Suy niệm Lời Chúa hằng ngày: Tuần Bát nhật Phục sinh

Suy niệm Lời Chúa hằng ngày: Tuần Bát nhật Phục sinh

MÙA PHỤC SINH

CANH THỨC VƯỢT QUA
VỌNG PHỤC SINH

“Thấy hòn đá lăn ra khỏi mồ,
nhưng bước vào, các bà không thấy xác Chúa Giêsu.”

(Lc 24,1-12)

"Sao các bà lại đến giữa kẻ chết mà tìm Đấng hằng sống? Người không còn ở đây nữa, nhưng đã sống lại rồi. Hãy nhớ lại điều Ngài đã nói với các bà khi còn ở Galilê là: Con Người sẽ phải nộp vào tay phường gian ác, phải đóng đinh vào thập giá, rồi ngày thứ ba sẽ sống lại" (Lc 24,5-7). Các bà liền bỏ ra về, kể cho nhóm Mười Một, và mọi người khác biết tất cả những sự việc ấy. Đó là tin vui, tin mừng, tin lành mà hai người mặc áo trắng tức là hai Thiên Thần ở trong mộ Chúa nói với các phụ nữ ra thăm mộ ngay từ tảng sáng ngày thứ nhất trong tuần, tức ngày Chúa nhật bây giờ. Các bà này về nói lại với các tông đồ và mọi người. Thế là các phụ nữ này đã trở thành những nhà truyền giáo đầu tiên loan tin mừng Chúa Phục sinh cho các môn đệ Chúa. Nhưng Tin vui, Tin mừng cho ai?

Trước hết là Tin vui cho những người phụ nữ ra thăm mồ Chúa! Đây là những phụ nữ đã theo Chúa Giêsu từ Galilê. Họ đã bỏ công bỏ của giúp đỡ Chúa và các tông đồ và đã coi Chúa như người thân của mình. Sau khi Chúa Giêsu bị bắt, bị đánh đòn, bị đóng đinh trên thập giá, được mai táng trong mồ vào chiều ngày thứ sáu, họ ra về buồn rầu, lòng quá thất vọng. Sáng sớm ngày thứ nhất trong tuần, tức là sau ngày sabát, lễ nghỉ, họ vội vàng ra thăm mộ. Họ vô cùng ngạc nhiên vì thấy tảng đá lớn lấp cửa mồ đã được lăn qua một bên. Đi vào trong họ không thấy xác Chúa mà chỉ thấy hai người thanh niên lạ mặt nói với các bà là Chúa đã sống lại, không còn ở đây nữa! Chúa đã sống lại rồi ư? Nhưng Ngài đang ở đâu? Sau khi được hai người lạ nhắc lại những gì Ngài đã nói khi còn sống, họ đã tin và vui mừng trở về báo tin cho các tông đồ.

Chúa Kitô đã phục sinh đó là tin vui cho các Tông đồ.

Sau những biến cố đau thương dồn dập, họ ê chề trở về nhà tiệc ly với tâm trạng vô cùng thất vọng. Bao nhiêu mộng ước công hầu khanh tướng, được ngồi bên tả bên hữu Thầy khi Thầy làm vua Israel, nay trở thành mây khói. Lại còn sợ người biệt phái và luật sĩ đến bắt nữa. Nay bỗng thấy mấy người phụ nữ báo tin Chúa đã sống lại, họ không tin, cho là chuyện nhảm nhí của đàn bà dễ tin. Nhưng rồi Phêrô và Gioan cũng tò mò ra xem và họ không thấy xác Chúa, chỉ thấy khăn liệm. Phêrô thì bỡ ngỡ còn Gioan thì tin. Sau đó, Chúa Giêsu Phục sinh đã hiện ra với các ông nhiều lần để củng cố niềm tin cho các ông. Đó là tin vui cho họ và rồi đây họ sẽ đi khắp thế gian rao giảng Chúa Phục sinh và sẵn sàng chết để làm chứng về điều đó.

Chúa Giêsu Phục sinh, đó cũng là tin vui cho tất cả nhân loại.

Với những người chưa tin thì dù họ có biết hay không, việc Chúa Phục sinh vẫn là nguồn ơn cứu rỗi cho mọi người. Như mặt trời chiếu sáng, như mưa từ trời xuống, ơn cứu độ của Chúa Kitô tử nạn và Phục sinh vẫn có đó, để bất cứ ai mở rộng tâm hồn đón nhận thì sẽ được hưởng nhờ.

Đặc biệt, việc Chúa Giêsu Kitô đã chết và đã Phục sinh còn đáp ứng được khát vọng sâu xa nhất của con người. Đó là muốn được trường sinh bất tử. Chúa Phục sinh chỉ cho họ thấy rằng ngoài cuộc sống ở đời này, còn có một cuộc sống khác, một cuộc sống trường sinh, hạnh phúc bất diệt do Đức Kitô Phục sinh ban tặng cho họ.

Với những người đã tin vào Chúa Phục sinh, họ sẽ coi thường mọi khổ đau thua thiệt vì tin theo Chúa. Họ noi gương Chúa Kitô vượt qua mọi kỳ thị, o ép, hiềm khích của người khác, vượt thắng mọi đam mê tội lỗi, mọi cám dỗ, thậm chí cả cái chết, vì họ biết rằng sau khi chết, họ sẽ được sống lại với Chúa Phục sinh và được hưởng hạnh phúc bất diệt với Ngài. Gương các thánh tử đạo, nhất là các thánh tử đạo Việt Nam đã chứng tỏ điều đó.

Hơn nữa, họ luôn sống lạc quan, tin tưởng và hy vọng. Nhất là tích cực giúp người khác cùng sống lạc quan và hy vọng, qua những việc bác ái yêu thương để được sống tốt hơn. Chúng ta nghĩ đến những trẻ em nghèo thất học, được biết bao người quảng đại giúp đỡ để các em có điều kiện học hành; những người nghèo được giúp đỡ những phương tiện để nâng cao mức sống; người neo đơn bệnh hoạn được viếng thăm an ủi; người khổ sầu thất vọng tìm lại được sự hy vọng phấn khởi để tiếp tục vui sống. Đó không phải là làm cho ơn Phục sinh của Chúa được thực hiện trong cuộc sống ư? Đó không phải là truyền giáo ư?

Một linh mục người Barazil kể rằng: mỗi ngày tôi đi qua một quãng đường ở thủ đô Rio De Janeiro, tôi thấy một người ăn xin còn trẻ, đôi chân bị tật, ngồi tựa lưng vào tường. Biết bao người qua lại nhưng dường như không một ai để ý đến anh ta. Lần kia, tôi dừng lại hỏi anh: Anh có muốn đi không? Anh đưa cặp mắt nhìn tôi với vẻ dò xét, rồi nói: tôi luôn hy vọng một ngày nào đó có được một cặp nạng, nhưng làm sao có được. Tôi chỉ còn biết mơ thôi! Tôi bắt tay ông và hứa: một ngày gần đây, giấc mơ của ông sẽ thành sự thật.

Trong bài giảng thánh lễ Chúa nhật sau đó, tôi thuật lại câu chuyện trên và đề nghị cộng đoàn giúp đỡ. Cuộc lạc quyên bắt đầu. Tôi hết sức vui mừng vì đã dư tiền để mua một cặp nạng. Tôi liên lạc với bệnh viện và đưa anh đến đó nhờ họ giúp ông tập đi đứng một mình. Lễ Phục sinh đến, tôi mời anh đến dự lễ và dành cho anh một ghế đặc biệt gần cung thánh. Bài giảng hôm đó, tôi nói đại khái: Chúa Giêsu Kitô đã phục sinh để sống cuộc sống mới. Ngài ban cho chúng ta thông phần vào khả năng trao tặng nhau những cuộc sống mới. Nhờ lòng hảo tâm của mọi người, người bạn chúng ta đây đã được trao tặng một cuộc sống mới. Nói xong, tôi mời anh ta đứng dậy đi lại trước cộng đoàn. Một tràng pháo tay vang dội, ai ai cũng phấn khởi, anh bạn chúng tôi khóc vì sung sướng và hầu như mọi người ai cũng không cầm được nước mắt vì cảm động. Chúng ta vẫn có thể góp phần giúp nhiều người khác được phục sinh cả xác hồn.


CHÚA NHẬT PHỤC SINH
(LỄ BAN NGÀY)

Ga 20,1-9

Sau ngày Chúa chịu chết, các môn đệ rơi vào một tình trạng thê thảm: buồn rầu, sợ hãi, chán nản, thất vọng.

Còn đâu niềm vui khi được ở bên người Thầy yêu dấu. Còn đâu an ủi khi thấy những người đói khát được ăn no, người bệnh tật được chữa lành, kẻ tội lỗi được tha thứ, người chết được sống lại. Còn đâu niềm hy vọng tràn trề khi chứng kiến ma quỷ bị xua đuổi.

Tất cả đã chìm sâu vào quá khứ. Giờ đây sự ác đã chiến thắng, sự dữ đã thống trị. Cả một bầu trời tang tóc phủ trùm trên những người tin Chúa. Tâm hồn các ngài như đã chết. Niềm tin yêu hy vọng của các ngài như cùng bị chôn táng trong mộ với người Thầy yêu quý.

Giữa lúc ấy, Chúa sống lại khải hoàn. Chúa Giêsu Phục Sinh đã khiến cuộc đời các ngài thay đổi tận gốc rễ.

Khi tảng đá lấp cửa mộ tung ra cũng là lúc tâm hồn các ngài thoát khỏi màn đêm vây phủ. Khi gặp được Chúa Phục Sinh, tâm hồn các ngài bừng lên sức sống mới. Máu chảy rần rần. Tim đập rộn ràng. Mắt sáng. Miệng tươi.

Các ngài như người đã chết nay sống lại. Chúa Giêsu đã Phục Sinh tâm hồn các ngài. Sự sống mới của Chúa đã tràn vào các ngài. Ơn Phục Sinh đã được ban cho các ngài. Sự sợ hãi đã trở thành mạnh dạn. Sự yếu đuối đã trở nên mạnh mẽ. Sự thất vọng đã biến thành hy vọng. Nỗi sầu khổ đã biến thành niềm vui.

Cảm nghiệm ơn Phục Sinh rồi, các môn đệ không còn có thể ngồi yên trong căn phòng đóng kín cửa nữa. Các ngài mở tung cửa, hăng hái ra đi đem Tin Mừng Phục Sinh chia sẻ cho mọi người. Các ngài muốn vực dậy những mảnh đời đang chết dần mòn. Các ngài muốn phục hồi những tâm hồn đang héo úa. Các ngài muốn thế giới biến đổi trong một đời sống mới, tươi vui, hạnh phúc, dồi dào hơn.

Hôm nay Chúa muốn cho tất cả mọi người chúng ta, noi gương các Thánh Tông đồ, tiếp nối công việc của Chúa, đem ơn Phục Sinh đến với mọi người.

Đây là câu chuyện xảy ra tại nhà giam ở Liên Xô. Một cựu nữ tù nhân thuật lại kinh nghiệm mắt thấy tai nghe, bà gọi đây là chỗ khủng khiếp.

Một buổi chiều kia, một cô gái trẻ cùng bị giam với chúng tôi đã kề miệng vào tai tôi hỏi khẽ: "Chị biết hôm nay là ngày gì không?" Rồi không đợi tôi trả lời, cô ta nói tiếp: "Hôm nay là ngày lễ Phục sinh". Nghe thế tôi tự hỏi: Lễ Phục sinh đã đến rồi sao? Lễ của niềm vui và của hy vọng nhưng trong tù niềm vui của chúng tôi đã héo úa, khô cằn, còn niềm hy vọng ta để lại trong lòng và không dám suy nghĩ tiếp.

Bỗng một tiếng reo vang nổi lên phá tan bầu không khí nặng nề: "Đức Kitô đã sống lại", tôi quay lại nhìn mặt cô gái vừa cất tiếng tuyên xưng đức tin và bắt gặp đôi mắt cô ánh lên sự lung linh huyền diệu, cùng lúc ấy, từ mọi phía của phòng giam khác vang lên câu trả lời: "Ngài đã sống lại thật". Quá sửng sốt, các nhân viên trại giam đứng bất động như tượng gỗ, có lẽ trong tâm trí họ đang giận dữ lên án một diến tiến chưa bao giờ xảy ra tại đây. Sau một lúc yên lặng, tôi nghe tiếng giày nặng nề tiến đến phòng giam của chúng tôi, rồi phòng bị mở tung cửa, hai nhân viên hỏi ai đã xướng câu mê tín dị đoan, và hùng hổ túm lấy cô gái lôi sền sệt ra khỏi phòng.

Một tuần sau, được trả về phòng giam, mặt cô xanh xao, người gầy đi thấy rõ. Qua tuần lễ Phục sinh, người ta biệt giam cô vào phòng không có lò sưởi để qua cái lạnh thấu xương và cơn đói hành hạ một con người mà họ cho là cuồng tín. Sau khi nằm yên tại một góc phòng, cô gái khều bọn tôi lại, và thều thào: "Dù sao tôi cũng đã tuyên xưng niềm tin vào sự Phục sinh trong trại giam, những cái khác không quan trọng gì cho lắm". Xong, cô cố gắng mỉm cười và tôi thấy ánh mắt cô vẫn ánh lên như dạo nào.

Lạy Chúa Giêsu phục sinh
lúc chúng con tìm kiếm Ngài trong nước mắt,
xin hãy gọi tên chúng con
như Chúa đã gọi tên chị Maria đứng khóc lóc bên mộ.

Lúc chúng con chán nản và bỏ cuộc,
xin hãy đi với chúng con trên dặm đường dài
như Chúa đã đi với hai môn đệ Emmau.

Lúc chúng con đóng cửa vì sợ hãi,
xin hãy đến và đứng giữa chúng con
như Chúa đã đến đem bình an cho các môn đệ.

Lúc chúng con cố chấp và xa cách anh em,
xin hãy kiên nhẫn và khoan dung với chúng con
như Chúa đã không bỏ rơi ông Tôma cứng cỏi.

Lúc chúng con vất vả suốt đêm mà không được gì,
xin hãy dọn bữa sáng cho chúng con ăn,
như Chúa đã nướng bánh và cá cho bảy môn đệ.

Lạy Chúa Giêsu phục sinh,
xin tỏ mình ra
cho chúng con thấy Ngài mỗi ngày,
để chúng con tin là Ngài đang sống, đang đến,
và đang ở thật gần bên chúng con. Amen.


THỨ HAI TUẦN BÁT NHẬT PHỤC SINH
Mt 28,8-15

"Các bà vội vã rời khỏi mộ, tuy sợ hãi nhưng cũng rất đỗi vui mừng,
chạy về báo tin cho môn đệ Đức Giê-su hay.”
(Mt 28,8)

Các bài Tin Mừng trong tuần bát nhật Phục sinh đều tường thuật về những cuộc hiện ra của Chúa Giêsu sau khi Chúa sống lại. Phụng vụ đã chọn những bản văn có trong 4 quyển Tin Mừng để trình bày cho chúng ta thấy bốn cái nhìn khác nhau nhưng bổ túc cho nhau, về sự kiện Chúa Giêsu chịu chết và sống lại.

1. Hôm nay thánh Mátthêô thuật lại những chuyện xảy ra vào buổi sáng Phục sinh:

Các phụ nữ đến mồ, thấy mồ trống. Họ gặp thiên thần. Thiên thần cho họ hay Chúa Giêsu đã sống lại và bảo họ đi báo tin cho các môn đệ, bảo cho các môn đệ biết là Chúa chờ họ tại Galilê.

Sự Phục sinh của Chúa Giêsu đã nâng mối liên hệ giữa Chúa với các môn đệ lên một bậc: họ trở thành anh em của Ngài. Chúa đã gọi môn đệ “anh em”:

Và cuối cùng chúng ta thấy tiền bạc lại được sử dụng vào những mục đích xấu: Người ta đút tiền cho bọn lính canh để mua chuộc chúng. Tiền bạc lại một lần nữa làm xuyên tạc sự thật.

2. Vâng việc Chúa sống lại rõ ràng đã đem lại nhiều thay đổi thật là lùng:

+ Những người có liên hệ với Chúa sẽ không còn sợ hãi nữa. Với việc Chúa Phục Sinh những người phụ nữ đã biến nỗi “sợ hãi” khi chứng kiến việc Chúa chịu nạn chịu chết, sang lòng “kính sợ” trước quyền năng của Thiên Chúa. Lòng “kính sợ” này đi kèm với niềm “vui mừng hớn hở”. Vâng đó là một kết quả hết sức bất ngờ đối với các bà đạo đức. Khi con người thực sự tin vào quyền năng Chúa, thì họ sẽ không còn “sợ hãi” bất cứ điều gì nữa, thậm chí họ còn có thể “vui mừng hớn hở” trong bất cứ tình huống nào, kể cả cái chết.

Một tu sĩ dòng tên thuật lại câu trả lời đầy xúc động sau đây của một thủy thủ sắp chết. Anh luôn sống đạo đức. Đây là điều hiếm ở nơi các thủy thủ, và trong buổi sáng hôm đó, anh nhận của ăn đàng. Buổi chiều, khi linh mục đến để gặp lại anh và thấy anh rất yếu, bèn hỏi:

- Con đã sẵn sàng cho chuyến đi lớn lao chưa?

- Thưa Cha, hoàn toàn sẵn sàng.

- Con không sợ ư?

- Sợ? Con sợ ư? Nhưng tại sao lại sợ?

Và đặt tay lên ngực, nơi Chúa ngự đến buổi sáng, anh nói thêm:

- Hoa tiêu đã xuống thuyền, vậy con còn sợ gì nữa chứ?

+ Chúa Giêsu Phục sinh đã gọi các môn đệ là “anh em” của Ngài. Sự Phục sinh của Chúa không những đã cứu chuộc loài người, trả lại cho loài người quyền làm con Thiên Chúa, lại còn biến con người trở "anh em" với Chúa Giêsu! Đây là một hồng ân thật cao cả lớn lao hơn tất cả những hồng ân khác.

Một người hát thánh ca rất nổi tiếng của Mỹ được mời lên một con tàu chở khách, để hát cho những hành khách trên tàu nghe.

Đêm đó, tất cả những hành khách tập hợp trên boong tàu để thưởng thức tiếng hát rất hay của anh.

Tiếng hát của anh ta làm tất cả khán giả rung động tâm hồn. Khi anh ta vừa hát xong, thì một ông khách cao to, da đen bước đến bên cạnh anh hỏi:

- Xin hỏi, trước đây anh đã từng đầu quân ở Bắc Mỹ phải không? Anh có còn nhớ vào một đêm trăng sáng năm 1862, anh đứng gác trên một vọng gác không?

- Tôi nhớ. Anh ta đáp. Nhưng trong lòng hơi lo lắng vì không hiểu ý của ông ta muốn gì.

- Phần tôi, tôi còn nhớ rất rõ. Người đó nói. Lúc đó tôi đang ở bên đối địch với anh. Tôi nhìn thấy anh đứng trên vọng gác. Anh ở chỗ sáng. Tôi ở trong tối, nhất cử nhất động của anh tôi đều thấy rõ. Khi tôi định lên đạn, thì nhìn thấy anh đang chuẩn bị cất tiếng hát. Thật lòng tôi muốn bắn anh ngay nhưng tự nhiên có cái gì đó cản lại, chờ cho đến khi anh hát xong thì tôi sẽ bắn. Bài hát hôm đó cũng đó cũng chính là bài hát anh vừa mới hát. Những lời trong bài hát ấy đã khiến tôi rất xúc động. Thế là tôi không còn can đảm để có thể bắn anh nữa”.

Nghe tới đây, người hát thánh ca không cầm được nước mắt. Anh giang rông hai cánh tay ôm chầm láy ông khách.

Một bài hát đã đánh đổi được một mạng người, làm cho kẻ thù trở thành bạn bè. Việc đó quả là một điều kì diệu.

Trên chiến trường trước kia, họ là kẻ thù của nhau, nhưng bây giờ họ đã trở thành bạn bè.

Việc Chúa Phục sinh đã làm cho các môn đệ và cả chúng ta trở thành anh em của Ngài. Đây là một hồng ân. Hãy tạ ơn Thiên Chúa và Chúa Giêsu muôn đời.

Lạy Chúa, xin làm cho tâm hồn chúng con tràn ngập niềm vui của những người được Chúa cứu chuộc, để chúng con biết đem sinh khí đến cho những người đang tuyệt vọng, đem nụ cười đến cho kẻ đang khóc than, làm tươi trẻ những tâm hồn héo úa, dọi ánh sáng vào nơi tối tăm, xây dựng nên một thiên đàng của Chúa trên trần thế hôm nay. Amen.


THỨ BA BÁT NHẬT PHỤC SINH
Ga 20,11-18

Bà Maria Mađalêna đi báo cho các môn đệ:
"Tôi đã thấy Chúa",
và bà kể lại những điều Người đã nói với bà.”

(Ga 20,18)

1. Việc Phục Sinh của Chúa Giêsu đã biến đổi hẳn ý nghĩ và tình cảm của con người trước cái chết. Trường hợp bà Maria Mađalêna là một thí dụ. Khi thấy xác Chúa không còn ở trong mồ, bà buồn, bà khóc. Nhưng rất may Chúa đã hiện ra với bà, gọi tên bà và bà đã nhận ra Chúa. Mọi sự thay đổi bắt đầu từ đây.

Người ta kể khi thấy chồng gần đất xa trời, bà De Gaulle cho gọi một nhân viên mai táng đến, nhờ ông tìm cho người chồng sắp quá cố của bà là Tổng Thống Charles De Gaulle đã về hưu một nơi an nghỉ cuối cùng. Người này thân hành chở bà đến một sườn đồi. Trước mặt là một thung lũng tuyệt đẹp. Ông nói:

- Đây là nơi an nghỉ rất xứng đáng cho người chồng vĩ đại của bà, và cũng chỉ tốn 200.000 francs. (Một số tiền rất lớn... nếu tính theo thời giá hôm nay thì khoảng gần 5 tỷ đồng VN)

Trong lúc bà còn đang phân vân, ông ta nói tiếp:

- Ông nhà thật xứng đáng được hưởng sự ưu đãi đó.

Vừa nghe tới đó bà vội vàng đáp lại một lời làm cho ông cụt hứng:

- Nhưng ông ấy chỉ cần 3 ngày thôi mà!(Góp nhặt)

(Ý bà muốn nói Chúa Giêsu chỉ cần ngôi mộ có ba ngày thôi cho nên đâu cần phải quá tốn phí cho một thi hài, dù thi hài đó là thi hài của một vị tổng thống!)

2. Phải nói là tình cảm của Maria Mađalêna đối với Chúa Giêsu thật hết sức đậm đà: Khi không thấy xác Chúa Giêsu, bà khóc. Cả thế giới này không còn một ý nghĩa gì đối với bà nữa. Thiên thần hiện ra bà coi như không! Chính Chúa Giêsu ở trước mặt mà bà cũng tưởng là người giữ vườn. Nhưng rồi khi bà nhận ra Chúa, bà đã vui mừng hớn hở chạy đi báo tin cho mọi người ngay. Tóm lại, đối với Maria, Chúa Giêsu là tất cả. Mất Chúa Giêsu cả thế giới như sụp đổ. Gặp lại Chúa là có lại tất cả.

Người ta kể lại vào hồi Đức Quốc xã giam giữ những người có đạo, có một người đàn bà rất nổi tiếng tên là Archengette. Bà Archengette bị giam cùng với hàng trăm ngàn người khác. Có lần bà đã kể lại: Một buổi chiều kia, một cô bạn tù ghé vào tai tôi se sẽ hỏi:

- Chị có biết ngày mai là ngày gì không? Mai là lễ Phục Sinh đấy chị ạ.

Tôi ngạc nhiên nói bâng quơ:

- Đã đến lễ Phục Sinh rồi sao?

Lễ Phục Sinh là ngày lễ trọng, và là ngày vui của toàn thể nhân loại, vì Chúa Giêsu đã sống lại, để mở cánh cửa cuộc sống trường sinh cho con người, thế mà chúng tôi lại bị giam giữ trong căn nhà tù này, xa cách mọi người thân yêu, cô đơn, đau khổ...Tôi đi đi lại lại trong căn nhà chật hẹp, hôi hám. Đầu óc thì còn đang theo đuổi những ý tưởng vừa mới xuất hiện. Mặt mũi buồn so.

Bỗng tôi nghe thấy có tiếng kêu lớn, phá tan bầu không khí im lặng đang nặng nề đè trên chúng tôi. Tiếng kêu ấy thế này: “Chúa Kitô đã sống lại”.

Tôi kinh ngạc nhìn cô bạn tù. Đôi mắt cô long lanh. Hai hàng giọt lệ đang từ từ chảy ra, để cho chúng lăn trên đôi gò má cao nhô lên giữa khuôn mặt xanh xao gầy ốm của cô. Thế rồi bỗng khuôn mặt ấy tươi hẳn lên.

Tiếp đó từ trong các phòng khác của nhà tù, tôi đều nghe thấy tiếng trả lời, tưởng như tiếng vang vọng không ngừng:

“Chúa Kitô đã sống lại... Chúa Kitô đã sống lại”.

Những tiếng phát ra từ trong các phòng nhà tù đó, đã trở thành một điệp khúc như của một bài ca chiến thắng.

 Bọn lính canh tù bực tức đến tột độ. Gương mặt của chúng hằm hằm giận dữ. Rồi chúng mở cửa phòng chúng tôi đang ở, nhào vào, lôi cô gái bạn tù ốm yếu của chúng tôi đi...

Bốn ngày sau, cô được trả trở về phòng với chúng tôi. Cô bé của chúng tôi thật là đáng thương. Đôi má của cô đã hóp, sau 4 ngày lại càng hóp thêm. Gương mặt xanh như tầu lá. Lúc sau nhờ cô kể lại chúng tôi mới biết, cô đã bị nhốt trong một căn phòng chật hẹp tối tăm và phải nhịn đói suốt 4 ngày nay. Tôi còn nhớ thật rõ lúc chạy ra cửa để dìu cô vào phòng, cô thều thào nói với tôi:

- Chị ơi, em đã loan báo sứ điệp Phục Sinh trong nhà tù này. Tất cả mọi chuyện khác đều không quan trọng.

Nếu ngày xưa đã có những người như Mađalêna, đã có cô bé can đảm dám loan báo Tin Mừng Phục Sinh cho mọi người thì ngày nay cũng phải có những người can đảm như Maria Mađalêna, như cô bé trong nhà tù! Thế giới hôm nay, một thế giới càng ngày càng trở nên xa lạ với Chúa Giêsu đang cần những con người như thế.

 Lạy Chúa, giữa thế giới đầy bận rộn và náo nhiệt này, xin cho chúng con biết lắng tai nghe tiếng Chúa. Xin hãy mở rộng đôi tay còn khép kín của chúng con, để chúng con biết mau mắn thi hành “sứ điệp” Chúa gửi đến cho chúng con trong cuộc sống hằng ngày. Amen.


THỨ TƯ BÁT NHẬT PHỤC SINH
Lc 24,13-35

"Mắt họ liền mở ra và họ nhận ra Người,
nhưng Người lại biến mất.”
(Lc 24,31)

1. Sau Mátthêô và Gioan, đến phiên thánh Luca tường thuật. Tin Mừng của Luca được gọi là “Tin Mừng của người môn đệ”.

Có hai môn đệ, nhưng Luca chỉ nêu tên một người là Clêôpha, người kia không tên, có lẽ Luca muốn độc giả hiểu người vô danh ấy là bất cứ môn đệ nào của Chúa. Độc giả cũng có thể coi mình là chính môn đệ ấy để được chia sẻ với người môn đệ này những cảm nghiệm thật thú vị trên đường.

Hai môn đệ này là những người đã có một thời theo Chúa. Thế nhưng, cái chết của Chúa đã khiến họ hoang mang và bỏ cuộc. Họ đang cùng nhau trên đường trở về quê quán của mình.

Hai môn đệ đã bỏ Chúa nhưng Chúa không bỏ họ. Ngài vẫn đồng hành với họ dù họ không nhận ra Ngài.

Để làm sống lại niềm tin nơi hai môn đệ này, Chúa Giêsu đã dùng hai phương thế: Thánh Kinh và việc “bẻ bánh”. Thánh Kinh và Bí tích Tạ ơn đã giúp họ tìm lại được niềm tin và cuộc đời của họ đã được đổi mới.

Như vậy, chúng ta có thể nói: Ý chính của bài tường thuật này là: Chúa Giêsu Phục Sinh vẫn đang sống, Ngài ở kề bên chúng ta. Hai nơi thuận tiện nhất để chúng ta nhận ra Ngài là Thánh Kinh và Thánh Lễ.

2. Khi không nêu tên người môn đệ kia, thánh Luca dường như muốn cho chúng ta hiểu rằng, mỗi người chúng ta là người môn đệ ấy. Hãy đặt mình vào con người của người môn đệ ấy để cảm nghiệm được niềm vui khi nhận ra Chúa Phục Sinh.

Khi đức tin của chúng ta bị lung lay, bị thử thách, chúng ta hãy chạy đến với Thánh Kinh, Bí tích Thánh Thể, cộng đoàn sống đức tin để xây dựng lại. Thánh Kinh, Thánh Thể và cộng đoàn đức tin là ba cột trụ vững chắc để nâng đỡ niềm tin của chúng ta.

Jacques Loew là người phu khuân vác ở bến tàu. Anh là đảng viên của đảng Lao Động Thụy Sĩ. Bỗng một hôm anh nảy ra ý định thử đi tìm hiểu điều mà những người Công giáo vẫn tin tưởng là có thực đó là “có một Thiên Chúa”. Anh muốn biết điều đó có thực hay không? Muốn là làm. Anh tìm đến một dòng khổ tu và nói rõ ý định của mình với cha bề trên của dòng. Với nụ cưới thật tươi trên môi, cha bề trên rất cảm động nói với anh những lời này:

- Anh đã đi đúng đường rồi đó, anh cứ tiếp tục đi đi. Anh hãy coi tu viện đây như là nhà của anh.

Rồi cha bề trên giơ tay chỉ nhà nguyện và nói:

- Đây là nhà nguyện, nếu anh muốn xin mời anh vào.

Lúc ấy nhà nguyện đang có Thánh lễ. Jacques Loew đi vào. Anh quì xuống như bao người khác. Rồi anh cứ quì mãi trong khi những người khác đã thay đổi vị thế, khi ngồi, khi đứng. Đến lúc đã mỏi gối, anh ngồi lên thì lúc đó lại là lúc mọi người khác trong nhà nguyện đều quì sụp xuống vì đó là lúc truyền phép Mình Máu Thánh Chúa.

Đến lúc rước lễ, hầu như tất cả đều lên rước lễ, trừ anh thì cứ ngồi lại tại chỗ. Anh nghĩ thầm trong lòng: Mình thật không giống ai.

Ngồi ngó những người lên rước lễ đi xuống, anh nhận ra có rất nhiều khuôn mặt khác nhau: người học thức, kẻ có địa vị cao ngoài xã hội, và dĩ nhiên cũng có cả những người bình dân nữa. Jacques Loew tự hỏi: Sao những người này mê tín thế? Ăn miếng bánh nhỏ bằng đồng xu kia để làm gì? Họ có điên không?

Nhưng rồi ý tưởng trên đây của Loew đã bị một tư tưởng khác tấn công: không lẽ tất cả những người học thức, có địa vị ngoài xã hội hơn mình, họ lại điên, còn mình thì lại khôn sao? Hay là ngược lại, tôi điên?

Thế rồi, Jacques Loew bắt đầu đi tìm hiểu về phép Thánh Thể với cha bề trên. Sau một thời gian, anh đã tâm sự:

"Bây giờ tôi có thể nói như hai môn đệ Emmau: "Tôi nhận ra Ngài lúc Ngài bẻ bánh". Chính lúc bẻ bánh chúng tôi mới biết là chúng tôi là anh chị em với nhau trong Chúa Kitô. Có những người mà trước đó gặp ở ngoài đường, chúng tôi dửng dưng như người xa lạ, nhưng trên bàn tiệc thánh, chúng tôi thấy gần gũi với nhau. Tôi gặp Chúa Kitô nơi họ, cũng như họ gặp Chúa Kitô nơi tôi, bởi chúng tôi cùng tin Tin Mừng, cùng lãnh nhận một của ăn là Mình và Máu Chúa Kitô". Sau này Jacques Loew đã trở thành một linh mục. Ngài đã hoạt động rất tốt trong phong trào Linh Mục thợ.

Lạy Chúa,
Xin ở lại với con, lạy Chúa,
vì con cần có Chúa hiện diện
để con khỏi quên Chúa.

Xin ở lại với con, lạy Chúa,
vì con yếu đuối,
con cần Chúa đỡ nâng để con khỏi ngã quỵ.

Xin ở lại với con, lạy Chúa,
vì trời đã xế chiều và ngày sắp tàn.
Cuộc đời qua đi, vĩnh cửu gần đến.
Con cần được thêm sức mạnh
để khỏi ngừng lại dọc đường.

Xin ở lại với con, lạy Chúa,
vì con cần Chúa trong đêm tối cuộc đời.
Con không dám xin những ơn siêu phàm,
chỉ xin ơn được Ngài hiện diện. Amen.


THỨ NĂM BÁT NHẬT PHỤC SINH
Lc 24,35-48

 "Chính anh em là chứng nhân về những điều này.” (Lc 24,48)

1. Thánh Luca tường thuật tiếp về cuộc hiện ra lần thứ hai của Chúa Giêsu Phục Sinh với các môn đệ của Ngài. Lần này Chúa hiện ra cho các tông đồ ở Jêrusalem:

Trong lúc hai môn đệ vừa trở về từ Emmau đang kể lại cho nhóm mười một việc Chúa hiện ra với các ông ấy như thế nào thì Chúa Giêsu hiện đến.

Ngài chứng minh cho các ông hiểu sau khi sống lại, Ngài vẫn là một như trước: cũng có chân tay xương thịt, và cũng biết ăn uống.

Ngài dùng Thánh Kinh để cắt nghĩa.

Ngài bảo các ông nhân danh Ngài “rao giảng sự thống hối và sự ăn năn để lãnh ơn tha tội.” (Lc 24,47)

2. “Chính Thầy đây. Hãy sờ xem: Ma đâu có xương thịt như Thầy có đây” (Lc 24,39). Chúa Giêsu Phục Sinh đang sống và hiện diện ngay trong cuộc sống của những người tin Chúa. Đây không phải chỉ là một kiểu nói, không phải chỉ là niềm tin, mà là sự thật. Chúa Giêsu hôm qua, hôm nay và mãi mãi là một. Chúng ta phải xác tín thật mạnh về sự thật đó để rồi từ đó chúng ta xây dựng nên một xã hội huynh đệ hơn.

Ngày kia, có một đan viện phụ Công giáo tìm đến một vị tu sĩ Ấn giáo tại chân núi Himalaya. Với tất cả ưu tư phiền muộn, vị đan viện phụ trình bày về tình trạng bi đát của tu viện do ông điều khiển. Trước kia tu viện này là một trong những trung tâm Công giáo thu hút không biết bao nhiêu là khách hành hương hằng năm. Nhà nguyện lúc nào cũng vang lên tiếng ca hát của các tu sĩ và giáo dân đến từ khắp nơi. Các căn phòng lúc nào cũng có người ở.

Nay tu viện gần như trở thành một ngôi chùa trống vắng. Làn sóng những người trẻ tìm đến tu viện hầu như không còn. Nhà nguyện vắng tanh không ai lui tới. Một số nhỏ tu sĩ còn lại thì sống trong uể oải, buông thả…Vị viện phụ muốn hỏi vị tu sĩ Ấn giáo xem đâu là nguyên nhân đưa đến tình trạng này? Phải chăng vì một tội lỗi tày đình nào đó mà bàn tay Chúa đã đè nặng trên cộng đoàn?

Sau khi nghe viện phụ kể lể, vị tu sĩ Ấn giáo mới ôn tồn nói:

- Cái tội đã và đang xảy ra trong cộng đoàn: đó là tội vô tình.

Vị tu sĩ Ấn giáo mới giải thích như sau:

- Đấng Cứu Thế đã cải trang thành một người giữa chư vị, nhưng chư vị đã vô tình không nhận ra Ngài.

Nhận được lời giải thích của vị tu sĩ Ấn giáo, đức viện phụ hối hả quay trở về tu viện, trong lòng ông không khỏi miên man đặt câu hỏi: “Ai là người được Đấng Cứu Thế đang mượn hình dáng để ở lại với loài người?”. Cả tu viện bây giờ không có đến 10 người. Đấng Cứu Thế ở với ai đây? Chắc không thể là mình, vị tu viện trưởng nghĩ như thế vì ông biết mình là một con người tội lỗi yếu hèn. Nhưng ông cũng biết rõ các tu sĩ khác trong tu viện. Cũng chẳng có người nào toàn vẹn, xứng đáng để Đấng Cứu Thế mượn lấy hình dáng của họ. Thế nhưng, ông vẫn tin lời của vị tu sĩ Ấn giáo là Đấng Cứu Thế đang cải trang thành một người nào đó trong cộng đoàn.

Với niềm xác tín ấy, ông qui tụ tất cả các tu sĩ lại và loan báo cho mọi người biết rằng, Đấng Cứu Thế đang cải trang thành một người trong nhà. Nghe tin ấy, đôi mắt mỗi người đã mở to và ai nấy bắt đầu dò xét từng người trong nhà. Chỉ có điều chắc chắn là: bởi vì Đấng Cứu Thế đã cải trang cho nên không ai có thể nhận ra Ngài được. Thành ra mỗi người trong nhà đều có thể là Đấng Cứu Thế. Và từ đó mọi người sống với nhau như chính mình đang sống với Đấng Cứu Thế. Rồi chẳng mấy chốc bầu khí yêu thương huynh đệ, sức sống và niềm vui đã trở lại với tu viện. Cuộc sống thánh thiện như thế không mấy chốc được đồn thổi đi khắp nơi. Và các tín hữu lại từ khắp nơi trở lại tu viện để tĩnh tâm và cầu nguyện. Nhiều người trẻ cũng đến gõ cửa nhà dòng.

3. Vâng! Nếu người người ai cũng nhìn nhau và đối xử với nhau như đối xử với chính Chúa Giêsu, thì có lẽ hận thù, chiến tranh sẽ không còn có lý do để tồn tại trên mặt đất này. Sự vắng bóng Thiên Chúa trong xã hội, hay đúng hơn sự vô tình của con người làm cho họ không nhận ra Thiên Chúa trong cuộc sống: đó là đầu mối của mọi thứ bất hoà, chiến tranh xáo trộn trong xã hội.

Kinh nghiệm cho chúng ta thấy khi con người chối bỏ Thiên Chúa thì cũng có nghĩa là họ sẽ chối bỏ con người.

Con người là hình ảnh cao quý của Thiên Chúa. Con Thiên Chúa đã trở thành con người và tự đồng hóa với con người. Từ nay, con người chỉ có thể nhận ra Ngài trong mỗi người anh em của mình. Thánh thiện hay tội lỗi, giàu sang hay nghèo hèn, bạn hữu hay thù địch, mỗi một con người đều là hình ảnh của Thiên Chúa và chỉ có xuyên qua tình yêu đối với con người, con người mới có thể đến với Thiên Chúa.


THỨ SÁU BÁT NHẬT PHỤC SINH
Ga 21,1-14

"Đức Giêsu đến, cầm lấy bánh trao cho các ông;
rồi cá, Người cũng làm như vậy.”
(Ga 21,13)

Bài Tin Mừng hôm nay là phần cuối của Tin Mừng Gioan. Gioan viết để tường thuật về việc Chúa hiện ra với các tông đồ trên bờ biển hồ Tibêria. Nhờ mẻ cá lạ mà các tông đồ nhận ra Chúa. Người đầu tiên nhận ra Chúa là Gioan, và kế đến là các tông đồ khác. Cuối cùng, là một bữa ăn thân mật bên bờ hồ sau khi Thầy trò đã nhận ra nhau.

1. Có một chi tiết nhỏ nhưng khá thú vị nếu chúng ta để ý: Đó là khi hiện ra với các môn đệ sau khi Phục Sinh, Chúa Giêsu luôn hiện ra với các ngài trong những khung cảnh của cuộc sống đời thường. Chắc là Chúa phải có một dụng ý khi làm như thế. Thí dụ trong bài Tin Mừng hôm nay, tuy Chúa có hẹn với các môn đệ của Chúa là Ngài sẽ gặp họ ở Galilê, nhưng Chúa không xác định rõ nơi chốn. Rõ ràng trước đó các môn đệ đã tụ tập nhau lại và họ chờ đợi Chúa. Thế nhưng, Chúa đã không đến với họ lúc họ chờ đợi mà lại đến với họ lúc họ cùng nhau đi làm việc.

Rất nhiều người trong chúng ta tưởng rằng, muốn được gặp Chúa thì chúng ta phải đi tới nơi nọ nơi kia, phải đến Đền thờ nọ Đền thờ kia. Việc Chúa hiện ra với các môn đệ trong bài Tin Mừng hôm nay có lẽ phải là cơ hội cho chúng ta suy nghĩ lại. Chúng ta có thể gặp được Chúa trong mọi hoàn cảnh của cuộc sống.

Nhà văn Julia A. Manhan kể lại rằng: Ngày nọ, có một cậu bé muốn gặp Chúa. Cậu nghe nói rằng, phải qua một cuộc hành trình dài mới đến được nơi Chúa ở. Vì thế, cậu bé chuẩn bị những chiếc bánh ngọt và một hộp 6 lon nước cho vào cái túi nhỏ rồi lên đường.

Khi cậu đi được vào khoảng ba dãy phố, cậu gặp một bà lão. Bà cụ ngồi trong công viên mắt đăm đăm nhìn những con chim bồ câu. Cậu ngồi xuống cạnh bà và mở túi ra. Chưa kịp đưa nước lên uống thì cậu thấy bà lão có vẻ đói bụng. Cậu lấy chiếc bánh mời bà lão. Bà nhận chiếc bánh với đầy vẻ biết ơn và mỉm cười với cậu. Nụ cười của bà đẹp đến nỗi cậu bé muốn được nhìn lại lần nữa. Thế là cậu đưa thêm cho bà lon nước. Bà lại mỉm cười với cậu. Cậu bé rất thích thú.

Hai bà cháu ngồi với nhau ở đó suốt cả buổi chiều, ăn uống và mỉm cười, nhưng không ai nói lời nào.

Trời tối, đứng lên chuẩn bị ra về, nhưng vừa đi được một bước, cậu quay lại, chạy về phía bà lão và ôm bà. Bà đã tặng lại cậu bé nụ cười đẹp chưa từng thấy.

Một lát sau cậu về đến nhà. Khi cậu bé vừa mở cửa, mẹ cậu đã sửng sốt khi nhìn thấy niềm vui rạng rỡ trên con mình.

Mẹ cậu hỏi:

- Hôm nay có chuyện gì mà con hạnh phúc thế?

Cậu trả lời:

- Con đã ăn bữa trưa với Chúa!

Bà chưa kịp nói gì thì cậu bé thêm:

- Mẹ biết không, Chúa có nụ cười tuyệt đẹp mà con chưa từng thấy!

Trong khi đó, bà lão trở về nhà cũng đem theo một niềm hạnh phúc. Con trai bà cụ rất ngạc nhiên khi thấy vẻ bình an thanh thản trên khuôn mặt mẹ, anh hỏi:

- Mẹ ơi, hôm nay con có điều gì làm mẹ hạnh phúc thế?

Bà lão đáp:

- Mẹ ăn bánh trong công viên với Chúa!

Trước khi cậu con trai kịp nói thì bà thêm:

- Con biết không, Chúa trẻ hơn mẹ tưởng nhiều!

2. Con người ai cũng mong muốn được hạnh phúc. Nhưng nhiều khi hạnh phúc chỉ như một chiếc bóng. Chúng ta mãi mê chạy theo một chiếc bóng mà quên rằng, niềm vui đích thực, hạnh phúc đích thực lại nằm ngay trong chính tầm tay của chúng ta. Câu chuyện gặp gỡ giữa Chúa Giêsu và các môn đệ hôm nay cho chúng ta thấy điều đó.

Tin Mừng thuật lại, các môn đệ đã thả lưới thâu đêm mà không bắt được con cá nào. Tình cờ có một người lạ mặt xuất hiện bảo họ hãy thả lưới bên phải và mẻ cá nhiều đến nỗi lưới muốn rách và thuyền muốn chìm. Chúa Giêsu đến với các môn đệ như một người vô danh, không kèn, không trống, không một biểu dương rầm rộ nào. Ngài đến một cách kín đáo nhẹ nhàng. Ngài hiện diện một cách âm thầm và vô danh như chính sinh hoạt thường nhật của chúng ta. Chúa Giêsu đã chọn cảnh sống thường ngày của con người để hiện ra với các môn đệ. Ngài đến vào giữa lúc các ông đang thả lưới. Ngài tham dự vào bữa ăn của các ông. Ánh lửa mà Chúa Giêsu đã đốt lên bên bờ hồ Tibêria buổi sáng hôm đó đã soi sáng tâm hồn các môn đệ, để các ông hiểu rằng, Chúa Kitô Phục Sinh đang có mặt trong từng phút, từng giây của cuộc sống con người và chỉ có sự hiện diện ấy mới có đủ sức biến những sinh hoạt tầm thường nhất của con người như làm việc, ăn uống, ngủ nghỉ trở thành những niềm vui đích thực trong cuộc sống.

Lạy Chúa Giêsu Phục Sinh, xin cho chúng con cảm nếm được niềm vui vì có Chúa luôn hiện diện với chúng con. Amen.


THỨ BẢY BÁT NHẬT PHỤC SINH
Mc 16,9-15

Người nói với các ông:
"Anh em hãy đi khắp tứ phương thiên hạ,
loan báo Tin Mừng cho mọi loài thọ tạo.”

(Mc 16,15)

1. Bài Tin Mừng chúng ta vừa nghe là phần cuối của Tin Mừng Marcô. Đoạn này có lẽ không phải do Marcô viết mà do một người nào đó viết thêm vào. Đây là một bản tóm lược 3 cuộc hiện ra của Chúa Giêsu sau khi Ngài từ cõi chết sống lại:

Chúa hiện ra cho Maria Mađalêna.

Chúa hiện ra cho hai môn đệ đi đàng Emmau.

Và Chúa hiện ra cho mười một tông đồ.

Đoạn Tin Mừng này nhấn mạnh:

- Thái độ không tin của các tông đồ: Không tin lời của Maria Mađalêna, cũng không tin lời của hai môn đệ Emmau.

- Chúa Giêsu khiển trách thái độ không tin ấy.

- Sau khi làm cho các ông tin, Chúa Giêsu sai các ông “đi khắp thế gian rao giảng Tin Mừng cho muôn dân” (Mc 16,15).

2. Các môn đệ lúc đầu đã không tin mặc dù đã nghe các phụ nữ kể lại việc Chúa Giêsu hiện ra. Các ông cũng vẫn không chịu tin khi nghe thêm hai môn đệ thuật lại cuộc gặp gỡ của họ với Đấng Phục Sinh. Phải đợi tới lúc Chúa đến thì các ông ấy mới tin. Xét như vậy thì chúng ta thấy đức tin không do suy luận, cũng không do có bằng chứng người ta kể lại, nhưng đức tin là việc Chúa làm, do Chúa ban.

Sau khi khiển trách các môn đệ về thái độ cứng lòng tin của họ, Chúa Giêsu đã củng cố lại lòng tin đó, rồi Ngài mới sai các ông đi rao giảng. Rao giảng là chia sẻ niềm tin của mình cho người chưa tin hay còn yếu đức tin. Vì thế, phải tin rồi mới đi rao giảng. Các môn đệ đã có đức tin rồi, nên Chúa tin tưởng trao phó trách nhiệm loan báo Tin Mừng của Chúa để họ loan báo lại cho những người khác.

Có một câu chuyện ngụ ngôn rất hay về vấn đề này. Chuyện kể rằng, sau khi chịu nạn chịu chết trên thập giá, Chúa Giêsu đã Phục Sinh trở về Thiên Đàng trong uy nghi hiển vinh. Dầu đã được vinh quang nhưng tay chân Ngài vẫn còn mang thương tích. Các thiên sứ hân hoan đón chào Chúa. Quang cảnh đang nhộn nhịp vui tươi thì bỗng có một thiên sứ đặt vấn đề:

- Chắc là Chúa đã phải chịu thống khổ vô cùng vì loài người dưới đó?

Chúa Giêsu đáp:

- Đúng vậy!

Thiên sứ hỏi tiếp:

- Có phải tất cả mọi người đều đã biết những gì Chúa làm cho họ không?

Chúa Giêsu trả lời:

- Chưa, chỉ mới có một số ít người biết mà thôi.

Thiên sứ hỏi tiếp:

- Thế thì Chúa làm gì để giúp cho mọi người được biết?

Chúa Giêsu đáp:

- Ta đã trao Phêrô, Giacôbê, Gioan và các đồ đệ của ta trách nhiệm đi nói với những người khác, rồi những người khác lại nói cho những người khác nữa, rồi cho những người này lại nói cho những người kia, cho đến lúc những người ở nơi xa xôi nhất trên địa cầu cũng đều được nghe.

Thiên sứ nhìn Chúa với vẻ nghi ngờ. Vị này đã quá hiểu rõ lòng dạ con người như thế nào, nên nói tiếp:

- Vâng, nhưng nếu như Phêrô, Giacôbê, Gioan và các môn đệ của Chúa quên đi thì sao? Hoặc nếu họ mệt mỏi không còn tha thiết gì đến việc loan báo nữa thì sao? Hay như những người ở thế kỷ 20 này không chịu thực hiện trọng trách việc thuật lại câu chuyện tình yêu của Chúa cho những người khác nữa thì sao? Liệu Ngài có lập một chương trình nào khác không?

Chúa Giêsu trả lời:

- Không! Ta không sắp đặt một chương trình nào khác. Ta đặt tin tưởng nơi họ.

Chúa vẫn tin tưởng nơi những ai tin ở Chúa.

3. Chúng ta cũng phải làm chứng cho Chúa trước mặt mọi người. Việc này phải được coi là một bổn phận khi chúng ta được Chúa thương nhận chúng ta làm con của Chúa qua Bí Rửa Tội.

Nhà văn hào Tolstoi của Nga đã ghi lại trong một câu chuyện ngắn một cuộc thoại của ba người khách bộ hành như sau:

Mệt mỏi vì đường xa, ba người bộ hành đã dừng lại nghỉ chân bên một dòng suối. Bên cạnh dòng suối trong mát, mỗi người cảm thấy sảng khoái và hứng khởi nên họ nói lên cảm tưởng của mình về lợi ích của nó.

Người thứ nhất lên tiếng: "Còn gì sung sướng bằng gặp được một dòng suối mát bên vệ đường! Nước suối trong vắt không những làm cho chúng ta được tươi mát, mà còn mời gọi chúng ta sống thành thật với nhau".

Người bộ hành thứ hai góp ý: "Dòng suối chảy như không ngừng muốn nói với tôi rằng: “Hỡi loài người, hãy làm việc! Hãy làm việc không ngừng để làm cho thế giới được tốt đẹp hơn".

Sau một phút trầm ngâm, người bộ hành thứ ba mới thốt lên: "Những gì các bạn vừa phát biểu đều đúng cả. Nhưng còn có một điều quan trọng hơn nữa tôi muốn chia sẻ với các bạn. Các bạn hãy nhìn kìa, dòng suối này chảy không ngừng. Nó ban phát không ngừng, nó ban phát cho tất cả mọi người mà không đòi hỏi một sự đáp trả nào... mỗi người chúng ta hãy sống cao thượng như thế".

Lạy Chúa Giêsu, Chúa đã sống lại, xin phục sinh tâm hồn con để chúng con đem niềm vui Phục Sinh đến cho mọi người. (Epphata)

Top