Phụ nữ, tiếng nói chưa được lắng nghe trong Giáo hội

Phụ nữ, tiếng nói chưa được lắng nghe trong Giáo hội

Phụ nữ, tiếng nói chưa được lắng nghe trong Giáo hội

WHĐ (28/02/2025) – Tài liệu chuẩn bị cho Thượng Hội đồng 2021–23, đề cập đến nhu cầu thúc đẩy sự dung nạp và đối thoại trong Giáo hội, nhắc đến hai người phụ nữ, người phụ nữ Canaan và người phụ nữ Samaria, và khẳng định, “Chúa Giêsu đón tiếp mọi người đến từ đám đông như là những người đối thoại”.

Đây là hai chỗ duy nhất trong tài liệu minh nhiên nhắc đến phụ nữ, mặc dù rõ ràng là phụ nữ phải được tham gia vào mọi vấn đề liên quan đến giáo dân và tu sĩ. Cũng vậy, trong tài liệu Tính hiệp hành trong Đời sống và Sứ vụ của Giáo hội do Ủy ban Thần học Quốc tế thực hiện, chúng ta chỉ thấy có hai chỗ nói ngắn gọn rõ ràng về việc người giáo dân phụ nữ tham gia vào đời sống Giáo hội và về những đóng góp chuyên môn của họ (105, 109d); cũng có bốn chỗ đề cập đến “người nam và phụ nữ” nói chung.

Lời nói và hành động của phụ nữ có ý nghĩa gì đối với nhận thức và sự phát triển của tính hiệp hành đích thực? Câu hỏi này chắc chắn là trọng tâm của cuộc canh tân Giáo hội, vì nó xuất hiện trong mọi bối cảnh – từ các công nghị giáo phận đến các hội đồng mục vụ, từ Con đường Công nghị Đức đến Thượng Hội đồng Amazon – trong đó phụ nữ góp phần vào việc suy tư về tương lai của Giáo hội, đưa ra trải nghiệm của chính họ và phác hoạ những thách đố nghiêm trọng.

Đức Giáo hoàng Phanxicô, từ khi khởi đầu sứ vụ giáo hoàng, đã đặc biệt lưu tâm và nhận thức được vấn đề phụ nữ, đồng thời ngài thúc đẩy Giáo hội lắng nghe những thỉnh cầu chính đáng về quyền của phụ nữ bởi vì những thách đố và vấn nạn mà quyền này đặt ra cho toàn thể Giáo hội.

Vấn đề ngày nay cần lưu tâm là sự thừa nhận đích thực đối với phụ nữ, sau nhiều thế kỷ bị gạt ra bên lề và bị xem thường trong đời sống Giáo hội (mặc dù có một số ngoại lệ tuyệt vời và đáng nhớ, chẳng hạn như Hildegard Bingen, Têrêsa Avila, Catarina Siena…). Thật vậy, vấn đề cần lưu tâm không gì khác hơn là việc loan báo Tin Mừng một cách hiệu quả và chứng tá ngôn sứ của chính Giáo hội.

Tầm nhìn của Công đồng Vatican II

Suy tư về sự đóng góp của phụ nữ đối với giáo hội hiệp hành tìm thấy ánh sáng nơi Công đồng Vatican II, cả trong chính sự kiện này lẫn trong giáo hội học về Dân Chúa, như đã được nêu ra, trước hết, trong Hiến chế Lumen Gentium.

Lần đầu tiên trong thiên niên kỷ thứ II, 23 dự thính viên nữ, cả tu sĩ và giáo dân, đã tham gia vào công việc của Công đồng trong phiên họp thứ ba và thứ tư. Chính Đức Hồng y Suenens, cùng với một số dự thính viên nam và giám mục, đã yêu cầu phải có sự hiện diện của phụ nữ. Phụ nữ đã góp phần đáng kể vào công việc của các ủy ban và luôn sẵn sàng tư vấn, nhưng họ không bao giờ được phép phát biểu trong hội trường.

Tuy nhiên, nhiều yếu tố kể từ Công đồng – nhãn quan về giáo hội như dân Chúa, sự phục hồi tính chủ thể của giáo dân trong Giáo hội dựa trên Phép Rửa của họ, và việc đọc dấu chỉ vĩ đại của thời đại đó là việc phụ nữ bước vào đời sống chính trị, xã hội và kinh tế – đã dẫn đến sự khẳng định và thừa nhận tính chủ thể của phụ nữ trong các giáo hội trên toàn thế giới.

Sự thay đổi đã diễn ra là không thể phủ nhận, và dẫn đến những hệ quả hiển nhiên trong cách chúng ta hiểu về năng động hiệp hành: như đã nói ở trên, kể từ Công đồng Vatican II, tính chủ thể trong các diễn ngôn công khai, chuyên môn và có uy tín của phụ nữ được công nhận nhiều hơn.

Những người bà và người mẹ đã luôn truyền lại đức tin và giáo dục con cháu họ về kinh nghiệm đời sống Kitô hữu, và các nữ tu đã cống hiến cho Giáo hội những lời cầu nguyện trung thành và sự khôn ngoan. Tuy nhiên, trong nhiều thế kỷ, lời nói của các nữ tín hữu vẫn bị hạn chế và giới hạn trong không gian gia đình, đan viện và tu viện. Phụ nữ trong Giáo hội là những người lắng nghe trung thành nhưng lời nói của họ lại không được lắng nghe.

Tiếng nói của phụ nữ không được nghe thấy trong nhà thờ, ở quảng trường công cộng, hay trong các giảng đường đại học là nơi tranh luận về thần học và tu đức. Họ không được nhìn nhận là những người mang yếu tố thiết yếu và cấu thành cho việc xây dựng thành phần giáo hội.

Trong một Giáo hội tự coi mình là “trung lập” đối với sự khác biệt giữa hai giới, thì sự hiện diện của phụ nữ, luôn trung thành và quảng đại, bị coi là điều “hiển nhiên”. Trong nhiều thế kỷ, phụ nữ là “đối tượng bị lãng quên”, “đối tượng vô hình”, dù họ luôn hiện diện và hoạt động.

Sự thay đổi lớn lao do Công đồng mang lại đã được chuẩn bị trong suốt thế kỷ XIX nhờ sự phát triển phi thường của các hiệp hội phụ nữ và đời sống nữ tu. Trong những bối cảnh đó, phụ nữ bắt đầu tự đào tạo và trải nghiệm khả năng quản lý tự chủ trong công việc, trong việc bầu cử và trong sự phục vụ Giáo hội.

Tuy nhiên, chắc chắn rằng Công đồng đã để cho người nữ lên tiếng nói về mình với tư cách là phụ nữ và là tín hữu; để thể hiện mình bằng ngôn ngữ thần học trước đây bị từ chối. Lời của phụ nữ ngày càng được nhìn nhận trong đời sống Giáo hội là có ý nghĩa và có uy tín, nhất là trong bối cảnh đời sống cộng đoàn hằng ngày như các giáo xứ, giáo phận, cũng như các hiệp hội và phong trào giáo dân.

Vai trò có tính biến đổi của phụ nữ tiếp thêm sinh lực cho toàn bộ cơ cấu Giáo hội, và vai trò này xuất phát chính từ sự nhìn nhận mới này của công chúng đối với diễn ngôn mang tính chuyên môn của họ như một nguồn lực quý giá để phát triển những thay đổi xa hơn và sâu sắc hơn.

Lời của phụ nữ đã định hình Giáo hội hậu Công đồng bằng nhiều cách thế: trong việc tuyên xưng đức tin; trong các hoạt động mục vụ ở đó việc phục vụ của phụ nữ được thực hiện; trong tất cả các Giáo hội địa phương; trong việc canh tân đời sống tu trì; trong lời của các nữ thần học gia, những người mà, sau Công đồng Vatican II, đã bắt đầu nghiên cứu và giảng dạy trong các đại học giáo hoàng; và trong các vai trò trách nhiệm khác nhau mà họ đã đảm nhận (đặc biệt là trong hai thập niên vừa qua) trong Giáo triều Rôma, trong các giáo phận và trong các văn phòng mục vụ quốc gia.

Sự thừa nhận

Hiện nay, việc thừa nhận tư cách thành viên của phụ nữ đang nổi lên trong phạm vi giáo hội (rất lâu sau khi điều này đã xảy ra trong xã hội dân sự và trong hầu hết các nền văn hóa), Giáo hội hiệp hành phải được coi là một Giáo hội của “những người nam và người nữ”, và những phản kháng còn sót lại về mặt văn hóa và cơ cấu đối với quyền phát biểu của phụ nữ phải được khắc phục.

Nói về phụ nữ hay nói với phụ nữ thôi là chưa đủ, cũng là chưa đủ khi thảo luận về các vấn đề của phụ nữ, mà lại loại bỏ họ ra khỏi phần còn lại của cuộc canh tân mang tính giáo hội. Nhiệm vụ hiện nay là đẩy mạnh năng động hiệp hành và xem xét từ góc độ hiệp hành những thay đổi cần thiết.

Nhiệm vụ này bao hàm việc lắng nghe tất cả những ai liên quan – trước hết là phụ nữ với những vấn nạn, thách đố, ước muốn, nỗ lực và trải nghiệm của họ – đồng thời nhìn nhận chủ thể tính hoặc tư cách thành viên (của nam giới và nữ giới với tư cách là đối tác) và thể hiện một khuôn mặt giáo hội dung nạp, công bằng và tham gia.

Một Giáo hội của người nam và người nữ

Trong một Giáo hội hiệp hành đích thực, không có định kiến với tính đặc thù của các đặc sủng và tác vụ, sự đóng góp của mọi thành viên bắt nguồn từ việc nhìn nhận phẩm giá bình đẳng và trách nhiệm chung của họ do Phép Rửa, như đã được khẳng định trong thư Galata 3,28: “Không còn chuyện phân biệt nam hay nữ nữa, vì tất cả anh chị em đều là một trong Đức Giêsu Kitô”. Chúng ta cùng nhau bước đi trong một sự hiệp thông được phát sinh và nuôi dưỡng nhờ sự hiệp thông đức tin, trong đó mọi người đều là thành viên đồng cấu thành và là người có tiếng nói riêng và không thể thay thế.

Trước hết, phụ nữ nhớ rằng trải nghiệm đức tin của mỗi người được “nhập thể” một cách độc đáo và rằng những chứng từ và sự lĩnh hội Tin Mừng được mọi người công bố và chia sẻ đều được ghi dấu bởi sự khác biệt giới tính không thể phủ nhận và không thể phủ lấp được.

Một Giáo hội khởi hành trên lộ trình hiệp hành phải tạo điều kiện, thời gian và cơ cấu cho việc lắng nghe và đối thoại đích thực để những đóng góp của người nam và người nữ được công nhận bất kể giới tính của họ.

Một Giáo hội hiệp hành phải vượt lên trên những khuôn mẫu dễ dãi vốn giản lược “phụ nữ” (với tư cách là thành viên) thành những ý tưởng về “giá trị nữ tính” và nữ tính của người vợ và người mẹ, do đó quên đi những khác biệt văn hóa và tính đặc thù của những trải nghiệm sống.

Vì thế, cần phải khắc phục những vấn đề cấm kỵ về nam tính trong Giáo hội Công giáo và mối tương quan giữa nam tính và quyền lực thiêng liêng; những vấn đề này cho đến nay ít được quan tâm trong thần học và thực tế bị bỏ qua trong việc rao giảng và dạy giáo lý.

Nhân học thần học còn non nớt và chưa hoàn thiện khi nó quan niệm con người (anthropos) là “giống đực” (aner) trung tính, nói chung là như vậy, và sau đó, trong động thái tiếp theo, lại cố gắng xác định “tính đặc thù của giống cái”.

Tư duy như một giáo hội hiệp hành bao hàm việc giải quyết vấn đề về những mối tương quan giữa người nam và người nữ, vốn không phải là tương quan lệ thuộc cũng như không đơn thuần là sự bổ sung giữa nam và nữ; đúng hơn, người nam và người nữ có mối liên hệ với nhau trong sự cộng tác của các thành viên có đức tin.

Đã đến lúc phải coi chúng ta là “anh chị em” hay “những người nam và người nữ có đức tin”, nhờ đó vượt lên trên những phóng chiếu tưởng tượng về “tính mẫu tử” và “phối ngẫu” mà qua đó người nam phó thác bản thân cho người nữ và tình yêu của họ. Ngày nay có một nhu cầu cấp thiết là phải vượt lên trên cái nhìn lệch lạc này, vốn dựa trên nguyên mẫu Maria, như trong Mulieris Dignitatem (1988) của Đức Gioan Phaolô II, hoặc dựa trên sự so sánh giữa nguyên lý Phêrô và nguyên lý Maria, có lẽ bắt nguồn từ nhà thần học Balthasar nhưng không dựa trên Kinh Thánh.

Giáo hội là một tổ chức mang “cấu trúc giới tính”, nhưng Giáo hội lại không nhìn nhận điều đó cách ý thức. Phụng vụ và ngôn ngữ được sử dụng khi cử hành đức tin rõ ràng vẫn mang tính trung tính, và thần học chưa được xem xét lại từ góc độ giới tính.

Việc dạy giáo lý và giáo huấn đạo Công giáo được thực hiện mà không chú ý đến các vấn đề khác biệt về giới tính. Trong những lĩnh vực này, lời của phụ nữ và nam giới, qua đối thoại hiệp hành, phải góp phần tạo ra những thay đổi, nếu không, việc loan báo đức tin và đời sống của Giáo hội sẽ bị suy yếu nghiêm trọng.

Những cách thức tái sinh mang tính Giáo hội

Những thay đổi diễn ra trong Giáo hội hậu công đồng là điều không thể nghi ngờ, nhưng cần phải thực hiện các bước khác liên quan đến việc hoán cải mục vụ, văn hóa nhìn nhận và cải cách cơ cấu. Cần có sự thay đổi trong nhiều cơ cấu và thực tiễn bao gồm hệ thống giáo dục, ra quyết định và tham gia; hoạt động mục vụ và sử dụng ngôn ngữ; việc đào tạo giáo sĩ; và sự hội nhập phụ nữ vào các khoa thần học.

Nguồn lực cơ bản trong một Giáo hội hiệp hành chính là “lời” và lời này luôn có chiều kích nhận thức. Lời sinh ra tư duy, tư duy trở thành tiếng nói, sự chia sẻ, truyền tải ý tưởng, động lực và lý luận.

Lời là chứng tá; lời thuật lại những sự kiện mà ở đó chúng ta là nhân vật chính và suy tư về sự kiện đó. Những sự kiện như vậy có thể dẫn đến sự tố cáo vì chúng vi phạm phẩm giá của phụ nữ, hoặc chúng có thể xuất hiện như những dự báo tích cực về tương lai mà họ hằng mơ ước. Lời là sự giao tiếp đan kết các mối tương quan giữa những khác biệt, những khác biệt vốn được bộc lộ và do đó được nhận thức.

Lời bắt đầu “từ chính mình” và đi tới gặp gỡ người khác và cùng nhau tạo ra “Chúng ta”. Lời có thể gợi lên một tương lai chưa tồn tại và do đó mở ra những lộ trình mới. Lời có thể tái khẳng định những gì đã tồn tại – làm cho nó trở nên hữu hình và thiết thực đối với tất cả mọi người – đồng thời tố giác khoảng cách giới tính, sự vắng mặt của phụ nữ, những loại trừ đáng trách, sự im lặng áp đặt lên rất nhiều người. Và khi lời bị câm lặng và dường như không thể nghe thấy, thì vẫn còn không gian của biểu tượng, của lời kêu gọi im lặng, bất bạo động.

Trong một Giáo hội hiệp hành, trọng tâm là cùng nhau lắng nghe Lời của Thiên Chúa, được nghe qua lời của một người và của tất cả, và xem xét các mối tương quan giữa nam và nữ để biến đổi các mối tương quan và cơ cấu bất bình đẳng nhằm cho phép tất cả mọi người chia sẻ trong sự khác biệt đa dạng, theo dự án Tin Mừng về vương quốc của Thiên Chúa.

Những kinh nghiệm đổi mới phải được thuật lại để người khác nhận ra rằng việc phụ nữ đảm nhận vai trò có quyền lực là hợp pháp và khả thi. Những tác phẩm chú giải và thần học do phụ nữ viết cần được phổ biến và thảo luận; chứng từ của các nhân vật nữ trong Kinh thánh và lịch sử Giáo hội phải thúc đẩy sự thay đổi về mặt tâm linh và khơi dậy lòng can đảm để lên tiếng.

Thách đố

Trong một Giáo hội hiệp hành, thách đố là nói “những ngôn ngữ mới”, nói ngôn ngữ của phụ nữ, nói với phụ nữ và nói với tư cách là những người nữ hiểu Phúc âm và công bố Phúc âm. Như Michelle Rosaldo đã nói: “Vị trí của phụ nữ được quyết định không phải bởi những gì họ làm mà dựa trên ý nghĩa của những hoạt động của họ trong thể chế xã hội cụ thể”.

Do đó, sẽ không có Giáo hội hiệp hành nếu lời chuyên môn, công khai và có uy tín không có điều kiện và không gian để gây tiếng vang và được chấp nhận như một lời có tính thiết yếu, cấu thành để thành lập giáo hội bằng việc cùng nhau nhận thức đức tin, và cùng nhau quyết định vì ích chung.

Cũng sẽ không có Giáo hội hiệp hành nếu các mối tương quan trong Giáo hội không được tư duy lại một cách thấu đáo từ góc độ giới tính, để vượt thắng văn hóa giáo sĩ-nam tính và cơ cấu gia trưởng. Những người trong tiến trình năng động này không nhìn nhận một trong các đối tác – thực ra là đối tác tích cực nhất ở cơ sở giáo hội và có ý nghĩa nhất đối với những thay đổi đã diễn ra trên bình diện văn hóa xã hội – cuối cùng sẽ làm suy yếu, ngăn chặn và kết cục làm cho bất kỳ động lực biến đổi nào trong giải pháp hiệp hành đều không thể thực hiện được.

Một Giáo hội quá nặng cấu trúc và sợ hãi sẽ không ngừng chỉ trích mọi diễn ngôn bảo vệ quyền phụ nữ và sẽ không ngừng chỉ ra những rủi ro cũng như sai sót có thể xảy ra trong những diễn ngôn như vậy. Trái lại, một Giáo hội năng động sẽ phản ứng bằng việc chú ý đến những đòi hỏi chính đáng của phụ nữ muốn có công bằng và bình đẳng hơn.

Giáo hội năng động sẽ học hỏi lịch sử và thừa nhận rằng đã tồn tại trong thời gian dài kiểu Giáo hội chuyên quyền, mang tính áp đặt với nhiều hình thức nô lệ, lạm dụng và bạo lực của nam giới. Theo nhãn quan này, Giáo hội ấy mới có thể coi những đòi hỏi trên của phụ nữ như là của chính mình, và ngay cả khi không đồng ý với tất cả những gì mà một số nhóm nữ quyền đưa ra, Giáo hội ấy sẽ đóng góp hết mình để mối tương quan hỗ tương giữa nam và nữ ngày càng gia tăng.

Theo đó, Thượng Hội đồng muốn đổi mới cam kết của Giáo hội trong việc đấu tranh “chống lại mọi sự phân biệt đối xử và bạo lực dựa trên cơ sở giới tính”.

Tác giả: Serena Noceti (*)

Dịch giả: Nt. Anna Ngọc Diệp, Dòng Đa Minh Thánh Tâm

Chuyển ngữ từ: synodaltimes.com

Trích Bản tin Hiệp Thông / HĐGMVN, Số 143 (Tháng 9 & 10 năm 2024)

(*) Tác giả Serena Noceti là một nữ thần học giáo dân người Ý, giáo sư chính thức tại Viện Khoa học Tôn giáo ở Florence, và là giáo sư tại Khoa Thần học miền Trung nước Ý. Bà là thành viên sáng lập của Hiệp hội nữ Thần học gia Ý và Nguyên phó chủ tịch Hiệp hội Thần học Ý.

bài liên quan mới nhất

bài liên quan đọc nhiều

Top