Chúa nhật 4 Thường niên năm C (Lc 4,21-30)

Chúa nhật 4 Thường niên năm C (Lc 4,21-30)

Chúa nhật 4 Thường niên năm C (Lc 4,21-30)

BÀI ÐỌC I: Gr 1, 4-5, 17-19

“Ta sẽ đặt ngươi làm tiên tri trong các dân tộc”.

Trích sách Tiên tri Giêrêmia.

Trong thời vua Giosia, lời Chúa phán cùng tôi rằng: “Trước khi Ta tạo thành ngươi trong lòng mẹ, Ta đã biết ngươi, và trước khi ngươi ra khỏi lòng mẹ, Ta đã hiến thánh ngươi. Ta đã đặt ngươi làm tiên tri trong các dân tộc.

Vậy phần ngươi, ngươi hãy thắt lưng, hãy chỗi dậy, và nói cho họ biết tất cả những điều Ta truyền dạy cho ngươi. Ðừng run sợ trước mặt họ, vì Ta không làm cho ngươi kinh hãi trước mặt họ. Hôm nay Ta làm cho ngươi nên một thành trì vững chắc, một cậy cột bằng sắt, một vách thành bằng đồng trước mặt các vua Giuđa, các hoàng tử, các tư tế và dân chúng xứ này. Họ sẽ chiến đấu chống ngươi, nhưng họ không thắng được ngươi, vì Ta ở với ngươi để giải thoát ngươi”.

Ðó là lời Chúa.

 

ÐÁP CA: Tv 70, 1-2. 3-4a. 5-6ab. 15ab và 17

Ðáp: Miệng con sẽ loan truyền sự Chúa công minh (c. 15a).

Xướng: Lạy Chúa, con tìm đến nương nhờ Ngài, xin đừng để con tủi hổ muôn đời; theo đức công minh Chúa, xin cứu nguy và giải thoát con, xin ghé tai về bên con và giải cứu.

Xướng: Xin trở nên thạch động để con dung thân, và chiến luỹ vững bền hầu cứu độ con: vì Chúa là Ðá Tảng, là chiến luỹ của con. Lạy Chúa con, xin cứu con thoát khỏi tay đứa ác.

Xướng: Bởi Ngài là Ðấng con mong đợi, thân lạy Chúa. Lạy Chúa, Ngài là hy vọng của con tự hồi thanh xuân. Ngay từ trong bụng mẹ, con đã nép mình vào Chúa; từ trong thai mẫu, Chúa là Ðấng bảo vệ con, con đã luôn luôn cậy trông vào Chúa.

Xướng: Miệng con sẽ loan truyền sự Chúa công minh, và suốt ngày kể ra ơn Ngài giúp đỡ. Lạy Chúa, Chúa đã dạy con từ hồi niên thiếu, và tới bây giờ con còn kể (ra) những sự lạ của Ngài.

 

BÀI ÐỌC II: 1 Cr 12, 31 – 13, 13 (bài dài)

“Ðức tin, đức cậy, đức mến vẫn tồn tại, nhưng đức mến là trọng hơn cả”.

Trích thư thứ nhất của Thánh Phaolô Tông đồ gửi tín hữu Côrintô.

Anh em thân mến, anh em hãy cầu mong những ơn cao trọng hơn. Và tôi chỉ bảo cho anh em một con đường hoàn hảo nhất. Nếu tôi nói được các tiếng của loài người và thiên thần, mà tôi không có bác ái, thì tôi chỉ là tiếng đồng la vang dội hoặc não bạt vang động. Và nếu tôi được nói tiên tri, thông biết mọi mầu nhiệm và mọi khôn ngoan; nếu tôi có đầy lòng tin, đến nỗi chuyển dời được núi non, mà không có bác ái, thì tôi vẫn là không. Nếu tôi phân phát mọi của cải tôi có để nuôi kẻ nghèo khó, nếu tôi nộp mình để chịu thiêu đốt, mà tôi không có bác ái, thì không làm ích gì cho tôi.

Bác ái thì kiên tâm, nhân hậu. Bác ái không đố kỵ, không khoác lác, không kiêu hãnh, không ích kỷ, không nổi giận, không suy tưởng điều xấu, không vui mừng trước bất công, nhưng chia vui cùng chân lý, tha thứ tất cả, tin tưởng tất cả, trông cậy tất cả, chịu đựng tất cả.

Bác ái không khi nào qua đi. Ơn tiên tri sẽ bị huỷ diệt, ơn ngôn ngữ sẽ chấm dứt, ơn thông minh sẽ biến mất. Vì chưng chúng ta hiểu biết có giới hạn, chúng ta nói tiên tri có giới hạn, nhưng khi điều vẹn toàn đến, thì điều có giới hạn sẽ biến đi. Khi còn bé nhỏ, tôi nói như trẻ nhỏ, suy tưởng như trẻ nhỏ, lý luận như trẻ nhỏ; nhưng khi tôi đã trưởng thành, tôi loại bỏ những gì là trẻ nhỏ. Hiện giờ, chúng ta thấy mờ mịt như qua tấm gương, nhưng lúc bấy giờ, diện đối diện. Hiện giờ tôi biết có giới hạn, nhưng lúc bấy giờ, tôi sẽ biết như tôi được biết. Hiện giờ, đức tin, đức cậy, đức mến, tất cả ba đều tồn tại, nhưng trong ba nhân đức, đức mến là trọng hơn cả.

Ðó là lời Chúa.

 

Hoặc đọc bài vắn này1 Cr 13, 4-13

“Ðức tin, đức cậy, đức mến vẫn tồn tại, nhưng đức mến là trọng hơn cả”.

Trích thư thứ nhất của Thánh Phaolô Tông đồ gửi tín hữu Côrintô.

Bác ái thì kiên tâm, nhân hậu. Bác ái không đố kỵ, không khoác lác, không kiêu hãnh, không ích kỷ, không nổi giận, không suy tưởng điều xấu, không vui mừng trước bất công, nhưng chia vui cùng chân lý, tha thứ tất cả, tin tưởng tất cả, trông cậy tất cả, chịu đựng tất cả.

Bác ái không khi nào qua đi. Ơn tiên tri sẽ bị huỷ diệt, ơn ngôn ngữ sẽ chấm dứt, ơn thông minh sẽ biết mất. Vì chưng chúng ta hiểu biết có giới hạn, chúng ta nói tiên tri có giới hạn, nhưng khi điều vẹn toàn đến, thì điều có giới hạn sẽ biến đi. Khi còn bé nhỏ, tôi nói như trẻ nhỏ, suy tưởng như trẻ nhỏ, lý luận như trẻ nhỏ; nhưng khi tôi đã trưởng thành, tôi loại bỏ những gì là trẻ nhỏ. Hiện giờ, chúng ta thấy mờ mịt như qua tấm gương, nhưng lúc bấy giờ, diện đối diện. Hiện giờ tôi biết có giới hạn, nhưng lúc bấy giờ, tôi sẽ biết như tôi được biết. Hiện giờ, đức tin, đức cậy, đức mến, tất cả ba đều tồn tại, nhưng trong ba nhân đức, đức mến là trọng hơn cả.

Ðó là lời Chúa.

 

Tin mừng: Lc 4, 21-30

21 Khi ấy, Chúa Giêsu bắt đầu nói trong hội đường rằng: Hôm nay ứng nghiệm đoạn Kinh Thánh mà tai các ngươi vừa nghe.

22 Mọi người đều làm chứng cho Người và thán phục Người về những lời từ miệng Người thốt ra, và họ nói: Người này không phải là con ông Giuse sao?

23 Và Người nói với họ: Hẳn các ngươi sắp nói cho Ta nghe câu ngạn ngữ này: Hỡi thầy thuốc, hãy chữa lấy chính mình! Điều chúng tôi nghe xảy ra ở Capharnaum, ông hãy làm như vậy tại quê hương ông’”.

24 Người nói tiếp: Quả thật, Ta bảo các ngươi, không một tiên tri nào được đón tiếp tại quê hương mình.

25 Ta bảo thật với các ngươi, đã có nhiều bà goá trong Israel thời Elia, khi trời bị đóng lại trong ba năm sáu tháng, khi nạn đói lớn xảy ra khắp trong xứ; 26 dầu vậy, Elia không được sai đến cùng một nguời nào trong các bà đó, nhưng được sai đến bà goá tại Sarepta thuộc xứ Siđon.

27 Cũng có nhiều người phong cùi trong Israel thời tiên tri Elisêô, thế mà không người nào trong họ được lành sạch cả, ngoại trừ Naaman, người Syria.

28 Khi nghe đến đó, mọi người trong hội đường đều đầy căm phẫn, 29 họ chỗi dậy và trục xuất Người ra khỏi thành. Họ dẫn Người lên triền núi, nơi xây cất thành trì của họ, để xô Người xuống vực thẳm.

30 Nhưng Người rẽ qua giữa họ mà đi. Quả thật, Ta bảo các ngươi, không một tiên tri nào được đón tiếp tại quê hương mình.

 

1. Suy niệm (TGM Giuse Nguyễn Năng)

Suy niệm: Ðoạn Tin Mừng hôm nay nói về việc Ðức Giêsu về quê hương mình giảng dạy... Mọi người đều thán phục Ngài vì những lời Ngài giảng thật uy quyền. Nhưng họ không chấp nhận Ngài chỉ vì Ngài là con ông Giuse nghèo khó, thất học.

Các khuôn về Ðấng Mê-si-a quyền thế mà họ ngộ nhận khiến họ không thể chấp nhận Ngài. Chúa Giêsu đã dùng Kinh Thánh để thức tỉnh họ, nhưng họ không nghe lại còn thô bạo trục xuất và tính ám hại Ngài. Nhưng giờ Ngài chưa đến, nên Ngài đã ung dung rẽ lối mà đi giữa họ một cách bình thản.

Cầu nguyện: Lạy Chúa Giêsu, qua bài Tin Mừng hôm nay, chúng con đã nhận ra rằng: con người không thể sung sướng, bình an, hạnh phúc nếu không biết nghĩ tốt cho người khác, và như thế, cũng là không biết chấp nhận chính Chúa. Lạy Chúa, xin hãy biến đổi chúng con trở thành người con ngoan của Chúa, người anh chị em tốt của mọi người. Amen.

Ghi nhớ: “Chúa Giêsu, như Êlia và Êlisê, không phải chỉ được sai đến với người Do-thái”.


2. Suy niệm (Lm. Carôlô Hồ Bạc Xái)

SỢI CHỈ ĐỎ:

Nhiệm vụ làm ngôn sứ thật là bạc bẽo: Thời Cựu Ước, ngôn sứ Giêrêmia đã bị dân mình bách hại (bài đọc I); Thời Tân Ước, Chúa Giêsu cũng bị những người đồng hương Nadarét muốn xô xuống vực thẳm (Bài Phúc Âm). Nhưng các ngôn sứ vẫn can đảm thi hành sứ mạng của mình vì các ngài dựa vào Thiên Chúa (đáp ca).

I. DẪN VÀO THÁNH LỄ

Anh chị em thân mến Tục ngữ có câu “Lời thật mất lòng”. Chúa Giêsu ưu tiên loan Phúc Âm cho những người đồng hương của Ngài ở Nadarét, thế mà họ lại xua đuổi Ngài. Thời bây giờ cũng vậy, nhiều người không muốn nghe những lời xây dựng chân thành, thậm chí còn ghét những người nói thẳng nói thật.

Hôm nay chúng ta hãy suy gẫm về thực tế chua chát ấy, và xin Chúa giúp chúng ta đừng rơi vào thói xấu ấy.

II. GỢI Ý SÁM HỐI

- Xin Chúa tha thứ cho những lần chúng con bỏ ra ngoài tai những lời xây dựng chân thành của kẻ khác.

- Xin Chúa tha thứ cho những lần chúng con có phản ứng không tốt với người khác chỉ vì họ đã nói thẳng nói thật.

- Xin Chúa tha thứ cho những lần chúng con đối xử bất công: vui vẻ với người khen nịnh, và khó chịu với người chân thành góp ý.

III. PHÂN TÍCH LỜI CHÚA

A. Bài đọc I (Gr 1,4-5,17-19)

Giêrêmia tự thuật về việc Thiên Chúa gọi ông làm ngôn sứ: Thực ra Giêrêmia không muốn làm ngôn sứ chút nào cả vì ông biết mình không có khả năng, và ông cũng ý thức rằng ông sẽ gặp rất nhiều chống đối và đau khổ vì nhiệm vụ ấy. Nhưng vì tin tưởng vào sự trợ giúp của Chúa nên ông đã can đảm đáp lại lời Chúa gọi.

B. Đáp ca (Tv 70)

Thánh vịnh 70 quãng diễn tâm tình của ngôn sứ Giêrêmia. Đó là tâm tình cậy trông và phó thác: “Con ẩn náu bên Ngài lạy Chúa, xin đừng để con phải tủi nhục bao giờ… Xin Ngài như núi đá cho con tru ẩn, như thành trì để cứu độ con”.

C. Bài đọc II (1 Cr 12,31--13,13) (Chủ đề phụ)

Sau khi giải thích cho tín hữu Côrintô về các đặc sủng nhằm phục vụ cộng đoàn (Chúa nhật trước), Thánh Phaolô nói đến ân sủng cao quý nhất trong mọi ân sủng, đó là Đức Mến.

- Đức Mến làm cho các ơn khác có giá trị thực (“Giả như tôi có nói được các thứ tiếng… mà không có đức mến thì tôi cũng chẳng khác gì thanh la phèng phèng, chủm choẹ xoang xoảng”).

- Đức Mến cao trọng hơn mọi nhân đức khác (“Hiện nay đức tin, đức cậy, đức mến, cả ba đều tồn tại, nhưng cao trọng hơn cả là Đức Mến”)

D. Phúc Âm (Lc 4,21-30)

Đoạn Phúc Âm hôm nay nói về hoạt động của Chúa Giêsu ở Nadarét quê hương Ngài:

1. Ngày Sabát, Ngài vào hội đường, dựa trên đoạn sách Isaia để công bố chương trình hành động của Ngài. Đó là mang Phúc Âm và ơn cứu độ cho những người nghèo khổ.

2. Bài giảng đã gây hứng khởi trong lòng thính giả. Họ thầm mong rằng, vì tình đồng hương, Ngài sẽ ưu tiên làm phép lạ cho họ. Nhưng Ngài đã từ chối, bởi vì Ngài là Đấng cứu độ của mọi người chứ không của riêng ai.

3. Thất vọng, dân Nadarét đã trục xuất Ngài khỏi thành và còn muốn giết Ngài.

IV. GỢI Ý SUY GẪM

A. Cần có ngôn sứ

Mỗi thời kỳ lịch sử đều có ngôn sứ. Mỗi thời kỳ lịch sử đều cần ngôn sứ. Bởi vì “ngôn sứ” là sứ giả của Lời Chúa, nếu không có ngôn sứ thì có thể Lời Chúa sẽ bị yếu đi.

Thời Cựu Ước có các ngôn sứ Isaia, Giêrêmia, Êdêkiên v.v. Thời Tân Ước có Chúa Giêsu, có các tông đồ… Thế kỷ XIII có Phanxicô Assidi… Thế kỷ XVII có Vinh Sơn Phaolô… Thế kỷ XX có Têrêsa Calcutta v.v.

Thực ra con người ngôn sứ chẳng có gì khác lạ hơn người thường: dân làng Nadarét đã nhận định về Chúa Giêsu “Ông ta chẳng phải là con bác thợ mộc Giuse đó sao?” Ở một vài phương diện nào đó, ngôn sứ còn thua kém người khác nữa: Giêrêmia đã thành thật thưa với Chúa “Lạy Chúa, con không biết nói. Con chỉ là một đứa trẻ”.

Nhưng ngôn sứ hơn người là do Lời Chúa: ngôn sứ nghe được Lời Chúa, tin tưởng vào Lời Chúa, và nhiệt thành chuyển đạt Lời Chúa đến cho mọi người.

Dù “hơn người”, nhưng không hẳn ngôn sứ được người quý mến, trái lại thường bị người chống đối và bách hại, bởi vì “Lời thật mất lòng”.

Tuy thường bị người ta đối xử tệ, nhưng ngôn sứ chính là kẻ làm ơn cho người. Nhờ ngôn sứ nhắc người ta sống đúng lời Chúa.

Sứ mạng ngôn sứ rất khó khăn và bạc bẽo. Nhưng ngôn sứ sẽ chu toàn sứ mạng nhờ cậy dựa vào sự trợ giúp của Chúa.

Qua bí tích Rửa Tội, mỗi kitô hữu chúng ta đều được Chúa trao sứ mạng là ngôn sứ của Ngài.

B. Kiên vững – Dịu hiền

Thôi Trữ là quyền thần nước Tề, định giết vua Trang Công, bèn hội họp sĩ phu lại cùng nhau thề thốt. Ai nấy đều sợ hãi, răm rắp vâng lời. Duy có Án Tử nghiễm nhiên như không, nhất quyết không chịu thề.

Thôi Trữ bảo Án Tử: “Ngươi nghe ta. Ta lấy được nước, thì ta cho một nửa. Nhược bằng không nghe, ta giết ngay lập tức”.

Lúc ấy, bốn mặt quân lính hầm hầm những muốn đưa gươm giáo ra đâm chém Án Tử. Chết đến nơi, mà Án Tử vẫn không biến sắc, ung dung nói rằng:

“Lấy lợi nhử người ta, bảo người ta phản bội quân thượng là bất nhân; lấy binh khí hiếp người ta, làm người ta mất chí khí là bất dũng. Giết thì giết, ta đây không theo việc bất nhân của nhà ngươi đâu”.

Thôi Trữ nghe nói, không dám làm gì Án Tử. Án Tử đứng dậy, ung dung bước ra.

Thôi Trữ quyền hành là thế, mà chỉ một câu nói của Án Tử cũng đủ làm ông phải chùn bước. Thế mới biết sự thật có sức mạnh hơn bạo lực quyền uy.

Bài Phúc Âm hôm nay kể lại: “Mọi người trong hội đường đều đầy căm phẫn, họ chỗi dậy và trục xuất Người ra khỏi thành: Họ dẫn Người lên triền núi, nơi xây cất thành trì của họ, để xô Người xuống vực thẳm. Nhưng Người rẽ qua giữa họ mà đi” (Lc 4,29-30). Chúa Giêsu chính là Sự Thật tuyệt đối, nên từ nơi Người toát ra sức mạnh phi thường, khiến đám người bạo động phải đứng như trời trồng để Người đi qua.

Những người đồng hương với Chúa Giêsu cảm thấy khó chịu, vì họ không thể tin rằng Thần khí Chúa lại ngự xuống trên con ông Giuse thợ mộc.

Họ cảm thấy nghi ngờ, vì họ không thể chấp nhận một con người nghèo khổ làng Nadarét lại là tiên tri, là Đấng Thiên sai.

Họ càng căm phẫn, khi con người ấy không chịu thực hiện những phép lạ mà họ yêu cầu. Thế là bạo động nảy sinh, họ muốn tiêu diệt Người cho khuất mắt. Đúng như lời Chúa Giêsu đã nói: Không một tiên tri nào được đón tiếp nơi quê hương mình (Lc 4,24).

Thế mới ứng nghiệm lời ông Simêon: Trẻ này là dấu hiệu bị ngưới đời chống báng (Lc 2,34). Lời tiên tri này còn theo Người suốt cả cuộc đời.

Nếu dân làng Nadarét ép Chúa Giêsu làm phép lạ để minh chứng Người là tiên tri, thì các đầu mục Do thái cũng đòi Chúa Giêsu chứng minh giáo lý của Người là chính thống.

Nếu dân làng Nadarét tố cáo Chúa Giêsu là lộng ngôn phạm thượng, thì các người Pharisêu cũng kết tội Người dựa vào thế giá cửa quỉ vương.

Nếu dân làng Nadarét cố tìm cách giết Chúa Giêsu, thì dân thành Gíêrusalem cũng quyết tâm đóng đinh Người trên thập giá.

Mỗi người tín hữu Kitô đều có thể hiểu được thế nào là bị xua đuổi, bị loại trừ, bị kỳ thị và bị bỏ rơi, vì Nếu thế gian đãghen ghét các con, thì hãy nhớ rằng họ đã ghét Ta trước (Ga 15,18), nhưng ít có ai cảm nhận được tâm trạng của Chúa Giêsu vào những lúc như thế này: Người có căm thù những kẻ ruồng rẫy Người không? Người có đầu hàng trước nghịch cảnh này chăng? Nói như Martin Luther King: Tôi vui mừng vì Thiên Chúa chúng ta thờ là Thiên Chúa có tinh thần kiên vững và con tim dịu hiền.

Vâng, nếu Thiên Chúa chỉ là Đấng có tinh thần kiên vững, thì Người sẽ là một Thiên Chúa xa cách, lạnh lùng, ngự trị tại một nơi nào đó trên chốn trời cao để ngắm nhìn thế sự thăng trầm. Nhưng nếu Người chỉ là Đấng có con tim dịu hiền, thì Người sẽ là một Thiên Chúa uỷ rnị nhu nhược, không thể hành động khi mọi sự đi lệch hướng.

Đứng trước cảnh bị ruồng rẫy hôm nay, con tim của Người không hề chai đá và tinh thần của Người không chút bạc nhược. Người có tinh thần đủ kiên vững để vượt trên thế giới, và có con tim đủ dịu hiền để ở giữa con người.

Nếu có một bài học nào được rút ra từ bài Phúc Âm hôm nay thì đó chính là: Thiên Chúa mạnh mẽ vô song, có thể băng qua giữa họ mà đi, nhưng Người cũng là Đấng giàu lòng thương xót. Khi chúng ta ngỗ nghịch xúc phạm đến Người, khi chúng ta muốn xô Người xuống vực thẳm, thì chúng ta cần biết rằng, chính lúc đó Người đang yêu thương chúng ta và sẵn sàng cho chúng ta một cơ hội để quay trở về.

Thiên Chúa là Đấng có tinh thần kiên vững trong phán quyết công minh, nhưng Người cũng là Đấng có tính dịu hiền trong tình thương và ân sủng.

Thiên Chúa ban ân sủng cứu độ cho hết mọi người, chứ không chỉ dành riêng cho một số người được đặc ân.

Thiên Chúa ban ân sủng Cứu độ để chúng ta sinh ích cho mình và làm lợi cho anh em, chứ không phải để chúng ta khư khư giữ lấy cho riêng mình.

C. Ưu tiên cho ai?

Cuộc gặp gỡ giữa Chúa Giêsu với dân làng Nadarét ban đầu rất tốt đẹp: “Mọi người đều tán thành và thán phục những lời hay ý đẹp thốt ra từ miệng Ngài”. Nhưng sau đó là đổ vỡ hoàn toàn: “Mọi người trong hội đường đầy phẫn nộ. Họ đứng dậy lôi Ngài ra khỏi thành… Họ kéo Ngài lên tận đỉnh núi, để xô Ngài xuống vực”

Nguyên do gây đổ vỡ là quan niệm về ưu tiên. Dân làng Nadarét nghĩ rằng Chúa Giêsu phải ưu tiên cho họ, bởi vì họ là đồng hương của Ngài. Ngài đã từng làm phép lạ ở thành Capharnaum xa lạ thì Ngài phải làm nhiều phép lạ hơn nữa ở Nadarét này mới phải, vì đây chính là quê hương của Ngài kia mà: “Tất cả những gì chúng tôi nghe nói ông đã làm tại Capharnaum, ông cũng hãy làm tại đây, tại quê ông xem nào”. Phần Chúa Giêsu thì muốn dành ưu tiên cho những người nghèo khổ: “Thần khí Chúa ngự trên tôi… để tôi loan báo Phúc Âm cho kẻ nghèo hèn. Người đã sai tôi đi công bố cho kẻ giam cầm biết họ được tha, cho người mù biết họ sáng mắt, trả lại tự do cho người bị áp bức…”

Nói cách khác, dân làng Nadarét muốn ưu tiên theo tình cảm, còn Chúa Giêsu thì chủ trương ưu tiên theo sứ mạng. Tình cảm thường hẹp hòi, sứ mạng thì bao la. Tình cảm thường mù quáng, sứ mạng mới sáng ngời.

Chúng ta thường bị tình cảm làm mù quáng và lệch lạc, ngay cả khi chúng ta làm việc bác ái và làm công tác tông đồ. Gương Chúa Giêsu nhắc ta phải luôn ý thức đến sứ mạng. Nếu có ưu tiên thì hãy ưu tiên cho những người nghèo nàn, khổ sở.

D. Trở lại quê hương

Sau nhiều năm xa cách ngôi làng Transkei là nơi ông đã sinh ra và lớn lên, Nelson Mandela có dịp trở lại đấy. Lúc bấy giờ ông đã là một luật sư có nhà cửa ở thủ đô Johannesburg. Ông đã ghi lại cảm tưởng như sau: “Trở lại một nơi chẳng có gì thay đổi để khám phá ra rằng mình đã đổi thay. Quê hương thì vẫn như xưa, chẳng có gì khác hơn hồi mình sinh ra và lớn lên ở đấy. Nhưng tôi nhận ra rằng suy nghĩ và cách nhìn của mình đã khác xưa rất nhiều”. Vì thế Nelson Mendela rất hạnh phúc khi trở về thăm lại quê cũ, nhưng ông không ở lại đó, vì nó đã trở thành quá chật hẹp đối với ông.

Có lẽ cảm nghĩ của Chúa Giêsu cũng giống như thế khi Ngài trở về Nadarét. Những người đồng hương của Ngài chẳng có gì thay đổi: họ vẫn mãi coi Ngài là con bác thợ mộc chứ không phải là Đấng Messia; họ vẫn quen lối suy nghĩ hẹp hòi cho rằng ơn cứu độ là đặc ân của người do thái, chứ không thể chấp nhận rằng mọi người đều được hưởng ơn cứu độ.

Chúa Giêsu trở về quê hương để mang cho đồng hương của Ngài một sự đổi mới. Tuy nhiên họ không chịu thay đổi. Vì thế nên Ngài không thể ở lại quê hương, Ngài đành ra đi, tiếp tục đến những nơi khác. (FM)

E. Đức Mến

Có một sự liên kết thiết yếu giữa Đức Tin và Đức Mến. Câu chuyện sau đây cho thấy rõ điều ấy:

George Herbert là một Linh mục, một thi sĩ và một nhạc sĩ nghiệp dư. Một hôm khi ông đang trên đường đến tham dự một cuộc hòa nhạc thì gặp một người nghèo bị té ngựa. Ông đã dừng lại, cởi áo dòng, xắn tay áo để đỡ người ấy lên, đỡ con ngựa lên và giúp chất hành lý người ấy lên lưng ngựa. Xong xuôi mọi chuyện, ông mới tiếp tục đến phòng hòa nhạc.

Bình thường ông ăn mặc rất sạch sẽ. Nhưng hôm nay tay chân và quần áo của ông đều dính đầy bụi bẩn. Vì thế bạn bè rất ngạc nhiên. Khi ông kể lại chuyện mình đã làm dọc đường thì một trong các người bạn tỏ ra không đồng ý vì cho rằng việc đó không cần thiết và cũng không phải là trách nhiệm của ông. George Herbert đã trả lời như sau: “Tôi thường cầu nguyện cho những người nghèo khổ. Hôm nay tôi có dịp giúp đỡ người nghèo khổ. Nếu tôi không ra tay giúp thì tức là tôi không làm đúng như lời mình cầu nguyện. Cũng giống như cây đàn chưa lên dây đúng cung vậy.”

Thánh Giacôbê đã nói: “Đức tin mà không có việc làm là đức tin chết”. Những việc làm biểu lộ đức tin dễ thấy nhất là những việc bác ái.

Ngày nay, hai chữ được người ta nói nhiều nhất là “tình yêu”. Nhưng hình như cái mà người ta gọi là tình yêu trong các phim ảnh và bài hát thường chẳng phải là tình yêu gì cả. Đó chỉ là khát vọng, chiếm hữu và chế ngự. Nó ngược hẳn với tình yêu.

Một trong những lý do là ngày nay người ta đã hiểu rõ hơn về tính phức tạp – hay phức hợp – trong bản chất con người. Từ đó người ta làm gì cũng do bị thúc đẩy bởi nhiều động cơ. Đàng sau một việc xem ra bất vụ lợi thì cũng có động cơ vụ lợi.

Bởi thế, Thánh Phaolô khuyến cáo chúng ta coi chừng những động cơ đàng sau những việc tốt chúng ta làm. Ngài nói rằng Đức Mến đích thực thì “không ghen tương, không vênh vang, không tự đắc”. Ngài còn nói “Giả như tôi có đem hết gia tài cơ nghiệp mà bố thí, hay nộp cả thân xác tôi để chịu thiêu đốt, mà không có đức mến, thì cũng chẳng ích gì cho tôi”.(FM)

Cầu nguyện:

Lạy Chúa, Ngôn Sứ là ơn gọi và là sứ mạng của mỗi người tín hữu chúng con.

Xin cho chúng con luôn can đảm nói điều Chúa muôn nói, và nói nhân danh Chúa, cho dù có phải bị chống đối, phẫn nộ.

Xin cho chúng con luôn xác tín rằng: Chúa đầy quyền năng cả nhưng cũng rất giàu lòng xót thương, luôn dẫn dắt chúng con từ những hố sâu tăm tối đến những nẻo đường chan hoà ánh sáng, tràn đầy hy vọng, nhờ đó, cuộc đời chúng con được viên mãn. Amen (TP)

 

3. Suy niệm (Lm. Giuse Đinh Lập Liễm)

THÂN PHẬN TIÊN TRI

A. DẪN NHẬP

Thời xưa, khi Thiên Chúa muốn dạy dân Chúa một điều gì, Ngài không trực tiếp hiện ra dạy dỗ, nhưng Ngài dùng các tổ phụ hay các tiên tri để tuyên sấm Lời Chúa. Tiên tri phải được Thiên Chúa chọn. Tiên tri không được lựa chọn lời Chúa mà phải trung thành nói hết những lời Ngài muốn nói, không được thêm bớt. Những lời tiên tri nói ra thường không dễ nghe và khó được chấp nhận vì những lời ấy vạch trần những sự sai trái của mọi người, nhất là của cấp lãnh đạo trong đạo cũng như ngoài đời. Vì thế, tiên tri thường bị người ta chống đối, nhạo báng, lăng nhục và có khi bị giết vì sứ mạng. Tiên tri Giêrêmia là bằng chứng khẳng định điều trên.

Đức Giêsu cũng là vị tiên tri, vì Ngài được Thánh Thần xức dầu, sai đi rao giảng Tin mừng cho muôn dân. Ngài nói lên sự thật, nhưng Ngài đã bị những người đồng hương chống đối, không chấp nhận mà còn muốn giết đi nữa. Người ta chấp nhận “sứ điệp” của Ngài nhưng không nhận sứ điệp từ nơi Ngài, vì Ngài cũng chỉ là một người Nazareth như ai, con bác thợ mộc Giuse… Vì vậy, số phận của Ngài cũng giống như số phận của các tiên tri, bởi vì “Không một tiên tri nào được đón tiếp nơi quê hương mình”.

Mỗi Kitô hữu, qua bí tích rửa tội và thêm sức, cũng là tiên tri của Chúa, vì đó là một trong ba chức năng của Đức Kitô mà mọi người được tham gia. Vì thế, mọi Kitô hữu có sứ mạng loan báo Tin mừng cho người khác. Nhiệm vụ ấy đòi hỏi mỗi Kitô hữu phải can đảm thi hành một cách triệt để trong cuộc sống hằng ngày, bằng chứng tá sống động, mặc dầu bị người ta chối bỏ hay chống đối.

B. TÌM HIỂU LỜI CHÚA

+ Bài đọc 1: Gr 1,4-5.17-19

Giêrêmia là một trong những tiên tri lôi cuốn nhất. Tính ôn hoà và nhạy cảm của ông không thích hợp để trở thành tiên tri đối với một xã hội suy đồi. Nhưng Thiên Chúa đã gọi ông và ông phải vâng lời. Ông vẫn biết mình không có khả năng, và cũng ý thức rằng: ông sẽ gặp rất nhiều chống đối và đau khổ vì nhiệm vụ ấy. Vì thế, ông đã phải cố gắng đi rao truyền Lời Chúa trước mặt dân Israel và các dân ngoại. Trước sự chống đối và bắt bớ, ông vẫn tin tưởng vào sự trợ giúp của Chúa nên ông không hề nao núng. Tiên tri Giêrêmia chính là hình ảnh của người Kitô hữu.

+ Bài đọc 2: 1Cr 12,31–13,13

Trong đoạn thư gửi cho tín hữu Côrintô, thánh Phaolô khẳng định sự cao trong của Đức mến. Chúa ban cho Kitô hữu nhiều ơn riêng để họ góp phần xây dựng cộng đoàn (Chúa nhật trước). Nhưng Đức mến vẫn là cao trọn hơn cả.

Đức mến làm cho các ơn khác có giá trị, bởi lẽ nếu không có đức mến thì những ơn khác chỉ là hư không, và đức mến mới khiến chúng ta tham dự vào chính sự sống của Thiên Chúa.

+ Bài Tin mừng: Lc 4,21-30

Bài Tin mừng hôm nay tiếp theo bài Tin mừng Chúa nhật tuần trước nói về những hoạt động của Đức Giêsu tại quê hương Nazareth của mình. Theo đó, chúng ta thấy có ba ý chính:

- Ngày sabat, Đức Giêsu vào hội đường Nazareth đọc Sách thánh. Nhân dịp này, Ngài tuyên bố lời tiên tri Isaia cách đó 8 thế kỷ mà Ngài mới đọc, được áp dụng vào chính Ngài, và Ngài công bố sứ mạng của Ngài là mang Tin mừng và ơn cứu độ cho những người nghèo khổ.

- Dựa trên lời đồn thổi về Ngài, người đồng hương cảm thấy phấn khởi qua bài giảng của Ngài. Họ hy vọng Ngài sẽ ưu tiên làm nhiều phép lạ tại quê hương, nhưng đã bị từ chối, bởi vì Ngài là Đấng cứu độ của mọi người chứ không phải của riêng ai: “Mọi xác thịt sẽ được thấy ơn cứu độ của Chúa” (Lc 3,6).

- Thất vọng vì sự từ chối của Đức Giêsu, họ tức giận và trục xuất Ngài khỏi thành bằng cách đưa Ngài lên đồi cao để xô xuống vực. Điều này hé mở cho ta thấy bóng dáng ngọn đồi Golgotha, nơi họ sẽ giết Ngài, như cha ông họ đã từng giết các tiên tri.

C. THỰC HÀNH LỜI CHÚA: Hãy làm tiên tri của Chúa

I. NGƯỜI LÀM TIÊN TRI

1. Ơn gọi Tiên tri

Trong đạo cũ, muốn dạy dân một điều gì thì Thiên Chúa thường gửi những vị tiên tri đến để tuyên sấm lời Chúa. Tiên tri, theo từ gốc Hy lạp, có nghĩa là người nói nhân danh người khác. Thánh kinh nhắc đến 16 vị tiên tri tất cả, gồm 4 tiên tri lớn và 12 tiên tri nhỏ. Không phải ai muốn làm tiên tri thì làm, nhưng phải được Thiên Chúa chọn như tiên tri Elia, Giêrêmia…

2. Tiên tri Giêrêmia

Giêrêmia là một trong 4 tiên tri lớn thời Cựu ước, đã được Thiên Chúa cho biết: “Trước khi cho ngươi thành hình trong dạ mẹ, Ta đã biết ngươi; trước khi lọt lòng mẹ, Ta đã thánh hóa ngươi, Ta đặt ngươi làm tiên tri cho chư dân”. Đúng là Thiên Chúa đã chuẩn bị, Ngài chọn Giêrêmia từ xa xưa, sai ông đi “để nhổ và lật đổ, để hủy và để phá”. Ông dám tuyên bố thẳng thắn với dân chúng con đường sống còn duy nhất của họ là phải canh tân đời sống, hướng về Chúa và kêu cầu Ngài cứu giúp. Nghe ông thuyết giảng như thế, đám dân liền nổi giận. Họ lẩm bẩm kêu lên: “Ông nội Giêrêmia này  dám nghĩ mình là ai mà bày đặt phê phán chúng ta, vì dầu sao chúng ta cũng là đồng bào của ông ấy”.

Tiếc thay, sứ vụ của ông quả đã thất bại, chính ông cũng chết tại Ai cập, nhưng dung mạo của ông không ngừng lớn lên sau khi ông chết. Ông là người có tâm hồn dịu hiền, sinh ra để được yêu mến, luôn luôn nêu cao những liên lạc thân mật tâm hồn phải có đối với Thiên Chúa, ông đã quên mình, chịu đau khổ để phục vụ Thiên Chúa, nên ông trở thành một dung mạo của Chúa Kitô.

3. Sứ mạng của tiên tri

Tiên tri là phát ngôn nhân của Thiên Chúa. Làm tiên tri chẳng dễ chịu chút nào, phiền toái là đàng khác. Tiên tri không thể chọn lựa điều phải nói, mà phải nói điều Thiên Chúa muốn, ông nói và nói nhân danh Chúa. Tiên tri phải tập trung vào việc diễn tả Lời Chúa, cho dù dân chúng đón nhận hay không (1Cr 9,15-16). Các tiên tri phải nói sự thật (2Cr 11,10; 13,8) và sự thật thì hay mất lòng. Vì thế, mệnh lệnh ông mang lại cho dân chúng và cách riêng cho giới cầm quyền, nhiều khi bị đả kích chống đối và nhà tiên tri phải chết vì sứ mạng.

Giêrêmia trong bài đọc 1 hôm nay nói với chúng ta điều đó một cách thật đau đớn. Thiên Chúa không phải lúc nào cũng nói những lời dễ nghe, làm vừa lòng người ta. Chính vì tính chất khó nghe ấy mà tiên tri phải chết: “Giêrusalem! Ngươi giết các tiên tri và ném đá những kẻ được sai đến cùng ngươi” (Mt 23,37).

Truyện: Án Tử cương trực

Thôi Trữ quyền thần nước Tề, định giết vua Trang Công, bèn hội họp sĩ phu lại cùng nhau thề thốt. Ai nấy đều sợ hãi, răm rắp vâng lời. Duy có Án Tử nghiễm nhiên như không, nhất quyết không chịu thề.

Thôi Trữ bảo Án Tử:

- Ngươi nghe ta. Ta lấy được nước, thì ta cho một nửa. Nhược bằng không nghe, ta giết ngay lập tức.

Lúc ấy, bốn mặt quân lính hầm hầm muốn đưa gươm giáo ra đâm chém Án Tử. Chết đến nơi, mà Án Tử vẫn không biến sắc, ung dung nói rằng:

- Lấy lợi nhử người ta, bảo người ta phản bội quân thượng là bất nhân; lấy binh khí hiếp người ta, làm người ta mất chí khí là bất dũng. Giết thì giết, ta đây không theo việc bất nhân của nhà ngươi đâu.

II. ĐỨC GIÊSU, VỊ TIÊN TRI TUYỆT VỜI

1. Giảng dạy tại hội đường Nazareth

Bài Tin mừng hôm nay cũng giống như Tin mừng của thánh Marcô (Chúa nhật 14 B). Thánh Luca kể chung vào làm một hai lần Đức Giêsu trở về Nazareth. Có lẽ cả hai lần, người đồng hương của Ngài đối xử với Ngài cùng một cách, nên thánh Luca kể chung vào một.

Ngày sabat, Đức Giêsu vào hội đường cầu nguyện với bà con đồng hương và chú giải đoạn Sách thánh vừa mới đọc, tức là đoạn sách của tiên tri Isaia nói về Đấng Cứu thế: “Thánh Thần Chúa ngự trên tôi…”. Mọi người chăm chú nghe Ngài giảng vì danh tiếng Ngài đã vang rộng. Ngài nói đơn sơ, hùng hồn, hấp dẫn, khôn ngoan và sâu sắc, khiến tất cả ai nghe đều thán phục. Họ ngạc nhiên về sự khôn ngoan của Ngài: “Mọi người đều tán thành và thán phục những lời hay ý đẹp thốt ra từ miệng Ngài”.

2. Người đồng hương thay đổi thái độ

Người đồng hương hài lòng với “sứ điệp” của Đức Giêsu, nhưng người ta không muốn nhận sứ điệp ấy từ Ngài. Vì sao? Vì Ngài là con ông Giuse! Họ thấy trước đây Ngài làm nghề thợ mộc như ai, cha mẹ bình thường như họ, vì thế họ đâm ra hoài nghi và đòi Ngài làm phép lạ như đã làm ở Capharnaum. Ngài thấy họ không có lòng tin nên không làm cho họ phép lạ nào.

Thế là từ sự thán phục, thình lình đổi sang ghen tức. Họ ghen tức và trách Ngài tại sao không làm phép lạ nào nơi quê hương mà lại làm ở Capharnaum chỉ cách đó có 30 km! Nhưng Đức Giêsu đã “đi guốc trong bụng họ”, Ngài biết họ đang nghĩ gì, nên Ngài nói đón đầu ngay: “Có lẽ các ông muốn mượn câu ngạn ngữ: Hỡi thầy thuốc hãy chữa lấy mình” và các ông đòi tôi làm những việc hiển hách ở quê hương trước các nơi khác. Nhưng tôi bảo cho các ông biết: Không một tiên tri nào được đón tiếp tại quê hương mình”.

Ngài đem câu ngạn ngữ đó ra để chứng minh cho thái độ của Ngài. Vì trước đây tiên tri Êlia được sai đến cùng bà goá ở Sarepta làm cho hũ bột của bà không vơi đi, bình dầu không bao giờ cạn. Và tiên tri Êlisê được sai đến cùng ông Naaman, người Syria, khiến ông được khỏi bệnh cùi. Còn người Nazareth cứng lòng thì Ngài không làm phép lạ. Vả lại, Ngài cũng cho họ thấy họ có thể bị loại để nhường chỗ cho dân ngoại, là những dân có thiện chí và ngay thẳng hơn họ.

Họ đã hiểu hai ví dụ trên ám chỉ về họ, nên họ nổi giận, lòng đầy căm phẫn trục xuất Ngài ra khỏi thành, và còn định dẫn Ngài lên triền núi và xô Ngài xuống vực cho chết quách đi. Đây là sự tiên báo số phận sau cùng của Đức Giêsu. Ngài bị giết bên ngoài thành (Lc 20,15; Cv 7,57).

III. THỰC HÀNH SỨ MẠNG TIÊN TRI

1. Chúng ta cũng làm tiên tri

Nhà thần học Karl Rahner của thế kỷ 20 viết: “… Chính bản thân Giáo hội là sự hiện diện vĩnh cửu của Lời tiên tri, Đức Giêsu Kitô”. Bởi thế Giáo hội phải tiếp tục nhiệm vụ tiên tri, nói lên tiếng nói của Thiên Chúa. Điều này luôn luôn là một thách đố lớn trong mọi thời đại, cho từng người Kitô hữu. Giáo hội thật khôn ngoan khi sắp xếp bài đọc của thánh Phaolô, vị Tông đồ dân ngoại muốn dạy chúng ta về đức “Ái”, dạy chúng ta đừng cay đắng cáu kỉnh khi người khác không đồng ý với niềm tin của mình. Ngược lại, Giáo hội dạy chúng ta tiếp tục can đảm làm nhân chứng, làm tiên tri qua lời nói và việc làm.

Người tín hữu chúng ta hôm nay cũng được kêu mời sống, làm tiên tri cho Đức Giêsu, trở thành một dung mạo của Ngài. Chúng ta hãy nhớ cho chỉ có Chúa mới ban đức tin cho chúng ta, đây là một ơn nhưng không. Chính Ngài đã có kế hoạch riêng cho từng người, còn kết quả thành hay bại là do từng người chúng ta quyết định. Biết bao lần ta được nghe Ngài, hay Giáo hội của Ngài nhắc nhở, thế nhưng chúng ta vẫn sợ thiên hạ hơn sợ các giáo huấn của Ngài. Đến nỗi nhiều người không dám làm một việc tuyên xưng đức tin dù đơn giản như không dám làm dấu thánh giá trước mặt người ta…

2. Những việc cần tránh

a) Tránh thành kiến

Thành kiến hay định kiến là ý kiến đã có lâu không thể thay đổi được. Thành kiến là một chứng bệnh di truyền kinh niên bất trị của con người, không ai thoát khỏi: “Bụt nhà không thiêng”. Chúng ta hằng to tiếng lên án cái lối sống phô trương bên ngoài. Nhưng trên thực tế, chúng ta lại hằng căn cứ vào những cái bên ngoài mà đánh giá thiên hạ. Cũng một câu văn, một lời nói, một việc làm do người này thì có giá trị, do người kia thì vô duyên, do người này thì hay đáo để, do người kia thì dở vô cùng.

Đứng trước thái độ khinh khi đó, Đức Giêsu đã cho người Nazareth thấy rằng tiên tri không bao giờ được tôn trọng trên chính quê hương mình. Xét về mặt tâm lý, điều này thật chính xác. Bởi sự thường cho dù một người có tài năng, giúp ích và phục vụ rất hiệu quả cho nhiều người, nhiều nơi, nhưng khi trở về gia đình, trở về nơi sinh trưởng của mình, thì lại bị những người bà con xóm giềng chỉ xem ở “mức độ thường thường”, do ảnh hưởng điều mà chúng ta vẫn thường gọi: “Gần chùa gọi bụt bằng anh”. Đức Giêsu không nằm ngoài sự thường này.                                            Truyện: Sư huynh hỗn xược

Ở Canada, trong tỉnh Québec, một sư huynh dòng Thiện giáo (Frères de l’Enseignement Chrétien) giáo viên trường trung học Alma, vừa xuất bản một cuốn sách bàn về đường lối giáo dục, nhan đề “Những sự hỗn xược của một sư huynh” (Les Insolences du Frère Un Tel). Tác giả đã khéo áp dụng một lối văn châm biếm, trào phúng nhí nhảnh, làm cho quyển sách được đệ nhất ăn khách trong năm. Chỉ trong vòng một tháng trời thôi, sách đã bán ra được một số kỷ lục là 30.000 cuốn.

Một hôm trường Đại học Công giáo Montréal bỗng nhộn nhịp hẳn lên như đàn ong vỡ tổ: Sư huynh Pierre Jérome, tác giả sách “Những sự hỗn xược” nói trên, sắp đến viếng trường. Toàn thể nhà trường náo động lên. Từ viện trưởng, các giáo sư, các sinh viên, cho đến anh gác cổng, đều hăng say phấn khởi tổ chức cuộc tiếp rước.

Vị thượng khách đã từ từ tiến vào khung cảnh văn vật của trường Đại học, giữa một cuộc khải hoàn trọng thể vĩ đại. Sau đó, Sư huynh đã lộng lẫy ung dung bước lên diễn đàn ngỏ lời cùng 650 giáo sư và sinh viên.

Diễn giả đã thao thao bất tuyệt một thôi, lả lướt như rồng bay phượng múa, như hoa nở suối reo. Những tràng pháo tay nổ vang lên liên tiếp, liên tiếp, chứng tỏ các thính giả được kích thích đến tột độ.

Cả trường Đại học Montréal hôm đó như rượu nếp lên men. Trong lịch sử trường đã bao giờ có sự phấn khởi nô nức phấn khởi như lần này chưa? Tác giả “Những sự hỗn xược” sao mà huy hoàng trác tuyệt đến thế?

… Nhưng sáng ngày hôm sau, họ đã phải một phen hú vía, tưởng chừng hồn lìa khỏi xác. Có người đến tiết lộ rằng sư huynh Pierre Jérome hôm qua chỉ là một sư huynh… thứ giả! Chàng là một sinh viên quèn của trường Kịch nghệ, cải trang trong bộ áo dòng và cổ trắng của các Sư huynh… để thực tập một phen! Cả trường uất lên, tưởng ai nấy hộc máu chết tươi tại chỗ trước “sự hỗn xược của một sư huynh” chưa từng thấy. Thế mới hay sức ám thị của những người có tên tuổi mãnh liệt đến chừng nào (Lm. Vũ Minh Nghiễm, Sống sống, 1971, tr 337-339).

b) Tránh thói vị kỷ

Phần đầu bài giảng bữa trước đã được những người đồng hương nhiệt liệt khen ngợi: “Mọi người đều tán thành và thán phục những lời hay ý đẹp thốt ra từ miệng Ngài”. Nhưng trong bài Tin mừng hôm nay, Đức Giêsu áp dụng bài giảng của Ngài, để chứng tỏ cho người Do thái thấy rằng chương trình cứu độ của Thiên Chúa cũng bao gồm cả những dân ngoại. Để chứng minh, Ngài đã dùng câu chuyện của tiên tri Êlia đang bị đói và người đàn bà goá đã giúp ông lại là một người dân xứ Siđon. Thời tiên tri Êlisê, những người cùi Do thái đã không được chữa lành mà là một người cùi dân ngoại, ông Naaman, xứ Syria. Điều này làm cho họ giận dữ.

Đức Giêsu không muốn cho dân đồng hương của Ngài có đặc quyền hưởng ơn cứu độ của Thiên Chúa mà Ngài muốn cho mọi người, kể cả dân ngoại cũng được hưởng. Ngài dạy họ hãy tránh thái độ ích kỷ, phải biết mở rộng lòng ra đối với mọi người. Thiên Chúa là Chúa của mọi người chứ không của một riêng ai hay của một dân tộc nào.

Truyện: Thái độ ích kỷ

Xưa kia có một bà nông dân dữ tợn. Khi bà chết chẳng để lại một việc lành phúc đức nào, do đó ma quỉ chờ lệnh của Thiên Chúa đưa bà xuống hỏa ngục để dìm vào trong hồ lửa. Nhưng thiên thần bản mệnh vẫn đứng bên cạnh bà, cố gắng suy nghĩ, may ra tìm được một việc lành nào do bà đã làm để bầu cử cho bà trước toà Thiên Chúa. Sau cùng, thiên thần nhớ ra một điều: nó không lớn lắm, nhưng là điều thiên thần có thể đưa ra biện minh trước Thiên Chúa. Thiên thần nói với Thiên Chúa:

- Xưa kia, bà đã nhổ một cọng hành trong vườn của bà và đem cho một người ăn xin nghèo khó.

Thiên Chúa trả lời:

- Được lắm. Hãy lấy cọng hành, để bà bám chặt vào nó, rồi kéo bà lên thiên đàng. Nếu thiên thần kéo bà lên được, hãy cho bà vào thiên đàng. Còn nếu cọng hành bị đứt, bà ấy sẽ ở dưới hỏa ngục muôn đời.

Thiên thần đưa cho bà cọng hành:

- Nào, mau lên! Hãy nắm chặt lấy nó để ta kéo ngươi lên thiên đàng.

Và thiên thần kéo rất cẩn thận. Vừa kéo bà lên được một chút, những người tội lỗi khác nhìn thấy bèn cố gắng giành nhau bám vào chân của bà, để họ cũng sẽ được cứu thoát. Nhưng người đàn bà đã vùng vẫy dữ dội, đá họ văng ra, đồng thời la hét rằng:

- Ta đã được cứu chứ không phải các ngươi. Đây là cọng hành của ta, không phải của các ngươi.

Ngay khi bà vùng vẫy la hét như vậy, cọng hành đã bị đứt, và bà bị rơi xuống hồ lửa. Vị thiên thần bản mạnh chỉ thương tiếc cho thân phận của bà rồi quay bước ra đi mà thôi (Nguyễn Văn Thái, Sống lời Chúa giữa dòng đời, năm C, tr 74).

3. Những việc cần làm

Hãy nhớ lại lời Chúa: “Không tiên tri nào được kính trọng nơi quê hương mình”. Số phận của tiên tri là thế đó. Làm tiên tri không phải là chuyện dễ. Phức tạp lắm! Một đàng phải nói lời Chúa một cách trung thực, một đàng lời Chúa không mấy êm tai dễ nghe vì vạch những cái xấu của họ ra. Nhưng đã là tiên tri thì phải nói lời Chúa và đồng thời cũng phải nhận những đau khổ mà người nghe dành cho kẻ làm tiên tri.

Chính Đức Giêsu đã nêu gương cho chúng ta trước. Ngài từng bảo các môn đệ: “Nếu thế gian ghét các con, thì hãy nhớ rằng họ đã ghét Thầy trước… Đầy tớ không lớn hơn chủ mình. Nếu họ đã bắt bớ Thầy, thì họ cũng sẽ bắt bớ các con” (Ga 15,18-20). Bất cứ ai sống đúng là Kitô hữu sẽ hiểu được những lời nói trên chân thực thế nào.

Làm tiên tri nhiều khi phải lội ngược dòng, không thể sống theo phong trào, sống theo dư luận hay theo chủ trương của một số người nào, mà phải sống theo chân lý, sống theo lời Chúa qua Sách thánh hay qua lời giáo huấn của Giáo hội. Chính cách sống như thế làm cho người làm tiên tri cảm thấy lẻ loi, lạc lõng và đau khổ giữa những người khác. Có những người không dám tuyên xưng đức tin như không dám làm dấu thánh giá trong quán cơm, trong sở làm. Có người không dám khước từ để không đến những nơi gặp dịp tội như sòng bài, quán rượu, quán karaokê… Có người không dám giữ mình trong tiệc vui giữa những bạn đang “quậy” tứ tung…

Người làm tiên tri cũng đừng đòi Chúa làm phép lạ khi gặp sự khó khăn. Chúng ta muốn có một Thiên Chúa tỏ mình ra thêm chút nữa, một Thiên Chúa giải quyết những vấn đề của chúng ta thay cho chúng ta. Vả lại, Thiên Chúa không thích vai trò mà chúng ta ép Ngài làm. Thiên Chúa không thích điều ngoại lệ, kỳ diệu và ly kỳ… Khi Ngài chữa lành một người mù, không phải để làm cho chúng ta kinh ngạc mà để ám chỉ cho chúng ta biết rằng: Ngài muốn chữa sự mù lòa vốn có của tất cả chúng ta. Khi chữa lành một người bị liệt nằm trên cáng, vì Ngài muốn chữa lành mọi người chúng ta khỏi bệnh liệt còn nặng hơn nhiều là tội lỗi chúng ta. Điều đó được nói rõ ràng trong Tin mừng (Lc 5,17-26).

Chúng ta là Kitô hữu được kêu gọi làm tiên tri của Chúa Cha cho thời đại chúng ta, cũng như Đức Giêsu từng là tiên tri của Chúa Cha cho thời đại của Ngài. Đây chính là sứ vụ mà chúng ta lãnh nhận khi chịu phép rửa tội và thêm sức. Chúng ta hãy lặp lại lời thánh Phaolô: “Người Kitô hữu chúng ta được Chúa kêu gọi để tỏa sáng như các vì sao giữa lòng thế giới tối tăm này” (Pl 2,15).

Chúng ta hãy kết thúc với lời cầu nguyện nói lên cảm nghĩ của bất cứ ai đã từng cố gắng trung thành bước theo Chúa Giêsu: “Lạy Chúa, xin ban cho chúng con tình yêu của Chúa, vì đôi khi chúng con bị cám dỗ căm thù đám người ruồng rẫy chúng con. Lạy Chúa, xin ban cho chúng con sức mạnh của Chúa, vì đôi khi chúng con như muốn ngã lòng trước những cảnh ngộ gai góc. Lạy Chúa, xin ban cho chúng con lòng dũng cảm, vì đôi khi chúng con như muốn đầu hàng trước những gánh quá nặng đè lên chúng con. Xin giúp chúng con là muối ướp mọi người, là đèn soi thế giới. Xin giúp chúng con tỏa sáng như những vì sao trong thế giới tăm tối này” (M. Link).

 

4. Suy niệm (Lm. Antôn Nguyễn Cao Siêu, S.J.)

HÃY LÀM TẠI QUÊ ÔNG

Khi đọc bài Tin mừng hôm nay,

chúng ta sửng sốt vì thấy sự thay đổi mau chóng

của những người trong hội đường ở Nadarét.

Họ đi từ thán phục trước lời giảng của Đức Giêsu

đến chỗ phẫn nộ và muốn xô Ngài xuống vực.

Đâu là lý do gây ra sự thay đổi đột ngột như thế?

Tại sao dân làng Nadarét lại muốn làm hại Đức Giêsu?

“Ông này không phải là con trai ông Giuse đó sao?”

Đây là một câu hỏi, chờ một câu trả lời: “Đúng vậy!”

Mọi người trong hội đường đã tập trung vào Đức Giêsu,

đã chăm chú lắng nghe lời Ngài giải thích lời ngôn sứ Isaia.

Và họ đều ngỡ ngàng thán phục trước những lời ân sủng.

Lòng họ rất vui khi nghe Đức Giêsu long trọng tuyên bố:

“Hôm nay, ứng nghiệm lời Kinh Thánh quý vị vừa nghe.”

Như thế Ngài nhận mình là vị ngôn sứ được Isaia nói đến.

Ngài sẽ khai mở một Năm Toàn Xá, Năm của Tin mừng,

Năm của Tự do và Giải thoát cho những ai bị trói buộc.

Chắc có những người nghe đã tin Đức Giêsu là ngôn sứ.

Một vị ngôn sứ được Chúa cho xuất hiện ở làng Nadarét,

đây quả là niềm vui bất ngờ và là niềm hãnh diện cho làng,

một ngôi làng xưa nay ít được ai nhắc đến.

Nhưng nếu Ông Giêsu, con ông Giuse, là người làng của họ,

thì ông phải thuộc về làng này,

phải ưu tiên phục vụ cho người dân ở đây.

Đức Giêsu biết những gì đang diễn ra trong lòng của họ.

Ngài nghĩ họ sẽ nói: “Thầy lang ơi, hãy chữa lấy mình!”

Ông Giêsu ơi! hãy chữa cho người làng của mình trước đã.

Hãy làm cho dân ở đây những gì Ông đã làm ở Caphácnaum.

Đừng quên quê của Ông là Nadarét.

Hãy ở lại đây với chúng tôi, và lo cho chúng tôi.

Dĩ nhiên Đức Giêsu không thể chiều ý họ,

vì chương trình hành động của Ngài có tính phổ quát,

không bị giới hạn bởi một nhóm hay vùng miền nào.

Ngài biết dân làng sẽ phản ứng và chống đối

nếu Ngài từ chối ý muốn của họ,

nhưng Ngài phải theo ý Đấng đã sai Ngài.

Đức Giêsu biết thân phận muôn đời của một ngôn sứ:

“Không ngôn sứ nào được chấp nhận tại quê của mình.”

Khi công bố lời của ngôn sứ Isaia ở hội đường Nadarét,

Đức Giêsu đâu chỉ nghĩ đến làng quê của mình.

Ngài cũng đâu chỉ giới hạn trong dân của mình là Ítraen.

Tầm nhìn và sứ mạng của Ngài là toàn thế giới,

trong đó có cả Dân Ngoại khắp tứ phương.

Ngài biết Dân Ngoại có chỗ trong trái tim Thiên Chúa.

Đức Giêsu kể hai chuyện về những người dân ngoại,

qua đó Ngài coi mình như một ngôn sứ giống với Êlia, Êlisa.

Êlia đã được sai đến với bà góa ngoại giáo vùng Xi-đôn.

Ông đã cho bà này được no đủ trong suốt thời hạn hán.

Êlisa đã chữa bệnh phong cho tướng Na-a-man người Xyri.

Viên tướng này đã được khỏi bệnh nhờ tắm ở sông Giođan.

Dân Ngoại cũng có chỗ trong tim Đức Giêsu.

Sau này Ngài sẽ chữa cho anh nô lệ của viên sĩ quan Rôma,

cho người bị quỷ ám ở vùng dân ngoại (Lc 7,1-10; 8,26-39).

Ngài ca ngợi người Samari tốt lành (Lc 10,29-37),

và người phong vùng Samari trở lại tạ ơn (Lc 17,11-19).

Bữa tiệc cánh chung gồm người từ bốn phương thiên hạ.

Dân làng Nadarét bị mất một cơ hội bằng vàng,

khi Đức Giêsu trở lại thăm họ.

Người làng cũng là ngôn sứ, là Kitô, là Con Thiên Chúa,

và cũng là chính Thiên Chúa Ngôi Lời làm người.

Chính khi họ muốn giữ Ngài cho mình thì họ mất Ngài.

Xin cho chúng ta để Chúa Giêsu là Chúa của mọi người.

LỜI NGUYỆN

Lạy Chúa,

Nếu con cứ mãi bực bội

vì một lời nói thiếu tế nhị,

nếu con cứ nuôi cơn giận

vì một hành vi khiếm nhã,

thì tim con chẳng được bình an.

Nếu con cứ dằn vặt mình

vì một điều mình va vấp,

nếu con không sao chịu nổi

những sai sót của bản thân,

thì tim con chẳng được bình an.

Nếu con ưu tư phiền muộn

vì những yếu đuối của mình,

nếu con cay đắng ghen tỵ

vì những thành công của người khác,

thì tim con mãi mãi chẳng được bình an.

Lạy Chúa,

bình an là một ơn rất lớn,

vậy mà con thường dễ dàng đánh mất

chỉ vì những chuyện không đâu.

Xin giải thoát con khỏi cái tôi nặng nề,                                                

để lòng con nhẹ nhàng thanh thản.

Xin cho tim con vui trở lại

Và chữa con khỏi mọi tổn thương.

Top