Suy niệm Lời Chúa hằng ngày: Tuần IX Mùa Thường Niên

Suy niệm Lời Chúa hằng ngày: Tuần IX Mùa Thường Niên

TUẦN 9 THƯỜNG NIÊN

Chúa Ba Ngôi Năm B
Mt 28,16-20

"Thầy ở cùng anh em mọi ngày cho đến tận thế".
(Mt 28,20)

Kính thưa anh chị em,

Hôm nay Giáo Hội cho chúng ta mừng lễ kính Thiên Chúa Ba Ngôi.

Mầu nhiệm Thiên Chúa Ba ngôi là mầu nhiệm trung tâm của đức tin Kitô giáo. Đây là một mầu nhiệm thâm sâu nhất, cao cả nhất mà lý trí con người, ngay cả óc tưởng tượng của con người, cũng không thể nào thấu hiểu hay hình dung được. Bởi vì Thiên Chúa Ba Ngôi không phải là một vấn đề, càng không phải là một vấn đề toán học. Mầu nhiệm không phải là vấn đề hay bài toán: 3 là 3; 1 là 1. Không có kiểu tính toán nào mà 1 là 3 hay 3 thành 1 được. Thiên Chúa không phải là những con số. Không thể làm trò ảo thuật hay lý luận đưa ngón tay ba đốt hay hình tam giác mà ví von. Thậm chí có người cho rằng làm như thế là đùa bỡn với Thiên Chúa, hay tệ hơn là phủ nhận Ngài.

1. Vậy ai đã cho chúng ta biết mầu nhiệm này? Chính Chúa Giêsu Kitô. Nếu Chúa không dạy bảo thì loài người không thể nào biết được. Cho tới trước khi Chúa Kitô đến, loài người không có một ý niệm nào về mầu nhiệm này. Cả dân Do thái, dân riêng của Chúa, cũng không biết. Cựu Ước chỉ nói tới một Thiên Chúa duy nhất, Đấng tạo dựng nên và làm chủ vũ trụ.

Phải đợi mãi đến lúc Ngôi Hai Thiên Chúa, Chúa Giêsu xuống thế nhập thể làm người và khi sống ở giữa loài người, trong đời sống công khai, Chúa mới giảng dạy, mới mạc khải dần dần, vén lên bức màn che kín mầu nhiệm này và từ đó chúng ta mới hiểu được một phần nào.

Ngài cho biết; Chúa Cha là Thiên Chúa, còn ngài là Con Một của Chúa Cha. Ngài và Chúa Cha là một. Ngài ở trong Chúa Cha và Chúa Cha ở trong Ngài, nghĩa là Ngài cùng bản tính với Chúa Cha, Ngài cũng là Thiên Chúa. Ngài cũng cho biết: Chúa Thánh Thần là Đấng Ngài và Chúa Cha sai đến, cũng là Thiên Chúa. Như vậy, chỉ là một Thiên Chúa duy nhất nhưng có Ba Ngôi riêng biệt nhau chứ không phải là ba Chúa.

2. Vâng mặc dù được Chúa Giêsu mạc khải, nhưng mầu nhiệm Thiên Chúa Ba Ngôi vẫn là một mầu nhiệm. Chúa Giêsu là Ngôi hai Thiên Chúa  dù đã trở thành ngươi qua con đường nhập thể để sống cùng sống với loài người, thế nhưng khôg phải vì thế mà Ngài đã trở thành dễ hiểu trước con mắt người đời.

Một tu sỹ nọ muốn hoạ lại chân dung của Đức Giêsu. Được phép của bề trên, ông đi rảo khắp nơi để tìm cho người mẫu thích hợp. Thế nhưng, càng tìm kiếm, ông càng khám phá ra rằng: không thể có một người nào trên trần gian này hoàn toàn giống Đức Giêsu. Từ đó, ông đi đến kết luận: Gương mặt của Đức Giêsu phải là tổng hợp của tất cả mọi nét đẹp của con người trên trần gian này! Do đó, thay vì chỉ chọn một người mẫu, ông đi thu nhặt tất cả nét đẹp trên mọi gương mặt mà ông bắt gặp.

Gặp các bạn trẻ đang nô đùa chạy nhảy, ông cố gắng rút ra được nét đơn sơ. Từ một em bé gái đang hát ca múa nhảy, ông tìm thấy nét vui tươi trong cuộc sống. Nơi một người đàn ông lực lưỡng đang gồng gánh nặng, ông nhận ra được sức mạnh của con người. Nhưng chân dung của Đức Giêsu không chỉ có những nét hùng nét đẹp, mà còn phải có cả những nét đau buồn nữa. Nghĩ như thế nên nhà họa sỹ mới đi gặp một cô gái điếm. Ông nhìn thấy nét u buồn trong đôi mắt của cô ta. Gặp một người hành khất, ông khám phá ra nét thành khẩn van xin trên gương mặt. Lắng nghe một tu sỹ đang rao giảng sự sám hối, ông nhận ra được sự nghiệm nghị. Và cuối cùng, trên gương mặt người mẹ đang đi chôn cất đứa con thân yêu, ông hiểu được thế nào là khổ đau.

Mỗi người một vẻ! Nhà họa sỹ cố gắng đưa chúng ta vào chân dung của Đức Giêsu, nhưng ông vẫn chưa hài lòng, vì dường như trên mặt Người vẫn còn thiếu một nét nào đó mà ông chưa thể thực hiện được. Ngày kia đi vào khu rừng ông bỗng gặp thấy một người che mặt bỏ chạy. Đuổi kịp theo con người che mặt ấy, ông khám phá ra đó là người mắc bệnh phong cùi. Ánh sáng bỗng lóe lên trong đầu ông: Thì ra điều còn thiếu sót trên gương mặt của Đức Giêsu chính là "mầu nhiệm". Với ý nghĩ ấy, ông cầm lấy cọ vẽ một tấm vải trắng che phủ gương mặt Đức Giêsu.

Khi tác phẩm đã được hoàn thành, tất cả những ai đã một lần cung cấp cho họa sỹ một nét riêng của mình đều hớn hở đến nhận diện chính mình trên gương mặt Đức Giêsu. Thế nhưng, họ chỉ thấy một tấm vải trắng che kín gương mặt.

Họa sĩ giải thích: "Mãi mãi Đức Giêsu vẫn là một màu nhiệm!"

3. Vấn đề cuối cùng: Tại sao Chúa Giêsu lại mạc khải cho chúng ta một mầu nhiệm quá cao siêu như thế? Chắc chắn không phải là để thử thách thiện chí của con người, hoặc để xây lên bức tượng chặn đứng suy luận và óc tưởng tưởng của con người. Nhưng vì Chúa muốn chúng ta hiểu biết đời sống nội tại của Thiên Chúa, đó là tình yêu. Thiên Chúa là Tình yêu. Mầu nhiệm Chúa Ba Ngôi nói lên điều đó.

Thiên Chúa là tình yêu. Thiên Chúa yêu thương con người. Đó là một công thức khác để nói về mầu nhiệm Chúa Ba Ngôi. Vì tình yêu thương, Thiên Chúa đã tạo dựng con người giống hình ảnh Chúa, nghĩa là ban cho con người được hạnh phúc như Chúa. Nhưng con người đã phạm tội phản nghịch đánh mất hạnh phúc. Thiên Chúa không từ bỏ con người. Ngài đã quyết định ban con yêu dấu của Ngài để cứu chuộc. Và vì yêu thương con người, Đức Kitô đã vâng lời Chúa Cha đến trần gian thực hiện sứ mệnh yêu thương đó. Và khi hoàn tất, Ngài về trời, Ngài đã sai Thánh Thần đến để tiếp tục công việc của Ngài, công việc yêu thương. Nhờ Chúa Thánh Thần, tình yêu của Thiên Chúa tiếp tục được bày tỏ mãi cho tới chúng ta hôm nay và mãi về sau nữa.

Ngày kia, có một đan viện phụ tìm đến một thiền sư. Vị đan viện phụ buồn rầu cho biết tình trạng bi đát của tu viện mình và xin ý kiến. Trước đây, tu viện là một trung tâm hành hương lớn, thu hút không biết bao nhiêu tâm hồn mộ đạo. Nhưng bây giờ tu viện gần như đã trở thành ngôi chùa trống vắng. Nghe xong vị thiền sư nói:

- Tội đã và đang xảy ra trong cộng đoàn là tội vô tình. Thiên Chúa đã cải trang thành một người giữa chư vị, nhưng chư vị đã vô tình không nhận ra Ngài.

Khi biết điều đó, trong tu viện, mọi người đều thắc mắc không biết ai trong số những thành viên của tu viện là Thiên Chúa đã cải trang. Và từ đó ai cũng đối xử với nhau như đối xử với chính Chúa. Không mấy chốc, bầu khí yêu thương, huynh đệ, sức sống và niềm vui đã trở lại với tu viện.

Xin Chúa cho chúng ta luôn biết sống mầu nhiệm Chúa Ba Ngôi, bằng cách sống yêu thương nhau. Và sống yêu thương nhau là cách thế tuyên xưng mầu nhiêm Chúa Ba Ngôi vậy.Amen.


THỨ HAI TUẦN 9 THƯỜNG NIÊN
Mc 12,1-12

"Các ông chưa đọc câu Kinh Thánh này sao?
Tảng đá thợ xây nhà loại bỏ lại trở nên đá tảng góc tường."

(Mc 12,10)

Dụ ngôn chúng ta vừa nghe là dụ ngôn tương đối dễ cắt nghĩa. Ông chủ vườn nho là Thiên Chúa. Vườn nho là dân Israel. Các tá điền là các lãnh tụ của dân. Tôi tớ được sai đi thu hoạch các hoa lợi là các ngôn sứ. Người con của ông chủ là Chúa Giêsu.

Thiên Chúa đã trao dân Israel cho các lãnh tụ của họ chăm sóc, nhưng họ đã không chu toàn trách nhiệm của mình. Các ngôn sứ nhiều lần được sai đến để nhắc nhở họ, nhưng không những họ đã không nghe mà còn bách hại các vị ấy: Tiên tri Êlia bị truy nã, phải trốn sang Ai Cập thất thểu ăn xin. Tiên tri Isaia đã bị cưa làm hai khúc. Tiên tri Giêrêmia bị cầm tù. Tiên tri Daniel bị tống vào hang sư tử. Tiên tri Giacaria bị sát hại giữa cung thánh và bàn thờ. Gioan Tẩy Giả bị chém đầu….

Cuối cùng, Thiên Chúa sai chính con một của mình đến, tưởng họ sẽ kính nể …. nhưng họ cũng không nghe mà còn giết chết luôn Người Con ấy. Chính vì thế mà Thiên Chúa đã truất quyền họ, rồi sau đó Người ban cho một dân khác là Giáo Hội.

Như vậy, chúng ta thấy Thiên Chúa đã kiên nhẫn nhưng không nhu nhược. Những kẻ chống lại Thiên Chúa có lúc đã tưởng mình chiến thắng, nhưng cuối cùng họ đã phải rước lấy thảm bại mà không thể trách Thiên Chúa được điều gì.

Trong sách các vua của Cựu Ước, chúng ta đọc được câu chuyện này: Hoàng tử của vua Hieroboam nước Israel bị đau nặng, vua liền nói với hoàng hậu rằng:

- Bà hãy cải trang giả dạng, đừng để người ta nhận ra bà là hoàng hậu, rồi đem theo mười ổ bánh mì, với bánh sữa và bình mật ong, đi gấp lên Silô, gặp tiên tri Abia, để hỏi cho biết số phận hoàng tử con chúng ta thế nào, sống hay chết.

Lúc ấy tiên tri Abia chẳng còn trông thấy gì, hai mắt đã lòa vì quá già. Nhưng Chúa phán dạy tiên tri Abia rằng:

- Này hoàng hậu Hieroboam sẽ tới hỏi han về đứa con trai đang bị đau nặng; lúc đến, nàng sẽ cải trang thành một người khác.

Do đó, khi tiên tri Abia vừa nghe có tiếng người bước qua cửa, liền hỏi ngay:

- Hoàng hậu Hieroboam đó phải không? Xin mời vào, cớ sao phải giả dạng làm người khác làm gì? Tôi có trách nhiệm báo hung tin cho bà hôm nay. Bà cứ về thưa cùng vua Hieroboam, Thiên Chúa là Chúa dân Israel phán như sau: "Ta đã tôn ngươi lên giữa dân chúng. Ta đã đặt ngươi làm thủ lãnh Israel dân Ta. Ta đã xẻ đôi nước của gia đình Đavid mà trao cho ngươi. Nhưng ngươi đã không bắt chước Đavid tôi tớ, là tuân theo các mệnh lệnh của Ta. Trái lại, ngươi đã gây ra nhiều tội ác, lại còn thờ các thần ngoại bang mà bỏ Ta. Vì thế, nay Ta giáng họa trên gia đình Hieroboam, Ta sẽ trừ diệt nhà Hieroboam. Các người thuộc gia đình Hieroboam, nếu chết trong thành sẽ bị chó ăn thịt; nếu chết ngoài đồng, sẽ bị chim trời rúc rỉa. Thôi bà đứng dậy đi về đi, và khi về, bà vừa đặt chân tới cửa thị trấn, thì con trai của bà sẽ chết.

Và quả đúng như thế. Hoàng hậu Hieroboam về đến Thesa, vừa bước qua ngưỡng cửa, thì hoàng tử con bà chết liền, đúng như lời tiên tri Abia đã nói.

2. Đàng khác, nếu suy nghĩ xa hơn một chút nữa chúng ta sẽ thấy ý nghĩa còn thâm sâu hơn. Vườn nho chính là Giáo Hội. Thợ làm vườn nho sát nhân là những người Công giáo tội lỗi cố chấp đã làm khổ Giáo Hội, đã giết hại các tôi tớ đại diện Chúa.

Vua Julianus, hoàng đế cai trị nước Rôma từ năm 361 đến 363. Nhà vua là cháu hoàng đế Constantinô. Nhà vua là người Công giáo, nhưng lại không muốn sống đời hy sinh theo Chúa, không muốn cầu nguyện, không muốn tránh xa tội lỗi, nhưng chỉ muốn sống đời sống dâm đãng, bất công và không có lòng bác ái.  Chính vì thế mà nhà vua đã bỏ đạo rồi lại còn quay sang bắt bớ Giáo Hội. Sau khi đã lên án xử tử cho Đức Giáo Hoàng, nhà vua còn hỏi nhạo báng rằng:

- Ông Giêsu thợ mộc đang làm gì ở xưởng thợ Nazareth?

Đức Giáo Hoàng đã khiêm tốn thưa:

- Tâu đức vua, Chúa Giêsu của tôi ở trên trời, Ngài đang đóng quan tài cho đức vua.

Chẳng bao lâu sau đó, vua Julianus đem quân đi giao chiến với quân Ba-Tư, nhà vua bị một mũi tên của quân thù ghim thẳng vào trái tim. Nhà vua đã tức giận kéo mũi tên đó ra, lao lên trời mà kêu rằng: "Hỡi ông Giêsu người xứ Nazareth, ông đã thắng tôi rồi". Đoạn nhà vua tắt thở.

Hãy nhớ, Thiên Chúa đã kiên nhẫn nhưng không nhu nhược.

Xin kết thúc bằng những lời trong Sách Huấn Ca:

  Kính sợ Đức Chúa đem lại vinh quang và tự hào

  hân hoan và phấn khởi.(Hc 1,11)

  Kính sợ Đức Chúa khiến tâm hồn sung sướng,

  cho con người được hoan hỷ mừng vui

  và an khang trường thọ.(Hc 1,12)

  Ai kính sợ Đức Chúa sẽ thấy cuộc đời kết thúc tốt đẹp,

  ngày lâm chung họ sẽ được hưởng phúc lành.(Hc 1,13)


THỨ BA TUẦN 9 THƯỜNG NIÊN
Mc 12,13-17

Đức Giêsu bảo họ: "Của Cêsar, trả về Cêsar;
của Thiên Chúa, trả về Thiên Chúa."
(Mc 12,27)

1. Những người Do Thái cử một số người  Pharisêu đến hỏi để gài bẫy Chúa Giêsu. Câu hỏi của họ rất thâm độc: "Chúng tôi có phải nộp thuế cho Cêsar không?"(Mc 12,14).

Câu trả lời của Chúa vừa khôn,vừa khéo, vừa rõ:"Của Cêsar hãy trả cho Cêsar, của Thiên Chúa hãy trả cho Thiên Chúa"(Mc 12,17).

Qua câu trả lời trên, Chúa Giêsu nhắc cho mọi người nguyên tắc: con người có hai bổn phận phải chu toàn: đó là bổn phận đối với trần thế, và bên cạnh đó còn một bổn phận khác quan trọng hơn đó là những bổn phận đối với Thiên Chúa.

2. Vâng! Những người Pharisêu và đảng Hêrôđê đã dùng những lời lẽ rất tốt đẹp như những chiếc lá che trên những cái hố mà ở dưới họ đặt sẵn chiếc bẫy. Việc làm này chứng tỏ họ là những con người giả hình. Chúa Giêsu có lần đã ví họ như những nấm mồ bên ngoài quét vôi trắng xóa coi rất đẹp, nhưng bên trong thì đầy những xú uế thối tha bẩn thỉu.

Chúa rất ghét những con người giả hình như thế. Đối với Chúa thì con người phải biết sống trung thực với mình và với cả những người khác. Người trung thực là người sống thật với những gì mình có, không tô vẽ, không thêm bớt. Có sao nói vậy, có như thế nào sống như thế đó. Chỉ khi nào chúng ta biết sống như thế, thì cuộc sống mới trở nên tốt đẹp và mọi người mới có được  cuộc sống an bình.

Một hôm, vua Vũ Đế nhà Hán nói với các quan rằng:

- Ta xem trong sách tướng có nói, người ta nhân trung dài một tấc thì sống lâu một trăm tuổi.

Đông Phương Sóc đứng bên phì cười. Các quan bắt lỗi là vô phép.

Đông Phương Sóc cất mũ, tạ rằng:

- Muôn tâu bệ hạ, kẻ hạ thần không dám cười bệ hạ, chỉ cười ông Bành Tổ mặt dài mà thôi.

 Vua hỏi:

- Sao lại cười ông Bành Tổ?

Đông Phương Sóc nói:

- Tục truyền ông Bành Tổ sống tám trăm tuổi. Nếu quả thực như câu trong sách tướng bệ hạ nói thì nhân trung ông dài tám tấc, mà nhân trung dài tám tấc thì cái mặt ông ta dễ phải dài đến một trượng.

Vua Vũ Đế nghe nói bật cười tha tội cho.

Hãy coi chừng kẻo chúng ta cũng vấp phải chứng giả dối, đối xử với nhau theo kiểu những lời nói đầu môi chóp lưỡi, những lời khen ngợi không thành thực, những câu nói gài bẫy hại người. Sống với những người như thế thật là nguy hiểm. Nếu tôi thật là như vậy thì tôi cũng thật nguy hiểm cho những người sống chung với tôi.

3. Việc nộp thuế hằng năm cho Đền thờ Jêrusalem là một luật buộc cho tất cả những người Do Thái, phái nam từ hai mươi tuổi trở lên phải nộp thuế, cả khi người đó sinh sống ngoài lãnh thổ Israel và số tiền phải trả tương đương với số lương của hai ngày làm việc.

Thói quen đóng thuế là vào tháng ba trước khi mừng lễ Vượt Qua. Chúa Giêsu, với tư cách là Con Thiên Chúa, thì Ngài phải được miễn nộp thuế Đền thờ. Vì theo luật Rôma đang có hiệu lực thời đó thì những thành phần của gia đình nhà vua, không phải nộp thuế. Tuy nhiên, để khỏi gây ra gương mù gương xấu, để khỏi làm gai mắt họ thì Chúa Giêsu đã nộp thuế. Cách hành xử của Chúa có thể là một bài học thiết thực cho mỗi người. Chúa Giêsu hành xử không theo tiêu chuẩn công bằng mà là bác ái, để khỏi gây ra gương mù gương xấu cho anh em. Chúa tuân giữ cả những điều nhỏ mà thật ra Chúa không buộc phải giữ.

4. Trong cuộc sống của tôi, thử hỏi những gì là "của Cêsar" (nghĩa là thuộc về vật chất, thế gian) và những gì là "của Thiên Chúa".

Ông Sam Jones là một nhà truyền đạo trứ danh bên Mỹ, ngày kia, có tín đồ than thở với ông rằng:

- Thưa ông, tôi đóng góp cho Hội Thánh nặng quá!

- Bao nhiêu một năm? Ông Jones hỏi.

- Năm đồng một năm.

- Thế ông tin Chúa đã bao lâu?

- Đã bốn năm nay.

- Trước khi tin Chúa ông làm gì?

- Tôi nghiện rượu.

- Mỗi năm ông uống rượu hết bao nhiêu tiền?

- Chừng 250 đồng mỹ kim..

- Khi ấy ông có đất ruộng gì không?

- Tôi phải mướn đất, cày bừa với một con bò.

- Bây giờ ông có gì không?

- Tôi có một khu ruộng tốt và một đôi ngựa cày.

Bấy giờ, ông Jones mới nghiêm nghị trách rằng:

- Trước đây, ông cho ma quỉ mỗi năm 250 đồng để được cày ruộng thuê với một con bò, mà nay Đức Chúa Trời đã cứu ông, nay ông chỉ dâng cho Ngài năm đồng mỗi năm để được cày ruộng riêng của mình với một đôi ngựa. Đúng ông là người bội bạc từ đỉnh đầu đến bàn chân! (NTS).

Vâng! Tất cả đều là hồng ân Chúa ban và phải trả lẽ với Chúa về những hồng ân Người ủy thác.  Chúng ta phải dùng ân huệ Chúa ban cho thật xứng đáng. Lòng tin nhắc nhở chúng ta rằng, chúng ta chỉ là môn đệ Chúa, là người có bổn phận chia sẻ hồng ân Chúa ban cho với người khác và sử dụng nó trong thời gian nào đó mà thôi.


THỨ TƯ TUẦN 9 THƯỜNG NIÊN
Mc 12,18-27

"Quả vậy, khi người ta từ cõi chết sống lại,
thì chẳng còn lấy vợ lấy chồng,

nhưng sẽ giống như các thiên thần trên trời."
(Mc 12,25)

1. Tin Mừng kể lại nhiều lần, người Do Thái tìm cách gài bẫy Chúa Giêsu, nhưng họ đều gặp phải cảnh: gậy ông đập lưng ông. Hôm nay, họ lại tìm cách bày trò để gài bẫy Chúa một lần nữa. Theo bài Tin Mừng chúng ta vừa nghe, thì họ muốn chế nhạo Chúa về việc tin vào sự sống lại, tức là đụng đến tín điều Phục Sinh.

Để làm công việc này, họ bày ra một câu chuyện tuy khó xảy ra trong thực tế nhưng lại rất hợp lý về phương diện lý luận và luật pháp.  Câu chuyện thế nào thì chúng ta đã được nghe.

Trong câu trả lời, Chúa Giêsu đã cho họ thấy hai điểm:

- Một là, quan niệm của họ về cuộc sống mai hậu còn quá thô sơ và không hiểu tí gì về quyền năng của Thiên Chúa: Chẳng phải vì không biết Kinh Thánh và quyền năng Thiên Chúa mà các ông lầm sao? (Mc 12,24).

- Hai là họ không nhận ra được ý nghĩa của sự Phục Sinh được hàm chứa trong câu Thiên Chúa tự xưng mình là Thiên Chúa của các Tổ phụ: Ngài không phải là Thiên Chúa của kẻ chết nhưng là Thiên Chúa của kẻ sống.(Mc 12,27)

Và lại một lần nữa, Chúa bịt miệng họ một cách hết sức ngoạn mục.

Đây không phải là lần đầu tiên Chúa Giêsu bị nhạo cười. Người ta đã từng cho Người là khùng, là điên, là bị quỉ ám. Mãi đến khi gần chết trên Thánh Giá mà quân lính hành hình Chúa vẫn còn nhạo cười Ngài: "Để xem ông Êlia có đến cứu hắn không! Nó đã cứu được kẻ khác mà nay lại không cứu được mình!" (Mt 15,31).

2. Ngày nay, cũng chẳng khác gì ngày xưa. Cũng có một số người không tin vào sự tồn tại của chính mình ở đời sau. Họ đang sống như chỉ có đời này. Họ đang hưởng thụ không biết mệt mỏi. Họ sống như chỉ có một mình mình, không cần biết đến ai, không cần để ý xem tương lai mình sẽ ra sao….Thậm chí có lúc họ còn cho những người tin vào đời sống mai hậu là ngu dại.

Thế nhưng, thực tế có như vậy hay không thì mỗi người phải tự mình suy xét lại.

Người ta đã đọc thấy trên mộ của một người ở nghĩa trang: "Đây là nấm mồ của một người dại dột, đã sống mà không biết tại sao mình sống".

Nhà triết học Diogenes ngày xưa đã viết: "Trong tất cả mọi sự, hãy nhìn đến cùng đích cuộc đời của mình."

Một bác sĩ sản khoa nọ đã viết nên một câu chuyện rất hay. Chuyện kể rằng: Một lần nọ, bác sĩ ấy đã thử nói chuyện với một bào thai.  Bác sĩ nói:

- Bào thai ơi, thời gian trong bụng mẹ chỉ là giai đoạn sửa soạn, cuộc đời thực sự sẽ đến sau này trên trần thế. Đó là một cuộc đời mà ngươi chưa biết và không thể tưởng tượng ra được.

Nghe vậy, bào thai phản ứng:

- Thôi ông đừng có nói chuyện mê tín dị đoan. Cuộc đời trong bụng mẹ tôi là cuộc đời duy nhất mà tôi biết được lúc này, ngoài ra không còn cuộc đời nào khác nữa. Một cuộc sống ở nơi nào khác chỉ là điều bịa đặt của những kẻ cuồng tín.

Nhưng, suy nghĩ một hồi, bào thai tự thắc mắc:

- À, nhưng mà tôi sẽ có mắt ở trên mặt. Để làmchi nhỉ? Ở đây đâu có gì để nhìn? Tôi sẽ có chân, nhưng tôi không có đủ chỗ để duỗi người ra, vậy có chân để làm gì đây? Và tại sao tôi lại phải có tay? Có tay để cứ khoanh mãi như thế này mãi ư? Tay sẽ làm phiền tôi và mẹ tôi. Sự tăng trưởng của tôi trong lòng mẹ sẽ thật vô nghĩa, nếu như sau này không có một cuộc đời với ánh sáng, màu sắc và nhiều điều khác nữa để tôi nhìn ngắm. Không gian mà cuộc đời khác của tôi sẽ sống, chắc là vĩ đại lắm nhỉ? Chắc là tôi phải đi thật nhiều nên tôi mới cần có đôi chân? Chắc là tôi phải làm việc nhiều và chiến đấu cam go lắm, nên tôi mới cần có đôi tay? Bác sĩ nói đúng đấy! Chắc chắn phải có một cuộc đời khác nữa trên trần thế ở bên ngoài bụng mẹ tôi.

Chắc chắn phải có một cuộc đời khác nữa trên trần thế ở bên ngoài bụng mẹ tôi.

Vâng, chúng ta đang sống trong trần gian và niềm tin Chúa muốn dạy chúng ta qua bài Tin Mừng hôm nay là: Chắc chắn có một cuộc đời khác nữa sau cuộc sống trên trần thế này.

Chúa đã từng nói: "Thầy đi để dọn chỗ cho các con"(Ga 14,2).

Như vậy, cuộc đời trên trần gian này không khác gì bào thai cũng đang sửa soạn cho một cuộc đời thực sự sẽ đến. Cuộc sống hôm nay của chúng ta cũng là chuẩn bị cho cuộc sống sau này trên Nước Trời.  Cũng như mắt, chân và tay của bào thai chuẩn bị cho cuộc đời sắp đến, thì sự có mặt của mỗi người trên trần thế cũng đang chuẩn bị cho cuộc sống mai sau.

Thánh Phaolô: "Anh em hãy hướng lòng trí về những gì thuộc thượng giới, chứ đừng chú tâm vào những gì thuộc hạ giới". (Cl 3,2)

Lạy Chúa, xin cho con được luôn hướng lòng lên Chúa. Amen.


THỨ NĂM TUẦN 9 THƯỜNG NIÊN
Mc 12,28b-34

"Yêu mến Thiên Chúa hết lòng, hết trí khôn,
hết sức lực, và yêu người thân cận như chính mình"
(Mc 12,33).

1. Hôm nay, đến lượt các luật sĩ tấn công Chúa Giêsu: "Trong các giới răn, giới răn nào là trọng nhất?" (Mc 12,28). Chúa Giêsu đã trả lời rất gọn gàng và rõ ràng: Hai giới luật quan trọng nhất đó là hết lòng yêu mến Thiên Chúa và yêu thương tha nhân như chính mình.

Có nhiều người lương dân nhìn vào đạo Công giáo chúng ta với rất nhiều thành kiến. Họ cho rằng, đạo Công giáo là một hệ thống những giới răn và kinh kệ dài dòng, mà phải mất cả đời mới có thể học thuộc và tuân giữ được. Quả thực, cách sống đạo của một số Kitô hữu hiện nay có thể làm cho nhiều người ngộ nhận như thế. Thực ra thì đạo của Chúa rất đơn giản. Đạo dạy cho người ta biết có một Thiên Chúa. Ngài là tình yêu. Ngài yêu thương mọi người. Và vì yêu thương, Ngài đã sai Con Một Ngài xuống trần để mặc khải cho con người về tình yêu của Ngài và mời gọi con người hãy sống yêu thương để được hạnh phúc thật. Tất cả mọi giới răn và lề luật của Chúa được tóm gọn trong hai chữ yêu thương ấy.

"Ngươi phải yêu mến Thiên Chúa ngươi hết lòng. Và hãy thương yêu đồng loại như chính mình ngươi. Toàn thể lề luật cùng các tiên tri đều qui về hai  giới răn này."(Mc 28,30-31).

Như vậy, Chúa Giêsu đã xác định cái cốt lõi của mười điều răn là: yêu mến. Mến Chúa yêu người, hai giới răn khác nhau, nhưng không thể tách biệt nhau: chối bỏ một giới răn này, cũng có nghĩa là chối bỏ giới răn kia. Về điểm này, thánh Gioan Tông đồ đã viết rất hay: "Ai nói mình yêu mến Thiên Chúa mà lại ghét anh em mình, thì đó là kẻ nói dối, vì kẻ không yêu mến người anh em nó thấy đó, tất không thể yêu mến Thiên Chúa, Đấng nó không thấy". (1Ga 4,20).

2. "Hãy yêu mến tha nhân như chính mình…" (Mc 12,33).

Một đôi vợ chồng nọ bán phở trên hè phố được một thời gian khá dài. Giá cả phải chăng cùng với nụ cười chân thành làm cho quán ăn của họ luôn tấp nập khách ra vào. Đến quán phở của họ nhiều lần, tôi phát hiện thấy sáng nào cũng có một cụ già ăn mặc rách rưới lặng lẽ đứng chờ ở một góc.

Nhìn thấy bà cụ đến, dù hai vợ chồng còn rất bận rộn với những việc đang dang dở, họ vẫn luôn mỉm cười nói với bà cụ:

- Bà chờ cháu một chút nhé, cháu sẽ làm ngay cho bà.

Một lát sau, vợ hoặc chồng họ nhanh nhẹn bỏ phở vào trong chiếc hộp giấy, múc nước phở bỏ vào trong túi "ny-lon", buộc lại rồi đưa cho bà cụ, và luôn nhắc cụ cẩn thận kẻo bỏng tay. Bà cụ run rẩy đưa đôi tay gầy guộc ra nhận, rồi lặng lẽ quay người ra đi. Nhưng điều kỳ lạ là, dường như chưa lần nào tôi thấy bà cụ trả tiền.

Một hôm, vì không kìm nén nổi sự tò mò, tôi đã hỏi họ. Người vợ thở dài nói:

- Bà cụ ấy thật tội nghiệp, khó khăn lắm mới nuôi con cái khôn lớn. Vậy mà đến già lại không có chỗ nương tựa. Gia đình chúng tôi cũng không được dư giả gì. Giúp đỡ nhiều hơn thì chúng tôi không có khả năng, nhưng chỉ cần bà cụ đến là chúng tôi luôn đãi cụ một bát phở.

Trên nét mặt người phụ nữ trung niên ấy dường như lộ vẻ áy náy, dường như chị cảm thấy có lỗi khi chỉ giúp đỡ bà cụ được như thế.

Tôi để ý và luôn nhận thấy vợ chồng họ đối xử lễ phép và tôn trọng bà cụ giống như những người khách hàng khác, không hề tỏ ra một chút coi thường hay ban ơn.

Sau này, trên phố xuất hiện khá nhiều quán phở, nhưng tôi chỉ thích đến quán phở của họ. Tôi thích ngồi trên chiếc ghế cũ kỹ, trong âm thanh náo nhiệt của đường phố, lặng lẽ nhìn hai vợ chồng họ chìa đôi bàn tay thô ráp, tặng cho một bà cụ còn nghèo túng hơn mình cả một tấm lòng yêu thương và nhân ái.

Bố thí cho người khác, có lẽ rất nhiều người dễ dàng làm được. Nhưng bố thí cho người khác với một thái độ chân thành và nhân ái, thì không phải ai cũng có thể làm được.

Mẹ Têrêsa từng nói: "Hãy là hiện thân cho lòng nhân ái của Thượng Đế bằng cách thể hiện trên nét mặt, trong ánh mắt, trong nụ cười và cả trong những lời chào nồng nhiệt của mình."

Lạy Chúa,
xin ban cho chúng con ánh sáng đức tin
để nhận ra Chúa hôm nay và hằng ngày,
nơi khuôn mặt khốn khổ
của tất cả những người bị thử thách:
những kẻ đói, không chỉ vì thiếu của ăn,
nhưng vì thiếu Lời Chúa ;
những kẻ khát, không chỉ vì thiếu nước,
nhưng còn vì thiếu bình an, sự thật,
công bằng và tình thương ;
những kẻ vô gia cư,
không chỉ tìm kiếm một mái nhà,
nhưng còn tìm một con tim hiểu biết, yêu thương;
những kẻ bệnh hoạn và hấp hối,
không chỉ trong thân xác,
nhưng còn trong tinh thần nữa,
bằng cách thực thi lời hy vọng này:
"Ðiều mà ngươi làm
cho người bé mọn nhất trong anh em
là làm cho chính Ta". (Mẹ Têrêsa)


THỨ SÁU TUẦN 9 THƯỜNG NIÊN
Mc 12,35-37

"Chính vua Đavid được Thánh Thần soi sáng đã nói:
Đức Chúa phán cùng Chúa Thượng tôi:
 bên hữu Cha đây, Con lên ngự trị,
để rồi bao địch thù,

Cha sẽ đặt dưới chân Con."
(Mc 12,36)

1. Hôm qua, các luật sĩ đặt vấn đề với Chúa về giới răn quan trọng nhất. Hôm nay, đến lượt Chúa Giêsu đặt vấn đề với họ. Vấn đề Chúa đặt ra cho họ hôm nay là vấn đề thần tính của Chúa.

Họ nói Chúa Giêsu là con vua Đavid. Thế tại sao Đavid lại gọi Đấng Messia bằng Chúa?(Tv 110)

Khi nói như thế, Chúa muốn chứng tỏ rằng, Ngài chỉ là con Vua Đavid về phần xác, còn về phần thiêng liêng thì Ngài là Con Thiên Chúa và là Chúa của Vua Đavid.

"Con của Vua Đavid" là một tước hiệu để gọi Đấng Messia. Tuy nhiên, Chúa Giêsu không thích xưng mình với tước hiệu này, vì nó dễ gợi lên một quan niệm lệch lạc trong đầu óc người ta về một Đấng Messia cao sang uy quyền. Ngài thích xưng mình là Con Người hơn. Sở dĩ hôm nay Ngài dùng tước hiệu "Con Vua Đavid" là chỉ vì Ngài muốn mở trí cho các luật sĩ hiểu Ngài là ai thôi.

Chúng ta biết vua Đavid là vị vua rất nổi tiếng mà dân Do Thái kính phục và hãnh diện. Vua Đavid là một con người đại lượng. Ông đã không trừng phạt Saolê dù ông có thể (1Sm 24,26). Ông hoàn toàn vâng theo thánh ý Thiên Chúa (2Sm 15,25). Ông viết các thánh vịnh. Ông còn là một nhạc sĩ, là nhà kiến trúc vẽ đồ án đền thánh. Quả thực, nhìn lại cuộc đời của ông, người ta thấy ông có một số lầm lỗi, nhưng cách chung ông là một vị vua sáng giá. Người Do Thái quan niệm rằng, làm vua theo dòng họ Đavid là cao trọng nhất. Cho nên nói rằng, Đấng Cứu Thế xuất thân từ nhà Đavid, là tôn vinh giá trị cao nhất của Ngài. Hơn thế nữa, Ngài còn là Chúa của Đavid.

Kinh Thánh đã nhiều lần minh chứng và gọi Chúa Giêsu là con vua Đavid (Mt 1,1). Dân chúng đã từng xưng tụng Chúa là con vua Đavid trong ngày Lễ Lá (Mt 21,9). Người mù thành Giêrikhô cũng đã kêu lên: "Lạy Con Vua Đavid, xin thương xót tôi" (Mc 10,47).

Đức Kitô đã không bao giờ từ chối tước hiệu này, nhưng tước hiệu đó chưa diễn tả đủ vàđúng về Ngài. Vì thế, để kiện toàn những lời đã hứa với Đavid, Chúa Giêsu tuyên bố mình còn lớn hơn Đavid, Ngài là Chúa của Đavid (Mt 22,42-45). Đavid chỉ là một chủ chiên của dân Chúa (Ez 34,23t), Chúa Giêsu mới là chủ chiên thật, hiền lành thí mạng sống cho cả Đavid nữa. Rồi đây, người  ta sẽ thấy Đấng là con Đavid sẽ trở lại ngày phán xét (Xh 22,16).

Như vậy, vấn đề được Chúa đặt ra ngày hôm nay là "Chính vua Đavid gọi Đấng Kitô là Chúa thượng thì do đâu Đấng Kitô lại còn là con vua ấy được?" (Mc 12,37). Thật là một câu hỏi dễ trả lời nếu như người ta tin nhận Chúa Giêsu là Đấng Cứu Thế, là Con Thiên Chúa nhưng điều này những người Do Thái chưa thể vươn tới. Chính vì thế mà họ không tìm ra được câu trả lời.

2. Còn chúng ta, chúng ta đã biết và tin Chúa Giêsu là Con Thiên Chúa. Uớc gì niềm tin của chúng ta luôn vững mạnh để chúng ta biết sống thật can đảm trên con đường đi theo Ngài.

Ngày quân đội Liên Xô tràn vào chiếm thủ đô Hungary, một viên sĩ quan trẻ dáng vẻ hung hãn, đầy tự đắc của kẻ chiến thắng đã đến gặp vị mục sư.

Viên sĩ quan chỉ cây Thánh Giá treo trên tường và nói:

- Ông biết không? Cái đó là sự dối trá do các mục sư bày ra để làm mê hoặc đám dân nghèo, giúp cho những kẻ giàu dễ dàng kìm hãm họ trong cảnh ngu dốt. Bây giờ chỉ có ông với tôi. Ông hãy thú nhận với tôi rằng, ông không hề bao giờ tin ông Giêsu là Con Thiên Chúa.

Vị mục sư cười và trả lời:

- Ông bạn ơi, tôi tin thật đấy, vì đó là sự thật.

Viên sĩ quan quát lớn:

- Ông đừng có lừa dối tôi, cũng đừng diễu cợt tôi!

Nói thế rồi anh ta rút súng ra chĩa vào vị mục sư và hăm dọa:

- Nếu ông không nhận rằng, đó chỉ là sự dối trá, thì tôi bắn ông!

Vị mục sư điềm tĩnh trả lời:

- Tôi không thể nói như vậy, vì không đúng. Đức Giêsu thật là Con Thiên Chúa.

Nghe thế, viên sĩ quan liền bỏ khẩu súng xuống sàn nhà, chạy lại ôm chầm lấy vị mục sư vừa khóc vừa nói:

- Đúng thế, đúng thế! Tôi cũng tin như vậy. Nhưng tôi không thể tin rằng, có người dám chết vì đức tin, cho tới khi chính tôi khám phá ra điều này. Tôi xin cám ơn ngài. Ngài đã củng cố lòng tin của tôi. Ngài đã chứng minh cho tôi thấy rằng, vẫn có người dám chết cho Đức Kitô.

Lạy Chúa Giêsu, con đã nhận Ngài là Chúa của con. Con đã được học, được nghe, được người ta thuyết giảng rất nhiều về Ngài. Xin cho con đừng bao giờ dừng lại ở những giáo thuyết, những diễn tả bằng ngôn từ, nhưng mỗi ngày biết khám phá ra khuôn mặt sống động của Chúa cũng như sự mới lạ qua Lời Ngài  trong cuộc sống chúng con đang sống hôm nay (Hosanna).


THỨ BẢY TUẦN 9 THƯỜNG NIÊN
Mc 12,38-44

"Thầy bảo thật anh em: bà goá nghèo này
đã bỏ vào thùng nhiều hơn ai hết."
(Mc 12,43)

1. Có hai hình ảnh rất đối nghịch nhau trong đoạn Tin Mừng này:

- Một bên là hình ảnh của các luật sĩ: rất cao sang, vinh dự với áo thụng, chức quyền, được người ta bái chào, được ngồi những chỗ nhất. Thế nhưng, đó chỉ là cái vỏ, che đậy bên trong là một tâm hồn kiêu căng, tham lam, ức hiếp kẻ yếu đuối.

- Bên kia là hình ảnh một bà goá: nghèo tiền nhưng rất giàu lòng.

Chúa Giêsu coi đây là hình ảnh đẹp nên "gọi các môn đệ đến" chỉ cho họ thấy và bảo họ noi gương.

2. Chúa Giêsu dạy một điều rất lạ mà rất hay: có khi nhiều mà là ít, như số tiền dư thừa mà những người giàu có bỏ ra; có khi ít mà lại là nhiều, như một phần tư xu của bà goá nghèo. Nhiều không phải ở của bỏ ra mà là ở tấm lòng và sự hy sinh của mình.

Được vinh dự, được ngợi khen, được tôn trọng, được coi là đạo đức… Ai mà không muốn. Chúng ta cũng thế thôi. Nhưng Chúa bảo "hãy coi chừng": coi chừng đừng chỉ lo tô vẽ bề ngoài, coi chừng kẻo bề trong tương phản với bề ngoài ấy. Điều quan trọng hơn là phải bồi dưỡng bề trong trước.

Chuyện kể rằng: một người được mời đến dự buổi tiệc lớn. Ông vui vẻ nhận lời và khoác bộ áo xấu nhất. Đến nơi, không ai thèm cười và để ý đến ông. Ông quay về khoác bộ áo đẹp có đính kim cương và các hạt nút bằng vàng. Trong khi ấy yến tiệc vẫn tiếp tục. Ông quay trở lại, lập tức bao lời mời đẹp nhất, danh dự nhất đều dành cho ông. Thịt béo rượu thơm lúc này được bày ra trước mắt ông và ông được mời vào ngồi chỗ nhất.

Nếu sự việc chỉ đến đây thì có lẽ chẳng có gì phải nói. Thế nhưng, điều làm nhiều người phải ngạc nhiên là khi ông vừa yên vị xong thì ông liền đứng lên ngay, cởi áo khoác lên ghế, đoạn lấy thức ăn đưa cho cái  áo và nói:

- Mày ăn uống đi, người ta mời mày đó!

Mọi người hết sức ngạc nhiên, nhưng đều hiểu ý ông. Ông muốn nói với mọi người rằng, giá trị của con người không ở bộ áo xúng xính hay cái mã bên ngoài, nhưng đó là tấm lòng bên trong; không ở những cái mình có nhưng ở cái mình là.

Lời Chúa hôm nay đối với chúng ta không chỉ là cảnh giác nhưng còn là lời tra vấn.

3. Việc bà goá làm trong Tin Mừng hôm nay còn nhắc chúng ta về bổn phận đóng góp cho Giáo Hội: chúng ta đã hưởng nhờ của Giáo Hội biết bao nhiêu thứ, thế nhưng chúng ta có ý thức bổn phận phải góp một phần nào về tinh thần hoặc vật chất cho Giáo Hội không? Sách giáo lý mới có cả một giới răn để nhắc cho chúng ta bổn phận này. Đó là điều răn thứ năm dạy các tín hữu có bổn phận chu cấp những nhu cầu vật chất cho Hội Thánh, tùy theo khả năng mỗi người. (Số 1387,1438)

Chúa không cần chúng ta làm những việc to tát nhưng Chúa muốn tấm lòng của chúng ta. Ngài sẽ ghi công không phải chúng ta làm được điều gì lớn lao đối với Ngài, nhưng sẽ trân trọng những gì chúng ta làm vì lòng yêu mến Ngài. 

Tổng thống Wilson Hoa Kỳ, người đã đưa đế quốc Mỹ can thiệp vào thế chiến thứ I, là người rất trân trọng đối với những kỷ niệm nhỏ.

Một lần kia, ông và phu nhân cùng nhiều nhân vật cao cấp trong chính phủ dừng lại tại một thành phố tiểu bang Montana. Cảnh sát làm hàng rào không cho bất cứ ai đến gần vị tổng thống. Thế nhưng, không hiểu thế nào mà có hai cậu bé đã chui lọt hàng rào để đến gần chỗ ngồi của tổng thống. Hai cậu bé ngắm nhìn một cách say sưa vị nguyên thủ quốc gia.

Một cậu đã tặng cho ông lá cờ nhỏ bé của nước Mỹ đang cầm trong tay. Cảnh sát cố tình ngăn cản, nhưng bà Wilson đã đưa tay đón lấy lá cờ và nhiệt tình cám ơn em. Cậu bé kia cảm thấy buồn vì không có gì dâng tặng tổng thống. Cậu cố tìm trong túi quần và cuối cùng lôi ra được đồng xu nhỏ. Cậu sung sướng vô cùng, vì chính tổng thống đã chìa tay đón nhận món quà của cậu.

Năm năm sau, tổng thống Wilson qua đời. Khi bà Wilson xếp lại các đồ dùng quen thuộc của chồng, mở chiếc ví, bà thấy một bọc giấy được giữ gìn cẩn thận. Cởi bọc giấy, bà nhận ra ngay đồng xu nhỏ mà cậu bé đã tặng chồng bà cách đây 5 năm. Ông Wilson quí đồng xu nhỏ ấy đến độ đi đâu cũng mang nó trong mình.

Mẹ Têrêsa nói: "Chúng ta nên học cách trao tặng. Không nên coi trao tặng như một bổn phận nhưng như một khát vọng. Tôi thường nói với các cộng tác viên: "Mẹ không cần phần thặng dư của các con. Mẹ không muốn các con cho mẹ những đồ thừa. Người nghèo của chúng ta không cần các con đoái thương, không cần tình cảm thương hại của các con. Người nghèo cần tình yêu và lòng nhân ái".

Lạy Chúa, xin nhận lấy tấm lòng yêu thương trìu mến đơn sơ nhỏ bé của chúng con. Amen.

Top