Ngày 23 tháng 7: Thánh Brigitta, nữ tu
Ngày 23 tháng 7
Thánh Brigitta, nữ tu
(1303 – 1373)
Thánh Brigitta (hay là Birgitta) sinh ngày 14 tháng 6 năm 1303 tại Upland, Thụy Điển, nơi cha ngài cai quản. Mẹ ngài, bà Ingeborg Phinsta, là con của vị quan cai quản miền Đông Goythland. Brigitta là con út trong số 7 người con.
Truyền thuyết mặc cho cuộc sinh hạ của thánh nữ nhiều biến cố siêu nhiên. Ngay trước khi sinh ra thánh nữ, mẹ ngài đã thoát chết cách lạ lùng trong một cuộc đắm tàu. Một linh mục được thị kiến, thấy “tiếng nói của con trẻ được mọi người nghe theo”. Thực tế, Brigitta tới 3 tuổi mới nói được, nhưng lại nói rất sõi làm cho láng giềng phải kinh ngạc.
Lúc lên 7 tuổi, một buổi sáng có bà mặc áo trắng hiện đến đầu giường, tay cầm triều thiên và nói:
- Brigitta, con có muốn thiên thần này không?
Đứa trẻ đáp lời:
- Dạ con muốn lắm chứ.
Và Đức Trinh Nữ đã đội triều thiên lên đầu Brigitta.
Khi lên 10 tuổi, Brigitta đã được nghe giảng về cuộc khổ nạn của Chúa, thánh nữ rất cảm động. Đêm sau, Chúa Giêsu hiện ra, mình đầy thương tích bê bết máu. Chúa nói:
- Con xem cha bị đối xử tàn tệ thế nào.
Đau đớn thánh nữ hỏi:
- Lạy Chúa, ai làm cho Chúa bị thương tích như vậy?
Chúa nói:
- Những người khinh thường các giới luật và quên lãng tình yêu Cha.
Những hình ảnh này không bao giờ phai mờ trong tâm trí Brigitta. Năm 1314 mẹ thánh nữ từ trần. Ngài sống với người dì. Năm 1316, vì vâng lời và ngược với khuynh hướng tự nhiên, thánh nữ kết hôn với Ulf Gudmarsson, 18 tuổi, nghị viên tương lai của vương quốc. Họ sinh được tám người con, 4 trai, 4 gái. Hai người con trai chết sớm. Karl, người con trưởng nặng tinh thần thế tục, nhưng lại rất kính mến Đức Mẹ. Birger, người con gái thứ hai, lập gia đình. Nhưng sau này trở thành người cộng sự của mẹ và sẽ đem xác mẹ từ Roma về chôn cất tại Thụy Điển. Ba người con gái khác đều lập gia đình Merita và Cêcilia ở lại Thụy Điển. Còn Catarina sau khi mất chồng đã sống với mẹ.
Người con trai thứ tư, Ingebord đã trở thành tu sĩ dòng Xitô.
Vua Magour vời thánh nữ vào làm cố vấn cho hoàng hậu Blanche. Ngài trở thành người quản gia thứ hai trong triều sau hoàng hậu, nhưng đã cố gắng một cách vô hiệu trong nỗ lực biến cải đời sống của hoàng hậu lẫn của nhà vua. Sau một cơn bệnh nguy ngập và được Đức Trinh Nữ chữa lành, thánh nữ khuyên chồng rời bỏ triều đình lui về nhà riêng họ đã sống đời gia đình gần như sống trong tu viện.
Brigitta cùng chồng đi hành hương đền thờ thánh Giacôbê ở Compostella. Trên đường về, ông Ulf lâm trọng bệnh. Năm 1943, nghĩa là 28 năm sau ngày cưới, ông qua đời tại tu viện Alvasta và Brigitta sống đời sám hối gần tu viện Xitô ở Alvasta. Khi sống tại đây thánh nữ soạn một bộ luật dòng mà ngài được kêu gọi thành lập, nhưng sinh thời ngài không bao giờ thấy được dòng ấy thành hình. Chính Cararina, ái nữ ngài, sẽ hướng dẫn nhà dòng phát triển mạnh mẽ, sau khi được Đức Urbanô V châu phê năm 1370 và sau khi thánh nữ qua đời.
Thánh nữ Brigitta được ơn tiên tri và thực hiện nhiều cuộc chữa trị lạ lùng cho Giáo hội và xã hội. Chúng ta biết rằng: khi đã trở thành goá phụ, thánh nữ đã sống đời khổ hạnh, ít ăn, ít ngủ và cầu nguyện không ngừng. Ngài theo đuổi một luật sống nghiêm ngặt và thực hiện đủ công trình bác ái, đến nỗi chính ngài phải đi ăn xin. Dù vậy, ngài không rút lui hoàn toàn vào cô đơn. Ngài được linh ứng và cha tuyên úy của ngài viết lại bằng tiếng La-tinh dưới tựa đề “mạc khải”. Ngài cũng viết nhiều thư tín cho Đức Giáo Hoàng, các Đức Hồng y và các nhà cầm quyền để vạch trần những tật xấu của họ, cũng như chỉ vẽ cách thế canh tân đời sống họ. Đối với nhà vua, ngài chỉ trích các hà khắc và khuyên sống với địa vị của mình. Ngài còn nhờ một Giám mục mang thư khuyên hai vua Anh và Pháp hòa giải với nhau. Đối với Đức Giáo Hoàng Clêmentê VI đang ở Avignon, ngài xin vị cha chung trở về Roma.
Năm 1349, thánh nữ đi hành hương Roma để dự Năm Thánh. Nhân dịp này, ngài xin Toà Thánh châu phê luật dòng, nhưng từ năm 1215 công đồng Lateranô IV đã cấm lập thêm dòng mới. Năm 1370, Đức Giáo Hoàng Urbanô V châu phê luật dòng của ngài. Được ơn soi sáng, năm 1372, thánh Brigitta đi hành hương Thánh địa để cầu nguyện cho Giáo hội.
Năm 1373, thánh nữ trở về Roma và từ trần vào ngày 23 tháng 7. Mười tám năm sau, ngày 7 tháng10 năm 1391, ngài được ĐGH Boniface IX phong thánh.
bài liên quan mới nhất
- Ngày 27/12: Thánh Gioan Tông đồ
-
Ngày 26/12: Thánh Stêphanô, Tử đạo tiên khởi -
Ngày 23/12: Thánh Gioan Kenty, linh mục -
Ngày 21/12: Thánh Phêrô Canisiô, Linh mục, Tiến sĩ Hội Thánh -
Ngày 14/12: Thánh Gioan Thánh Giá, Linh mục, Tiến sĩ Hội Thánh -
Ngày 12/12: Đức Mẹ Guađalupê -
Ngày 11/12: Thánh Ðamasô I, giáo hoàng -
Ngày 08/12: Đức Maria Vô nhiễm Nguyên tội -
Ngày 07/12: Thánh Ambrôsiô, Giám mục, Tiến sĩ Hội Thánh -
Ngày 06/12: Thánh Nicôla, giám mục
bài liên quan đọc nhiều
- 12 điều mà người Công giáo phải trả lời được
-
Quy định về Thủ tục Hôn Phối -
Tuần bảy ngày cầu cho các linh hồn dưới luyện ngục -
Cha Phanxicô Xaviê Trương Bửu Diệp và việc loan báo Tin Mừng tại Việt Nam hôm nay -
Về cái chết của Chúa Giêsu trên thập giá (theo khoa học) -
Ngày 13/05: Đức Mẹ hiện ra tại Fatima -
Ngày 29/09: Tổng Lãnh Thiên Thần Michael, Gabriel & Raphael -
Ngày 01/10: Thánh Têrêsa Hài đồng Giêsu, trinh nữ, Tiến sĩ Hội thánh -
Ngày 08/12: Đức Maria Vô nhiễm Nguyên tội -
Ngày 13/06: Thánh Antôn Padua, linh mục, TSHT (1195-1231)