm việc tông đồ và những nguồn tài lực vật chất. Quả thật, mọi phần tử Dân Thiên Chúa được kêu gọi chia sẻ cho nhau những điều thiện ích, và lời nói sau đây của vị Tông đồ cũng có giá trị cho từng Giáo hội: ‘Ơn riêng Thiên Chúa đã ban, mỗi người trong anh em phải dùng mà phục vụ kẻ khác. Như vậy, anh em mới là những người khéo quản lý ân huệ thiên hình vạn trạng của Thiên Chúa’ (1Pr 4,10)” (sđd).

44. Thượng Hội đồng hy vọng rằng của cải sẽ được chia sẻ trong tinh thần liên đới giữa các Giáo hội làm nên Giáo hội Công giáo duy nhất và nên một, không vì tham vọng thống trị hay đòi hỏi quyền thống trị nào. Sự hiện hữu của những Giáo hội giàu có và những Giáo hội đang sống trong khó khăn là điều đáng xấu hổ và tai tiếng. Do đó, cần phải thiết lập các sắp xếp để thúc đẩy mối liên hệ lẫn nhau và tạo ra các mạng lưới hỗ trợ, bao gồm cả trong bối cảnh của các nhóm Giáo hội.

45. Tất cả các Giáo hội địa phương đón nhận và cho đi trong sự hiệp thông của Giáo hội duy nhất. Một số Giáo hội cần được hỗ trợ về tài chính và vật chất; những Giáo hội khác được phong phú hóa nhờ chứng tá đức tin sống động và việc phục vụ đầy yêu thương đối với những người nghèo nhất; vẫn còn những Giáo hội khác đặc biệt cần sự giúp đỡ của những người rao giảng Tin Mừng, những người chia sẻ cuộc sống của họ để truyền đạt Tin Mừng cho các dân tộc khác. Chúng tôi ghi nhận và kêu gọi đặc biệt lòng quảng đại của các linh mục, phó tế, tu sĩ, giáo dân (nam và nữ) tham gia vào sứ vụ đến với muôn dân [ad gentes].

46. Các Giáo hội địa phương bày tỏ mong muốn trao đổi các ân huệ thiêng liêng, phụng vụ và thần học cũng như mong muốn chia sẻ chứng tá nhiều hơn về các vấn đề xã hội có tầm quan trọng toàn cầu, chẳng hạn như việc chăm sóc ngôi nhà chung và các phong trào di cư. Về vấn đề này, một Giáo hội hiệp hành sẽ có thể làm chứng về tầm quan trọng của các giải pháp cho các vấn đề chung đang được giải quyết dựa trên việc lắng nghe tiếng nói của tất cả mọi người, đặc biệt là những nhóm, cộng đồng và quốc gia thường đứng bên lề các tiến trình toàn cầu quan trọng. Ngày nay, một chân trời đặc biệt hứa hẹn để hiện thực hóa các hình thức trao đổi hồng ân và phối hợp tham gia là chân trời của các khu vực địa lý siêu quốc gia rộng lớn, như vùng Amazon, lưu vực Congô, Địa Trung Hải hoặc các khu vực tương tự khác.

47. Một Giáo hội hiệp hành cũng được mời đặc biệt đọc từ góc độ trao đổi hồng ân, thực tế về sự di chuyển của con người, trở thành cơ hội gặp gỡ giữa các Giáo hội trong đời sống cụ thể hằng ngày của các thành phố và khu vực lân cận, các giáo xứ và giáo phận hoặc giáo phận đông phương, do đó góp phần tạo nền tảng cho con đường hiệp hành trong kinh nghiệm sống của các cộng đồng. Cần đặc biệt chú ý đến khả năng gặp gỡ và trao đổi hồng ân giữa các Giáo hội theo truyền thống Latinh và các Giáo hội Công giáo Đông phương ở hải ngoại, một chủ đề mà Nhóm Nghiên cứu Số 1 đang thực hiện.

48. Việc trao đổi hồng ân giữa các Giáo hội diễn ra trong bối cảnh bị đánh dấu bởi bạo lực, đàn áp và thiếu tự do tôn giáo; thực vậy, một số Giáo hội đấu tranh cho sự sống còn của chính mình và cầu xin sự liên đới với các Giáo hội khác, trong khi họ tiếp tục chia sẻ sự phong phú của mình, kết quả của cuộc đối đầu liên tục với sự chống đối Tin Mừng và cuộc bách hại ảnh hưởng đến các môn đệ của Chúa trong suốt lịch sử. Hơn nữa, việc trao đổi hồng ân diễn ra trong bối cảnh vẫn còn chịu ảnh hưởng của chủ nghĩa thực dân và chủ nghĩa thực dân mới chưa chấm dứt. Một Giáo hội phát triển trong việc thực hành tính hiệp hành được mời gọi hiểu tác động của những động lực xã hội này đối với việc trao đổi hồng ân và tìm kiếm sự biến đổi của chúng. Một phần nữa của sự dấn thân này là việc thừa nhận rằng nhiều Giáo hội đang mang trong mình ký ức bị tổn thương và cần phải thúc đẩy những con đường hòa giải cụ thể.

49. Khái niệm ‘trao đổi hồng ân’ có ý nghĩa đặc biệt trong mối tương giao với các Giáo hội và Cộng đồng Giáo hội khác. Thánh Gioan Phaolô II đã áp dụng ý tưởng này vào cuộc đối thoại đại kết: “Đối thoại không chỉ đơn giản là một cuộc trao đổi ý tưởng. Theo một cách nào đó, đối thoại luôn luôn là một sự ‘trao đổi hồng ân [commercium donorum]’” (UUS 28). Ngoài việc đối thoại thần học, việc trao đổi các hồng ân còn diễn ra trong việc chia sẻ lời cầu nguyện, qua đó chúng ta mở lòng đón nhận các hồng ân của các truyền thống tâm linh khác với truyền thống của chúng ta. Ngay cả gương sáng của các vị thánh nam nữ của các Giáo hội và Cộng đồng Giáo hội khác cũng là một món quà mà chúng ta có thể nhận được, bằng cách đưa việc tưởng nhớ các vị thánh đó vào lịch phụng vụ của chúng ta, đặc biệt là đối với các vị thánh tử đạo. Với suy nghĩ này, chúng ta phải quảng đại và tạo cơ hội cho các Kitô hữu khác đến hành hương và cầu nguyện tại các đền thánh và thánh địa được Giáo hội Công giáo trông coi.

50. Đối thoại giữa các tôn giáo và với các nền văn hóa không nằm ngoài tiến trình hiệp hành nhưng là một phần trong lời kêu gọi sống các mối tương giao gần gũi hơn, bởi vì: “Vào mọi thời và trong mọi dân tộc, bất kỳ ai kính sợ Thiên Chúa và thực thi đức chính trực đều được Người tiếp nhận” (LG, số 9). Do đó, việc trao đổi hồng ân không chỉ giới hạn ở các Giáo hội và Cộng đồng Giáo hội khác, bởi vì tính công giáo đích thực mở rộng chân trời và đòi hỏi sự sẵn sàng chào đón những yếu tố thúc đẩy sự sống, hòa bình, công lý và sự phát triển con người toàn diện hiện diện trong các nền văn hóa và truyền thống tôn giáo khác.

 

Phần II – Các lộ trình

Một Giáo hội hiệp hành là một Giáo hội có tương giao, trong đó các động lực liên bản vị tạo thành khuôn khổ đời sống của một cộng đồng truyền giáo, trong bối cảnh ngày càng phức tạp. Góc nhìn này không tách biệt mà cho phép chúng ta tạo mối liên kết giữa những trải nghiệm khác nhau. Nó cho phép chúng ta học hỏi từ thực tế bằng cách đọc lại nó dưới ánh sáng của Lời Chúa, từ Truyền thống, các chứng từ mẫu mực mang tính ngôn sứ, cũng như các lỗi lầm đã phạm phải.

Phần thứ hai nêu bật các tiến trình góp phần chăm sóc và phát triển các mối tương giao, đặc biệt là chiều kích kết hợp với Đức Kitô, nhằm hướng tới sứ vụ, và chiều kích hài hòa của đời sống cộng đồng, vốn đòi hỏi khả năng cùng nhau đối mặt với những xung đột và khó khăn. Phần này tập trung vào bốn lĩnh vực riêng biệt nhưng được liên kết sâu sắc trong đời sống của Giáo hội hiệp hành truyền giáo: đó là đào tạo, đặc biệt là đào tạo cách lắng nghe (Lời Chúa, anh chị em và tiếng nói của Chúa Thánh Thần) và đào tạo khả năng phân định. Điều này đòi hỏi và dẫn đến sự phát triển các phương pháp đưa ra quyết định có sự tham gia trong khi vẫn tôn trọng tính đa dạng của các vai trò khác nhau, với tính tuần hoàn nhằm thúc đẩy tính minh bạch và trách nhiệm giải trình, đồng thời tích hợp cả chiều kích đánh giá để khởi động lại việc phân định cần thực hiện với tầm nhìn về sứ vụ.

Nguồn mạch và đỉnh cao của động lực này là Bí tích Thánh Thể, đặt tình yêu nhưng không của Chúa Cha, qua Chúa Con và trong Chúa Thánh Thần vào cội nguồn của các mối tương giao. Lương thực duy trì một Giáo hội hiệp hành truyền giáo cũng là hiện thân của thông điệp mà Giáo hội muốn công bố cho thế giới.

Một sự đào luyện toàn diện và chia sẻ

51. “Mỗi người đã được rửa tội được mời gọi trao tặng những hồng ân của Chúa, làm cho những tài năng đã nhận được sinh hoa trái và dùng chúng để phục vụ mọi người” (SR 14a). Những lời này được lấy từ Báo cáo Tổng hợp của Khoá họp thứ nhất nhấn mạnh tầm quan trọng cốt yếu của việc đào tạo, một trong những chủ đề nổi lên mạnh mẽ và phổ quát nhất trong suốt tiến trình Thượng Hội đồng. Để trả lời câu hỏi “Làm thế nào để trở thành một Giáo hội hiệp hành trong sứ vụ?” thách thức lớn là ưu tiên thiết lập các khóa đào tạo mạch lạc, đặc biệt chú trọng đào tạo liên tục cho tất cả mọi người.

52. Đối với nhiều người, việc tham gia các cuộc họp Thượng Hội đồng là một cơ hội để rèn luyện sự hiểu biết và thực hành tính hiệp hành, một điều đã mạnh mẽ khơi dậy ước muốn hiểu rõ hơn về ý nghĩa của phẩm giá rửa tội hoặc về “cảm thức đức tin siêu nhiên” (LG 12), hồng ân này được Chúa Thánh Thần ban cho Dân Thiên Chúa. Do đó, nhu cầu đầu tiên là đào tạo sâu sắc hơn để chúng ta khám phá cách Chúa Thánh Thần hoạt động trong Giáo hội và nhận ra cách Người hướng dẫn Giáo hội qua dòng lịch sử.

53. Không có sứ vụ nào mà không có bối cảnh, không có Giáo hội nào mà không bén rễ ở một nơi chốn cụ thể, với những nét đặc trưng về văn hóa và những tình huống lịch sử của nó. Vì lý do này nên không thể chuẩn bị kế hoạch đào tạo một cách trừu tượng. Trách nhiệm xác định chúng thuộc về các Giáo hội địa phương và các nhóm của họ. Do đó, ở đây chúng tôi giới hạn ở việc đề xuất các định hướng chung và các nguyên tắc cơ bản cho việc đào tạo về tính hiệp hành, sau đó phải được điều chỉnh và thực hiện, có tính đến bối cảnh, văn hóa và truyền thống đặc thù của từng thực tại Giáo hội.

54. Một Giáo hội truyền giáo mang tính hiệp hành đặt cơ sở trên khả năng biết lắng nghe, điều này đòi hỏi phải thừa nhận rằng không ai có thể tự mình thực hiện sứ vụ của Giáo hội và mọi người đều có sự đóng góp để cống hiến và điều gì đó để học hỏi từ người khác. Vì vậy, việc đào luyện khả năng lắng nghe là một yêu cầu thiết yếu đầu tiên. Việc thực hành đối thoại trong Thánh Thần cho phép chúng ta trải nghiệm mối liên hệ sâu sắc giữa việc lắng nghe Lời Chúa và lắng nghe anh chị em. Năng động này dần dần mở ra cho việc nhận thức tiếng nói của Chúa Thánh Thần. Nhiều đóng góp nhận được nhấn mạnh tầm quan trọng cốt yếu của việc đào tạo theo phương pháp này. Giáo hội có nhiều phương pháp lắng nghe, đối thoại và phân định đa dạng, phát sinh từ các nền văn hóa và truyền thống tâm linh khác nhau. Điều quan trọng là phải thúc đẩy việc đào tạo về các phương pháp đa dạng này cũng như việc đối thoại giữa chúng trong bối cảnh địa phương. Điểm mấu chốt trong vấn đề này là lắng nghe những người trải qua nhiều hình thức nghèo đói và bị gạt ra ngoài lề xã hội. Nhiều Giáo hội địa phương cho biết họ cảm thấy chưa được chuẩn bị cho nhiệm vụ này và bày tỏ sự cần thiết phải đào tạo cụ thể. Đây là một trong những điểm được giao phó cho công việc của Nhóm Nghiên cứu số 2.

55. Mục tiêu của việc đào tạo theo quan điểm hiệp hành truyền giáo là khơi dậy những chứng nhân đích thực, những người nam nữ có khả năng đảm nhận sứ vụ của Giáo hội với tinh thần đồng trách nhiệm, được hướng dẫn bởi quyền năng của Chúa Thánh Thần (x. Cv 1,8). Do đó, việc đào tạo dựa trên tính năng động của việc khai tâm Kitô giáo, nhằm thúc đẩy trải nghiệm cá nhân gặp gỡ Chúa, bao gồm một quá trình liên tục hoán cải các thái độ, mối tương giao, não trạng và cơ cấu của chúng ta. Chủ thể của sứ vụ luôn là Giáo hội, và mỗi thành viên của Giáo hội là chứng nhân và là người loan báo ơn cứu độ nhờ Bí tích Rửa tội. Bí tích Thánh Thể, “nguồn mạch và chóp đỉnh của đời sống Kitô hữu” (LG 11), dường như là nơi nền tảng của việc đào tạo trong tính hiệp hành. Với tư cách là một cộng đồng sự sống và tình yêu, gia đình chiếm một vị trí đặc biệt trong việc giáo dục đức tin và thực hành Kitô giáo. Thông qua sự tương tác giữa các thế hệ, đây là một trường học thực sự về tính hiệp hành, mời gọi mọi người quan tâm đến người khác. Do đó, nó nhấn mạnh sự thật rằng tất cả mọi người – dù yếu hay mạnh, trẻ em, người trẻ hay người già – đều có nhiều thứ để nhận lãnh và nhiều thứ để trao ban.

56. Trong một Giáo hội hiệp hành, việc đào tạo phải mang tính toàn diện. Thật vậy, nó đi xa hơn việc đơn giản thu thập kiến thức hoặc kỹ năng, để trau dồi khả năng gặp gỡ, chia sẻ và hợp tác cũng như phân định chung. Do đó, cách tiếp cận toàn diện này phải thu hút mọi chiều kích của con người: trí tuệ, cảm xúc và tâm linh. Không chỉ đơn thuần là lý thuyết, việc đào tạo này phải bao gồm những kinh nghiệm cụ thể được hỗ trợ đầy đủ. Nó cũng phải bao gồm mối quan tâm đến kiến thức về các nền văn hóa trong đó các Giáo hội sống và hoạt động, và điều này phải bao gồm thực tế của nền văn hóa kỹ thuật số, vốn đã trở nên phổ biến ngày nay, đặc biệt là nơi giới trẻ. Về vấn đề này, công việc của nhóm nghiên cứu số 3 cũng được dành cho câu hỏi về văn hóa kỹ thuật số và thách thức đào tạo phù hợp trong lĩnh vực này.

57. Cuối cùng, cần nhấn mạnh đến nhu cầu đào tạo chung và chia sẻ, nghĩa là đào tạo quy tụ những người nam nữ, giáo dân, những người thánh hiến, các thừa tác viên có chức thánh và các ứng viên cho mục vụ thụ phong. Mục tiêu là thúc đẩy sự hiểu biết lẫn nhau và tôn trọng lẫn nhau, cũng như khả năng cộng tác. Đồng thời, phải đặc biệt chú ý đến việc thúc đẩy sự tham gia của phụ nữ vào các chương trình đào tạo, cùng với các chủng sinh, linh mục, tu sĩ và giáo dân. Việc phụ nữ tiếp cận các vị trí giảng dạy và đào tạo trong các phân khoa, học viện thần học và chủng viện cũng có tầm quan trọng cốt yếu. Người ta cũng đề nghị cung cấp chương trình đào tạo cụ thể cho các giám mục, linh mục và giáo dân về các sứ vụ mà phụ nữ đã có thể hoàn thành trong Giáo hội. Chúng ta cũng nên thúc đẩy việc đánh giá việc sử dụng hiệu quả những khả năng này trong mọi lĩnh vực của đời sống Giáo hội: các giáo xứ, giáo phận, hiệp hội giáo dân, các phong trào Giáo hội, các cộng đồng mới, đời sống thánh hiến, các tổ chức Giáo hội, cho đến Giáo triều Rôma. Nhóm nghiên cứu 4 được dành riêng cho công việc sửa đổi khóa đào tạo cho các ứng viên được thụ phong mục vụ (Ration Fundamentalis Institutionis Sacerdotalis) từ góc độ hiệp hành và truyền giáo. Nhu cầu từ khắp các châu lục liên quan đến việc đào tạo giảng dạy. Cuối cùng, đang nổi lên nhu cầu về việc đào tạo chung, cả về lý thuyết lẫn thực tiễn, về việc phân định cộng đoàn trong nội bộ và phù hợp với các bối cảnh địa phương khác nhau.

Sự phân định của Giáo hội đối với sứ vụ

58. Chúa Thánh Thần, Đấng khơi dậy vô số đặc sủng khác nhau, hướng dẫn Giáo hội hướng tới sự sống viên mãn và chân lý thần linh (x. Ga 10,10; 16,13). Nhờ sự hiện diện và hoạt động liên tục của Thánh Thần, “truyền thống bắt nguồn từ các tông đồ được tiến triển trong Giáo hội” (DV 8). Nhờ sự hướng dẫn của Chúa Thánh Thần, Dân Thiên Chúa, với tư cách là những người tham dự vào chức năng ngôn sứ của Đức Kitô (x. LG 12), “cố gắng phân định đâu là những dấu chỉ xác thực về sự hiện diện hoặc ý định của Thiên Chúa trong các biến cố, các nhu cầu và ước vọng mà họ đang dự phần cùng với những người đương thời” (GS 11). Nhiệm vụ phân định này của Giáo hội bắt nguồn từ cảm thức đức tin, được Chúa Thánh Thần linh hoạt, có thể được mô tả như “sự tinh tế” hay khả năng bản năng này của Dân Chúa, dưới sự hướng dẫn của các mục tử (x. LG 12), để “phân định những con đường mới mà Chúa mở ra cho Giáo hội” (Đức Phanxicô, Bài phát biểu nhân dịp kỷ niệm 50 năm thành lập Thượng Hội đồng Giám mục, ngày 17 tháng 10 năm 2015).

59. Sự phân định thu hút những người tham gia vào nó ở cấp độ cá nhân và cộng đồng, yêu cầu họ vun trồng những khuynh hướng tự do nội tâm, cởi mở với những điều mới mẻ và tin tưởng phó thác cho ý muốn của Thiên Chúa, cần thiết để lắng nghe nhau với mục đích lắng nghe “điều Thánh Thần phán với các Hội thánh” (Kh 2,7). Đức Maria, với sự hiện diện cầu nguyện của mình ở trung tâm cộng đoàn các tông đồ trong Nhà Tiệc Ly (x. Cv 1,14), đối với tất cả mọi người, là mẫu mực sống động và là người hướng dẫn để sống một nền linh đạo hiệp hành đích thực được đánh dấu bằng: kiên trì và có trách nhiệm lắng nghe Lời Chúa và suy gẫm phân định về các sự kiện (x. Lc 1,26-38; 2,19.51), quảng đại rộng mở đón nhận tác động của Chúa Thánh Thần (x. Lc 1,35), chia sẻ lời tạ ơn vì công trình của Thiên Chúa (x. Lc 1,39-56) và sự phục vụ cụ thể và đúng giờ của mỗi người (x. Ga 2,1-12) mà Đức Giêsu giao phó cho sự chăm sóc từ mẫu của Mẹ (x. Ga 19,25-27).

60. Chính trong mức độ mà mỗi người được yêu cầu chia sẻ quan điểm của mình từ quan điểm của sứ vụ chung mà một tiến trình phân định thể hiện một cách cụ thể sự hiệp thông, sứ vụ và sự tham gia. Nói cách khác, đó là một cách cùng nhau bước đi. Đây là lý do tại sao điều quan trọng là phải thúc đẩy sự tham gia rộng rãi vào các tiến trình phân định chung, đặc biệt chú ý đến sự tham gia của những người đang ở bên lề cộng đồng Kitô giáo và xã hội.

61. Việc lắng nghe Lời Chúa là điểm khởi đầu và tiêu chuẩn quy chiếu cho mọi sự phân định của Giáo hội. Kinh thánh là tiêu biểu chứng tá tuyệt hảo cho việc Thiên Chúa giao tiếp với nhân loại. Họ làm chứng rằng Thiên Chúa đã nói với dân Người và tiếp tục nói với họ, đồng thời chỉ ra những kênh khác nhau để thực hiện việc giao tiếp này. Thiên Chúa nói với chúng ta qua việc suy niệm Kinh thánh cá nhân, trong đó vang vọng “điều gì đó” trong văn bản Kinh thánh mà chúng ta cầu nguyện. Thiên Chúa nói với cộng đoàn trong phụng vụ, nơi giải thích tuyệt hảo những gì Chúa nói với Giáo hội của Người. Thiên Chúa cũng nói qua Giáo hội của Người, là Hiền mẫu và là Tôn sư, qua truyền thống sống động và các thực hành của Giáo hội, bao gồm cả những điều đạo đức bình dân. Thiên Chúa tiếp tục lên tiếng qua các biến cố trong không gian và thời gian, miễn là chúng ta biết cách nhận ra ý nghĩa của chúng. Hơn nữa, Thiên Chúa giao tiếp với Dân Người qua thế giới tự nhiên, chính sự tồn tại của nó hướng chúng ta đến công trình của Đấng Tạo Hóa, tràn đầy sự hiện diện của Chúa Thánh Thần, Đấng ban sự sống. Cuối cùng, Thiên Chúa lên tiếng trong lương tâm của mỗi người, “lương tâm là nơi tận cùng sâu kín nhất, là cung thánh của lòng người, nơi đây chỉ còn một mình con người với Thiên Chúa, Đấng đang lên tiếng trong thâm tâm con người” (GS 16). Một sự phân định đích thực không thể bỏ qua bất kỳ kênh truyền thông thánh thiêng nào.

62. Sự phân định cộng đồng không phải là một kỹ thuật tổ chức, nhưng là một thực hành đòi hỏi khắt khe nhằm đánh giá đời sống và sứ vụ của Giáo hội sống trong Chúa Kitô và trong Chúa Thánh Thần. Vì lý do này, nó phải luôn được thực hiện với ý thức và mong muốn được quy tụ họp nhân danh Chúa Giêsu (x. Mt 18,20) để lắng nghe tiếng Chúa Thánh Thần. Như Chúa Giêsu đã hứa, chỉ có Thánh Thần mới có thể hướng dẫn Giáo hội trên con đường dẫn đến sự sống và sự thật trọn vẹn (x. Ga 16,13), từ đó đưa ra câu trả lời cho một thế giới đang tìm kiếm ý nghĩa. Phương pháp mà Dân Chúa sống cuộc hành trình loan báo và làm chứng cho Tin Mừng của mình bắt nguồn từ đây. Do đó, ưu tiên hàng đầu là học cách thực hành ở mọi cấp độ nghệ thuật truyền giáo vốn đã cho phép cộng đoàn các tông đồ ở Giêrusalem đánh dấu kết quả của sự kiện Thượng Hội đồng đầu tiên trong lịch sử Giáo hội bằng những lời này: “Thánh Thần và chúng tôi đã quyết định không đặt lên vai anh em một gánh nặng nào khác ngoài những điều cần thiết này” (Cv 15,28). Theo tinh thần này, việc thực hành đời sống truyền giáo hiệp hành của Giáo hội tại các nơi chốn, các tổ chức và các sự kiện cụ thể phải được sắp xếp lại và định hướng lại.

63. Các lựa chọn thủ tục cụ thể, dù đa dạng, phải phù hợp với các yêu cầu của phương pháp thần học cơ bản của hiệp hành. Dựa trên kinh nghiệm của tiến trình hiệp hành, có thể xác định một số yếu tố chính, bao gồm nhu cầu về: a) đời sống cầu nguyện cá nhân và cầu nguyện cộng đồng, bao gồm cả việc tham dự Bí tích Thánh Thể; b) sự chuẩn bị đầy đủ về mặt cá nhân cũng như cộng đồng, dựa trên việc lắng nghe Lời Chúa và thực tế; c) tôn trọng và lắng nghe sâu sắc lời nói của mỗi người; d) việc tìm kiếm sự đồng thuận rộng rãi nhất có thể, không phải bằng cách tìm ra mẫu số chung thấp nhất, mà bằng cách tràn ngập, nhắm đến điều “làm con tim bừng cháy” nhất (x. Lc 24,32); e) mặc dù sự đồng thuận được những người tiến hành quy trình đưa ra nhưng nó phải được gửi lại cho tất cả những người tham gia. Nhiệm vụ của họ là xác nhận công thức này hoặc cho biết liệu họ có cảm thấy không được công nhận trong công thức này hay không.

64. Việc phân định luôn diễn ra “với đôi chân của chúng ta trên mặt đất”, nghĩa là trong một bối cảnh cụ thể, mà những phức tạp và đặc thù của nó phải được hiểu rõ nhất có thể. Do đó, nó sẽ chỉ có thể được hưởng lợi từ sự đóng góp của việc phân tích các ngành khoa học nhân văn, xã hội và hành chính khác nhau có liên quan đến vấn đề đang được đề cập. Điều này không có nghĩa là chuyên môn khoa học và kỹ thuật là người quyết định cuối cùng – cách tiếp cận như vậy sẽ tạo nên sự trôi dạt mang tính kỹ trị. Đúng hơn, mục đích là “để cung cấp nền tảng cụ thể cho hành trình đạo đức và tâm linh sau này” (LS 15). Do đó, điều quan trọng là phải tích hợp sự đóng góp thiết yếu này mà không tạo cho nó sự vượt trội quá mức so với các khía cạnh khác.

65. Có rất nhiều cách tiếp cận và phương pháp phân định phong phú trong Giáo hội. Sự đa dạng này là một lợi thế: với sự thích ứng phù hợp với các bối cảnh khác nhau, tất cả các phương pháp tiếp cận này đều có thể mang lại hiệu quả. Vì lợi ích chung, điều quan trọng là họ có thể đối thoại thân tình với nhau, bảo tồn những nét đặc trưng của mình mà không đóng băng căn tính của mình. Hiệu quả của cuộc đối thoại trong Thánh Thần, được thể hiện ở mọi giai đoạn của tiến trình hiệp hành, mời gọi chúng ta coi hình thức phân định đặc biệt này của Giáo hội là thực sự thích nghi với việc thực thi tính hiệp hành.

66. Trong các Giáo hội địa phương, điều cơ bản là cung cấp các cơ hội đào tạo nhằm phổ biến và nuôi dưỡng nền văn hóa phân định, đặc biệt đối với những người ở các vị trí có trách nhiệm. Điều quan trọng không kém là việc đào tạo những người hướng dẫn hoặc điều phối viên, những người mà sự đóng góp của họ thường tỏ ra mang tính quyết định trong việc thực hiện các tiến trình phân định. Công việc của Nhóm Nghiên cứu số 9, dành riêng cho việc chuẩn bị các tiêu chí thần học và các phương pháp hiệp hành để phân định chung các vấn đề giáo lý, mục vụ và luân lý còn đang gây tranh cãi, đó cũng là một phần của phương pháp này.

Các tiến trình đưa ra quyết định

67. “Trong Giáo hội hiệp hành, toàn thể cộng đồng, trong sự đa dạng tự do và phong phú của các thành viên, được mời gọi cùng nhau cầu nguyện, lắng nghe, phân tích, đối thoại, phân định và tư vấn để đưa ra các quyết định mục vụ phù hợp hơn với thánh ý Thiên Chúa” (ITC, số 68). Hơn cả một phân tích chuyên sâu, tuyên bố này cần phải được thực hiện cụ thể. Sự tham gia của tất cả mọi người vào quá trình đưa ra quyết định dường như là cách hiệu quả nhất để thúc đẩy một Giáo hội hiệp hành thực sự. Sự tham gia này diễn ra trên cơ sở trách nhiệm khác biệt, tôn trọng từng thành viên trong cộng đồng và nâng cao khả năng cũng như năng khiếu của họ theo quyết định chung.

68. Để tạo điều kiện thuận lợi cho việc thực hiện, có vẻ phù hợp khi xem xét cấu trúc của quá trình ra quyết định. Việc này thường bao gồm một giai đoạn xây dựng hoặc hướng dẫn (thuật ngữ tiếng Anh [ra quyết địnhdecision-making] cũng được sử dụng trong các ngôn ngữ khác) “thông qua việc cùng nhau thực hiện sự phân định, tham vấn, hợp tác” (ITC, số 69), cung cấp thông tin và hỗ trợ việc đưa ra quyết định tiếp theo, thuộc về cơ quan có thẩm quyền (ví dụ, trong một Giáo phận hoặc Giáo tỉnh [eparchy: theo Đông phương], Giám mục). Hai giai đoạn này không đối lập nhau nhưng phối hợp với nhau để giúp đảm bảo rằng các quyết định được đưa ra càng phù hợp với ý muốn của Thiên Chúa càng tốt: “Giải quyết mọi việc xây dựng là một nhiệm vụ mang tính hiệp hành; quyết định là trách nhiệm thuộc về thừa tác vụ” (sđd).

69. Trong nhiều trường hợp, Giáo luật hiện hành đã quy định rằng cơ quan có thẩm quyền phải tiến hành tham vấn trước khi đưa ra quyết định. Cuộc tham vấn này của Giáo hội vượt xa việc lắng nghe đơn thuần, nó buộc nhà chức trách không được tiến hành như thể cuộc tham vấn này chưa hề diễn ra. Mặc dù thẩm quyền vẫn tự do có quan điểm pháp lý, vì ý kiến tư vấn không mang tính ràng buộc, nhưng không nên đi chệch khỏi quan điểm đó nếu không có lý do thuyết phục (sine praevalentiratione; CIC, Giáo luật, điều 127, triệt 2,2°). Làm khác đi sẽ có nguy cơ cô lập quyền lực của nhóm khỏi những người được hỏi ý kiến, do đó làm tổn hại đến mối liên kết gắn kết họ. Trong Giáo hội, việc thực thi quyền bính không bao gồm việc áp đặt ý muốn cá nhân một cách độc đoán, nhưng là thực thi thừa tác vụ nhằm phục vụ sự hiệp nhất của dân Chúa, bằng cách tạo điều kiện cho việc cùng nhau tìm kiếm điều Chúa Thánh Thần soi dẫn.

70. Trong một Giáo hội hiệp hành, trách nhiệm của vị Giám mục, Giám mục đoàn và Giáo chủ Rôma [roman pontiff] trong việc đưa ra các quyết định là bất khả tước bỏ, vì nó bắt nguồn từ cơ cấu phẩm trật của Giáo hội do chính Chúa Kitô thiết lập. Tuy nhiên, các quyết định đó không phải là vô điều kiện: không thể bỏ qua sự hướng dẫn nảy sinh từ quá trình tham vấn, kết quả của sự phân định thích hợp, đặc biệt nếu nó xuất phát từ các cơ quan tham gia của Giáo hội địa phương. Mục tiêu của sự phân định của các Thượng Hội đồng Giáo hội không phải là các giám mục phục tùng trước tiếng nói của dân chúng, cũng không phải hợp pháp hóa các quyết định đã được ấn định trước, mà là đi đến một quyết định chung thông qua sự vâng theo Chúa Thánh Thần soi dẫn. Do đó, bất kỳ sự đối lập nào giữa tham vấn và thảo luận đều không thỏa đáng: trong Giáo hội, việc thảo luận diễn ra với sự giúp đỡ của tất cả mọi người, không bao giờ thiếu thẩm quyền mục vụ đưa ra các quyết định theo chức vụ của mình. Vì lý do này, công thức lặp đi lặp lại trong Bộ Giáo luật, vốn nêu ra những lố ‘chỉ việc bỏ phiếu tham vấn’ (tantum Consultantivum), đã làm giảm giá trị của việc tham vấn và cần phải được tu chính thêm.

71. Trách nhiệm của các Giáo hội địa phương là thực hiện các tiến trình đưa ra quyết định mang tính hiệp hành một cách đích thực, phù hợp với đặc điểm của các bối cảnh khác nhau. Nhiệm vụ này rất quan trọng và cấp bách, bởi vì sự thành công của việc thực hiện Thượng Hội đồng phần lớn phụ thuộc vào điều đó. Nếu không có những thay đổi cụ thể, tầm nhìn về một Giáo hội hiệp hành sẽ không đáng tin cậy, điều này sẽ khiến những thành viên Dân Chúa xa lánh, những người đã tìm được sức mạnh và niềm hy vọng từ con đường hiệp hành. Điều này đặc biệt áp dụng cho vấn đề sự tham gia hiệu quả của phụ nữ vào quá trình soạn thảo và ra quyết định, theo yêu cầu của nhiều đóng góp từ các Hội đồng Giám mục.

72. Cuối cùng, điều cần thiết là phải đảm bảo rằng những người tham gia quá trình tham vấn, phân định cộng đồng hoặc đưa ra quyết định của Hội đồng, đòi hỏi những người tham gia phải có quyền truy cập thực sự vào tất cả các thông tin liên quan để họ có thể đưa ra ý kiến sáng suốt. Trách nhiệm của cơ quan là người khởi xướng quy trình nhằm đảm bảo thông tin minh bạch này. Các tiến trình ra quyết định thực sự của hiệp hành đòi hỏi mức độ minh bạch thích hợp. Tương tự như vậy, điều quan trọng là phải nhận ra sự phức tạp của nhiệm vụ và trách nhiệm đặc biệt của những người bày tỏ ý kiến của mình trong một cuộc tham vấn.

Tính minh bạch, trách nhiệm giải trình và đánh giá

73. Một Giáo hội hiệp hành đòi hỏi cả văn hóa lẫn thực hành minh bạch và trách nhiệm giải trình (“accountability” một thuật ngữ tiếng Anh cũng được sử dụng trong các ngôn ngữ khác), là những điều cần thiết để thúc đẩy sự tin tưởng lẫn nhau cần thiết để cùng nhau bước đi và thực thi đồng trách nhiệm vì sứ vụ chung. Trong Giáo hội, việc thực hiện trách nhiệm giải trình chủ yếu không đáp ứng các nhu cầu mang tính xã hội và tổ chức. Đúng hơn, nền tảng của nó được tìm thấy ngay trong bản chất của Giáo hội như là một mầu nhiệm hiệp thông.

74. Trong Tân Ước, chúng ta thấy những thực hành về trách nhiệm giải trình trong đời sống của Giáo hội sơ khai có liên quan đáng kể đến việc bảo vệ sự hiệp thông của Giáo hội, sách Công vụ Tông đồ, chương 11,cung cấp cho chúng ta một ví dụ về điều này: “Khi ông Phêrô lên Giêrusalem, các người thuộc giới cắt bì chỉ trích ông, họ nói: ‘Ông đã vào nhà những kẻ không cắt bì và cùng ăn uống với họ!’” (Cv 11,2-3). Phêrô đáp lại bằng cách bày tỏ lý do đằng sau hành động của mình. Do đó, trách nhiệm giải trình về mục vụ của mình trước cộng đồng thuộc về truyền thống lâu đời nhất của Giáo hội, có từ thời các tông đồ. Thần học Kitô giáo về quản lýđưa ra một khuôn khổ để hiểu việc thực thi quyền lực và phản ánh tình hình về tính minh bạch và trách nhiệm giải trình.

75. Trong thời đại chúng ta, nhu cầu về sự minh bạch và trách nhiệm giải trình trong và ngoài Giáo hội đã xuất hiện do sự mất uy tín do các vụ bê bối tài chính, và thậm chí còn hơn thế nữa, đó là lạm dụng tình dục, và các lạm dụng khác đối với trẻ vị thành niên cũng như những người dễ bị tổn thương. Sự thiếu minh bạch và trách nhiệm giải trình đã thúc đẩy chủ nghĩa giáo sĩ trị, vốn dựa trên giả định ngầm rằng các thừa tác viên chức thánh không phải chịu trách nhiệm trước bất kỳ ai về việc thực thi thẩm quyền được giao cho họ.

76. Để Giáo hội có tính hiệp hành thực sự được chào đón, trách nhiệm giải trình và tính minh bạch phải là trọng tâm của hành động ở mọi cấp độ chứ không chỉ ở cấp độ thẩm quyền. Tuy nhiên, những người có thẩm quyền phải chịu trách nhiệm lớn hơn trong vấn đề này. Tính minh bạch và trách nhiệm giải trình không chỉ giới hạn ở lĩnh vực lạm dụng tình dục và tham ô tài chính. Chúng cũng phải liên quan đến các kế hoạch mục vụ, các phương pháp truyền giáo và cách thức Giáo hội tôn trọng phẩm giá con người, chẳng hạn liên quan đến điều kiện làm việc trong các tổ chức của mình.

77. Nếu việc thực hành trách nhiệm giải trình đối với bề trên đã được bảo tồn qua nhiều thế kỷ, thì chiều kích trách nhiệm giải trình đối với cộng đồng về phía chính quyền cũng phải được tái khám phá. Tính minh bạch phải là một đặc điểm của việc thực thi quyền bính trong Giáo hội. Ngày nay, các cơ cấu và hình thức đánh giá thường xuyên việc thực thi mọi trách nhiệm mục vụ là cần thiết. Đánh giá, được hiểu theo nghĩa phi đạo đức, cho phép các bộ trưởng thực hiện những điều chỉnh kịp thời, đồng thời thúc đẩy sự phát triển và khả năng cung cấp dịch vụ tốt hơn của họ.

78. Ngoài việc tôn trọng các quy tắc Giáo luật hiện hành liên quan đến các tiêu chí và cơ chế kiểm soát, trách nhiệm của các Giáo hội địa phương và đặc biệt là các nhóm của họ (các Hội đồng Giám mục và các cơ cấu phẩm trật Giáo hội Đông phương) là phát triển các hình thức và thủ tục hiệu quả về tính minh bạch và trách nhiệm giải trình. Những điều này phải được điều chỉnh phù hợp với bối cảnh, có tính đến khung pháp lý dân sự, kỳ vọng của xã hội và chuyên môn sẵn có trong lĩnh vực này. Tuy nhiên, ngay cả khi các nơi nguồn lực bị hạn chế, Giáo hội sẽ nỗ lực phát triển công việc, đạo đức và tâm lý của mình hướng tới sự minh bạch hơn và một nền văn hóa có trách nhiệm giải trình.

79. Đặc biệt, bằng những hình thức phù hợp với từng bối cảnh, dường như cần phải đảm bảo ít nhất là: a) hoạt động hiệu quả của các Hội đồng về các vấn đề kinh tế; b) sự tham gia hiệu quả của Dân Chúa, đặc biệt là những thành viên có năng lực nhất, vào việc hoạch định mục vụ và kinh tế; c) việc chuẩn bị và xuất bản (có thể tiếp cận thực tế) một bản báo cáo tài chính hàng năm, được các kiểm toán viên bên ngoài chứng nhận càng nhiều càng tốt, giúp minh bạch hóa việc quản lý tài sản và các nguồn tài chính của Giáo hội và các tổ chức của Giáo hội; d) báo cáo hàng năm về việc thực hiện nhiệm vụ, bao gồm minh họa về các sáng kiến được thực hiện trong lĩnh vực bảo vệ(bảo vệ trẻ vị thành niên và những người dễ bị tổn thương) và thúc đẩy sự tiếp cận của phụ nữ với các vị trí quyền lực và sự tham gia của họ vào quá trình ra quyết định và thực hiện; và e) các thủ tục đánh giá định kỳ về việc thực hiện của những người thực hiện bất kỳ hình thức mục vụ nào và nắm giữ bất kỳ vị trí nào trong Giáo hội. Đây là những điểm có tầm quan trọng và cấp bách lớn đối với tính đáng tin cậy của tiến trình hiệp hành và việc thực hiện nó.

 

Phần III – Các nơi chốn

Đời sống hiệp hành truyền giáo của Giáo hội, những mối tương giao sống động mà nó cấu thành, và những con đường giúp nó phát triển, không nên bỏ qua tính cụ thể và đặc thù của một “nơi chốn”, nghĩa là, Giáo hội được đặt trong một bối cảnh và văn hóa nhất định. Phần III mời gọi chúng ta vượt qua quan điểm tĩnh tại về các địa điểm sắp xếp chúng theo cấp độ hoặc cấp độ liên tiếp theo mô hình kim tự tháp (tức là Giáo xứ, hiệu trưởng, Giáo phận hoặc Giáo phận, tỉnh Giáo hội, Hội đồng Giám mục hoặc cơ cấu phẩm trật Đông phương và Giáo hội hoàn vũ). Đây chưa bao giờ là tầm nhìn của chúng tôi. Mạng lưới các mối tương giao và trao đổi hồng ân giữa các Giáo hội luôn được đan xen như một mạng lưới các mối tương giao chứ không phải được coi là tuyến tính về mặt hình thức. Họ quy tụ lại trong mối dây hiệp nhất mà Đức Giáo hoàng Rôma là nguyên lý và nền tảng vĩnh viễn và hữu hình. Theo nghĩa này, tính công giáo của Giáo hội chưa bao giờ trùng hợp với chủ nghĩa phổ quát trừu tượng. Hơn nữa, trong bối cảnh quan niệm về không gian đang thay đổi nhanh chóng, việc hạn chế hoạt động của Giáo hội trong những ranh giới thuần túy không gian sẽ giam cầm Giáo hội trong tình trạng bất động chết người và tạo ra tình trạng dư thừa mục vụ đáng lo ngại, khiến Giáo hội không có khả năng tiếp cận được những bộ phận dân cư năng động nhất, đặc biệt là tầng lớp dân chúng. trẻ. Thay vào đó, các địa điểm phải được hiểu từ góc độ phụ thuộc lẫn nhau, điều này trở nên cụ thể trong các mối tương giao giữa các Giáo hội và các nhóm mà chúng hình thành, mang lại sự thống nhất về ý nghĩa. Việc phục vụ hiệp nhất, vốn là trách nhiệm của Giám mục Rôma và Giám mục đoàn trong sự hiệp thông với Người, phải tính đến quan điểm này và tìm ra những hình thức tổ chức thích hợp cần thiết để thực hiện nó.

Các địa hạt [giáo xứ, giáo hạt] là nơi để cùng nhau bước đi

80. “Kính gửi Hội thánh của Thiên Chúa tại Côrintô...” (1Cr 1,2). Việc loan báo Tin Mừng, bằng cách đánh thức đức tin trong tâm hồn con người, khiến một Giáo hội được thành lập tại một nơi chốn. Không thể hiểu được Giáo hội nếu không bám rễ vào một nơi chốn và một nền văn hóa, cũng như không có những mối tương giao được thiết lập giữa các nơi chốn và các nền văn hóa. Nhấn mạnh tầm quan trọng của nơi chốn không có nghĩa là nhượng bộ chủ nghĩa đặc thù hay chủ nghĩa tương đối, nhưng nâng cao tính cụ thể trong đó, trong không gian và thời gian, một kinh nghiệm chung về việc gắn bó với sự biểu hiện của Thiên Chúa Ba Ngôi cứu độ được hình thành. Chiều kích của nơi chốn bảo tồn tính đa dạng của các hình thức trải nghiệm này và nguồn gốc của chúng trong các bối cảnh văn hóa và lịch sử cụ thể. Sự đa dạng của các truyền thống phụng vụ, thần học, thiêng liêng và kỷ luật chứng tỏ sự đa dạng này làm phong phú và làm cho Giáo hội trở nên đẹp đẽ biết bao. Sự hiệp thông của các Giáo hội, với tính cụ thể địa phương của mình, thể hiện sự hiệp thông của các tín hữu trong Giáo hội duy nhất và duy nhất, tránh bay hơi thành một chủ nghĩa phổ quát trừu tượng và đồng nhất.

81. Tính đa nguyên của các nền văn hóa và hoa trái của cuộc gặp gỡ và đối thoại giữa chúng là một điều kiện của đời sống Giáo hội, một biểu hiện chứ không phải là một mối đe dọa đối với tính công giáo của Giáo hội. Sứ điệp cứu độ vẫn là một và giống nhau: “Chỉ có một thân thể, một Thần Khí, cũng như anh em đã được kêu gọi để chia sẻ cùng một niềm hy vọng. Chỉ có một Chúa, một niềm tin, một phép rửa. Chỉ có một Thiên Chúa, Cha của mọi người, Đấng ngự trên mọi người, qua mọi người và trong mọi người” (Ep 4,4-6). Sứ điệp này có số nhiều và được thể hiện ở sự đa dạng của các dân tộc, văn hóa, truyền thống và ngôn ngữ. Việc thực hiện nghiêm túc nhiều hình thức này cho phép chúng ta tránh được những tham vọng bá quyền và nguy cơ giản lược sứ điệp Cứu độ thành một cách giải thích nguyên khối về đời sống Giáo hội, các thực hành phụng vụ, mục vụ hoặc luân lý. Trong một Giáo hội hiệp hành, một mạng lưới các mối tương giao năng động được dệt nên, được thể hiện rõ ràng qua việc trao đổi hồng ân lẫn nhau giữa các Giáo hội. Mối liên kết này, được bảo đảm bởi sự hiệp nhất của Giám mục đoàn dưới sự lãnh đạo của Giám mục Rôma, đóng vai trò như người bảo vệ cảnh giác cho một sự hiệp nhất không bao giờ có nghĩa là đồng nhất.

82. Ngày nay, trải nghiệm về cội nguồn lãnh thổ phải đối mặt với những điều kiện văn hóa xã hội làm biến đổi nó một cách sâu sắc. Khái niệm nơi chốn không còn có thể được hiểu chỉ thuần túy theo thuật ngữ địa lý và không gian nữa; giờ đây nó gợi lên sự thuộc về một mạng lưới các mối tương giao và một nền văn hóa mà việc neo giữ lãnh thổ của nó năng động và linh hoạt hơn trước. Sự tiến triển này không thể không đặt lại câu hỏi về các hình thức tổ chức của Giáo hội được cấu trúc trên cơ sở một quan niệm khác về nơi chốn địa điểm, và đòi hỏi việc áp dụng các tiêu chí khác biệt, nhưng không mâu thuẫn, để thể hiện chân lý duy nhất trong đời sống con người.

83. Đô thị hóa là một trong những động lực chính của sự thay đổi này: ngày nay, lần đầu tiên trong lịch sử loài người, phần lớn dân số thế giới sống ở thành thị thay vì nông thôn. Cảm giác thuộc về một nơi chốn có những hình thức khác nhau trong bối cảnh đô thị, nơi mà các ranh giới cấu trúc một địa phương được hình thành theo một cách khác. Ở các thành phố lớn, chỉ cần một vài trạm dừng tàu điện ngầm là đủ để vượt qua biên giới không phải chỉ của Giáo xứ mà còn của Giáo phận: một hành trình mà nhiều người thực hiện nhiều lần trong cùng một ngày. Cuộc sống của họ thường diễn ra ở những nơi khác nhau trong Giáo hội.

84. Yếu tố quan trọng thứ hai là sự gia tăng khả năng di chuyển của con người trong một thế giới toàn cầu hóa hiện nay, được thúc đẩy bởi nhiều lý do khác nhau. Người tị nạn và người di cư thường hình thành các cộng đồng năng động, bao gồm cả việc thực hành tôn giáo của họ, do đó khiến nơi họ định cư trở nên đa văn hóa. Đồng thời, họ duy trì mối liên kết chặt chẽ với quê hương, đặc biệt nhờ vào phương tiện truyền thông kỹ thuật số. Do đó, họ trải nghiệm sự thuộc về nhiều mặt về địa lý, văn hóa và ngôn ngữ. Về phần mình, các cộng đồng nguyên thủy đang trải qua sự suy giảm về số lượng, đôi khi đến mức biến mất, mặt khác, lại mở rộng cơ cấu tương giao của họ trên quy mô toàn cầu. Như đã được đề cập trong Khoá họp thứ nhất, tình hình của một số Giáo hội Công giáo Đông phương là biểu tượng của hiện tượng này: với tỷ lệ di cư hiện tại, số thành viên của họ ở cộng đồng hải ngoại có thể sớm đông hơn số người ở lại sống trong các vùng lãnh thổ theo giáo luật (x. SR 6c). Trong mọi trường hợp, việc xác định địa điểm theo thuật ngữ địa lý thuần túy sẽ ngày càng trở nên lỗi thời. Nhóm Nghiên cứu 1 được kêu gọi suy tư về những thách thức mà vấn đề này đặt ra đối với mối tương giao giữa các Giáo hội Công giáo Đông phương tự trị biệt lập [Sui Iuris] và Giáo hội Latinh.

85. Cuối cùng, chúng ta không thể bỏ qua sự lan rộng của văn hóa môi trường kỹ thuật số, đặc biệt là nơi giới trẻ. Nó có ảnh hưởng sâu sắc đến nhận thức của họ về không gian và thời gian, cũng như đến cách họ sống mọi hoạt động hằng ngày, giao tiếp và các mối tương giao giữa các cá nhân, và thậm chí cả đức tin. Không phải ngẫu nhiên mà Khoá họp thứ nhất nhấn mạnh rằng “do đó, văn hóa kỹ thuật số không phải là một lĩnh vực truyền giáo riêng biệt như một chiều kích quan trọng của chứng tá của Giáo hội trong xã hội đương đại” (SR 17b). Công việc của Nhóm Nghiên cứu số 3 được dành riêng cho thách thức này.

86. Những sự phát triển về xã hội và văn hóa này đòi hỏi Giáo hội phải suy nghĩ lại về ý nghĩa của chiều kích địa phương, nhằm phục vụ sứ vụ của mình tốt hơn. Trong khi thừa nhận sự gắn kết không thể phủ nhận của cuộc sống trong các bối cảnh vật chất và trong các nền văn hóa cụ thể, cần phải vượt ra ngoài cách giải thích thuần túy không gian về khái niệm nơi chốn: những địa điểm, ngay cả và đặc biệt là những địa điểm của Giáo hội, không chỉ là những không gian mà còn là những môi trường và mạng lưới trong đó các mối tương giao có thể phát triển, mang lại cho con người cội nguồn và nền tảng cho sứ vụ mà họ sẽ thực hiện ở bất cứ nơi nào cuộc sống của họ diễn ra. Việc hoán cải tâm trí và trái tim có tính hiệp hành phải đi kèm với một cuộc cải cách hiệp hành về các nơi chốn trong Giáo hội, được kêu gọi trở thành những con đường để cùng nhau bước đi. Tuy nhiên, điều này không có nghĩa là giao phó hoạt động mục vụ cho các tổ chức được bầu chọn. Mục đích là để gặp gỡ mọi người nam nữ.

87. Cuộc cải cách này phải được tiến hành dựa trên sự hiểu biết về Giáo hội là Dân thánh của Thiên Chúa, được thể hiện rõ ràng trong sự hiệp thông của các Giáo hội (communio Ecclesiarum)Kinh nghiệm đã cho chúng ta thấy rằng việc phát động tiến trình hiệp hành trong các Giáo hội địa phương không làm tổn hại đến sự hiệp nhất của toàn thể Giáo hội mà đúng hơn là thể hiện tính đa dạng và tính phổ quát của Dân Chúa (x. LG 22). Nó cũng không gây nguy hiểm mà trái lại còn tăng cường việc thực thi thừa tác vụ hiệp nhất của Giám mục Rôma. Chúng ta không bắt đầu nghĩ về Giáo hội từ những thể chế của Giáo hội. Thật vậy, những điều này phải được xem xét lại theo logic của công việc phục vụ truyền giáo, kể cả những công việc ở cấp độ cao nhất.

88. Xét thừa tác vụ của Giám mục Rôma là nguyên tắc hữu hình cho sự hiệp nhất của toàn thể Giáo hội và của mỗi Giám mục là nguyên tắc hợp nhất hữu hình trong Giáo hội địa phương của mình, Công đồng có thể nói rằng Giáo hội, Nhiệm thể Chúa Kitô, cũng là một tập thể của các Giáo hội, trong và từ đó tồn tại một Giáo hội Công giáo duy nhất (x. LG 23). Cơ quan này bao gồm: a) các Giáo hội riêng lẻ như những phần tử của Dân Chúa, mỗi Giáo hội được ủy thác cho một giám mục; b) các nhóm Giáo hội, trong đó các trường hợp hiệp thông trước hết được đại diện bởi các cơ quan phẩm trật; và c) toàn thể Giáo hội (Ecclesia tota), nơi Giáo hội với tư cách là sự hiệp thông của các Giáo hội được thể hiện bởi Giám mục đoàn tập hợp xung quanh Giám mục Rôma trong mối liên kết giữa giám mục (cum Petro) và hiệp thông phẩm trật (sub Petro)Việc cải cách các tổ chức Giáo hội không thể không tuân theo sự trình bày có trật tự này của Giáo hội .

Các Giáo hội địa phương trong một Giáo hội Công giáo duy nhất

89. Giáo hội địa phương, về bản chất, là nơi đặc biệt để chúng ta có thể trải nghiệm trực tiếp nhất về đời sống truyền giáo hiệp hành của toàn thể Giáo hội. Những đóng góp của các Hội đồng Giám mục nói về các giáo xứ và các cộng đồng cơ bản nhỏ như những không gian hiệp thông và tham gia vào sứ mạng. Các linh mục tập trung tại Sacrofano khẳng định, “các thành viên của các giáo xứ đang và trở thành những môn đệ truyền giáo của Chúa Giêsu tụ tập nhân danh Người để cầu nguyện và thờ phượng, phục vụ và làm chứng trong những giây phút vui buồn, hy vọng và chiến đấu.” Thiên Chúa đang hoạt động trong những thực tại Giáo hội này. Tuy nhiên, vẫn cần khai thác đầy đủ hơn tính linh hoạt tuyệt vời của giáo xứ, được hình thành như một cộng đồng của các cộng đồng, nhằm phục vụ tính sáng tạo truyền giáo.

90. Ngày nay, các Giáo hội địa phương cũng bao gồm nhiều thực tại hiệp hội và cộng đồng khác nhau, có thể là những cách diễn đạt cũ hoặc mới về đời sống Kitô giáo. Đặc biệt, các Tu hội Đời sống Thánh hiến và các Hiệp hội Đời sống Tông đồ, cũng như các hiệp hội giáo dân, các phong trào Giáo hội và các cộng đồng mới đã làm phong phú đáng kể đời sống của các Giáo hội địa phương và sức sống truyền giáo của họ. Việc thuộc về Giáo hội ngày nay có nhiều hình thức ngày càng đa dạng hơn, vượt ra ngoài nền tảng chỉ được xác định về mặt địa lý để mở rộng đến các loại liên kết liên kết. Thật là thích hợp để khuyến khích sự đa dạng về loại hình thuộc về này trong khi luôn duy trì quan điểm truyền giáo và sự phân định của Giáo hội, chú ý đến những lời mời gọi được Chúa ngỏ lời trong từng bối cảnh cụ thể. Việc sinh động tính đa dạng này và việc chăm sóc các mối liên kết hiệp nhất thuộc thẩm quyền cụ thể của Giám mục Giáo phận hoặc Giáo phận Đông phương. Nhóm Nghiên cứu số 6 được giao nhiệm vụ khám phá những khía cạnh này một cách sâu sắc hơn.

91. Trong suốt các giai đoạn trước của tiến trình thượng hội đồng, kể cả trong quá trình tham vấn soạn thảo Tài liệu làm việc này, nhiều đóng góp nhận được đã nhấn mạnh tầm quan trọng của các Hội đồng khác nhau (giáo xứ, giáo hạt, Giáo phận hoặc Giáo phận Đông phương) như là những công cụ thiết yếu cho việc lập kế hoạch, tổ chức, thực hiện và đánh giá các hoạt động mục vụ. Nó được coi là cần thiết để tăng cường chúng. Thật vậy, những cơ cấu này đã được luật hiện hành quy định, với những điều chỉnh thích hợp, có thể giúp cụ thể hóa hơn nữa một số khía cạnh của phong cách hiệp hành. Họ có tiềm năng trở thành những điển hình cho quá trình phân định của Giáo hội và quá trình đưa ra quyết định của hiệp hành, là nơi để thực hành trách nhiệm giải trình và đánh giá những người ở các vị trí quyền lực. Đến lượt họ sẽ phải tính đến việc thực hiện các chức năng của mình. Do đó, lĩnh vực này dường như là một trong những lĩnh vực hứa hẹn nhất để thực hiện nhanh chóng các định hướng hiệp hành, dẫn đến những thay đổi cụ thể có thể nhanh chóng nhận thấy được.

92. Nhiều đóng góp chỉ ra sự cần thiết phải định hình lại diện mạo của các cơ quan này và cách thức hoạt động của chúng để đi theo hướng này. Điều đáng chú ý là điều này đòi hỏi sự chú ý đến cách thức bổ nhiệm các thành viên, nhằm đảm bảo rằng thành phần của họ phản ánh thành phần của cộng đồng mà họ phục vụ (Giáo xứ hoặc Giáo phận/Giáo phận Đông phương) nhằm thúc đẩy một nền văn hóa minh bạch và trách nhiệm giải trình một cách đáng tin cậy. Khuyến cáo rằng đa số các thành viên không nên được bổ nhiệm bởi chính quyền (giám mục hoặc linh mục giáo xứ), mà nên được chọn theo cách khác để đại diện cho thực tế của cộng đồng hoặc Giáo hội địa phương.

93. Cần phải quan tâm đồng đều đến thành phần của các cơ quan này để khuyến khích sự tham gia nhiều hơn của phụ nữ, thanh niên và những người bị gạt ra ngoài lề xã hội hoặc trong hoàn cảnh nghèo đói. Hơn nữa, như Khoá họp thứ nhất đã nhấn mạnh, điều cơ bản là các cơ quan này bao gồm những người nam nữ dấn thân làm chứng cho đức tin trong những thực tại bình thường của cuộc sống và trong bối cảnh xã hội của họ, với khuynh hướng tông đồ và truyền giáo được công nhận (x. SR 18d), và không chỉ những người tham gia tổ chức đời sống và phục vụ cộng đồng. Bằng cách này, việc phân định của Giáo hội do các cơ quan này thực hiện sẽ được hưởng lợi từ sự cởi mở và khả năng phân tích thực tế hơn cũng như sự đa dạng của các quan điểm. Cuối cùng, nhiều đóng góp chỉ ra mong muốn bắt buộc những Hội đồng được thành lập theo thẩm quyền theo luật hiện hành.

94. Một số Hội đồng Giám mục cũng chia sẻ kinh nghiệm cải cách và những thực hành tốt đã có, chẳng hạn như việc thành lập mạng lưới các Hội đồng Mục vụ, từ các cộng đồng cơ sở đến các giáo xứ và giáo hạt, cho đến Hội đồng Mục vụ Giáo phận. Là một mô hình tham vấn và lắng nghe, đề xuất tổ chức các hội nghị Giáo hội ở mọi cấp độ, tìm cách không giới hạn việc tham vấn với Giáo hội Công giáo, đồng thời tích hợp sự đóng góp của các Giáo hội và Cộng đồng Giáo hội khác, cũng như của các tôn giáo khác hiện diện trên lãnh thổ địa phương và xã hội mà cộng đồng Kitô giáo bước đi.

Những mối dây hình thành sự hiệp nhất của Giáo hội

95. Việc trao đổi hồng ân từ góc độ cộng đồng, được giải thích ở phần đầu, hướng dẫn mối tương giao giữa các Giáo hội. Nguyên tắc này kết hợp việc nhấn mạnh vào các mối liên kết tạo nên sự hiệp nhất trong Giáo hội với việc nhìn nhận những đặc điểm riêng của mỗi Giáo hội địa phương, được định hình bởi bối cảnh, lịch sử và truyền thống của Giáo hội đó. Việc áp dụng một phong cách hiệp hành cho phép chúng ta nhận ra rằng, trong mỗi lĩnh vực, tất cả các Giáo hội không nhất thiết phải tiến lên với cùng một tốc độ. Ngược lại, những khác biệt về tốc độ này có thể được đánh giá cao như sự thể hiện chính sự đa dạng hợp pháp và là cơ hội để làm phong phú lẫn nhau thông qua việc trao đổi hồng ân. Để hiện thực hóa tầm nhìn này, điều cần thiết là phải thể hiện nó trong các cấu trúc và thực tiễn hữu hình. Trả lời câu hỏi “Làm thế nào để trở thành một Giáo hội hiệp hành trong sứ vụ?”, đòi hỏi phải xác định và phát huy những yếu tố cụ thể này.

96. Các cơ cấu phẩm trật và các hội đồng giám mục Đông phương là công cụ cơ bản để tạo ra các mối liên kết và chia sẻ kinh nghiệm giữa các Giáo hội. Chúng cũng rất cần thiết cho việc phân quyền quản trị và lập kế hoạch mục vụ. “Công đồng Vaticanô II đã khẳng định rằng, giống như các Giáo hội phụ hệ cổ xưa, các hội đồng giám mục có thể “đóng góp bằng nhiều cách và hiệu quả vào việc hiện thực hóa cảm thức tập thể một cách cụ thể” (LG 23). Tuy nhiên, khát vọng này vẫn chưa được thực hiện một cách đầy đủ, bởi vì như Đức Giáo hoàng Phanxicô đã chỉ ra: “Chúng ta vẫn chưa làm rõ một cách đầy đủ tình trạng của các Hội đồng Giám mục vốn coi chúng là chủ thể của những quy định cụ thể, bao gồm cả một thẩm quyền nhất định về mặt giáo lý đích thực” (EG, số 32). Việc tìm cách trở thành một Giáo hội hiệp hành trong sứ vụ đòi hỏi phải giải quyết vấn đề này.

97. Trên cơ sở những gì nổi lên trong tiến trình Thượng Hội đồng, người ta đề xuất: a) công nhận các Hội đồng Giám mục là các thực thể Giáo hội được ban cho thẩm quyền giáo lý, một cách đảm nhận sự đa dạng về văn hóa xã hội trong một Giáo hội đa dạng coi trọng phụng vụ, các cách diễn đạt kỷ luật, thần học và tâm linh thích ứng với các bối cảnh văn hóa xã hội khác nhau; b) tiến hành đánh giá kinh nghiệm sống liên quan đến hoạt động của các Hội đồng Giám mục và các cơ cấu phẩm trật Đông phương, mối tương giao giữa các giám mục và mối tương giao với Tòa thánh, để xác định những cải cách cụ thể cần thực hiện; các chuyến thăm ad limina, một phần công việc của Nhóm Nghiên cứu 7, có thể dẫn đến đánh giá này về hoạt động hiện tại của các Hội đồng Giám mục Đông phương và các cơ cấu phẩm trật; c) đảm bảo rằng tất cả các Giáo phận hoặc Giáo phận Đông phương đều gắn liền với một Giáo tỉnh và với một Gội đồng Giám mục hoặc với một cơ cấu phẩm trật phương Đông (x. CD, số 40).

98. Việc triệu tập các Đại hội đồng Châu lục trên tất cả các khu vực là một sự đổi mới của tiến trình thượng hội đồng hiện tại và là một cách thực hiện mạch lạc hơn chỉ dẫn của Công đồng nhằm tôn vinh tính đặc thù “của mọi khu vực văn hóa xã hội lớn” nhằm tìm kiếm “một sự thích ứng sâu sắc hơn trong toàn bộ lĩnh vực của đời sống Kitô hữu” (AG 22). Kinh nghiệm này, cũng như hành trình của các Giáo hội ở một số khu vực, đặt ra câu hỏi làm thế nào chúng ta có thể mang lại cho tính năng động hiệp hành và tập thể một biểu hiện thể chế thích hợp hơn, chẳng hạn, thông qua các hội đồng Giáo hội và các Hội đồng Giám mục. Các cơ quan này có thể được giao nhiệm vụ phối hợp tham vấn và ra quyết định ở cấp châu lục hoặc khu vực. Các phương pháp phân định cũng có thể được phát triển để bao gồm các tác nhân khác nhau của Giáo hội trong việc soạn thảo các tài liệu và tiến hành các quá trình ra quyết định và thực hiện. Hơn nữa, người ta đề xuất rằng sự phân định cũng nên bao gồm các không gian để lắng nghe và đối thoại với các tổ chức dân sự, đại diện của các tôn giáo khác, các tổ chức phi Công giáo và xã hội nói chung, dưới những hình thức thích ứng với sự đa dạng của bối cảnh.

99. Mong muốn rằng cuộc đối thoại hiệp hành địa phương sẽ tiếp tục chứ không kết thúc và nhu cầu hội nhập văn hóa đức tin một cách hiệu quả ở các khu vực cụ thể thúc đẩy chúng ta hướng tới một đánh giá mới về việc tổ chức các Công đồng cụ thể, dù là cấp tỉnh hay toàn thể, mà việc cử hành định kỳ của chúng đã là một nghĩa vụ trong phần lớn lịch sử của Giáo hội. Dựa trên kinh nghiệm bước đi trên con đường hiệp hành, người ta có thể nghĩ ra những hình thức quy tụ một hội đồng giám mục và một cộng đồng Giáo hội gồm các thành viên tín hữu (linh mục, phó tế, tu sĩ nam nữ, giáo dân nam nữ), được ủy quyền bởi Hội đồng Giám mục. Các Hội đồng mục vụ của các Giáo phận hoặc Giáo phận có liên quan hoặc được chỉ định theo cách khác để phản ánh sự đa dạng của Giáo hội trong khu vực. Để hỗ trợ việc này, thủ tục công nhậnkết luận của các Hội đồng cụ thể cần được cải cách để tạo thuận lợi cho việc công bố chúng kịp thời.

Sự phục vụ cho sự hiệp nhất của Giám mục Rôma

100. Trả lời câu hỏi “Làm thế nào đểlà một Giáo hội hiệp hành trong sứ vụ?” cũng đòi hỏi phải xem xét lại động lực hợp nhất tính hiệp hành, tính hợp đoàn và tính ưu việt, để nó có thể nuôi dưỡng các mối tương giao giữa các tổ chức mà qua đó nó tìm thấy sự thể hiện cụ thể.

101. Tiến trình Thượng Hội đồng hiện nay đã cho thấy sự thật của lời khẳng định của Công đồng rằng “trong sự hiệp thông Giáo hội, có những Giáo hội địa phương hợp pháp, có những truyền thống riêng của mình, trong khi quyền tối thượng của Tòa thánh Phêrô vẫn còn nguyên vẹn, là Giáo hội chủ trì sự hiệp thông phổ quát” bác ái và bảo vệ những khác biệt chính đáng, đồng thời quan tâm để điều gì đặc biệt không những không gây tổn hại cho sự hiệp nhất mà còn có lợi cho sự hiệp nhất” (x. LG 13). Nhờ chức năng này, Giám mục Rôma, với tư cách là nguyên tắc hữu hình của sự hiệp nhất toàn thể Giáo hội (x. LG 23), là người bảo đảm cho tính hiệp hành. Người kêu gọi toàn thể Giáo hội tham gia hoạt động hiệp hành bằng cách triệu tập, chủ trì và xác nhận kết quả của Thượng hội đồng Giám mục; Người phải quan tâm đến việc đảm bảo rằng Giáo hội phát triển theo phong cách và hình thức hiệp hành.

102. Việc suy tư về các hình thức thi hành thừa tác vụ Phêrô cũng nên được thực hiện từ quan điểm “phân quyền hợp lý” (EG 16), như Đức Giáo hoàng Phanxicô thúc giục và nhiều Hội đồng Giám mục yêu cầu. Theo công thức được cung cấp bởi Tông hiến Praedicate Evangelium (19 tháng 3 năm 2022), điều này đòi hỏi phải để lại “thẩm quyền cho các Giám mục để giải quyết, trong khi thực hiện “nhiệm vụ riêng của họ với tư cách là giáo viên” và mục tử, những vấn đề mà họ phải đối mặt. là quen thuộc và điều đó không ảnh hưởng đến sự hiệp nhất về giáo lý, kỷ luật và hiệp thông của Giáo hội, luôn hành động với tinh thần đồng trách nhiệm vốn là hoa trái và biểu hiện của mầu nhiệm hiệp thông cụ thể là Giáo hội” (PE II, số 2).

103. Để tiếp tục, chúng ta có thể đi theo đường lối của Tự sắc Competentias quasdam decernere phân bổ thêm năng quyền (15 tháng 2 năm 2022), trong đó quy định “các lĩnh vực thẩm quyền nhất định liên quan đến các điều khoản của Bộ Giáo luật nhằm bảo vệ sự thống nhất kỷ luật trong Giáo hội hoàn vũ, và quyền điều hành trong các Giáo hội địa phương và các tổ chức Giáo hội trên cơ sở “năng động hiệp thông của Giáo hội” (Lời mở đầu).

104. Hơn nữa, việc soạn thảo các quy tắc giáo luật cũng có thể là nơi để thực hiện phong cách hiệp hành. Việc đặt ra các quy tắc không chỉ bao hàm việc thực thi quyền lực do thẩm quyền ban cho mà phải được coi là sự phân định thực sự của Giáo hội. Ngay cả khi chỉ mình nó được hưởng tất cả các đặc quyền lập pháp, thì khi làm như vậy, chính quyền có thể và nên hành động theo phương pháp hiệp hành để ban hành một quy tắc là kết quả của việc lắng nghe nhu cầu công lý trong Thánh Thần.

105. Tông hiến Praedicate Evangelium đã được đề cập đã định hình việc phục vụ của Giáo triều Rôma đối với Giám mục Rôma và Giám mục đoàn một cách hiệp hành và truyền giáo. Để hỗ trợ tính minh bạch và trách nhiệm giải trình, việc đánh giá định kỳ công việc của nó phải được thực hiện và giao cho một cơ quan độc lập (chẳng hạn như Hội đồng Hồng y và/hoặc hội đồng giám mục được Thượng hội đồng bầu chọn). Nhóm Nghiên cứu 8 được dành riêng để xem xét vai trò của các Đại diện Giáo hoàng từ góc độ truyền giáo của Thượng hội đồng và khám phá những cách đánh giá công việc của họ.

106. Thượng Hội đồng vào tháng 10 năm 2023 chỉ ra sự cần thiết phải tiến hành đánh giá thành quả của Khoá họp thứ nhất (x. SR 20j). Đánh giá này không thể bỏ qua sự phát triển được ban hành bởi Tông hiến Episcopalis Communio, vốn biến đổi Thượng hội đồng từ một sự kiện ngẫu nhiên thành một tiến trình Giáo hội kéo dài trong không gian và thời gian. Trong số những nơi thực hành tính hiệp hành và tính hiệp đoàn ở cấp độ toàn thể Giáo hội, Thượng hội đồng Giám mục chắc chắn nổi bật. Được Đức Phaolô VI thiết lập như một Hội đồng Giám mục được triệu tập để tham gia, một cách hòa đồng, vào sự chăm sóc của Đức Giáo hoàng Rôma đối với toàn thể Giáo hội, giờ đây, dưới hình thức tiến trình theo từng giai đoạn, là phạm vi nơi mối tương giao năng động giữa tính hiệp hành, tính hợp đoàn và tính ưu việt được thực hiện và có thể được cổ vũ. Toàn thể Dân thánh của Thiên Chúa, các giám mục đã được giao phó các phần riêng của mình và Giám mục Rôma với tư cách là nguyên tắc hiệp nhất của Giáo hội đều tham gia đầy đủ vào Tiến trình Thượng hội đồng, mỗi người tùy theo chức năng riêng của mình. Sự tham gia này được thể hiện rõ ràng bởi Thượng Hội đồng họp xung quanh Giám mục Rôma, một hội đồng, trong thành phần của nó, cho thấy sự đa dạng và tính phổ quát của Giáo hội như “bí tích hiệp nhất, dân thánh được thu hút thành một tổng thể có trật tự dưới quyền các giám mục” (SC, số 26).

107. Một trong những thành quả quan trọng nhất của Thượng Hội đồng 2021-2024 là đẩy mạnh thôi thúc và những hứa hẹn đại kết, vốn là nét đặc trưng của Thượng Hội đồng. Cũng có thể hữu ích nếu giải quyết vấn đề thi hành thừa tác vụ Phêrô dưới ánh sáng này, mở ra “một tình thế mới” (UUS, số 95). Tài liệu gần đây Giám mục Rôma: Tối thựợng quyền và tính hiệp hành trong các cuộc đối thoại đại kết và các câu trả lời cho Thông điệp Ut Unum Sint, do Hội đồng Giáo hoàng về Hiệp nhất Kitô hữu ban hành, đưa ra những hiểu biết sâu sắc để nghiên cứu thêm. Chủ đề này là một phần công việc của Nhóm Nghiên cứu số 10, được dành riêng cho việc tiếp nhận những thành quả của hành trình đại kết trong các thực hành của Giáo hội.

108. Sự phong phú được thể hiện qua sự tham gia của các đại biểu huynh đệ từ các Giáo hội và Cộng đồng Giáo hội khác trong Khoá họp thứ nhất, khuyến khích chúng ta ngày càng chú ý đến các thực hành hiệp hành của các đối tác đại kết của chúng ta, cả ở phương Đông và phương Tây. Đối thoại đại kết là nền tảng để đào sâu sự hiểu biết của chúng ta về tính hiệp hành và sự hiệp nhất của Giáo hội. Đối thoại đại kết thúc đẩy chúng ta tưởng tượng những thực hành hiệp hành đại kết đích thực, đi xa đến các hình thức tham vấn và phân định về các vấn đề có lợi ích chung và cấp bách. Khả năng này về cơ bản dựa trên sự hiệp nhất của chúng ta được mang lại bởi một phép rửa duy nhất, từ đó phát sinh ra căn tính của Dân Thiên Chúa và tính năng động của sự hiệp thông, sự tham gia và sứ vụ.

 

Kết luận – Giáo hội hiệp hành trên thế giới

109. Mọi thứ trên thế giới này đều được kết nối với nhau và được đánh dấu bằng sự khao khát không ngừng nghỉ đối với người khác. Mọi thứ đều là lời kêu gọi của một mối tương giao và là bằng chứng cho sự thật rằng, xét cho cùng, không có ai và không có vật nào có thể tự cung tự cấp. Toàn bộ thế giới, khi được chiêm ngưỡng dưới ánh sáng Mặc khải Kitô giáo, là dấu chỉ bí tích của một sự hiện diện vừa siêu việt vừa sinh động hóa nó, dẫn đến cuộc gặp gỡ với Thiên Chúa, một cuộc gặp gỡ cuối cùng sẽ được thực hiện trong tính xã hội vui vẻ của những khác biệt, được thể hiện trọn vẹn ở thời cánh chung. bữa tiệc Thiên Chúa dọn sẵn trên núi thánh Người.

110. Được biến đổi bởi lời loan báo Sự Phục Sinh, Giáo hội tìm cách trở thành một nơi mà viễn tượng của Isaia được hít thở và sống động để trở thành “nơi nương náu cho kẻ khó nghèo khi gặp bước gian truân. Ngài là nơi trú ẩn trong cơn bão táp, là bóng mát giữa buổi nắng thiêu, vì sát khí của quân cường bạo chẳng khác nào mưa bão đập vào tường” (Is 25,4). Bằng cách này, Giáo hội mở lòng mình ra với Vương quốc. Khi các thành viên của Giáo hội để cho mình được Thánh Thần dẫn dắt đến những chân trời mà trước đây họ chưa từng nhìn thấy, họ cảm nghiệm được niềm vui khôn tả. Với vẻ đẹp, sự khiêm tốn và đơn giản của nó, đây là sự hoán cải liên tục cách thức trở thành Giáo hội mà tiến trình hiệp hành mời gọi chúng ta thực hiện.

111. Thông điệp Fratelli Tutti trình bày cho chúng ta lời kêu gọi nhìn nhận mình là anh chị em trong Đức Kitô Phục Sinh, đề xuất điều này ít hơn như một địa vị mà nhiều hơn như một lối sống. Thông điệp nhấn mạnh đến sự tương phản giữa thời đại chúng ta đang sống và quan điểm về tình thân ái được Thiên Chúa chuẩn bị. Tấm màn tang tóc, tấm vải liệm và nước mắt được tiên tri Isaia đặt tên cũng hiện diện trong thời đại chúng ta. Chúng thường là kết quả của sự cô lập ngày càng tăng của chúng ta với nhau, bạo lực và sự phân cực ngày càng tăng trong thế giới của chúng ta, và việc chúng ta bị tách rời khỏi nguồn sống. Những câu hỏi mà Tài liệu Làm việc đặt ralà: làm thế nào để trở thành một Giáo hội hiệp hành trong sứ vụ; làm thế nào để tham gia vào việc lắng nghe và đối thoại sâu sắc; làm thế nào để đồng trách nhiệm dưới ánh sáng tính năng động của ơn gọi rửa tội cá nhân và cộng đoàn của chúng ta; làm thế nào để biến đổi các cơ cấu và tiến trình để tất cả mọi người có thể tham gia và chia sẻ các đặc sủng mà Chúa Thánh Thần tuôn đổ trên mỗi người vì thiện ích chung; cách sử dụng quyền lực và quyền hạn như một sự phục vụ. Mỗi câu hỏi này là một sự phục vụ cho Giáo hội, và qua hành động của Giáo hội, có khả năng chữa lành những vết thương sâu sắc nhất của thời đại chúng ta.

112. Ngôn sứ Isaia kết thúc lời tiên báo của mình bằng một bài thánh ca hợp xướng: “Đây là Thiên Chúa chúng ta, chúng ta từng trông đợi Người, và đã được Người thương cứu độ. Chính Người là Đức Chúa chúng ta từng đợi trông. Nào ta cùng hoan hỷ vui mừng bởi được Người cứu độ” (Is 25,9). Khi Dân Chúa chúng ta cùng tham gia vào lời ca ngợi này, với tư cách là những người hành hương của niềm hy vọng, chúng ta hãy tiếp tục tiến bước dọc theo con đường hiệp hành hướng tới những người vẫn đang chờ đợi việc công bố Tin Mừng cứu độ!

Tải file word về tại đây!

 

_______

[1] Trừ khi có quy định khác, hoặc khi bối cảnh rõ ràng là không phải như vậy, trong bản văn của Tài liệu Làm việc, thuật ngữ “Giáo hội” chỉ “một Giáo hội Công giáo duy nhất” (LG, số 23), trong khi danh từ “Giáo hội” ở số nhiều là để chỉ các Giáo hội địa phương hiện hữu trong chính Giáo hội phổ quát.

[2] Ở đây cũng như các trích dẫn dưới đây, là các trích dẫn từ các Hội đồng Giám mục và các nhóm lục địa của họ đến từ các bản tóm tắt được gửi đến Ban Thư ký Chung của Thượng Hội đồng sau cuộc tham vấn các Giáo hội địa phương diễn ra từ cuối năm 2023 đến giữa năm 2024.

[3] Được Ban Thư ký Chung của Thượng Hội đồng phát hành vào ngày 11 tháng 12 năm 2023 và lưu hành trên website: www.synod.va.

[4] Về vấn đề này, vui lòng tham khảo tài liệu Làm thế nào để trở thành Giáo hội Hiệp hành trong Sứ vụ? Năm Quan điểm để đào sâu về Thần học hướng tới Khoá họp thứ hai của Đại hội Thượng Hội đồng Giám mục lần thứ XVI, do Ban Thư ký Chung của Thượng Hội đồng phát hành vào ngày 14 tháng 3 năm 2024 tại website: www.synod.va.

[5] Về vấn đề này, vui lòng tham khảo tài liệu Nhóm Nghiên cứu về các vấn đề phát sinh trong Khoá họp thứ nhất của Đại hội Thượng Hội đồng Giám mục lần thứ XVI để được nghiên cứu chuyên sâu với sự hợp tác của các Bộ của Giáo triều Rôma. Bản Thảo cũng được phát hành vào ngày 14 tháng 3 năm 2024 và có sẵn tại www.synod.va.

[6] Các chủ đề nổi lên trong Báo cáo Tóm tắt của Khoá họp thứ nhất và được giao cho mười Nhóm Nghiên cứu là:

1/ Một số khía cạnh của mối tương giao giữa các Giáo hội Công giáo Đông phương và Giáo hội Công giáo Latinh (SR 6).

2/ Lắng nghe tiếng kêu của người nghèo (SR 4 và 16).

3/ Truyền giáo trong môi trường kỹ thuật số (SR 17).

4/ Sự sửa đổi của Ratio Fundamentalis Institutionis Sacerdotalis [Nguyên tắc căn bản vể đào tạo linh mục] trong một quan điểm hiệp hành truyền giáo (SR 11).

5/ Một số vấn đề thần học và giáo luật liên quan đến các hình thức mục vụ cụ thể (SR 8 và 9).

6/ Việc sửa đổi, trong quan điểm hiệp hành và truyền giáo, các tài liệu điều hành mối tương giao giữa các Giám mục, Tu sĩ và các Nhóm Giáo hội (SR 10).

7/ Một số khía cạnh và chức vụ của Giám mục (tiêu chí chọn ứng viên cho giám mục, chức năng tư pháp của Giám mục, tính chất và cách thức thực hiện các chuyến Viếng mộ hai thánh Tông đồ - ad limina Apostolorum) từ quan điểm hiệp hành truyền giáo (SR 12 và 13).

8/ Vai trò của các Đại diện Giáo hoàng trong quan điểm hiệp hành truyền giáo (SR 13).

9/ Tiêu chí thần học và phương pháp luận hiệp hành để phân định chung các vấn đề giáo lý, mục vụ và đạo đức (SR 15).

10/ Sự tiếp nhận những thành quả của cuộc hành trình đại kết trong các thực hành Giáo hội (SR 7).

 

bài liên quan mới nhất

bài liên quan đọc nhiều

Top