Chúa nhật 25 Thường niên năm B (Mc 9,30-37)

Chúa nhật 25 Thường niên năm B (Mc 9,30-37)

Chúa nhật 25 Thường niên năm B (Mc 9,30-37)

“Con Người sẽ bị nộp. Ai muốn làm lớn nhất,
thì hãy tự làm người rốt hết”.

BÀI ÐỌC I: Kn 2, 12. 17-20

“Chúng ta hãy kết án cho nó chết cách nhục nhã”.

Trích sách Khôn Ngoan

(Những kẻ gian ác nói rằng:) “Chúng ta hãy vây bắt kẻ công chính, vì nó không làm ích gì cho chúng ta, mà còn chống đối việc chúng ta làm, khiển trách chúng ta lỗi luật và tố cáo chúng ta vô kỷ luật. Vậy chúng ta hãy xem điều nó nói có thật hay không, hãy nghiệm xét coi những gì sẽ xảy đến cho nó, và hãy chờ xem chung cuộc đời nó sẽ ra sao. Vì nếu nó thật là con Thiên Chúa, Chúa sẽ bênh vực nó, sẽ giải thoát nó khỏi tay những kẻ chống đối nó. Chúng ta hãy nhục mạ và làm khổ nó, để thử xem nó có hiền lành và nhẫn nại không. Chúng ta hãy kết án cho nó chết cách nhục nhã, vì theo lời nó nói, thì người ta sẽ cứu nó!”

Ðó là lời Chúa.

 

ÐÁP CA: Tv 53, 3-4. 5. 6 và 8

Ðáp: Chúa đang nâng đỡ tâm hồn con (c. 6b).

Xướng: Ôi Thiên Chúa, xin cứu sống con nhân danh Ngài, và xin sử dụng uy quyền phán quyết cho con! Ôi Thiên Chúa, xin nghe tiếng con cầu, xin lắng tai nghe lời miệng con xin.

Xướng: Vì những kẻ kiêu căng nổi lên chống đối, và bọn người hung hãn tìm sát hại con, bọn chúng không nhớ Thiên Chúa ở trước mặt mình.

Xướng: Kìa, Thiên Chúa phù trợ con, Chúa đang nâng đỡ tâm hồn con. Con sẽ tự nguyện hiến dâng lễ vật lên Chúa. Lạy Chúa, con sẽ ca tụng danh Ngài, vì danh Ngài thiện hảo.

 

BÀI ÐỌC II: Gc 3, 16 – 4, 3

“Hoa quả của công chính được gieo vãi trong bình an cho những người xây đắp an bình”.

Trích thư của Thánh Giacôbê Tông đồ.

Anh em thân mến, ở đâu có ganh tị và cãi vã, ở đó có hỗn độn và đủ thứ tệ đoan. Nhưng sự khôn ngoan từ trời xuống, thì trước tiên là trong trắng, rồi ôn hoà, bao dung, nhu mì, hướng thiện, đầy lòng nhân từ và hoa quả tốt lành, không xét đoán thiên vị, không giả dối. Hoa quả của công chính được gieo vãi trong bình an cho những người xây đắp an bình.

Bởi đâu anh em cạnh tranh và cãi cọ nhau? Nào không phải tại điều này: tức tại các đam mê đang giao chiến trong chi thể anh em đó sao? Anh em ham muốn mà không được hưởng, nên anh em giết nhau. Anh em ganh tị mà không được mãn nguyện, nên anh em cạnh tranh và cãi cọ. Anh em không có là tại anh em không xin. Anh em xin mà không nhận được, là vì anh em xin không đúng, cứ mơ tưởng thoả mãn các đam mê của anh em.

Ðó là lời Chúa.

 

Tin mừng: Mc 9, 30-37

30 Đức Giê-su và các môn đệ ra khỏi đó, đi băng qua miền Ga-li-lê. Nhưng Đức Giê-su không muốn cho ai biết, 31 vì Người đang dạy các môn đệ rằng: “Con Người sẽ bị nộp vào tay người đời, họ sẽ giết chết Người, và ba ngày sau khi bị giết chết, Người sẽ sống lại.”

32 Nhưng các ông không hiểu lời đó, và các ông sợ không dám hỏi lại Người.

33 Sau đó, Đức Giê-su và các môn đệ đến thành Ca-phác-na-um. Khi về tới nhà, Đức Giê-su hỏi các ông: “Dọc đường, anh em đã bàn tán điều gì vậy?”

34 Các ông làm thinh, vì khi đi đường, các ông đã cãi nhau xem ai là người lớn hơn cả.

35 Rồi Đức Giê-su ngồi xuống, gọi Nhóm Mười Hai lại mà nói: “Ai muốn làm người đứng đầu, thì phải làm người rốt hết, và làm người phục vụ mọi người.”

36 Kế đó, Người đem một em nhỏ đặt vào giữa các ông, rồi ôm lấy nó và nói:37 “Ai tiếp đón một em nhỏ như em này vì danh Thầy, là tiếp đón chính Thầy; và ai tiếp đón Thầy, thì không phải là tiếp đón Thầy, nhưng là tiếp đón Đấng đã sai Thầy.”

 

Giáo lý cho bài giảng Chúa nhật 25 Thường niên năm B

WHĐ (19/9/2024) - Để hỗ trợ các nhà giảng thuyết thuận tiện hơn trong việc thêm giáo lý vào bài giảng, Ban Biên tập xin được trích dẫn những điểm giáo lý phù hợp với các bài đọc Kinh Thánh của lễ Chúa nhật 25 Thường niên năm B theo hướng dẫn của Bộ Phụng tự và Kỷ luật các Bí tích.

Số 539, 565, 600-605, 713: Đức Kitô, Người Tôi Trung của Thiên Chúa

Số 786: Cai trị là phục vụ

Số 1547, 1551: Thừa tác vụ tư tế như là việc phục vụ

Số 2538-2540: Tội ganh tị

Số 2302-2306: Gìn giữ hòa bình

Bài Ðọc I: Kn 2, 12. 17-20

Bài Ðọc II: Gc 3,16 - 4,3

Phúc Âm: Mc 9, 29-36

Số 539, 565, 600-605, 713: Đức Kitô, Người Tôi Trung của Thiên Chúa

Số 539. Các tác giả Tin Mừng nêu rõ ý nghĩa cứu độ của biến cố bí nhiệm này. Chúa Giêsu là Ađam mới, Người vững lòng trung thành ở chỗ Ađam cũ đã đầu hàng cơn cám dỗ. Chúa Giêsu thực hiện cách hoàn hảo ơn gọi của dân Israel: trái hẳn với những kẻ xưa kia đã thách thức Thiên Chúa suốt bốn mươi năm trong hoang địa[1], Chúa Giêsu được mạc khải như Người Tôi Trung của Thiên Chúa, hoàn toàn vâng phục thánh ý Thiên Chúa. Trong việc này, Chúa Giêsu toàn thắng ma quỷ: Người đã trói kẻ mạnh và thu lại tài sản nó đã cướp[2]. Chiến thắng của Chúa Giêsu trước kẻ cám dỗ trong hoang địa báo trước chiến thắng của cuộc khổ nạn, là sự vâng phục tuyệt đối trong tình yêu con thảo của Người đối với Chúa Cha.

Số 565. Chúa Giêsu, ngay từ lúc khởi đầu đời sống công khai của Người, lúc Người chịu phép rửa, là “Người Tôi Trung” hoàn toàn hiến thân cho công trình Cứu Độ, công trình này sẽ được hoàn tất trong “phép rửa” là cuộc khổ nạn của Người.

Số 600. Đối với Thiên Chúa mọi thời điểm trong tính thời sự của nó đều là hiện tại. Vì vậy, chính Thiên Chúa thiết lập kế hoạch “tiền định” vĩnh cửu của Ngài, Ngài bao gồm trong kế hoạch ấy lời đáp trả tự do của mỗi người đối với ân sủng của Ngài: “Đúng vậy, Hêrôđê, Phongxiô Philatô, cùng với chư dân và dân Israel đã toa rập trong thành này, chống lại tôi tớ thánh của Ngài là Chúa Giêsu, Đấng Ngài đã xức dầu[3]. Như thế họ đã thực hiện tất cả những gì quyền năng và ý muốn của Ngài đã định trước” (Cv 4,27-28). Thiên Chúa cho phép xảy ra những hành vi xuất phát từ sự mù quáng của họ[4], để hoàn thành kế hoạch cứu độ của Ngài[5].

Đức Kitô “đã chết vì tội lỗi chúng ta theo như lời Thánh Kinh”

Số 601. Kế hoạch cứu độ của Thiên Chúa về việc “Người Tôi Trung Công Chính” bị giết[6] đã được báo trước trong Thánh Kinh như một mầu nhiệm Cứu Chuộc phổ quát, nghĩa là, giải thoát người ta khỏi ách nô lệ tội lỗi[7]. Thánh Phaolô, trong lời tuyên xưng đức tin mà ngài nói mình đã “lãnh nhận”[8], tuyên xưng rằng “Đức Kitô đã chết vì tội lỗi chúng ta đúng như lời Thánh Kinh” (1 Cr 15,3)[9]. Sự chết mang lại ơn cứu chuộc của Đức Kitô hoàn thành một cách đặc biệt lời tiên tri về Người Tôi trung đau khổ[10]. Chính Chúa Giêsu đã trình bày ý nghĩa cuộc đời và sự chết của Người dưới ánh sáng về Người Tôi trung đau khổ[11]. Sau khi Người sống lại, Người đã giải thích Thánh Kinh như vậy cho các môn đệ Emmaus[12], rồi cho chính các Tông Đồ[13].

“Thiên Chúa đã biến Người thành hiện thân của tội lỗi vì chúng ta”

Số 602. Chính vì thế thánh Phêrô có thể diễn tả đức tin tông truyền về kế hoạch cứu độ của Thiên Chúa như sau: “Anh em đã được cứu thoát khỏi lối sống phù phiếm do cha ông anh em truyền lại. Nhưng anh em đã được cứu chuộc nhờ bửu huyết của Con Chiên vẹn toàn, vô tì tích, là Đức Kitô. Ngươi là Đấng Thiên Chúa đã biết từ trước, khi vũ trụ chưa được dựng nên, và Người đã xuất hiện vì anh em trong thời cuối cùng này” (1 Pr 1,18-20). Các tội người ta phạm, tiếp theo sau tội tổ tông, khiến người ta phải chết[14]. Khi sai Con Một của Ngài đến trong thân phận tôi tớ[15], tức là trong thân phận loài người đã sa ngã và tất phải chết vì tội lỗi[16], “Đấng chẳng hề biết tội là gì, thì Thiên Chúa đã biến Người thành hiện thân của tội lỗi vì chúng ta, để làm cho chúng ta nên công chính trong Người” (2 Cr 5,21).

Số 603. Vì không phạm tội, Chúa Giêsu không bao giờ biết đến việc bị Thiên Chúa loại bỏ[17]. Nhưng trong tình yêu cứu chuộc, một tình yêu hằng kết hợp Người với Chúa Cha[18], Người đã đảm nhận lấy chúng ta, những kẻ đang vì tội lỗi mà lạc đường lìa xa Thiên Chúa, đến độ trên thập giá, Người đã có thể thốt lên thay chúng ta: “Lạy Thiên Chúa, Thiên Chúa của con, sao Ngài bỏ rơi con!” (Mc 15,34)[19]. Vì đã kết hợp Đức Kitô với chúng ta là các tội nhân, nên Thiên Chúa “đã chẳng tiếc, nhưng đã trao nộp chính Con Một của Ngài vì hết thảy chúng ta” (Rm 8,32), để chúng ta “được giao hoà với Thiên Chúa nhờ cái chết của Con Một Ngài” (Rm 5,10).

Thiên Chúa đã khởi xướng trong tình yêu cứu chuộc mọi người

Số 604. Khi trao nộp Con của Ngài vì tội lỗi chúng ta, Thiên Chúa biểu lộ kế hoạch của Ngài là một kế hoạch của tình yêu lân mẫn, đi trước mọi công trạng của chúng ta: “Tình yêu cốt ở điều này: không phải chúng ta đã yêu mến Thiên Chúa, nhưng chính Ngài đã yêu thương chúng ta, và sai Con của Ngài đến làm của lễ đền tội cho chúng ta” (1 Ga 4,10)[20]. “Đức Kitô đã chết vì chúng ta, ngay khi chúng ta còn là những người tội lỗi, đó là bằng chứng Thiên Chúa yêu thương chúng ta” (Rm 5,8).

Số 605. Tình yêu này không loại trừ một ai. Chúa Giêsu nhắc lại điều đó để kết luận dụ ngôn về con chiên lạc: “Cũng vậy, Cha của anh em, Đấng ngự trên trời, không muốn cho một ai trong những kẻ bé mọn này phải hư mất” (Mt 18,14). Người quả quyết Người “hiến dâng mạng sống làm giá chuộc muôn người” (Mt 20,28). Lời tuyên bố quan trọng này không mang ý nghĩa hạn chế: lời đó đặt song đối tập thể nhân loại với một mình Đấng Cứu Chuộc, Đấng tự hiến để cứu độ nhân loại ấy[21]. Hội Thánh, theo sau các Tông Đồ[22], dạy rằng: Đức Kitô đã chết cho tất cả mọi người không trừ một ai. “Trước kia, hiện nay cũng như sau này, không có một ai mà Người [Đức Kitô] không chịu khổ nạn cho”[23].

Số 713. Những nét phác hoạ về Đấng Messia được mạc khải chủ yếu trong các bài ca về Người Tôi trung[24]. Những bài ca này loan báo ý nghĩa cuộc khổ nạn của Chúa Giêsu, và cho thấy cách Người sẽ đổ tràn Thần Khí để cho muôn người được sống: không phải từ bên ngoài, nhưng bằng cách “mặc lấy thân nô lệ” của chúng ta (Pl 2,7). Khi mang lấy cái chết của chúng ta trên mình Người, Người có thể truyền thông cho chúng ta Thần Khí riêng của Người, Thần Khí sự sống của Người.

 

Số 786: Cai trị là phục vụ

Số 786. Cuối cùng, dân Thiên Chúa được tham dự vào chức năng vương đế của Đức Kitô. Đức Kitô thực thi quyền vương đế của Người khi Người lôi kéo mọi người đến với mình qua cái Chết và sự Sống lại của Người[25]. Đức Kitô, là Vua và là Chúa của vũ trụ, đã trở nên tôi tớ mọi người, vì “Người đến không phải để được người ta phục vu, nhưng là để phục vụ và hiến dâng mạng sống làm giá cứu chuộc muôn người” (Mt 20,28). Đối với Kitô hữu, “cai trị là phục vụ” Đức Kitô[26]; Hội Thánh đặc biệt “nhận ra trong những người nghèo khó và đau khổ hình ảnh của Đấng Sáng Lập nghèo khó và đau khổ của mình”[27]. Dân Thiên Chúa thực hiện “phẩm giá vương đế” của mình khi sống theo ơn gọi phục vụ cùng với Đức Kitô.

“Quả thật, tất cả những người được tái sinh trong Đức Kitô, dấu thánh giá làm cho họ trở thành Vua, việc xức dầu bằng Chúa Thánh Thần thánh hiến họ làm tư tế, để, ngoại trừ sự phục vụ đặc biệt của thừa tác vụ của chúng tôi, tất cả các Kitô hữu có tinh thần và có lý trí đều nhận ra mình thuộc dòng dõi vương đế và có chức vụ tư tế. Thật vậy, có gì mang tính vương đế đối với một tâm hồn cho bằng hướng dẫn thân xác mình quy phục Thiên Chúa? Và có gì mang tính tư tế cho bằng dâng lên Chúa một lương tâm trong sạch và dâng những lễ vật tinh tuyền của lòng đạo hạnh trên bàn thờ của trái tim?”[28]

 

Số 1547, 1551: Thừa tác vụ tư tế như là việc phục vụ

Số 1547. Chức tư tế thừa tác hay phẩm trật của các Giám mục và linh mục và chức tư tế cộng đồng của tất cả các tín hữu, “mỗi chức theo cách của mình, tham dự vào chức tư tế duy nhất của Đức Kitô”[29]; tuy khác nhau về bản chất, nhưng “cả hai tuỳ thuộc lẫn nhau”[30]. Theo nghĩa nào? Chức tư tế cộng đồng của các tín hữu được thực hiện qua việc làm tăng trưởng ân sủng Phép Rửa, đời sống tin cậy mến, đời sống theo Chúa Thánh Thần; còn chức tư tế thừa tác là để phục vụ chức tư tế cộng đồng, giúp làm tăng trưởng ân sủng Phép Rửa của mọi Kitô hữu. Đó là một trong những phương tiện Đức Kitô không ngừng sử dụng để xây dựng và dẫn dắt Hội Thánh Người. Vì vậy mà chức tư tế thừa tác được trao ban qua một bí tích riêng, là bí tích Truyền Chức Thánh.

Số 1551. Chức tư tế này là chức tư tế thừa tác. “Nhiệm vụ đó, được Chúa trao phó cho các mục tử của dân Người, thật sự là một việc phục vụ”[31]. Nó hoàn toàn hướng tới Đức Kitô và hướng tới con người. Chức tư tế thừa tác hoàn toàn lệ thuộc vào Đức Kitô và vào chức tư tế duy nhất của Người, và được thiết lập vì con người và cộng đoàn Hội Thánh. Bí tích Truyền Chức Thánh thông ban “quyền thánh chức”, không là gì khác hơn là quyền năng thánh thiêng của Đức Kitô. Vì vậy, việc thực thi quyền này phải rập theo mẫu gương của Đức Kitô, Đấng vì yêu thương đã trở nên người rốt hết và là tôi tớ của mọi người[32]. “Chúa đã tuyên bố rõ ràng rằng việc chăm sóc đoàn chiên là bằng chứng tình yêu đối với Người”[33].

 

Số 2538-2540: Tội ganh tị

Số 2538. Điều răn thứ mười đòi hỏi phải loại trừ sự ganh tị khỏi trái tim con người. Khi muốn khuyến giục vua Đavid thống hối, tiên tri Nathan đã kể cho vua câu chuyện của một người nghèo, chỉ có một con chiên và thương yêu nó như con mình, và một người giàu, tuy có vô số chiên cừu, nhưng lại ganh tị với người kia và cuối cùng ăn cắp con chiên của người nghèo[34]. Sự ganh tị có thể đưa tới việc làm tồi tệ nhất[35]. “Chính vì quỷ dữ ganh tị mà cái chết đã xâm nhập thế gian” (Kn 2,24):

“Chúng ta đấm đá nhau, đó là vì sự ganh tị võ trang cho chúng ta chống lại nhau.... Nếu mọi người đều cố phá rối Thân Thể của Đức Kitô, thì rồi chúng ta sẽ đi tới đâu? Chúng ta đang làm cho Thân Thể của Đức Kitô thành một xác chết…. Chúng ta xưng mình là những chi thể của cùng một thân thể, vậy mà chúng ta lại cấu xé nhau như những thú rừng”[36].

Số 2539. Ganh tị là một trong bảy mối tội đầu. Ganh tị chỉ sự buồn bực khi thấy kẻ khác có của cải, và sự ước ao vô độ muốn lấy của cải đó làm của mình, thậm chí bằng cách bất chính. Khi ganh tị lại kèm theo ước muốn cho người khác gặp hoạn nạn nặng nề, thì đó là một tội trọng:

Thánh Augustinô coi ganh tị là “thói xấu của ma quỷ”[37].

“Ganh tị sinh ra thù ghét, nói xấu, vu khống, vui khi thấy kẻ khác gặp hoạn nạn, buồn khi thấy kẻ khác được may lanh”[38].

Số 2540. Ganh tị là một hình thức của sự buồn bực và vì vậy là sự khước từ đức mến; người đã chịu Phép Rửa phải chiến đấu chống lại nó bằng sự nhân hậu. Ganh tị thường do kiêu ngạo; người đã chịu Phép Rửa phải tập sống khiêm nhường:

“Phần tôi, tôi muốn Thiên Chúa được tôn vinh. Còn bạn, bạn hãy vui mừng vì người anh em được thành công, và Thiên Chúa sẽ được tôn vinh nhờ bạn, và mọi người sẽ nói ‘Chúc tụng Thiên Chúa’, Đấng đã có những người tôi tớ như thế, những người đã được tự do không còn ganh tị, những người vui mừng về điều tốt của tha nhân”[39].

 

Số 2302-2306: Gìn giữ hòa bình

Số 2302. Khi nhắc lại điều răn: “Chớ giết người” (Mt 5,21), Chúa chúng ta đòi chúng ta giữ trái tim bình an và Người tố cáo tính vô luân của việc giận dữ và sự căm ghét.

Giận dữ là một ước muốn trả thù. “Ước muốn báo thù vì điều xấu của kẻ đáng bị phạt, là không hợp pháp”: nhưng bắt phải đền bù “nhằm sửa chữa lại các thói xấu và duy trì điều tốt của đức công bằng” là điều đáng khen ngợi[40]. Nếu giận dữ đến độ chủ ý muốn giết chết hay làm bị thương nặng người lân cận, là xúc phạm đến đức mến một cách nghiêm trọng; đó là tội trọng. Chúa nói: “Ai giận anh em mình, thì đáng bị đưa ra tòa” (Mt 5,22).

Số 2303. Căm ghét có chủ ý là điều nghịch với đức mến. Căm ghét người lân cận là có tội, khi một người chủ ý muốn điều xấu cho người khác. Căm ghét người lân cận là có tội nặng, khi một người chủ ý muốn cho người khác bị thiệt hại nghiêm trọng. “Còn Thầy, Thầy bảo anh em: hãy yêu kẻ thù và cầu nguyện cho những kẻ ngược đãi anh em. Như vậy, anh em mới được trở nên con cái của Cha anh em, Đấng ngự trên trời” (Mt 5,44-45).

Số 2304. Sự tôn trọng và sự phát triển đời sống con người đòi phải có hoà bình. Hoà bình không phải chỉ là vắng bóng chiến tranh, và không thể giản lược vào việc giữ được thế quân bình giữa các lực lượng đối nghịch nhau. Hoà bình không thể có được trên trái đất, nếu không có sự bảo vệ của cải của các nhân vị, không có sự truyền thông tự do giữa con người, không có sự tôn trọng phẩm giá của con người và của các dân tộc, không có sự chuyên chăm thực thi tình huynh đệ. Hoà bình là “sự ổn định của trật tự”[41]. Hoà bình là “sự nghiệp của đức công minh” (Is 32,17) và là hiệu quả của đức mến[42].

Số 2305. Hòa bình trên trần thế là hình ảnh và hoa trái của bình an của Đức Kitô, “Thủ lãnh Hòa Bình” thời Messia (Is 9,5). Nhờ máu đổ ra “trên thập giá, Người đã tiêu diệt sự thù hận” ngay trong thân xác Người[43], Người đã giao hoà loài người với Thiên Chúa và làm cho Hội Thánh trở thành bí tích hợp nhất nhân loại và kết hợp nhân loại với Thiên Chúa[44]. “Chính Người là bình an của chúng ta” (Ep 2,14). Người tuyên bố: “Phúc thay ai xây dựng hòa bình” (Mt 5,9).

Số 2306. Những ai khước từ hành động bạo lực và đổ máu, sử dụng những phương tiện tự vệ vừa tầm những kẻ khá yếu đuối, để bảo vệ quyền lợi của con người, là những người làm chứng cho đức mến của Tin Mừng, miễn là điều này không phương hại đến các quyền lợi và bổn phận của những người khác và các tập thể khác. Họ làm chứng cách hợp pháp cho tính nghiêm trọng của những nguy cơ về thể lý và luân lý, khi sử dụng bạo lực, với những tàn phá và chết chóc của bạo lực[45].

 

Bài giảng Đức Thánh Cha - Chúa nhật 25 Thường Niên năm B

Đây là những bài giảng và huấn dụ của Đức Thánh Cha trong các thánh lễ và các buổi đọc kinh Truyền tin với các tín hữu vào Chúa nhật 25 Thường Niên năm B.

Đức Phanxicô, Huấn dụ Chúa nhật 25 Thường Niên năm B (19/9/2021) - Giá trị của một người phụ thuộc vào gì?

Đức Phanxicô, Bài giảng Chúa nhật 25 Thường Niên năm B (23/9/2018) - Chào đón những người bé nhỏ

Đức Phanxicô, Bài giảng Chúa nhật 25 Thường Niên năm B (20/9/2015) - Anh em bàn tán điều gì vậy?

Đức Bênêđictô XVI, Huấn dụ Chúa nhật 25 Thường Niên năm B (23/9/2012) - Khác biệt giữa tư tưởng Thiên Chúa và tư tưởng con người

Đức Bênêđictô XVI, Huấn dụ Chúa nhật 25 Thường Niên năm B (20/9/2009) - Sự khôn ngoan

 

1. Suy niệm (TGM Giuse Nguyễn Năng)

Suy niệm: Trong bài Tin Mừng hôm nay, Ðức Giêsu loan báo về cuộc Thương Khó và Phục Sinh của Ngài. Ðây là lần thứ hai Ngài muốn bộc lộ tâm sự và mạc khải sứ mệnh Ngài sẽ phải thực hiện. Nhưng các môn đệ không hiểu, lại còn tranh cãi với nhau về địa vị. Ðức Giêsu vẫn không tìm được bạn đồng cảm.

Cầu nguyện: Lạy Chúa Giêsu, với danh nghĩa là Kitô hữu, chúng con muốn là những người bạn thân của Chúa. Thế nhưng, chúng con lại không muốn hiểu Chúa, không đồng sở thích với Chúa. Chúng con chỉ thích lo cho mình, được vinh thân phì gia. Còn Chúa, Chúa đã sống và muốn chúng con biết quên mình vì tha nhân.

Xin Chúa cho chúng con mỗi ngày được nên giống Chúa, để Chúa được vui lòng và chúng con được hạnh phúc. Amen.

Ghi nhớ: “Con Người sẽ bị nộp. Ai muốn làm lớn nhất, thì hãy tự làm người rốt hết”.

 

2. Suy niệm (Lm. Giuse Đinh Lập Liễm)

ĐỨC KITÔ, MẪU GƯƠNG PHỤC VỤ

A. DẪN NHẬP

Phục vụ! Từ ngữ này nói lên tính cách khiêm nhường, lệ thuộc và hy sinh của người đầy tớ. Bình thường, không ai muốn làm đầy tớ mà chỉ muốn làm ông chủ để được hầu hạ. Ai cũng muốn ăn trên ngồi trước, muốn thống trị thiên hạ. Nhưng Đức Giêsu đã làm một cuộc cách mạng đổi ngược thứ tự này trong xã hội. Ngài tuy là Thiên Chúa mà đã trút bỏ mọi vinh quang của một vị Thiên Chúa, xuống trần làm một người đầy tớ rốt hết để phục vụ, đem ơn cứu độ đến cho mọi người. Ngài là “ông chủ” đã tự nguyện biến thành “đầy tớ” khiêm hạ để phục vụ hạnh phúc cho muôn người.

Đã có lần tông đồ Phêrô tuyên xưng Đức Giêsu là “Đấng Kitô”, nhưng theo sự hiểu biết của ông, đây là “Đấng Kitô vinh hiển”, Đấng đến giải thoát dân tộc Do thái khỏi ách đô hộ của người Rôma và làm cho nước Do thái được hùng cường, bá chủ hoàn cầu. Nhưng thực sự, Đức Giêsu lại là “Đấng Kitô đau khổ” “bị loại bỏ, bị giết đi và sau ba ngày sẽ sống lại”. Chính vì không hiểu rõ con người của Ngài, không hiểu được Lời của Ngài, nên các ông chỉ nghĩ đến địa vị thấp cao trong nước Ngài sắp thành lập và đã tranh cãi với nhau xem ai sẽ là người lớn nhất trong Nước đó.

Đức Giêsu muốn sửa đổi quan niệm sai lạc của các ông và vạch ra cho các ông một hướng đi mới khi Ngài nói: “Ai muốn làm người đứng đầu, thì phải làm người rốt hết, và làm người phục vụ mọi người” (Mc 9,36). Sau này, các ông mới hiểu được Lời Chúa và đã đi rao giảng Tin mừng, làm chứng cho Chúa và đã hiến dâng mạng sống mình cho phần rỗi các linh hồn.

B. TÌM HIỂU LỜI CHÚA

+ Bài đọc 1: Kn 2,12-20

Sách Khôn ngoan được viết vào thế kỷ I trước công nguyên bởi một người Do thái tại Alexandria, nơi cộng đoàn Do thái thịnh vượng. Nhiều người trong họ đã bị lây nhiễm những quyến rũ của nền văn minh phóng đãng, đã trở thành phường vô đạo. Do đó, mới có sự xung khắc giữa những người công chính và phường vô đạo.

Đây là những lý do khiến phường vô đạo bách hại người công chính:

- Việc làm của người công chính chống lại việc làm xấu xa của phường vô đạo.

- Cách sống tốt lành của người công chính tự nó vạch trần những việc xấu xa của phường vô đạo.

- Phường vô đạo bách hại người công chính để thử xem Thiên Chúa có đến bênh vực họ không?

Truyền thống Công giáo qua mọi thời vẫn nhận ra hình ảnh của Chúa Kitô nơi người công chính bị bắt bớ và nhiều chi tiết báo trước cuộc khổ nạn của Người.

+ Bài đọc 2: Gc 3,16-4,3

Thánh Giacôbê là người rất thực tế. Đối với ngài, tiêu chuẩn của sự khôn ngoan là “lối sống tốt đẹp”, nghĩa là lối sống thực hành đúng đắn điều răn yêu thương, nhất là thói xấu ganh tị tranh chấp.

Chúng ta có thể tóm lại đoạn thư của ngài bằng mấy ý tưởng sau đây:

- Ở đâu có ganh tị và tranh chấp thì ở đó có xáo trộn và đủ thứ xấu xa.

- Người xây dựng hoà bình sẽ thu hoạch được hoa trái đã gieo trong hoà bình, là cuộc đời công chính.

- Đầu mối của sự xung đột và chiến tranh là lòng ham muốn vì lòng ham muốn thì vô đáy.

+ Bài Tin mừng: Mc 9,30-37

Bài Tin mừng hôm nay được chia thành hai phần:

1/ Đức Giêsu lần thứ hai loan báo cuộc Thương khó của Ngài cho các môn đệ, và từ nay Ngài chuyên lo việc đào tạo họ lần cuối. Nhưng Nhóm Mười Hai vẫn không hiểu gì hơn đám đông dân chúng về các điều kiện để đạt tới Nước trời. Các ông vẫn quan niệm rằng Đức Giêsu là Đấng Kitô theo nghĩa trần gian mang màu sắc chính trị. Các ông không hiểu rằng Ngài là Đấng Kitô đau khổ, đến để phục vụ và đem ơn cứu độ đến cho mọi người. Vì thế, trên đường đi các ông tranh luận với nhau xem ai là người lớn nhất trong nước Ngài sắp thành lập.

2/ Về đến nhà, Đức Giêsu ôn tồn nói cho các ông thái độ phải có trong Nước Ngài sắp thành lập:

- Phải biết phục vụ, đừng ai để ý đến địa vị lớn hay nhỏ để ganh đua.

- Người có chức vụ càng cao càng phải hạ mình xuống phục vụ như người đầy tớ.

- Phải tiếp đón mọi người, không phân biệt già trẻ, sang hèn với tinh thần quảng đại.

C. THỰC HÀNH LỜI CHÚA: Đức Giêsu, mẫu gương phục vụ

I. LOAN BÁO CUỘC KHỔ NẠN

Phát xuất từ vùng miền Bắc đi về Cêsarê Philipphê, Đức Giêsu tiền gần về Giêrusalem. Ngài băng qua xứ Galilê mà ở đó cách đây vài tháng Ngài đã rất thành công, nhưng một sự thành công không rõ rệt. Lần này Ngài không tìm dịp nói chuyện trước công chúng, Ngài chỉ nói với các môn đệ là mầm mống Kitô hữu tương lai. Và những gì Ngài sắp nói với họ, là chính những luật lệ giúp họ sống trong cộng đoàn Giáo hội. Ngài đã nói với các ông rằng: “Con Người sẽ bị nộp vào tay người đời, họ sẽ giết chết Người và ba ngày sau khi bị giết chết, Người sẽ sống lại”.

Trước lời loan báo này, xem ra Đức Giêsu đã bị thất bại vì họ chưa hiểu được con người thật của Ngài. Trước đây, tuy ông Phêrô đã tuyên xưng Ngài là “Đấng Kitô” nhưng vẫn còn cái nhìn lệch lạc về Ngài. Đây là bằng chứng: khi Đức Giêsu loan báo lần nhất cuộc Thương khó và Phục sinh: “Con Người phải chịu đau khổ, bị các kỳ mục, thượng tế cùng luật sĩ loại bỏ, bị giết chết và sau ba ngày sống lại” (Mc 8,31), Phêrô liền kéo riêng Người ra và bắt đầu trách Người đến nỗi Đức Giêsu nặng lời quở trách ông: “Satan, lui lại đàng sau Thầy! Vì tư tưởng của anh không phải là tư tưởng của Thiên Chúa, mà là của loài người” (Mc 8,33).

Té ra, khi tuyên xưng Đức Giêsu là Đấng Kitô, tư tưởng của Phêrô và của Nhóm Mười Hai hướng tới một nhân vật nổi nang nào đó trong xã hội. Chẳng hạn một chính trị gia có khả năng giải phóng dân tộc khỏi bị lệ thuộc vào đế quốc Rôma. Do đó, huấn dụ của Đức Giêsu liền sau đó là “Ai muốn theo Ta, phải từ bỏ mình, vác thập giá mình mà theo” (Mc 8,34) làm cho các ông bỡ ngỡ và khó hiểu.

Lần thứ hai loan báo về cuộc Thương khó và Phục sinh, Đức Giêsu còn gặp một thất bại lớn hơn nữa. Ngài nói với các môn đệ: “Con Người sẽ bị nộp vào tay người đời, họ sẽ giết chết Người, rồi sau ba ngày Người sẽ sống lại” (Mc 9,31). Nhưng các ông không hiểu lời đó và còn sợ không dám hỏi Người. Tại sao lời loan báo không lọt vào tai môn đệ?

Điều xảy ra liền sau đó giúp cắt nghĩa sự kiện. Marcô cho ta thấy các môn đệ bận tâm về điều ngược hẳn lại với cuộc Thương khó của Thầy các ông. Vì thế, trên đường đi Capharnaum, các ông đã tranh cãi nhau xem ai là người lớn hơn cả trong Nước mà Đức Giêsu sắp thành lập (Mc 8,34).

II. BÀI HỌC ĐỨC GIÊSU MUỐN DẠY

Marcô kể tiếp: Khi về tới nhà, Đức Giêsu hỏi các ông: “Dọc đường, anh em đã tranh luận với nhau về chuyện gì vậy? Các ông làm thinh vì khi đi dọc đường, các ông đã cãi nhau xem ai là người lớn hơn cả” (Mc 9,33-34).

Thật là hoàn toàn bất đồng ý kiến với Thầy của các ông! Chúa thì nghĩ đến cái chết của mình, còn các ông thì chỉ nghĩ đến “địa vị cao”. Các ông vẫn một mực bám vào quan niệm sai lầm về Đấng Messia. Các ông vẫn tiếp tục mong chờ một “biến cố vẻ vang”, chứng tỏ quyền năng của Đấng Messia, một vương quốc trần gian mà các ông đã tranh luận xem ai là người đứng đầu khi Chúa và các ông thắng thế.

Bị Chúa hỏi bất ngờ, các ông hổ thẹn không dám nói sự thật, các ông ngậm miệng làm thinh. Sau đó Người ngồi xuống với tư cách là một vị tôn sư, Người ôn tồn dạy bảo: “Ai muốn làm đầu, thì phải làm người rốt hết và làm tôi tớ mọi người” (Mc 9,35)

Trong xã hội và tập thể con người (và cũng là luật tự nhiên trong thế giới động vật), người ta thường tìm kiếm sức mạnh, sự kính nể, uy tín, danh dự và quyền lợi. Đức Giêsu lật đổ nhào tận gốc rễ thứ tự này: người “thứ nhất” trở thành “người sau rốt”, “ông chủ” trở nên “đầy tớ”. Chắc chắn Đức Giêsu đã nói một cách có vẻ khiêu khích và cách mạng.

Nhưng một lần nữa, đó không phải là làm một cuộc “cách mạng” nghĩa là thay đổi “chủ” mà thôi! Ở đây, nhằm đưa ra giải pháp thực sự cho nội tâm con người, để “thống trị”, để đoạt giàu sang, quyền thế, bằng cách đè bẹp người khác.

J. Hervieux giải thích thêm: “Chúa lấy người rốt hết để đối chọi với người đứng đầu, lấy người đầy tớ mọi người đối chọi với người cai quản. Điều nghịch lý này tất nhiên có nghĩa rõ rệt nhất khi nhìn cuộc đời Đức Giêsu, Đấng đã thực hiện trong bản thân và trong sứ mạng của Người. Người là Đấng cao cả hơn hết đã tự đặt mình vào chỗ rốt hết để phục vụ mọi người”.

1. Theo khuynh hướng tự nhiên

Trong xã hội ai cũng muốn cho thân mình được đề cao, được khen ngợi, được kính trọng. Ai lại không muốn ăn trên ngồi trước, không muốn cai trị người khác, không muốn được người ta hầu hạ? Nói chung, ai cũng muốn tranh giành quyền bính trong tay để bắt mọi người phục vụ mình.

Các màn kịch tranh giành quyền bính đã diễn ra từ xưa. Lúc mới dựng nên loài thiên thần, Luxiphe đã tranh ngôi bá chủ với Thiên Chúa. Thiên Chúa buộc lòng phải tống cổ hắn xuống làm bá chủ hoả ngục. Adong Evà cũng đòi đồng hàng với Thiên Chúa và cũng bị tống cổ ra khỏi vườn địa đàng, đến làm vua trái đất khô cằn và chết chóc.

Đến đây chúng ta phải giải đáp một thắc mắc: Người ta có được phép có CAO VỌNG không? Cao vọng là tốt hay xấu?

Cao vọng tự nhiên của con người

Thực ra cao vọng không là gì sai trái cả. Người Anh có một câu tục ngữ: “My place is at the top”: chỗ của tôi phải ở trên cao. Đấy là câu tâm niệm giúp kích thích mọi người phải biết sống vươn lên, không được sống tà tà trên ngọn cỏ, đáng cho các triết gia hiện sinh gán cho cái danh hiệu là “cuộc đời đáng nôn mửa”.

Thực vậy, sống là phải biết đặt mục tiêu cho đời mình, làm việc thì phải muốn thành công. Tuy nhiên, cao vọng có thể vượt qua tầm kiểm soát của mình, khiến mình quên hết tất cả mọi sự khác để chỉ còn biết đeo đuổi điều mình mong ước.

Bởi đó, chúng ta phải cẩn thận để ý xem những gì mình hy sinh khi theo đuổi cao vọng. Chúng ta có thể hy sinh đời sống gia đình, sự công bình, sự khả ái và thậm chí cả cuộc sống của mình nữa. Cao vọng có thể khiến người ta đối xử với người khác một cách bất công và tàn nhẫn. Thế nhưng, dù được lời lãi cả thế gian mà phải đánh mất chính mình thì nào có ích gì?

Truyện: Tôn Ngộ Không

Trong phim truyện Tây Du Ký, vai trò nổi bật nhất là Ngộ Không. Ngộ Không bá chủ loài khỉ, chưa đủ, anh còn học 78 phép biến hoá, rồi đi thống trị các lân bang. Vẫn chưa hài lòng, Ngộ còn đòi lên trời làm Tề Thiên Đại Thánh: Tề Thiên là bằng Trời. Đại Thánh là cao sang vĩ đại nhất. Ngọc Hoàng Thượng Đế biết Ngộ ngạo mạn quá trớn phong cho Ngộ làm mã quan. Ngộ hí hửng tưởng bở, nhưng khi bị sai đi chăn ngựa, Ngộ mới hiểu mã quan là quan coi ngựa. Ngộ bực tức vì ngu mà bị mắc bẫy. Ngộ giận dữ phá phách, bị đại tướng nhà trời đánh đuổi rơi xuống đất bị đè bẹp dưới tảng đá lớn suốt 500 năm để thấy mình bất lực mà ăn năn cải thiện.

Khi đã cải thiện, Ngộ được cứu thoát và gia nhập phục vụ đoàn đi tìm chân lý. Khi Ngộ Không bất mãn, bất phục lệnh, Ngộ lại bị cái vòng kim cô siết vào đầu làm Ngộ Không nhức óc kêu la thảm thiết. Khi biết tuân lệnh quay về đường phục vụ, thì Ngộ được lành mạnh, tài giỏi. Nhờ biết đi vào con đường phục vụ như tôi tớ, Ngộ Không đã tìm được chân lý và hạnh phúc, và giúp cho cả đoàn tới được chân lý.

Phim truyện có hai màn đối nghịch nhau. Màn đầu: diễn tả cảnh tranh bá đồ vương khủng khiếp của Ngộ Không. Màn sau: diễn tả những việc phục vụ rất đắc lực của Ngộ Không (Lm. Vũ Khắc Nghiêm, Xây nhà trên đá, năm B, tr 182).

Trong bài Tin Mừng hôm nay, các môn đệ tranh cãi nhau xem ai là người lớn nhất. Chuyện này chẳng tốt đẹp gì. Nó chứng tỏ các ông chưa học được bao nhiêu từ những giáo huấn của Đức Giêsu. Nó cho thấy các ông chả hiểu gì về sứ mạng Đức Giêsu. Bởi đó, Đức Giêsu gọi các ông lại và dạy cho họ biết ý nghĩa của việc làm lớn.

Đức Giêsu không huỷ bỏ cao vọng, nhưng Ngài định nghĩa nó lại cho đúng. Thay vị cao vọng thống trị người khác, Ngài dạy họ phục vụ người khác. Thay vì cao vọng muốn người khác hầu hạ mình, Ngài dạy họ biết hầu hạ người khác. Như thế điều Ngài lên án không phải là cao vọng mà là một thứ tham vọng lệch lạc.

Cao vọng của các vĩ nhân

Những con người danh tiếng được gọi là vĩ nhân đều có một lý tưởng là phục vụ nhân quần xã hội. Đây không phải là một quan điểm lý tưởng không thể thực hiện, nhưng là quan điểm hết sức phù hợp với lương tri nhân loại. Những nhân vật thực sự vĩ đại, những con người luôn luôn được người đời nhớ ơn vì đã thực sự đóng góp cho đời, không phải là những người đã tự nhủ thầm “Ta có thể lợi dụng đất nước này, xã hội này để gây thêm uy tín cho riêng ta, thực hiện những tham vọng của riêng ta như thế nào đây”, nhưng tự hỏi “Ta phải dùng tài năng mình để phục vụ quốc gia dân tộc mình như thế nào?”

Sự vĩ đại của một người không phải là việc người ấy leo được đến tột đỉnh các nấc thang của quốc gia, xã hội, nhưng ở trong sự kiện người ấy sẵn sàng phục vụ quốc gia dân tộc, xã hội, đồng bào mình bất cứ lúc nào và ở đâu.

Truyện: Nghị viên Paedateros

Người Hy lạp có một câu chuyện về một người ở thành Spartes tên gọi Paedateros là một ứng cử viên. Người ta chọn và bầu ra ba trăm người để cai trị thành Spartes. Paedateros là một ứng cử viên. Khi danh sách những người trúng cử được công bố, không có tên ông. Một bạn thân của ông ta nói:

- Tiếc thật, người ta không bầu cho anh, thiên hạ không biết nếu bầu cho anh, anh sẽ là một chính khách lỗi lạc đến thế nào? Nhưng Paedateros thản nhiên đáp:

- Trái lại, tôi rất vui vì trong xứ Spartes này còn có ba trăm người có tài, có đức hơn tôi.

Đây là một người đã đi vào truyền thuyết, vì sẵn sàng nhường cho kẻ khác ngôi vị hàng đầu mà không hề tỏ ra cay đắng.

Nhà văn hào R. Tagore cũng có một lý tưởng cao đẹp như thế khi ông nói: “Khi tôi ngủ, tôi mơ rằng cuộc đời là niềm vui. Lúc thức dậy, tôi thấy rằng cuộc đời là phục vụ. Khi phục vụ, tôi thấy rằng phục vụ là niềm vui”.

2. Theo tinh thần Kitô giáo

Trong thư gửi tín hữu Philípphê, thánh Phaolô đã làm một bài thánh ca để ca tụng tinh thần phục của Đức Giêsu khi muốn trở thành một người tôi tớ: Đức Giêsu Kitô vốn dĩ là Thiên Chúa, mà không nghĩ phải nhất quyết duy trì địa vị ngang hàng với Thiên Chúa. Nhưng đã hoàn toàn trút bỏ vinh quang, Mặc lấy thân nô lệ, trở nên giống phàm nhân, sống như người trần thế. Người lại còn hạ mình, vâng lời cho đến nỗi bằng lòng chịu chết, chết trên cây thập tự…. (Pl 2,6-8).

Đức Giêsu đã có một tinh thần khác hẳn với tinh thần thấp kém của loài người. Bởi vì con người tự nhiên thích ngồi chỗ cao, thích được khen ngợi, thích làm lớn và ưa địa vị quan trọng. Đó là cái tật cố hữu của loài người từ ngày tạo thiên lập địa, chứ không phải chỉ là tật xấu của các môn đệ Đức Giêsu. Tật xấu này trái ngược với tinh thần Tin mừng, Chúa bảo chúng ta phải loại bỏ, vì Tin mừng chủ trương sống khiêm nhường, quên mình, quảng đại, coi mình không là gì hết, bởi vì hễ ai trở nên bé nhỏ trước mặt loài người, kẻ ấy sẽ được đề cao trước Thiên Chúa. Lòng khiêm nhượng ở đời này là điều kiện và là mức đo sự cao trọng trong Nước trời.                       

Truyện: Chân phước Charles de Foucauld

Cha Charles de Foucauld, biệt danh là người hùng sa mạc Sahara, trước đây là một viên thượng tá trong quân đội Pháp. Đã từng chỉ huy các đoàn kỵ binh anh dũng rong ruổi ngược xuôi trên lưng ngựa để phục vụ hoàng triều nước Pháp. Foucauld tưởng như vậy là thành công và oai hùng. Nhưng nắm trong tay những tấm huy chương chói lọi, và tai nghe tiếng vó ngựa vang trời, Foucauld vẫn cảm thấy sự trống vắng, vô nghĩa của cuộc đời! Để cho đời mình có ý nghĩa tròn đầy, ông rời quân ngũ, xin vào phục vụ trong một tu viện ở làng Nazareth. Tại đây, Foucauld gánh nước cho từng nhà, nhất là những người già yếu bệnh tật. Rồi Chúa lại dẫn lối cho Foucauld đi tĩnh huấn trong sa mạc để đem Tin mừng cho người Phi châu. Trong đời quân ngũ, Foucauld không chinh phục được ai, nhưng trong đời tu sĩ, ông đã đem nhiều linh hồn về với Chúa.

3. Thực hành trong cuộc sống

Chúng ta sống sau những biến cố đau thương của Đức Giêsu, chúng ta suy niệm, học hỏi những biến cố đó. Thế nhưng sau đó chúng ta vẫn còn tranh giành địa vị lớn nhỏ: những chuyện tranh giành ngôi thứ trong các giáo xứ, tức là các môn đệ của Chúa Giêsu. Chúng ta thấy nhiều nơi còn phản ảnh tâm trạng của các môn đệ xưa kia. Chung quy cũng tại bản năng muốn ăn trên ngồi trước, muốn thống trị người khác mà thời đại nào cũng thế.

Đức Giêsu đã dạy chúng ta: “Hãy làm tôi tớ cho mọi người” (Mc 9,35). Đã là tôi tớ thì phải hầu hạ, phục vụ, giúp đỡ. Giúp đỡ người khác chính là giúp đỡ chính mình. Đó cũng là khuôn vàng thước ngọc của Đức Giêsu: “Cho thì có phúc hơn nhận lãnh” (Cv 20,35). Bởi vì, cho tức là trao tặng cho chính mình.

Người Anh có một câu ngạn ngữ tương tự:

Điều tôi tiêu đi thì tôi có

          Điều tôi giữ lại thì tôi mất

Điều tôi cho đi thì tôi được.

Đó là lý luận của tình yêu. Tình yêu lớn lên theo mức độ của sự trao ban. Có biết yêu thương con người mới thực sự triển nở và gặp lại chính mình. Có biết yêu thương thì con người mới tìm được hạnh phúc đích thật và một sự bình an trong cuộc sống:

Thành quả của sự thinh lặng là cầu nguyện,

Thành quả của sự cầu nguyện là yêu thương,

Thành quả của yêu thương là phục vụ,

          Thành quả của phục vụ là bình an. (Mẹ Têrêsa Calcutta)

Truyện: Bác sĩ Miki

Bác sĩ Miki trong phim “Vận mệnh” thấy đời mình thất bại nhiều, chồng chết… có ý định tự tử. Tình cờ đỡ đẻ cứu sống được cả mẹ con, lúc ấy Miki bừng tỉnh và thấy đời mình còn có ích cho người khác. Miki quyết định đến một hòn đảo xa phục vụ đồng bào với số ngày còn lại. Và Miki đã thực sự thấy mình được hạnh phúc trong phục vụ.

Để kết thúc, chúng ta hãy lắng nghe trong tinh thần cầu nguyện những lời của bác sĩ Albert Schweitzer, một Kitô hữu vĩ đại thời nay, người đã từ giã những phòng hoà nhạc Âu châu để trở thành một bác sĩ thừa sai phục vụ cho người nghèo khổ ở Phi châu: “Tôi không biết số phận bạn ra sao, chỉ biết một điều duy nhất là: Trong các bạn, chỉ những ai biết tìm và tìm thấy cách thức phục vụ tha nhân thì mới thực sự được hạnh phúc”.

 

3. Suy niệm (Lm. Antôn Nguyễn Cao Siêu, S.J.)

ĐỨC GIÊSU GỌI NHÓM MƯỜI HAI

Trong Tin Mừng Mác-cô, Đức Giêsu là một vị Thầy.

Nhiệm vụ chính của Thầy Giêsu là dạy các môn đệ.

Động từ dạy nhiều lần được nhắc đến.

Trong bài Tin Mừng hôm nay, Ngài cũng là vị Thầy,

luôn rong ruổi với các môn đệ từ nơi này sang nơi khác.

Ngài tận dụng thời gian đi đường xa để dạy các ông.

Họ là Nhóm Mười Hai môn đệ thân thiết (Mc 9,35).

Một cách kín đáo, Ngài đi băng qua miền Galilê,

vì Ngài biết thời gian Ngài sống trên đời không còn nhiều.

Thầy Giêsu lần thứ hai dạy cho các môn đệ biết

những gì sắp xảy đến cho đời Thầy.

Thầy sẽ bị nộp vào tay người đời.

Đúng là Giuđa Ítcariốt sẽ nộp Thầy cho các thượng tế,

đúng là các thượng tế sẽ nộp Thầy cho Philatô,

đúng là Philatô sẽ nộp Thầy cho quân lính đóng đinh,

nhưng thật ra chẳng ai nộp được Thầy,

đúng hơn, chính Thiên Chúa trao nộp Con Một yêu dấu

như cách thức biểu lộ tình thương để cứu độ nhân loại.

Cả cái chết sắp đến của Thầy cũng nằm trong ý Cha.

Nhóm Mười Hai không hiểu những lời Thầy mới nói.

Họ càng không hiểu được chuyện Thầy sẽ sống lại.

Như thế họ vẫn đứng ngoài con đường Thầy sắp đi.

Thầy Giêsu đành chấp nhận chuyện chậm hiểu của họ.

Thầy cũng chấp nhận chuyện họ tranh luận trên đường

vì một lý do rất xa lạ với suy nghĩ của Thầy:

cãi nhau xem ai là người lớn nhất trong nhóm.

Địa vị, quyền lực, là những thèm muốn có từ xa xưa.

Con người đấu đá tranh giành với nhau vì chuyện đó.

Không rõ làm người lớn nhất trong nhóm của Thầy Giêsu

thì được đặc ân nào, nhưng họ vẫn bận tâm về chuyện đó.

Thầy Giêsu không ép các môn đệ phải khai tội của họ.

Thầy chấp nhận họ làm thinh, vì xấu hổ.

Rồi Thầy còn chỉ cho họ cách làm lớn, làm đầu nữa.

Vào thời xưa, khiêm tốn hiền lành là dấu hiệu của hèn yếu.

Người có quyền thì mong được phục vụ bởi nhiều người.

Người ta thích làm lớn vì được phục vụ.

Không ai ngờ Thầy Giêsu lại dạy môn đệ cách làm lớn.

Đó làm người đứng cuối mọi người và phục vụ mọi người.

Phục vụ mọi người cách khiêm tốn là trở nên lớn.

Nhưng mọi người ở đây là ai?

Thầy Giêsu đã tìm được một em nhỏ để dạy bài học cụ thể.

Thời xưa, em nhỏ bị coi thường, phải lệ thuộc hoàn toàn.

Cả đến mạng sống của em cũng không được coi trọng.

Thầy Giêsu đã trìu mến ôm em nhỏ này trong cánh tay.

Và nhất là Thầy đã dạy một điều thời đó chưa ai dám nghĩ:

“Ai đón tiếp một em nhỏ vì danh Thầy là đón tiếp Thầy.

Ai đón tiếp Thầy là đón tiếp Đấng sai Thầy” (Mc 9,37).

Thầy tự đồng hóa mình với một em nhỏ,

như Thầy đã tự đồng hóa mình với người đói khát,

trần trụi hay ở tù, yếu đau hay vô gia cư (Mt 25,40).

Mỗi em nhỏ là sự hiện diện của Thầy cần được đón tiếp,

là sự hiện diện của Thiên Chúa cần được yêu thương.

Bài Tin Mừng cho ta thấy Đức Giêsu như vị Thầy mẫu mực.

Ngài chịu đựng sự chậm hiểu và khiếm khuyết của môn đệ.

Ngài kiên nhẫn và tự chủ khi phải la rầy.

Hôm nay, chúng ta đón tiếp Ngài nơi những trại tỵ nạn,

thấy khuôn mặt Ngài nơi các trẻ em suy dinh dưỡng,

săn sóc Ngài trong các bệnh viện dã chiến mới xây.

Chỉ xin được ơn làm lớn bằng cách phục vụ mọi người,

nhất là những ai bị bỏ rơi vì nhỏ bé quá.

LỜI NGUYỆN

Lạy Chúa Giêsu,

Ai cũng thích đi trên đường rộng thênh thang.

Đường hẹp là đường chẳng ai muốn đi.

Vậy mà Chúa lại bảo chúng con đi vào đường hẹp.

Đường hẹp là đường Cha chọn cho Chúa,

cũng là đường Chúa chọn đi suốt đời.

Dù là Con Thiên Chúa,

Chúa đã sống phận người như chúng con.

sống nghèo, nay đây mai đó, bữa đói bữa no,

và chết nghèo, trần trụi trên thập giá như một tử tội.

Khi theo Chúa nghiêm túc,

Chúng con nhận ra những đòi hỏi của Chúa.

Chúng con không thể vừa chọn Chúa

vừa chọn thế gian, với những thần tượng của nó.

Chúng con không thể vừa muốn sống theo ý Chúa,

vừa chiều theo khuynh hướng tự nhiên.

Xin cho con chọn đi đường hẹp,

vì biết đó là đường dẫn đến sự sống.

Xin cho con vui sướng

khi đi trên Đường mang tên Giêsu,

vì đó là Đường duy nhất dẫn đến Thiên Chúa Cha. Amen

 

4. Suy niệm (song ngữ)

25th Sunday in Ordinary Time
Reading I: Wisdom 2:12,17-20 II: James 3:16-4:3
Chúa Nhật 25 Thường Niên
Bài Đọc I: Khôn ngoan 2:12,17-20 II: Giacôbê 3:16-4:3

-------o0o------

Gospel
Mark 9:30-37

30 They went on from there and passed through Galilee. And he would not have any one know it;
31 for he was teaching his disciples, saying to them, “The Son of man will be delivered into the hands of men, and they will kill him; and when he is killed, after three days he will rise.”
32 But they did not understand the saying, and they were afraid to ask him.
33 And they came to Caper'na-um; and when he was in the house he asked them, “What were you discussing on the way?”

34 But they were silent; for on the way they had discussed with one another who was the greatest.
35 And he sat down and called the twelve; and he said to them, “If any one would be first, he must be last of all and servant of all.”

36 And he took a child, and put him in the midst of them; and taking him in his arms, he said to them,
37 “Whoever receives one such child in my name receives me; and whoever receives me, receives not me but him who sent me.”

Phúc Âm
Máccô 9: 30-37

30 Đức Giêsu và các môn đệ ra khỏi đó, đi băng qua miền Galilê. Nhưng Đức Giêsu không muốn có ai biết,
31 vì Người đang dạy các môn đệ rằng: “Con Người sẽ bị nộp vào tay người đời, họ sẽ giết chết Người, và Người bị giết chết, rồi sau ba ngày Người sẽ sống lại.”
32 Nhưng các ông không hiểu lời đó, và các ông sợ không dám hỏi lại Người.
33 Sau đó, Đức Giêsu và các môn đệ đến thành Caphácnaum. Khi về tới nhà, Đức Giêsu hỏi các ông: “Dọc đường, anh em đã bàn tán điều gì vậy ?”
34 Các ông làm thinh, vì khi đi đường, các ông đã cãi nhau xem ai là người lớn hơn cả.
35 Rồi Đức Giêsu ngồi xuống, gọi Nhóm Mười Hai lại mà nói: “Ai muốn làm người đứng đầu, thì phải làm người rốt hết, và làm người phục vụ mọi người.”
36 Kế đó, Người đem một em nhỏ đặt vào giữa các ông, rồi ôm lấy nó và nói
37 “Ai tiếp đón một em nhỏ như em này vì danh Thầy, là tiếp đón chính Thầy; và ai tiếp đón Thầy, thì không phải là tiếp đón Thầy, nhưng là tiếp đón Đấng đã sai Thầy”.

Interesting Details
• For the second time, Jesus predicts his coming death and resurrection. “But they did not understand “(v. 32). Is this due to a lack of comprehension or a subconscious fear of suffering?
• (v.34) The disciples sensed that their discussion of who was the greatest was improper and incorrect, yet they did it out of Jesus' earshot (or so they thought). What criterion could have been used by them in spite of Jesus' teaching?
• (v.35) The other Gospels also highlight the teaching of Jesus regarding humble service, for example Luke 22:26. But most illustriously, John 13:1-20 has Jesus go down on his knees and wash his disciples' feet, to give them an example.
• (v.37) A child, a symbolic description of the least noticed, heard, seen, respected face in a crowd (“the least of them”) carries a dignity beyond appearance. It is the dignity of the presence of Jesus within him.

Chi Tiết Hay
• Đây là lần thứ hai Đức Giêsu tiên đoán về cái chết và sự sống lại của Ngài. “Nhưng họ đã không hiểu lời ấy” (c.32). Họ không hiểu vì thiếu hiểu biết, hay không muốn hiểu vì sợ đau khổ?
• (c.34) Các môn đệ đã nhận thấy được cuộc tranh luận “Ai lớn hơn ai” là không tốt. Bởi thế họ đã làm thinh khi Đức Giêsu hỏi: “Các ngươi đã tranh luận gì với nhau?”. Các bạn có đoán được họ đã dùng yếu tố gì để so sánh xem “ai lớn hơn ai”: tài giảng thuyết, tài làm phép lạ, công làm các việc thiện ...
• (c.35) Các Phúc Âm đều có nói đến đức tính khiêm nhường mà Đức Giêsu đã dạy cho các môn đệ, thí dụ như Luca 22:26. Nhưng cụ thể hơn, trong Phúc Âm Gioan, Đức Giêsu đã dạy bằng cách cúi xuống mà rửa chân cho môn đệ của mình (Gioan 13:1-20).
• (c.37) Một đứa trẻ tượng trưng cho người thấp hèn nhất trong xã hội. Thế nhưng, Thiên Chúa hiện diện trong người ấy.

One Main Point
The time for His Passion is near. Jesus dedicates whatever time left to teach his apostles. He again predicts his death and resurrection. He instructs his students on the need for humility when serving each other. He raises the dignity of all those whom the apostles shall serve.

Một Điểm Chính
Thời điểm của cuộc khổ nạn đã gần kề, Đức Giêsu muốn dành thời gian còn lại để dạy dỗ các môn đệ. Ngài tiên đoán cái chết và sự sống lại của Ngài, dạy về sự khiêm nhường phải có khi làm các việc tông đồ, và Chúa nâng cao nhân phẩm của tất cả những kẻ cần sự trợ giúp, kể cả những đứa trẻ.

Reflections
1. Foretold that the path of discipleship is suffering, how fearful am I? What form of suffering am I most fearful of?
2. In my following Jesus, have I wanted to be first instead of last? What rewards do I look for in return for my service?
3. Who are “the children” in my eyes? Are they the uneducated, the poor immigrants who “drain our resources ,” the immoral - low-in-spirit, the sinners, etc.? How do I recognize them in my midst? How do I receive them?

Suy Niệm
1. Đức Giêsu đã cho tôi biết trước con đường theo Ngài là con đường có nhiều đau khổ. Sự đau khổ nào làm cho tôi sợ nhất : tài chánh, sức khỏe, hay tình cảm ...?
2. Trên đường theo Chúa, có lần nào tôi muốn là kẻ trước nhất thay vì là kẻ sau hết? Tôi có muốn được trả công mỗi khi tôi làm các việc tông đồ không?
3. Ai là những “đứa trẻ” trong cái nhìn của tôi? Có phải là những người thiếu học, những người tội lỗi? Làm sao tôi nhận ra họ? Và tôi tiếp đón họ như thế nào?

 

Top