Đôi dòng lịch sử Dòng Tên tại Việt Nam

Đôi dòng lịch sử Dòng Tên tại Việt Nam

Dòng Tên với công cuộc Loan báo Tin Mừng tại Việt Nam (1615-1773)

 
   Ngày 18 tháng 01 năm 1615, ba Giêsu hữu đặt chân đến Cửa Hàn (Đà Nẵng, Đàng Trong) để chính thức mở ra công cuộc loan báo Tin Mừng tại Việt Nam. Ba Giêsu hữu đó là Lm. Francesco Buzomi (người Ý), Lm. Diogo Carvalho (người Bồ Đào Nha) và tu huynh Antónios Dias (người Bồ Đào Nha). Các ngài long trọng mừng Lễ Phục Sinh năm ấy với các giáo dân người Nhật tại đó. Năm sau, đã có hơn 300 tân tòng người Việt và Cha Buzomi chiếm được cảm tình của quan trấn thủ được Chúa Nguyễn sủng ái. 

 

 
   Tại Đàng Trong các Cha thiết lập ba cư sở (residentia) đầu tiên. Đó là Hội An năm 1615, Nước Mặn (ngày nay thuộc tỉnh Bình Định) năm 1618 và Thanh Chiêm (cách Hội An chừng 7km) năm 1623.

   Cha Alexandre de Rhodes (Đắc Lộ) đến Đàng Trong từ cuối tháng 12 năm 1624 đến tháng 07 năm 1626 thì bị trục xuất về Áo Môn (Macau).

   Năm 1626, Đàng Ngoài đón tiếp các thừa sai. Cha Giuliano Baldinotti, người Ý cùng với tu huynh Giuliô Piani, người Nhật, theo tàu buôn thăm dò khả năng loan báo Tin Mừng. Trở về Áo Môn, Cha Baldinotti trình bày cho Bề Trên hoàn cảnh thuận lợi ở đây. Ngày lễ Thánh Giuse năm 1627, Cha Alexandre de Rhodes cùng với Cha Pedro Marquez đến Cửa Bạng (Thanh Hóa) gây dựng Hội Thánh Đàng Ngoài. Ngày lễ Tìm Được Thánh Giá 03 tháng 05 năm 1627, ngôi nhà thờ đầu tiên ở Đàng Ngoài được khánh thành tại An Vực (Thanh Hóa ngày nay).

   Tháng 05 năm 1630, bốn Giêsu hữu Pedro Marquez, Đắc Lộ, Gaspar d'Amaral và Paulo Saïto, bị Chúa Trịnh Tráng buộc phải rời bỏ Đàng Ngoài sau hơn 3 năm trời tận lực truyền giáo. Để nâng đỡ giáo đoàn, các ngài «chính thức» thành lập Tu hội thầy giảng. Tu hội được thành lập ở Kẻ Chợ ngày 27 tháng 04 năm 1630, còn ở Đàng Trong, Tu hội ra đời ngày 31 tháng 07 năm 1643 tại Hội An.

   Năm 1644, Thầy Giảng Anrê Phú Yên bị quan trấn Quảng Nam xử tử. Cha Đắc Lộ cũng bị kết án tử hình nhưng rồi được chuyển thành án trục xuất. Năm sau, quan trấn còn xử tử hai thầy giảng I-nhã ở Quảng Trị và Vinh-sơn Quảng Ngãi để cho các thừa sai biết ông quyết tâm cấm đạo.

Trong thời gian 1615-1773, trên 155 tu sĩ của Dòng thuộc 20 quốc tịch (nhiều nhất là Bồ Đào Nha) đã đến loan Tin Mừng trên Đất Việt, cùng với 33 Giêsu hữu người Việt. Trong số đó, có 12 Giêsu hữu đã làm việc trong Thái Y Viện và Khâm Thiên Giám của các Chúa Nguyễn.

   Ngày 21.07.1773, trước sức ép nặng nề của các chính quyền ác cảm với Dòng Tên, ĐGH Clementê XIV ra đoản sắc Dominus ac Redemptor giải thể Dòng trên toàn thế giới, làm cho 23.000 tu sĩ Dòng Tên tan tác.

   Từ đó các Giêsu hữu ở Việt Nam cũng theo số phận chung với anh em mình trong toàn Giáo Hội. Khi ĐGH Piô VII ra trọng sắc Sollicitudo omnium Ecclesiarum tái lập Dòng Tên từ ngày 07 tháng 08 năm 1814, các cựu Giêsu hữu ở Việt Nam đã chết hết rồi, chẳng còn ai để làm sống lại Dòng Tên tại đây.

 

 
Dòng Tên Việt Nam từ 1957-1975
   Từ sau năm 1954 quê hương Việt Nam chia hai. Miền Bắc sống trong chế độ xã hội chủ nghĩa, Miền Nam trở thành Việt Nam Cộng Hòa. Còn tại Trung Hoa, năm 1949, chính quyền cách mạng trục xuất hơn 700 Giêsu hữu thừa sai thuộc 9 tỉnh Dòng ngoại quốc khỏi Hoa Lục. Các Giêsu hữu phải tản mác đi phục vụ nhiều nơi, nhất là tại Hồng Kông, Macau và Đài Loan. Tìm đâu ra việc cho hàng trăm thừa sai trên các lãnh thổ nhỏ bé này ? 

 


   Năm 1953, theo gợi ý của một số cựu sinh viên đại học Aurora (Thượng Hải) sinh sống tại Chợ Lớn, cha Paul O'Brien, cha Kinh Lược coi các Giêsu hữu đã bị trục xuất, tới Sài Gòn nghiên cứu việc gởi Giêsu hữu qua phục vụ đồng bào người Hoa tại Việt Nam. Các cha Thừa Sai Paris đang phục vụ người Hoa ở Chợ Lớn cho biết họ cũng có các thừa sai bị trục xuất khỏi Trung Quốc được gởi qua Việt Nam.

   Năm 1955, Đức Cha Ngô Đình Thục đến Roma gặp cha Bề Trên Tổng Quyền Dòng Tên Gioan Baotixita Janssens bàn việc mời Giêsu hữu lập một đại học Công Giáo tại Việt Nam.

   Năm 1956, Cha André Gomane, S.J., trên đường về Bangkok, được cha Kinh Lược mới là cha Oñate, sai ghé vào Việt Nam để thăm dò khả năng gởi Giêsu hữu qua phục vụ Giáo Hội Việt Nam. Các vị hữu trách trong Giáo Hội và cả phía chính quyền gợi ý mở cư xá sinh viên như ở Hồng Kông và giảng dạy ở đại học. Đức Khâm Sứ Tòa Thánh thì đề nghị Dòng Tên nhận trách nhiệm mở một chủng viện thuộc quyền Giáo Hoàng tại Đà Lạt để giúp đào tạo hàng giáo sĩ. Trở về Roma, báo cáo của cha Gomane được trình lên Bề Trên Tổng Quyền. Tháng 12 năm 1956, Cha Kinh Lược Oñate gặp BTTQ. Ngài yêu cầu khối thừa sai Trung Quốc nhận việc lập cơ sở mới phục vụ Giáo Hội tại Việt Nam.

   Tháng 4 năm 1957, cha Oñate và cha Georges Germain tới Sài Gòn để thực hiện chương trình. Cha Germain được giao nhiệm vụ cấp tốc tìm nhà cho 4 Giêsu hữu tới giảng dạy đại học có nơi trú ngụ. Sau mấy tuần lễ tìm kiếm không thành công, nghe biết có một ngôi nhà do chính phủ Pháp sắp trả lại cho chính phủ Việt Nam, cha nhờ Bộ Trưởng Giáo Dục can thiệp xin cho phép mua lại ngôi nhà đó làm nơi cư trú cho các anh em Giêsu-hữu tới giảng dạy ở đại học. Ngôi nhà ấy sẽ trở thành cộng đoàn Thánh I-nhã, cộng đoàn đầu tiên của Dòng khi trở lại Việt Nam.

   Về phía Dòng, như đã nói trên, trong thời gian 1949-1954, hơn 700 Giêsu hữu tản mác đi phục vụ tại Hongkong, Macao, Đài Loan, Philippin, Thái Lan (1954) và Việt Nam (1957). Ngày lễ Giáng sinh 25.12.1957, cha Bề Trên Cả J.B. Janssens ký sắc lệnh thành lập Tỉnh Dòng Viễn Đông gồm các nhà tại Trung Hoa, Đài Loan và Philippin, Thái Lan và Việt Nam. Tại Việt Nam lúc này mới chỉ có nhà thánh Inhã, tức Trung Tâm Đắc Lộ sau này.
 

 

   Theo như gợi ý ban đầu của Đức Khâm Sứ về việc các Cha Dòng Tên đảm nhận việc huấn luyện chủng sinh, năm 1958, cha Ferdinand Lacretelle lên Đà Lạt lập Giáo Hoàng Chủng Viện. Chủng viện này sẽ được xây dựng cách quy mô vào năm 1961 và đổi tên là Giáo Hoàng Học Viện Thánh Piô X. Ban Giáo sư của GHHV gồm 8-10 quốc tịch khác nhau, hầu hết là tu sĩ Dòng Tên. 

 


   Năm 1959 trong khuôn viên của cộng đoàn thánh Inhã, các cha đã mở Trung Tâm Đắc Lộ. Tính đến năm 1975, trung tâm này đã phát triển thành một quần thể bao gồm một cư xá cho trên 60 sinh viên, một thư viện lớn với nhiều phòng học yên tĩnh cho hơn 1000 sinh viên tới học hỏi và nghiên cứu, một trung tâm truyền hình. Thêm vào đó còn có tạp chí Phương Đông và phong trào Hưng Giáo Văn Đông, Gia Đình Nhập Thể, với chủ trương về nguồn dân tộc và sống đạo sâu xa với hết con người Việt, đưa Chúa nhập thể vào những tinh hoa văn hóa đông phương theo tinh thần hội nhập văn hóa của Cha Đắc Lộ.

   Năm 1960 cha F. Lacretelle lập Nhà Tập Dòng Tên tại Thủ Đức dâng kính Thánh Tâm Chúa Giêsu. Cha cũng là Giáo Tập đầu tiên của Nhà Tập Dòng Tên Việt Nam.

   Năm 1962, cha Jacques de Leffe, lúc ấy là Bề Trên cộng đoàn Thánh Inhã, lập trung tâm sinh viên Xaviê tại Huế với mục đích tương tự như Trung Tâm Đắc Lộ và mở trường trung học Tín Đức kể từ niên khóa 1964-1965.

   Năm 1965, Nhà Ứng Sinh đại học được thiết lập trong khuôn viên Trung Tâm Đắc Lộ, Sài Gòn.

   Ngày 8 tháng 9 năm 1966, các nhà tại Thái Lan và Việt Nam được gom thành Miền Thái-Việt, thuộc Tỉnh Dòng Viễn Đông. Cha Jacques de Leffe làm Trưởng Miền tiên khởi.

   Cùng năm ấy, Học Viện dành cho các học viên tỉnh Viễn Đông từ Baguio, Philippin được chuyển về Đà Lạt. Học Viện Thánh Giuse được thành lập với ngôi nhà đầu tiên tọa lạc tại số 02 Đường Huyền Trân Công Chúa. Tuy nhiên, trong một lần pháo kích năm 1968, một phần nhà đã bị hư hỏng. Cùng với nhu cầu có một cơ sở lớn hơn, năm 1969, Học Viện chuyển sang cơ sở mới tại số 09 Đường Cô Giang. Ngôi nhà này là Học viện của Miền Dòng cho đến năm 1975 và được nhà nước sử dụng từ năm 1986.

   Đến năm 1970, Trung Ương Dòng tổ chức lại Tỉnh Dòng Viễn Đông và đổi tên là Tỉnh Dòng Trung Hoa. Các nhà của Tỉnh Viễn Đông cũ tại Philippin được giao lại cho Tỉnh Dòng Philippin. Dịp này, Thái Lan và Việt Nam, trước đây là một đơn vị, tách làm hai Miền trực thuộc tỉnh dòng Trung Hoa. Năm 1972 cha Sesto Quercetti làm Trưởng Miền Việt Nam cho đến tháng 04.1975.

   Với sự thay đổi trên về cơ cấu, cùng năm 1970, Cộng đoàn An-rê Phú Yên, 105 Nguyễn Đình Chiểu, Quận 3, Sài Gòn (nay là đường Trần Quốc Toản) được thành lập và là trụ sở của Miền Việt Nam cho đến năm 1975.

   Vào đầu thập niên 70, Dòng thiết lập Cơ sở Truyền hình Đắc Lộ (cạnh Trung Tâm Sinh Viên Đắc Lộ) nhắm đến việc giáo dục đại chúng với nhiều chương trình giáo dục thiếu nhi, giáo dục lối sống gia đình. Bên cạnh đó một số Cha bắt tay vào chương trình « đặc nhiệm phát triển nông thôn », nghiên cứu và thực nghiệm các kỹ thuật canh nông mới, xuất bản những tài liệu phổ biết kỹ thuật canh tác chăn nuôi, ngư nghiệp vừa giúp nông dân tăng gia lợi tức, vừa nhắm đến phát triển cộng đồng.

   Năm 1972, thành lập nhà Ứng Sinh thứ hai dành cho các em học Trung Học tại Thủ Đức, trong khuôn viên Nhà Tập. Cũng trong năm ấy, Cha Pedro Arrupe, Bề Trên Cả Dòng Tên viếng thăm Miền Việt Nam.

   Đầu năm 1975, khi tình hình Miền Nam Việt Nam trên đà tiến tới việc thay đổi chế độ chính trị, cha Pedro Arrupe biết rằng dưới chế độ mới, sẽ không có chỗ cho anh em Giêsu hữu người nước ngoài tại Việt Nam, nên đã sai cha phụ tá Herbert Dargan đặc trách vùng Đông Á và Châu Đại Dương qua Việt Nam gặp gỡ anh em Giêsu hữu để tìm một người Việt Nam thay thế cha Quercetti trong trách nhiệm Trưởng Miền. Cha Nguyễn Công Đoan lúc ấy mới từ Roma về, được chỉ định vào nhiệm vụ này từ ngày 29 tháng 4 năm 1975.

   Ngày 28 tháng 8 năm 1975, tất cả các Giêsu hữu cũng như tu sĩ ngoại quốc của các Dòng khác có mặt tại Đà Lạt được yêu cầu rời khỏi Việt Nam trong vòng 48 giờ. Trước khi ra đi anh em còn kịp chụp với nhau một tấm hình trong khuôn viên Giáo Hoàng Học Viện.
 
  Tính cho đến lúc Cha Joseph Audic, Giêsu hữu ngoại quốc cuối cùng rời Việt Nam năm 1977, Miền Việt Nam đã được 92 anh em nước ngoài đến phục vụ. Trong số các tiền nhân ấy có các cha Giáo Sư tại Giáo Hoàng Học Viện, các Cha làm công tác huấn luyện và tông đồ, các anh em Học Viên và các Tu Huynh đã âm thầm xây dựng Dòng. Bốn anh em ngoại quốc đã chọn Việt Nam làm nơi an nghỉ cuối cùng : Thầy Michel Martin tại Huế, Cha Ramón Cavanna tại Sài Gòn cùng với hai cố Giáo sư Giáo Hoàng Học Viện tại Đà Lạt, Jean Motte và Anton Drexel.
 

 

Dòng Tên Việt Nam từ 1975 đến nay
   Tháng 03 năm 1975 vì tình hình chiến sự trở nên căng thẳng, các giáo sư và sinh viên Giáo Hoàng Học Viện cũng như Học Viện Dòng Tên tản cư về Sài Gòn. Ngày 03. 04.1975, Đà Lạt giải phóng. Đến tháng 05 thì tất cả trở về Đà Lạt an toàn. Với việc các cha Dòng Tên ngoại quốc phải ra đi vào tháng 09, Giáo Hoàng Học Viện được trao lại cho Đức Cha Nguyễn Sơn Lâm, giám mục Đà Lạt quản lý thay mặt Hội Đồng Giám Mục.

 


   Ngày 30.4.1975, kết thúc chiến tranh, thống nhất đất nước. 41 Giêsu Hữu người nước ngoài rời khỏi Việt Nam theo yêu cầu của chính quyền mới. Số Giêsu Hữu Việt Nam còn lại vào cuối năm 1975 là 26 tu sĩ: 11 Linh mục, 10 Học viên, 1 Tu huynh, 4 Tập sinh và khoảng 15 Ứng sinh.
 

 

   Mùa Chay năm 1976, sau khi cầu nguyện và nhận định chung, Miền Dòng quyết định, theo truyền thống của cha anh năm xưa, tiếp tục sống hòa mình vào xã hội Việt Nam mới. Với tình hình nhân sự ít ỏi, không thể quản lý và sử dụng hết số cơ sở và trang thiết bị hiện có, Miền đã trao cho Nhà Nước cơ sở và máy móc của Trung Tâm truyền hình Đắc Lộ. 

   Cuối thập niên 1970, phong trào nghĩa vụ quân sự và thanh niên xung phong phát triển mạnh. Tiếp tục đường hướng vạch ra, một số anh em trẻ trong Miền dấn thân, lên đường thi hành nghĩa vụ quân sự và gia nhập TNXP. Những anh em ở nhà thì lao động sản xuất tại chỗ hoặc làm việc trong các xí nghiệp quốc doanh.
   Biến cố xảy ra vào tháng 12 năm 1980 tại Trung Tâm Đắc Lộ đặt cho Dòng những thách đố không nhỏ, cả về nhân sự lẫn cơ sở hoạt động. Nhưng bàn tay yêu thương và quyền năng của Chúa lại được cảm nhận rõ nét hơn bao giờ. Sống mầu nhiệm Vượt Qua của Đức Giêsu, sống bậc khiêm nhường thứ ba trong sách Linh Thao, đó là những ơn lớn mà Dòng được lãnh nhận khi bước theo Đấng khó nghèo, vác thập giá.
 
   Tính cho đến năm 1986, Nhà Nước đã tiếp quản các nhà và các cơ sở tông đồ do Dòng đảm trách như sau : Giáo Hoàng Học Viện Đà Lạt (13 Đinh Tiên Hoàng) hiện nay dùng làm cư xá cho nhân viên viện hạt nhân Đà Lạt cũng như làm cơ sở của Đại Học Dân Lập Yersin mới thành lập; Học Viện Dòng Tên (09 Cô Giang) hiện nay là Khu Vật Lý trị liệu thuộc bệnh viện Y Học Dân Tộc Lâm Đồng; Trung Tâm Đắc Lộ (161 Lý Chính Thắng, TP HCM); Trụ Sở Bề Trên Miền Dòng Tên (nay ở đường Trần Quốc Toản, Quận 3, TP.HCM); Nhà Tập Dòng Tên (Thủ Đức) nay là Trường Kỹ thuật Công Nghiệp Thủ Đức; Trung Tâm Sinh Viên Xavier (Huế) và trường Trung Học Tín Đức. Miền Dòng chỉ còn lại khu canh tác Tam Hà, nhưng thửa đất này một phần lớn cũng được trưng dụng. 

 


   Cuối thập niên 1980, các anh em trẻ dấn thân trở về sau nhiều năm phục vụ công ích. Người phục vụ dài nhất khoảng 12 năm. Trở lại với Dòng, trở lại với việc học đã bị gián đoạn trước đây quả là một thách đố lớn với các anh em. Một số anh em hoàn tất chương trình triết và thần học trong sự thiếu thốn sách vở cũng như giáo sư. Một số khác rời Dòng và trở lại với đời sống Kitô hữu giáo dân.
 
   Năm 1991, năm Thánh kỷ niệm 500 năm ngày sinh thánh I-nhã, Tổ phụ Dòng. Một số hoạt động được tổ chức tại Nhà thờ Chính Tòa TP.HCM cũng như tại các giáo xứ nhỏ bé mà Dòng đảm trách. Trong năm ấy, cùng với việc tổ chức lại các đơn vị của Dòng tại Đông Nam Á, Miền Dòng Việt Nam trở thành Miền Độc Lập, trực thuộc Bề Trên Tổng Quyền.

   Sau chính sách đổi mới của Nhà Nước, từ năm 1993, một số anh em dấn thân ngày trước được đồng ý lãnh nhận tác vụ linh mục. Các anh lớn trong Miền cũng theo đó trở lại sinh hoạt với các em sau thời gian dài vắng bóng. Các sinh hoạt mục vụ của Miền Dòng cũng từ từ được chấp thuận. Để duy trì và phát triển Dòng, Miền đã cố gắng thiết lập những cơ sở tuy còn thiếu thốn nhưng tạm ổn định để đón nhận các em mới vào Dòng. Tuy con số này không nhiều nhưng cũng đủ để nối tiếp ngọn lửa truyền lại từ 40 năm qua.

   Năm 1995, Tổng Hội Dòng Tên nhóm họp tại Roma. Cha Nguyễn Công Đoan đại diện anh em Việt Nam tham dự Tổng Hội, nối lại tình liên đới với Dòng quốc tế sau nhiều năm gián đoạn. Các cuộc gặp gỡ của anh em trong Miền bắt đầu được tổ chức đều đặn. Như ngày xưa, anh em muốn sống với nhau như một trong một gia đình. Từ đó tên gọi « gia đình Miền » trở thành tên gọi tập thể của anh em Giêsu hữu Việt Nam.

   Những năm cuối cùng của thế kỷ 20, Dòng bắt đầu có nhiều ơn gọi mới, năng động và nhiệt thành. Được Nhà Nước chấp thuận, một số linh mục trong Dòng lên đường du học ở vài nơi trên thế giới, canh tân chất lượng phục vụ của Dòng cho Giáo Hội và xã hội. Trước thềm thiên niên kỷ mới, Miền Dòng lại một lần nữa cầu nguyện và nhận định chung để tái khám phá ơn gọi của Dòng tại Việt Nam và tìm hướng đi cho những năm tháng đầy hứa hẹn sắp tới.

   Năm 2003, Cha Nguyễn Công Đoan được Cha Bề Trên Cả Kolvenbach gọi về Roma làm phụ tá cho Vùng Dòng Đông Á- Úc Châu. Cha Tôma Vũ Quang Trung thay thế cha Đoan trong trách vụ Bề Trên Miền Dòng. Cùng thời điểm ấy, sự hiện diện của Dòng trên Đất Việt được chính thức nhìn nhận. Anh em Giêsu hữu từ đây có điều kiện sinh hoạt và phục vụ như bao công dân, tu sĩ và linh mục khác.

   Năm 2007, 50 năm sau ngày các Giêsu hữu trở lại Việt Nam, nhận thấy quá trình hội nhập và thử luyện của anh em Miền Dòng cũng như sự trưởng thành của anh em, Trung ương Dòng đề nghị nâng Miền Dòng Việt Nam lên bậc Tỉnh Dòng.
 

 

Tỉnh Dòng năm 2008

 

 

bài liên quan mới nhất

bài liên quan đọc nhiều

Top