Chúa nhật 4 Phục sinh năm C - Chúa nhật Chúa chiên lành (Ga 10,27-30)

Chúa nhật 4 Phục sinh năm C - Chúa nhật Chúa chiên lành (Ga 10,27-30)

Chúa nhật 4 Phục sinh năm C - Chúa nhật Chúa chiên lành (Ga 10,27-30)

Tôi ban sự sống đời đời cho chiên của tôi.

Bài đọc 1: Cv 13,14.43-52

Này đây, chúng tôi quay về phía dân ngoại.

Bài trích sách Công vụ Tông Đồ.

14 Ngày ấy, hai ông Phao-lô và Ba-na-ba rời Péc-ghê tiếp tục đi An-ti-ô-khi-a miền Pi-xi-đi-a. Ngày sa-bát, hai ông vào hội đường ngồi tham dự.

43 Tan buổi họp, có nhiều người Do-thái và nhiều người đạo theo, tức là những người tôn thờ Thiên Chúa, đi theo hai ông. Hai ông nói chuyện với họ và khuyên nhủ họ gắn bó với ơn Thiên Chúa.

44 Ngày sa-bát sau, gần như cả thành tụ họp nghe lời Thiên Chúa. 45 Thấy những đám đông như vậy, người Do-thái sinh lòng ghen tức, họ phản đối những lời ông Phao-lô nói và nhục mạ ông. 46 Bấy giờ ông Phao-lô và ông Ba-na-ba mạnh dạn lên tiếng: “Anh em phải là những người đầu tiên được nghe công bố lời Thiên Chúa, nhưng vì anh em khước từ lời ấy, và tự coi mình không xứng đáng hưởng sự sống đời đời, thì đây chúng tôi quay về phía dân ngoại. 47 Vì Chúa truyền cho chúng tôi thế này: Ta sẽ đặt ngươi làm ánh sáng muôn dân, để ngươi đem ơn cứu độ đến tận cùng cõi đất.”

48 Nghe thế, dân ngoại vui mừng tôn vinh lời Chúa, và tất cả những người đã được Thiên Chúa định cho hưởng sự sống đời đời, đều tin theo. 49 Lời Chúa lan tràn khắp miền ấy.

50 Nhưng người Do-thái sách động nhóm phụ nữ thượng lưu đã theo đạo Do-thái, và những thân hào trong thành, xúi giục họ ngược đãi ông Phao-lô và ông Ba-na-ba, và trục xuất hai ông ra khỏi lãnh thổ của họ. 51 Hai ông liền giũ bụi chân phản đối họ và đi tới I-cô-ni-ô. 52 Còn các môn đệ được tràn đầy hoan lạc và Thánh Thần.

 

Đáp ca: Tv 99,1-2.3.5 (Đ. c.3c)

Đ.Ta là dân Chúa, là đoàn chiên Người dẫn dắt.

1Hãy tung hô Chúa, hỡi toàn thể địa cầu,2phụng thờ Chúa với niềm hoan hỷ,
vào trước thánh nhan Người giữa tiếng hò reo.

Đ.Ta là dân Chúa, là đoàn chiên Người dẫn dắt.

3Hãy nhìn nhận Chúa là Thượng Đế,
chính Người dựng nên ta, ta thuộc về Người,
ta là dân Người, là đoàn chiên Người dẫn dắt.

Đ.Ta là dân Chúa, là đoàn chiên Người dẫn dắt.

5Bởi vì Chúa nhân hậu,
muôn ngàn đời Chúa vẫn trọn tình thương,
qua bao thế hệ, vẫn một niềm thành tín.

Đ.Ta là dân Chúa, là đoàn chiên Người dẫn dắt.

 

Bài đọc 2: Kh 7,9.14b-17

Con Chiên sẽ chăn dắt và dẫn đưa họ tới nguồn nước trường sinh.

Bài trích sách Khải huyền của thánh Gio-an tông đồ.

9 Tôi là Gio-an, tôi thấy một đoàn người thật đông không tài nào đếm nổi, thuộc mọi dân, mọi chi tộc, mọi nước và mọi ngôn ngữ. Họ đứng trước ngai và trước Con Chiên, mình mặc áo trắng, tay cầm nhành lá thiên tuế. 14b Họ là những người đã đến, sau khi trải qua cơn thử thách lớn lao. Họ đã giặt sạch và tẩy trắng áo mình trong máu Con Chiên. 15 Vì thế, họ được chầu trước ngai Thiên Chúa, đêm ngày thờ phượng trong Đền Thờ của Người; Đấng ngự trên ngai sẽ căng lều của Người cho họ trú ẩn. 16 Họ sẽ không còn phải đói, phải khát, không còn bị ánh nắng mặt trời thiêu đốt và khí nóng hành hạ nữa. 17 Vì Con Chiên đang ngự ở giữa ngai sẽ chăn dắt và dẫn đưa họ tới nguồn nước trường sinh. Và Thiên Chúa sẽ lau sạch nước mắt họ.

 

Tin mừng: Ga 10, 27-30

27 Khi ấy, Đức Giê-su nói với người Do-thái rằng: “Chiên của tôi thì nghe tiếng tôi; tôi biết chúng và chúng theo tôi.

28 Tôi ban cho chúng sự sống đời đời; không bao giờ chúng phải diệt vong và không ai cướp được chúng khỏi tay tôi.

29 Cha tôi, Đấng đã ban chúng cho tôi, thì lớn hơn tất cả, và không ai cướp được chúng khỏi tay Chúa Cha.

30 Tôi và Chúa Cha là một.”

 

1. Suy niệm (TGM Giuse Nguyễn Năng)

Suy niệm: Bài Tin Mừng cho thấy Ðức Giêsu yêu thương và dùng hết quyền năng mà Cha thông ban để bảo vệ đoàn chiên, đó là những người nghe và đi theo Chúa. Họ thuộc về Chúa và không có sức lực nào kéo họ đi mất được, vì Ðức Giêsu luôn ở bên cạnh, che chở và họ được sống đời đời với Chúa.

Cầu nguyện: Lạy Chúa Giêsu, Chúa đã hy sinh chịu chết để cứu chúng con khỏi chết đời đời và ban lại cho chúng con ơn làm con Chúa. Chúa là Mục Tử nhân lành luôn dẫn dắt, quan phòng và sẵn sàng tha thứ khi chúng con lỗi lầm. Xin cho chúng con thấy được Chúa yêu thương chúng con vô cùng để chúng con luôn trung thành tin yêu Chúa. Amen.

Ghi nhớ: “Ta ban cho các chiên Ta được sống đời đời”.

 

2. Suy niệm (Lm. Carôlô Hồ Bạc Xái)

I. VÀI ĐIỂM CHỦ GIẢI

1. Đức Giêsu, Đấng chăn chiên lành

Bản văn Chúa nhật này quá ngắn, cần đưa trở lại văn mạch tổng thể một chút. Vào dịp lễ Lều, sau khi chữa một người mù bẩm sinh và anh ta bị trục xuất khỏi hội đường, Đức Giêsu tỏ ra là một “'Đấng chăn chiên đích thực", “hiến tặng đời mình cho đàn chiên. “ (Ga 10.1 I) .

Giờ đây chúng ta trở lại lễ Cung Hiến, lễ kỷ niệm hằng năm ngày cung hiến đền thờ và bàn thờ thời Giuđa Macabê. Đức Giêsu đi đi lại lại nơi hành lang Salômôn (nơi mà sau khi Chúa về trời, các môn đệ thường tụ họp, Cv 5,12) Những người Do thái – từ ngữ chỉ chung các thù địch của Đức Giêsu, trong Tin Mừng Gioan – tụ tập chung quanh Đức Giêsu (đúng ra là “vây quanh Người” 10,22). Tin Mừng ghi: “Lúc đó là mùa đông": (Ga 10,22); nói thế để từ chi tiết, chúng ta dễ nghĩ tới “sự băng giá” của lòng người theo thánh Augustinô sẽ viết sau này: “Nếu ông là Đấng Cứu thế hãy nói huỵch toẹt cho chúng tôi biết đi”.

Những người vây quanh không nắm rõ nội dung từ Cứu thế, nên Đức Giêsu không trực tiếp trả lời câu hỏi, Người kêu gọi thính giả suy nghĩ về những công việc của một vị Cứu thế, nhất là việc chữa người mù từ bẩm sinh mới đây. A. Marchadour giải thích: “Các phép lạ được coi như những dấu chỉ nhờ đó mà nhận ra Đấng Cứu thế” Rồi, Người tiếp tục đề tài người chăn chiên, hình ảnh truyền thống của Đấng Cứu thế dòng dõi Đavit; ở đây, Người nhấn mạnh đến những con chiên mà Chúa Cha trao phó cho Người.

2. Làm một với Chúa Cha.

Và bây giờ đề tài cho tới lúc này chưa đề cập tới lần nào: sự thân mật với Chúa Cha: Cha tôi và tôi, chúng tôi là một” Một khẳng định xác lập cội nguồn sứ mệnh của Đức Giêsu. Tình yêu của Chúa Cha, một tình yêu toàn bích bao bọc các con chiên đến nỗi không ai có thể cướp được một con nào. “Cha tôi, Đấng đã ban chúng cho tôi, thì lớn hơn tất cả và không ai cướp được chúng khỏi tay Chúa Cha. “

Đối với người Do Thái, nói thế là quá quắt rồi. Phạm thượng! Ai lại dám xưng mình là Cứu thế và lại còn thân mật quá thế với Thiên Chúa. Họ lượm đá để ném Người. Họ nói: “ Ông chỉ là phàm nhân mà lại tự cho mình là Thiên Chúa”.

Tác giả Tin Mừng kết thúc: “Nhưng Người đã thoát khỏi tay họ”. Tác giả như muốn mời chúng ta đọc đoạn này dưới ánh sáng của cuộc tử nạn trên thập giá và sự Phục sinh từ cõi chết. Với ánh sáng ấy, chúng la sẽ khám phá ra Đức Giêsu Con Thiên Chúa, đã hoàn tất tới cùng sứ mệnh của mình bởi tình yêu đối với các con chiên thế nào; trên con đường Sự sống nào, Người muốn đẫn đưa những ai nghe tiếng Người đi theo Người; Mối tình hiệp thông yêu thương nào với Chúa Cha mà Người muốn dẫn đưa chúng ta tham dự vào!

 

3. Suy niệm (Lm. Giuse Đinh Lập Liễm)

VỊ MỤC TỬ NHÂN LÀNH

A. DẪN NHẬP

Chúa nhật thứ tư mùa Phục sinh của ba chu kỳ niên lịch phụng vụ được mệnh danh là Chúa nhật Chúa Chiên Lành. Nghệ thuật Kitô giáo thuở xưa thường phác hoạ Đức Giêsu như Đấng Chăn Chiên Nhân lành. Hình ảnh người chăn chiên đã được mô tả trong Cựu ước về Thiên Chúa như là Đấng chăn dắt dân Người (Tv 22). Người Do thái cổ xưa là dân du mục, vì thế văn chương của họ là những sách Cựu ước cũng thường đề cập đến đời sống chăn nuôi, du mục. Chính Đức Giêsu cũng dùng những hình ảnh về chăn nuôi quen thuộc để dạy ta những chân lý thiêng liêng về đạo giáo.

Trong bài Tin mừng hôm nay, Đức Giêsu đã xưng mình là Chủ chăn. Ngài có đàn chiên để chăn dắt. Đàn chiên của Ngài có những đặc tính như Ngài đã tuyên bố: “Chiên Tôi thì nghe tiếng Tôi, Tôi biết chúng và chúng theo Tôi” (Ga 10, 27). Đàn chiên của Ngài có những đặc tính khác với đàn chiên của những nhà lãnh đạo tôn giáo Do thái lúc bấy giờ. Những đặc tính đàn chiên của Ngài là: biết lắng nghe chủ chăn, nhận biết chủ chăn và bước theo chủ chăn.

Đức Giêsu, Đấng Chăn Chiên Lành, không trực tiếp điều khiển đoàn chiên dưới thế này, Ngài dùng các vị đại diện trong Giáo hội là Đức Giáo hoàng, các Giám mục và các Linh mục mà hướng dẫn thay cho Ngài. Chính Ngài đã khẳng định với các Tông đồ: “Ai nghe các con là nghe Thầy, ai khước từ các con là khước từ Thầy” (Lc 10, 16). Vì thế, nếu chúng ta đã gọi các vị lãnh đạo trong Giáo hội là chủ chăn, chúng ta có trách nhiệm phải yêu mến, thành tâm lắng nghe sự hướng dẫn của các ngài để đến với Chúa, và nhờ đó, sẽ được dẫn tới cuộc sống đời đời.

B. TÌM HIỂU LỜI CHÚA

+  Bài đọc 1: Cv 13, 14.43-52

Một khúc quanh quyết định cuộc đời tông đồ của thánh Phaolô. Trước tiên Phaolô và Barnabê loan báo Tin mừng cho người Do thái tại Antiochia miền Pysidia, nhưng rồi các ngài đã phải sớm chấm dứt việc rao giảng vì người Do thái tỏ ra “ghen tức” khi thấy một số đông dân ngoại cũng quan tâm đến Tin mừng (Cv 13, 45).

Hai vị Tông đồ quyết định rời hội đường và dứt khoát đến với dân ngoại, không quên nhắc lại lời tiên tri về sứ mạng toàn cầu của Người Tôi tớ đau khổ (Cv 13, 47)

Do vậy, dân ngoại đã hân hoan đón nhận Tin mừng và tôn vinh Thiên Chúa. Lời Chúa được lan tràn ra khắp miền ấy.

+  Bài đọc 2: Kh 7, 9.14b-17

Trong một cuộc thị kiến, thánh Gioan tông đồ đã thấy một đoàn người thật đông đảo. Họ là dân Thiên Chúa đã khải hoàn. Đoàn người đông đảo này:

- Họ rất đông không tài nào đếm nổi, thuộc mọi dân tộc và mọi ngôn ngữ.

- Họ đứng trước ngai Con Chiên, Đấng đã cứu độ muôn dân qua cái chết của Ngài.

- Con Chiên sẽ dẫn đưa họ tới nguồn nước trường sinh.

+ Bài Tin mừng: Ga 10, 27-30

Đức Giêsu tự giới thiệu mình là một vị Mục tử, một vị Mục tử tuyệt vời. Ngài biết rõ từng người chúng ta, Ngài bảo vệ và sẽ đưa chúng ta đến sự sống đời đời. Vấn đề là: chúng ta có tin tưởng bước theo Ngài không?

C. THỰC HÀNH LỜI CHÚA: Bước theo vị Mục tử

I.  ĐỨC GIÊSU LÀ MỤC TỬ

Bối cảnh

Bài Tin mừng hôm nay rất ngắn, được trích ra từ cuộc tranh luận với người Do thái trong dịp Lễ lều, nhân dịp kỷ niệm ngày thanh tẩy Đền thờ thời Maccabêô.

Đức Giêsu đang ở Giêrusalem trong dịp lễ này. Tại đây xảy ra cuộc tranh luận với người Do thái về vấn đề Người có phải là Đấng Thiên Sai không, và cuối cùng Người đã xưng mình là Con Thiên Chúa bằng cách tuyên bố rằng: Cha Người ở trong Người và Người ở trong Cha trong sự hiệp thông trọn vẹn đời sống và việc làm (Lc 10, 22-41).

Bài Tin mừng hôm nay là một phần trích trong cuộc tranh luận và ghi lại lời Đức Giêsu quả quyết Người đồng bản tính với Chúa Cha.

Trước khi trả lời dứt khoát Người đồng bản tính với Chúa Cha, Đức Giêsu tuyên bố sự khác biệt nhau giữa người Do thái và “chiên của Người”, tức là những kẻ tin theo Người.

Đối với người Do thái, những lời Người nói và những việc Người làm là các phép lạ, không đủ thuyết phục họ, vì xét cho cùng họ có dã tâm và không muốn tin. Ngược lại, chiên của Người là những người biết ngoan ngoãn đón nhận, vì họ không cần đến nhiều dấu lạ bên ngoài để làm điều kiện cho việc đi theo Người.

Như vậy, Đức Giêsu khẳng định Người là Mục tử và Người có đàn chiên để chăn dắt và Người đưa họ đến cuộc sống đời đời mà không ai có thể cướp khỏi tay Người được.

Hình ảnh người chăn chiên trong Cựu ước

Hình ảnh người chăn chiên không chỉ là một hình ảnh đẹp ở vùng thôn quê mà nó còn có ở trong Thánh kinh. Trong khắp vùng Đông phương cổ, các vua chúa thường tự coi mình như mục tử chăn dắt dân nước. Chính Giavê cũng đóng vai trò đó khi giải thoát dân riêng khỏi Ai cập: “Người lùa dân Người đi ví thể đàn chiên, Người dẫn dắt chúng như đàn cừu ngang qua sa mạc” (Tv 78, 52).

Đavít, một trong những nhà lãnh đạo chính trị đầu tiên của Israel, là một cậu chăn chiên tại Belem (1Sm 17, 34-35). Ông Vua lý tưởng của tương lai, Đức Messia, Đavít mới, cũng được loan báo như một “Mục tử”: “Ta sẽ trỗi dậy một mục tử duy nhất, Người sẽ chăn dắt chúng. Đó là Đavít, tôi tớ của Ta” (Ed 34, 23).

Chăn nuôi súc vật từng bầy là nghề chính của dân Do thái. Các tổ phụ vĩ đại của họ từ Abraham, Isaác, Giacob, Maisen, Đavít… đều là mục tử.

Do đó, người Do thái đã diễn tả về Thiên Chúa như là một mục tử nhân hậu, luôn hết tình yêu thương đàn chiên (Tv 22; Gr 31, 10; Ed 24, 11-16). Và Đức Giêsu đã tự mạc khải như là một Mục tử tuyệt vời (Ga 10, 11-14).  Rồi đi xa hơn nữa, Người đã bày tỏ cho nhân loại biết chính Người là Thiên Chúa (Ga 10, 27-30).

II. NHỮNG ĐẶC TÍNH CỦA MỤC TỬ

Những đặc tính của vị Mục tử được tóm gọn trong câu nói của Đức Giêsu: “Chiên Tôi thì nghe tiếng Tôi, Tôi biết chúng và chúng theo Tôi” (Ga 10, 27). Ở đây, ba động từ được Đức Giêsu nói lên, là những động từ tác động rất phù hợp với con người: nghe, biết và theo.

Chiên nghe tiếng người chủ chăn

Ngày nay, tại Palestine, cũng còn có thể chứng kiến được cảnh chăn chiên mà Chúa Giêsu đã từng chứng kiến 2000 năm qua. Cảnh những người mục tử Bédouin mang những đàn chiên của họ trở về nhà từ những cánh đồng cỏ khác nhau sau một ngày đi ăn cỏ.

Thường vào lúc hoàng hôn, các đàn chiên khác nhau cùng kéo về qui tụ ở một chỗ uống nước. Chúng trà trộn lẫn lộn với nhau từ 8 hay 9 đàn nhỏ trở thành một bầy chiên lớn. Mặc dù lẫn lộn chung với nhau nhưng những chủ chăn không hề lo sợ chiên bị lạc. Đến giờ ra về, mỗi chủ chiên thổi lên một tiếng gọi riêng biệt – một tiếng còi, tiếng tiêu, tiếng sáo, hay tù và – thì những con chiên trong đàn sẽ tự động rời khỏi đám đông theo đàn của mình mà về chuồng. Chúng tự biết chúng thuộc về đàn nào, chúng nghe tiếng gọi của người chủ chăn và đi theo. “Chiên của tôi thì nghe tiếng tôi, tôi biết chúng và chúng theo tôi” (Ga 10, 27) (Nguyễn Văn Thái, Sống Lời Chúa giữa dòng đời, tr 171).

Nghe Chúa chính là lắng nghe Lời Chúa qua Kinh thánh, nơi giáo huấn của Giáo hội, và những ơn soi sáng nơi tâm hồn mình. Nghe Chúa chính là để có một mối tương giao thân tình với Người, và nhất là để tin vào Người. Thánh Phaolô viết: “Có đức tin là nhờ nghe giảng, mà nghe giảng là nghe công bố lời Đức Kitô” (Rm 10, 17) hay “Đức tin nhờ nghe: Fides ex auditu” (Ga 3, 2).

Chiên và chủ chiên biết nhau

Chiên rất thân thiện với chủ chăn. Khi đàn chiên đang nằm ngủ êm đềm, người chủ chiên có thể bước đi ngay giữa đàn chiên mà không gây rối loạn hay gây mất ngủ cho con nào cả. Trong khi đó chỉ một bước chân của người lạ mặt xâm nhập vào chuồng chiên đang lúc chiên nằm ngủ cũng đủ gây kinh hoàng và hoảng hốt cho cả đàn chiên. Dường như chiên đã coi người chủ chăn như một thành phần rất thân thuộc của chúng. Và sự liên hệ mật thiết phát triển dần dần đến độ chủ chăn có thể phân biệt và hiểu tiếng kêu của từng con chiên, tiếng kêu đau thương hay tiếng kêu hoan lạc. Chiên nghe lệnh của người chủ chăn để biết khi nào đi kiếm ăn hay lúc nào lên đường trở về nhà.  Ngoài ra, người chủ chăn còn biết cả tên gọi và đặc tính của từng con chiên nữa.

Biết” trong Kinh thánh, từ ngữ này trước hết không mang một ý nghĩa tri thức. Chính tình yêu mới làm cho ta nhận biết người nào đó một cách đích thực, đến nỗi đoán được cả tâm tính họ. Sự thân mật, sự hiểu biết lẫn nhau, yêu mến sâu xa, hiệp thông tâm hồn, trí não, thể xác… là dấu chỉ của tình yêu vợ chồng (St 4, 1).

Biết Chúa không chỉ là học hỏi và suy niệm theo nghĩa tri thức, mà là hiểu biết sâu xa, yêu thân tình đến nỗi kết hợp cả thân xác lẫn tâm hồn. Chính tình yêu mới làm cho chúng ta nhận biết Chúa một cách đích thực, đến nỗi đoán biết cả thánh ý Người.

Sự biết chí tình chí thiết này thực sự đã được thể hiện với hai thánh nữ Catarina và Têrêsa Hài đồng Giêsu. Catarina là người mù chữ chỉ học nơi Thánh tâm Chúa Giêsu và trở thành tiến sĩ Hội thánh. Têrêsa cũng chẳng học trường nào, chỉ học nơi tình yêu Chúa Giêsu Hài Đồng, đã được Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II phong làm tiến sĩ Hội thánh tháng 08/1997 trong đại hội giới trẻ tại Paris.

Chiên thì theo chủ chăn

Những người chăn bò thường đi sau đàn bò dùng roi quất lên mình bò để lùa chúng đi thành đàn với nhau. Đối với chiên thì hoàn toàn khác hẳn. Người mục tử luôn đi trước để hướng dẫn đàn chiên theo sau. Nếu người chăn chiên đi đàng sau đàn chiên giống như chăn bò, chiên sẽ chạy tán loạn vì không biết đường đi. Chúng muốn được hướng dẫn, được bảo vệ và che chở.

Theo đó là một hành động không có gì là thụ động cả, nhưng diễn tả một thái độ tự do: đính kết toàn thân một người nào đó vào thân phận một kẻ khác. Theo nghĩa là gắn bó với Đức Giêsu mời gọi: “Hãy theo Ta” (Ga 1, 42).

Đi đâu cho thiếp đi cùng,

Đói no thiếp chịu, lạnh lùng thiếp cam.

Theo Chúa chính là một thái độ hoàn toàn tự do, tự nguyện dấn thân, và trao phó thân phận cho duy một mình Người. Theo Chúa cũng là từ bỏ như Phêrô bỏ chài lưới, vợ con, cha mẹ và mọi sự để theo Thầy; như Matthêu bỏ địa vị, tiền của để theo Chúa; như Mađalêna bỏ đường tội lỗi bước vào đời sống mới. Đó là đổi đời, từ bỏ nếp sống cũ, một cuộc tái sinh vào đời sống mới.

III. TÂM TÌNH VỊ CHỦ CHĂN

Tận hiến cho đoàn chiên

Người chủ chăn rất tha thiết với đàn chiên, họ coi đàn chiên như một phần trong thân thể mình. Họ không yên tâm khi một con chiên đi lạc. Họ không đành lòng bỏ con chiên bị thương mà không băng bó. Họ đã sẵn sàng vác chiên trên vai khi không đi được hoặc khi bị đi lạc.

Khi kẻ làm thuê trông coi con chiên, thì lũ chó sói không gặp rắc rối nào trong việc rình bắt đàn chiên. Ngay khi kẻ làm thuê nhìn thấy một con chó sói đang tiến lại gần, thì hắn ta liền bỏ rơi đàn chiên. Hắn chỉ nghĩ đến một điều duy nhất là cứu thoát bản thân mình mà thôi. Người chủ tốt của đàn chiên không làm như vậy. Họ bảo vệ đàn chiên chống lại sự tấn công của chó sói, thậm chí họ còn sẵn sàng liều mất mạng sống của mình nữa.

Đức Giêsu, Chúa chiên nhân lành, Đấng đã hiến mạng sống mình cho đoàn chiên. Mạng sống của Người không bị lấy đi, cũng không phải theo lệnh Chúa Cha. Chính Người đã tự ý trao ban, và trao ban một cách vui lòng. Người tự hiến cho đoàn chiên để mang chúng về đồng cỏ của sự sống đời đời. Hình ảnh cha thánh Damien, tông đồ người hủi, đã nói lên tình thần tận hiến cho đàn chiên, những con người phong cùi xấu số bị bỏ rơi.

Chiến đấu bảo vệ đàn chiên

Người mục tử Đông phương là một người du mục đáng gờm, một thứ lính chiến, có khả năng bảo vệ đàn vật mình khỏi thú dữ… gấu hay sư tử đến để cướp đoạt một con chiên khỏi đàn (1Sm 17, 34-35).

Đavít kể lại cho vua Saulê trước khi giết được tướng Goliat của quân Philitinh: “Hồi tôi tớ bệ hạ chăn chiên cho thân phụ, hễ sư tử hay gấu đực tha con chiên nào, tôi liền rượt bắt, đánh nó và cướp con chiên khỏi miệng nó. Nếu nó cự lại, tôi liền nắm lấy râu đánh và giết nó tức khắc. Tôi tớ bệ hạ đã giết sư tử cũng như gấu đực thì cũng sẽ thanh toán tên Philitinh không cắt bì này như vậy vì nó đã dám nhục mạ đạo quân của Thiên Chúa hằng sống” (1Sm 17tt).

Đavít đã nêu gương hy sinh, vật nhau với sư tử, với gấu đực, để cướp lại một con chiên bị đem đi. Đavít vì tha thiết với bầy chiên, nên không ngần ngại đánh nhau với sư tử và gấu đen để cướp lại chiên. Đức Giêsu khi nói: “Không ai cướp được chúng” đã nghĩ đến cuộc giao chiến khốc liệt mà Người phải đương đầu trong cuộc khổ nạn, để đối phương “không cướp được” một chiên nào khỏi tay Người. Khác với kẻ chăn thuê, thường chạy trốn trước sói dữ, Đức Giêsu sẽ phó nộp và đành mất mạng sống mình vì chiên của Người (Ga 10, 12-15).

Không bỏ rơi đàn chiên

Người chăn chiên rất tha thiết với đàn chiên, lo lắng cho đàn chiên hết mình, không bao giờ để một con chiên nào bị bỏ rơi. Dụ ngôn con chiên lạc đã chứng tỏ điều đó: “Người nào trong các ông có một trăm con chiên mà bị mất một con, lại không để chín mươi chín con kia ngoài đồng, để đi tìm cho kỳ được con chiên bị mất”. (Lc 15, 4-7)

Chung quanh chúng ta hay ngay trong đời sống chúng ta có những hiện tượng rời bỏ hàng ngũ, bất trung thường xảy ra, thì chúng ta nghĩ thế nào? Thưa đó là những hiện tượng tự nhiên, vì đó là mầu nhiệm của tự do. Nhưng một điều chúng ta cần biết đó là không khi nào Chúa ruồng bỏ! Chỉ có con người rời bỏ bàn tay Chúa. Và ngay khi con người rời bỏ, Thiên Chúa vẫn tiếp tục tìm liên hệ lại: dụ ngôn đứa con hoang đàng đã chứng tỏ điều đó (x. Lc 15).

Ban cho chiên sự sống đời đời

Con chiên đi theo chủ chăn thì sẽ được dẫn đến đồng cỏ xanh tươi đảm bảo sự sống. Cũng vậy, những ai thực sự đi theo Chúa, tức là để Chúa dẫn dắt, thì sẽ được bảo đảm đưa đến sự sống đời đời.

Sự sống này, một đàng không thể mất được, vì đã được chính Chúa Giêsu là Đường, là Sự Thật và là Sự Sống bảo đảm. Đàng khác, cũng không bị ai cướp đi được, vì một khi đã được Chúa dẫn dắt thì không còn sợ vấn đề Người không đủ khả năng chăm sóc và bảo vệ sự sống của đàn chiên nữa.

Trong một bài giảng, thánh Cyrillô thành Alexandria đã giải nghĩa câu “Ta ban cho chúng sự sống đời đời” như sau: Đừng hiểu sự sống này chỉ là chuỗi ngày nối tiếp nhau mà chúng ta dù là người tốt hay xấu cũng đều sở hữu sau khi sống lại, nhưng phải hiểu đây là sống trong niềm vui. Ta cũng có thể hiểu “sự sống” này theo nghĩa bí tích Thánh Thể. Nhờ Bí tích Thánh Thể, Đức Kitô tháp nhập chúng ta vào chính sự sống của Người, các tín hữu được thông phần vào chính xác thịt Người, như lời Người phán: “Ai ăn thịt Ta và uống máu Ta thì sẽ có sự sống đời đời” (Ga 6, 54).

IV. NHIỆM VỤ CỦA ĐOÀN CHIÊN

Chúa Giêsu không thể trực tiếp hướng dẫn mọi Kitô hữu, nhưng Người đã dùng các vị đại diện là hàng giáo phẩm và giáo sĩ để thay quyền Chúa mà hướng dẫn. Vì Chúa đã nói với các tông đồ: “Ai nghe các con là nghe Thầy” (Lc 10, 16).

Chúng ta hãy đọc một đoạn mà công đồng Vatican II nói về các linh mục: “Thi hành chức vụ của Chúa Kitô là Đầu và là Chủ chăn theo phận vụ mình, các linh mục nhân danh Giám mục tụ họp gia đình Thiên Chúa như một cộng đoàn huynh đệ duy nhất, và nhờ Chúa Kitô trong Chúa Thánh Thần các ngài dẫn đưa họ đến cùng Chúa Cha. Để thi hành thừa tác vụ này cũng như các thừa tác vụ khác, các linh mục được trao ban quyền thiêng liêng để kiến thiết Giáo hội. Trong việc kiến thiết này, các linh mục phải theo gương Chúa Kitô mà đối xử rất nhân đạo với hết mọi người… (Sắc lệnh về Linh mục, số 4).

Chúng ta thường gọi những người lãnh đạo trong Giáo hội là mục tử hay chủ chăn. Chúng ta đang sống dưới sự hướng dẫn của các ngài, chúng ta hãy tin tưởng các ngài, vì đức tin bảo cho chúng ta biết: chính Chúa Giêsu, Mục tử tốt lành đích thực, đang trực tiếp chăn dắt chúng ta qua những người lãnh đạo trong Giáo hội, là Đức Giáo hoàng, các Giám mục, Linh mục. Vì thế, chúng ta có bổn phận nghe theo sự hướng dẫn của các ngài, công tác với các ngài, tùy theo hoàn cảnh và điều kiện của chúng ta, để duy trì và xây dựng đoàn chiên nhỏ bé là gia đình mình, tập thể mình đang sống, đang làm việc và đoàn chiên rộng lớn hơn là Giáo hội.

Một lần nữa chúng ta hãy lặp lại lời Chúa Giêsu đã nói với các Tông đồ: “Ai nghe các con là nghe Thầy, ai khước từ các con là khước từ Thầy” (Lc 10, 16). Qua câu Kinh thánh này, chúng ta có thể khẳng định rằng vâng nghe các vị lãnh đạo trong Giáo hội là vâng nghe Chúa, và như vậy, đây là một nhiệm vụ không thể thiếu được, vì như người ta nói:

Cá không ăn muối cá ươn,
Con cãi cha mẹ trăm đường con hư.

 

4. Suy niệm (Lm. Antôn Nguyễn Cao Siêu, S.J.)

Cầu cho ơn Thiên Triệu

 

Mục đích của đời người Kitô hữu

là phụng sự Thiên Chúa và phục vụ tha nhân,

qua đó, bản thân mình được phát triển.

Có nhiều con đường dẫn tới mục đích này.

Chúng ta không thể đi nhiều con đường cùng một lúc.

Người bạn trẻ bước vào tuổi trưởng thành

thấy mình đứng trước những lựa chọn.

Không phải chỉ là chọn trường, chọn nghề,

chọn người yêu, chọn nơi làm việc,

nhưng trước hết là chọn bậc sống.

Chúa muốn tôi theo bậc hôn nhân hay bậc tu trì?

Chúa muốn tôi lập gia đình, sống độc thân

hay làm linh mục, tu sĩ?

Tôi cần đặt cho mình những câu hỏi như thế,

vì đó là điều cần thiết cho hướng đi của đời tôi.

Khi chọn đúng bậc sống Chúa mời gọi,

tôi sẽ được hạnh phúc,

và làm cho nhiều người được hạnh phúc

Không nên so sánh các bậc sống với nhau.

Chỉ nên suy nghĩ xem,

với con người thực tế của tôi,

bao gồm những khả năng và giới hạn,

những khuynh hướng tự nhiên và hoàn cảnh gia đình,

Chúa muốn tôi sống bậc nào.

Các bậc sống đều tốt,

nhưng có bậc sống tốt hơn cho tôi.

Bậc sống tốt hơn và phù hợp với tôi hơn

sẽ là bậc sống giúp tôi phụng sự Chúa

và tha nhân hiệu quả hơn.

Chọn bậc sống là chọn con đường, chọn phương tiện.

Con đường đúng và phương tiện phù hợp

sẽ dễ dàng dẫn tôi đến mục đích của đời tôi.

Chọn bậc sống là chọn ơn gọi.

Có nhiều ơn gọi trong Giáo Hội:

ơn gọi làm linh mục hay tu sĩ,

ơn gọi sống thánh hiến giữa đời hay ơn gọi hôn nhân.

Ơn gọi nào cũng là một tiếng gọi từ Thiên Chúa,

nhưng bản thân tôi phải nghe được

tiếng gọi rất riêng tư Chúa dành cho tôi,

và quảng đại đáp trả.

Để nghe được tiếng gọi này,

tôi cần trầm lắng và cầu nguyện.

Để đáp lại tiếng gọi này,

tôi cần được tự do thanh thoát,

không bị ràng buộc bởi bất cứ thụ tạo nào.

Mỗi năm Giáo Hội dành một Chúa nhật

để cầu cho ơn thiên triệu linh mục và tu sĩ.

Chúng ta cần nhìn nhân loại hôm nay

bằng cái nhìn của chính Đức Giêsu,

và để cho trái tim mình rung động như Ngài.

Đức Giêsu thấy đám đông, Ngài chạnh lòng thương

vì họ lầm than, vất vưởng

như bầy chiên không người chăn dắt”  (Mt 9,36).

Hôm nay đám đông ấy vẫn còn.

Đám đông gần 100 triệu người Việt chưa tin Chúa Giêsu.

Đám đông khổng lồ dân Châu Á chưa đón nhận Tin Mừng;

Đám đông các bạn trẻ ta vẫn gặp ngoài đường phố,

trong trường học, nơi sở làm;

họ chăm chỉ ngồi suốt ngày ở quán cà phê, chơi game

hay tất bật trước hàng núi công việc và dự tính.

Đám đông những người bệnh tật, túng nghèo, neo đơn,

những người thất vọng, bị bỏ rơi, bị phản bội,

đang cần được ai đó chia sẻ, cảm thông

và nói cho họ nghe ý nghĩa của đau khổ họ đang chịu.

Đám đông những người thành tâm thiện chí

đang khắc khoải trước những mầu nhiệm của đời người.

Hôm nay đám đông ấy vẫn còn

và đông hơn xưa.

Đám đông vẫn là một tiếng gọi, một lời mời

cấp bách và thiết tha.

Tiếng gọi ấy vang lên trong lòng tôi,

đụng đến những ước mơ bình thường của tôi,

đụng đến trái tim khép kín của tôi,

đụng đến sự an nhàn và tiện nghi của tôi.

Tiếng gọi âm thầm của đám đông trở thành tiếng Chúa.

Chúa vẫn kêu gọi tôi xuyên qua nỗi khổ của anh em.

Tôi có chạnh lòng thương như Ngài không?

Giáo Hội cầu nguyện cho ơn gọi làm linh mục, tu sĩ

là để đáp lại lời mời gọi của Đức Giêsu:

Lúa chín đầy đồng mà thợ gặt lại ít.

Vậy anh em hãy xin chủ mùa gặt

sai thợ ra gặt lúa về” (Mt 9,37).

Ơn gọi sống đời thánh hiến là một hồng ân

Chúa tặng ban cho Giáo Hội,

để Giáo Hội tiếp tục sống và được sống dồi dào.

Chúng ta phải cầu xin để cánh đồng thế giới

không bao giờ thiếu những thợ gặt lành nghề,

tận tâm và tận tụy với công việc

mở mang nước Chúa khắp mặt địa cầu.

Bầu khí của thế giới hôm nay có vẻ không thuận lợi

cho việc cổ võ ơn gọi làm linh mục, tu sĩ.

Thế giới văn minh, với tiến bộ của khoa học kĩ thuật,

cho người ta tiện nghi và dạy người ta hưởng thụ.

Mối bận tâm của con người bị đóng khung ở đời này.

Tầm nhìn của con người

bị giới hạn bởi những nhu cầu trước mắt,

lắm khi lại là những nhu cầu giả tạo.

Con người sống trong ồn ào, căng thẳng, vội vã,

nên không có thời gian lắng đọng,

để nghe được tiếng Chúa

vang lên từ sâu thẳm lòng mình.

Con người sống dư thừa, thoải mái

nên ngại hy sinh để sống cho một lý tưởng.

Con người mang đầu óc thực dụng

nên không thấy được những giá trị tinh thần.

Con người xa lạ với niềm tin

nên không hiểu được con đường Thập giá.

Nhưng thế giới hôm nay, hơn bao giờ hết,

lại cần sự có mặt của những người hiến dâng.

Qua cuộc sống độc thân khiết tịnh,

họ cho thấy một trái tim biết yêu nồng nàn,

một thân xác được dành để phục vụ.

Qua cuộc sống thanh thoát khỏi vật chất tiền bạc,

họ cho thấy một kho tàng lớn lao trên trời,

chỉ kho tàng này mới làm họ mãn nguyện.

Qua cuộc sống từ bỏ mình trong vâng phục,

họ cho thấy mình đã được giải phóng

khỏi cái tôi ích kỷ hẹp hòi,

không còn bị giam hãm trong những dự định riêng tư,

nhưng được tự do sống theo ý Chúa.

Thế giới và Giáo Hội đang cần những con người

dám yêu như Đức Giêsu, dám sống như Đức Giêsu,

để Đức Giêsu không phải là một nhân vật quá khứ,

nhưng là Đấng đang sống, đang hoạt động,

đang cúi xuống thế gian đau khổ,

để xoa dịu, băng bó vết thương con người.

Cần có thật nhiều hình ảnh Giêsu trong thế giới,

vì có vô số đám đông đang đói,

đói được nghe Tin Mừng,

đói cơm bánh và tình thương.

Cần có thật nhiều Teresa Calcutta

cho những người nghèo và người hấp hối.

Cần có thật nhiều Têrêsa Hài Đồng

để truyền giáo bằng những lời cầu nguyện và hy sinh bé nhỏ.

Cần có thật nhiều đôi tay của các nữ tu

để săn sóc trẻ em khuyết tật và người phong.

Cần có thật nhiều đôi chân của Phanxicô Xavier

để ra đi loan báo Tin Mừng cho khắp Á Châu.

Đồng lúa chín vàng, mênh mông, chờ người gặt hái.

Biển cả bao la đang vẫy gọi các bạn trẻ ra khơi.

Chúng ta hãy cầu nguyện cho những thanh niên thiếu nữ

đang quảng đại bước theo một tiếng gọi từ trên cao.

Ước gì hạt giống Chúa đã gieo trong lòng họ

được nảy mầm và sinh nhiều hoa trái.

Ước gì mỗi gia đình, mỗi giáo xứ

trở nên nơi sản sinh và nuôi dưỡng biết bao ơn gọi.

 

Câu hỏi gợi ý

1.  Theo ý bạn, thế giới hôm nay có cần sự hiện diện và hoạt động của các linh mục,  tu sĩ không? Hãy chia sẻ về một linh mục hay nữ tu có ảnh hưởng lớn trên đời bạn.

2. Theo bạn, Giáo Hội phải làm gì để có nhiều bạn trẻ hăng hái đáp lại tiếng Chúa, sống ơn gọi linh mục, nữ tu?

3. Theo bạn, làm sao biết mình được Chúa mời gọi để trở nên một linh mục hay nữ tu?

Lời nguyện

Lạy Cha là người chủ ruộng tốt lành,

đồng lúa đã chín vàng chờ ngày gặt hái.

Xin Cha sai những người thợ lành nghề và tận tụy

đến làm việc trong cánh đồng bao la của Cha.

Xin Cha gieo vào lòng các bạn trẻ hôm nay

những ứơc mơ lón lao, những lý tưởng cao cả.

Xin cho họ

biết xây dựng hạnh phúc và tương lai của mình

bằng cách yêu tha nhân với trái tim rộng mở.

Ươc gì họ nghe được tiếng kêu của người bị áp bức,

cảm được cơn đói khát Lời Chúa và tình thương,

thấy được những mất mát của bao người đau khổ,

và chạm đến sự trống vắng của tâm hồn lạc hướng.

Xin Cha sai Thánh Thần đến với các bạn trẻ

để họ quảng đại đáp lại tiếng gọi của Chúa Giesu,

sống như Ngài đã sống

và tiếp tục làm những gì

Ngài đã làm trên trần gian.

Cũng xin Cha

gìn giữ gia đình và giáo xứ chúng con,

thanh lọc bầu khí của trường học và xã hội,

để tất cả trở thành những môi trường tốt

giúp các bạn trẻ dễ dàng tìm gặp ý Cha.

Amen.

 

KHÔNG AI CƯỚP ĐƯỢC KHỎI TAY TÔI

Chúng ta đang ở giữa mùa Phục Sinh.

Có những Kitô hữu coi sự phục sinh của Chúa Giêsu

là tột đỉnh, là hoàn tất trọn vẹn, chẳng phải chờ gì nữa.

Chúng ta hay quên một câu trong Kinh Tin Kính:

“Và Người sẽ trở lại trong vinh quang

để phán xét kẻ sống và kẻ chết.”

Bao lâu Chúa chưa trở lại, chúng ta còn phải đợi trông.

Kitô hữu vẫn sống trong một Mùa Vọng kéo dài.

Thời gian đợi trông cũng là thời gian chiến đấu,

thời gian của khách hành hương đi trong hoang địa.

Trên thập giá, Chúa phán: “Thế là đã hoàn tất” (Ga 19, 30).

Chúa hoàn tất sau khi đã chiến đấu và chiến thắng,

nhưng ta chưa hoàn tất ngày nào ta còn sống trên đời.

Ta vẫn phải phấn đấu đi đường hẹp và qua cửa hẹp.

Con đường đời của người kitô hữu không hề dễ đi,

vì đó là con đường của Thầy Giêsu, Con Thiên Chúa,

phải qua đau khổ để vào vinh quang (x. Lc 24, 26).

Con đường ấy cũng đầy hiểm nguy, cám dỗ và thử thách.

Đàn chiên của Người Mục tử Giêsu

không chỉ an toàn thảnh thơi đi trên cỏ xanh,

mà còn phải đối mặt với nhiều kẻ thù hung hãn.

Kẻ thù ấy là sói, là trộm cướp, là người lạ (Ga 10, 1.2.5),

đôi khi là người chăn thuê, chẳng lo cho chiên (Ga 10, 13).

Những kẻ thù chỉ muốn làm đàn chiên tan tác,

sói dữ chỉ muốn chộp lấy chiên để ăn thịt.

Mục Tử Giêsu bảo vệ đàn chiên của mình.

Ngài coi đàn chiên ấy quý hơn mạng sống,

nên Ngài làm điều mà người chăn thuê không dám làm,

đó là hy sinh mạng sống mình cho chúng (Ga 10, 17.18).

Đức Giêsu đã chết cho đàn chiên.

Cái chết của Ngài không làm chiên tan tác vì mất chủ,

trái lại đã quy tụ tất cả nên một đàn chiên duy nhất.

Vì đàn chiên còn bị tấn công mãi cho đến tận thế,

nên Chúa Giêsu phục sinh vẫn phải bảo vệ đàn chiên.

Cuộc chiến giữa Ngài và các kẻ thù diễn ra ác liệt.

“Không ai cướp giựt được chúng khỏi tay tôi” (Ga 10, 28).

Rõ ràng có sự giằng co giữa đôi bên.

Một bên giữ chặt, bên kia dùng sức cướp lấy.

Nhưng quyền năng của Đấng phục sinh mạnh hơn kẻ thù.

Ngài giựt lại chiên từ miệng sói.

Sói đem lại cái chết, còn Chúa Giêsu ban sự sống đời đời.

Không phải chỉ Chúa Giêsu mới là Đấng bảo vệ chiên.

Đàn chiên của Chúa Giêsu là do Cha ban cho (Ga 10, 29).

Chính vì thế Cha cũng là người bảo vệ:

“Không ai cướp giựt được chúng khỏi tay Cha tôi.”

Cả Cha và Con hợp tác bảo vệ đàn chiên khỏi kẻ thù.

Chắc chắn đàn chiên sẽ được an toàn,

nhưng an toàn này được mua bằng nỗ lực của Cha và Con.

“Tôi và Cha, Chúng Tôi là một” (Ga 10, 30).

Chúng Tôi cùng làm việc để gìn giữ đàn chiên.

Tuy nhiên, chiên cũng phải biết tự bảo vệ mình.

Chiên phải có khả năng nhận ra tiếng của chủ.

Chỉ khi có khả năng này, chiên mới không đi lạc,

hay đi theo những tiếng gọi mê hoặc, đầy quyến rũ

của những người lạ hay kẻ trộm kẻ cướp.

“Chiên của tôi thì nghe tiếng tôi… và theo tôi” (Ga 10, 27).

Trong thời buổi hiện tại, những tà phái mọc lên như nấm.

Có bao tiếng gọi lừa bịp, thoạt nghe giống tiếng chủ chiên,

khiến những chiên ngây thơ bị mắc bẫy.

Làm sao để đàn chiên có khả năng lột mặt nạ

những con sói dữ đội lốt chiên, đang làm chiên tán loạn.

Mỗi kitô hữu phải cộng tác với Thiên Chúa

để bảo vệ những chiên lạc lối trong nhóm mình.

LỜI NGUYỆN

Lạy Thầy Giêsu,

thật là khó khi phải giữ thái độ khoan dung

đối với những ai đang gây ra bất công và đau khổ

cho bao người trên thế giới và trong Giáo Hội.

Chúng con muốn bứng gốc sự dữ ra khỏi địa cầu,

và làm cho Giáo Hội chỉ gồm những người thánh thiện.

Nhưng lạy Thầy Giêsu,

Thầy lại muốn chúng con để cỏ lùng sống chung với lúa,

và để cả hai cùng lớn lên cho đến mùa gặt.

Chúng con hiểu tại sao ác nhân vẫn tung hoành,

và Xatan dường như thắng thế trong cuộc chiến hiện tại.

Thầy cho chúng con thấy khuôn mặt của Chúa Cha,

Đấng kiên nhẫn chờ con người hối cải,

Đấng cho mặt trời sáng trên kẻ dữ,

và mưa rơi trên ác nhân.

Thầy cũng cho chúng con thấy khuôn mặt của Thầy,

Đấng không bẻ gãy cây lau bị giập,

không làm tắt tim đèn còn khói.

Xin Thầy dạy chúng con biết cách chấp nhận

cuộc xung đột kéo dài đến tận thế

giữa con cái ánh sáng và con cái tối tăm,

giữa lúa tốt và cỏ lùng.

Và xin cho chúng con tin rằng

chiến thắng cuối cùng

sẽ thuộc về ánh sáng và sự thiện,

công lý và tình yêu.

 

5. Suy niệm (song ngữ)

Bài Đọc I: Tông Đồ CV 5,27-32.40-41
II: Khải Huyền 5,11-14

4th Sunday of Easter
Reading I: Acts 13:14,43-52
II: Rev 7:9,14-17

 

Gospel
John 10:27-30

27 My sheep hear my voice, and I know them, and they follow me;

28 and I give them eternal life, and they shall never perish, and no one shall snatch them out of my hand.

29 My Father, who has given them to me, is greater than all, and no one is able to snatch them out of the Father's hand.

30 I and the Father are one."

Phúc Âm
Gioan 10,27-30

27 Khi ấy, Chúa Giêsu phán rằng: "Chiên Ta thì nghe tiếng Ta, Ta biết chúng và chúng theo Ta.

28 Ta cho chúng được sống đời đời; chúng sẽ không bao giờ hư mất, và không ai có thể cướp được chúng khỏi tay Ta.

29 Điều mà Cha Ta ban cho Ta, thì cao trọng hơn tất cả, và không ai có thể cướp được khỏi tay Cha Ta.

30 Ta và Cha Ta là một".

Interesting Details

· The context. Jesus was at the temple in the winter, at the feast of Hanukkah, which celebrated the reconsecration of the temple in 164 BC after a Jewish revolt against the Syrian domination. In v. 24 of this chapter, the Jews asked whether Jesus was the Messiah, meaning whether he would deliver them from foreign dominion again. What Jesus said here did not satisfy them, so they wanted to stone him (v. 31).

· Shepherd was a title commonly used for the king or ruler of the people in ancient Mesopotamia and also in Israel. God Himself is called the Shepherd of Israel (Gen. 48:15, Ps. 28:9, etc.)

· "My sheep hear my voice" (v. 27). Few people had their own sheep-pen, so different shepherds put their sheep together in the same pen each evening. Next morning, each shepherd would call his own sheep.

· "I give them eternal life" (v. 28). Jesus is a special shepherd. Not only he knows and feeds his sheep, but he also gives them eternal life; not only a life, but "have [life] to the full" (Jn 10:10).

· "From my Father's hand no one can snatch away" (v. 29). This supreme power shows that the Father is God, because the souls are in God's hand (Wisdom 3:1) and no one can snatch them from God's hand (Isaiah 43:13). So Jesus is the Son of God. Furthermore, he is also God, and has the same power to protect souls.

· "The Father and I are one" (v. 30). This short verse expresses clearly he unity of power and operation, and led to the 4th-century Church doctrine of one divine nature in the Trinity.

· The unity in verse 30 also binds all people together: "that they may be one, even as we (Jn 17:11)

Chi Tiết Hay

· Bấy giờ là mùa đông, Đức Giêsu ở trong đền thờ vào dịp kỵ niệm lễ Cung Hiến Đền Thờ. Lễ này bắt nguồn từ cuộc nổi dậy chiến thắng của dân Do thái chống lại sự đô hộ của người Syria xảy ra hồi năm 164 trước Tây Lịch. Trong câu 24 của chương này, người Do Thái hỏi Đức Giêsu phải chăng Ngài là Đấng Mêsia, nghiã là Ngài có phải là người sẽ giải thoát họ khỏi ách nô lệ hay chăng. Lời giải đáp của Đức Giêsu ở đây không làm cho họ thoả mãn nên họ định ném đá Ngài (c.31).

· Người chăn chiên là một danh hiệu thường được dùng cho vua hoặc lãnh tụ của dân vùngMesopotamia xưa kia và cả Do Thái nữa. Thiên Chúa cũng được gọi là Chủ chiên của dân Do Thái (Sáng Thế 48:15, TV 28:9, vv.)

· "Chiên Ta thì nghe tiếng Ta" (c.27). Ít người chăn chiên có một chuồng chiên riêng của mình, họ thường chung nhau nhốt chiên vào một chỗ vào buổi tối. Sáng hôm sau, mỗi người đến gọi riêng những con chiên của mình ra.

· "Ta cho chúng được sống đời đời" (c.28). Đức Giêsu là một người chăn chiên đặc biệt. Không những nuôi nấng và biết con chiên của mình, Ngài còn cho chúng sự sống đời đời; không phải chỉ một cuộc sống, nhưng là "cuộc sống dồi dào" (10:10).

· "Không ai có thể cướp được khỏi tay Cha Ta" (c.29). Sức mạnh tuyệt đối này trong Kinh Thánh Cựu Ước dành riêng cho Thượng Đế, như trong câu mọi linh hồn đều ở trong bàn tay Chúa (Khôn Ngoan 3:1) và không ai cướp được chúng khỏi bàn tay Chúa (Isaia 43:13). Vậy Đức Giêsu là Con Thiên Chúa. Hơn nữa, Ngài cũng là Thiên Chúa, và cũng có sức mạnh như thế để bảo vệ mọi linh hồn.

· "Ta và Cha Ta là một" (c.30). Câu văn ngắn này nói một cách rõ ràng sự hiệp nhất trong quyền năng và hành động, và từ đó Giáo Hội đã ban bố tín điều Chúa Ba Ngôi.

· Sự hiệp nhất, trong câu 30, cũng nối kết mọi ngưòi lại với nhau: "để họ nên một như chúng ta" (17:11).

One Main Point

The Trinity binds us together in love and gives us a full, eternal life.

Một Điểm Chính

Chúa Ba Ngôi nối kết chúng ta lại trong tình thương và cho chúng ta sự sống dồi dào và vĩnh cửu.

Reflections

1. Do I listen to the Lord's call so that I can follow Him and he can feed me?

2. Looking at my life, do I see how the Lord has fed and led me?

3. Am I united with all people, rich and poor, in all nations? Why, or why not?

Suy Niệm

1. Tôi có lắng nghe lời mời gọi của Chúa để có thể theo Ngài và nhờ đó được Ngài nuôi sống?

2. Nhìn lại cuộc sống của tôi, tôi có nhận ra Chúa đang nuôi nấng và dẫn dắt tôi chăng?

3. Tôi có hợp nhất được với mọi người, giàu cũng như nghèo, không phân biệt quốc gia? Lý do tại sao?

 

 

Top