Chúa nhật 30 Thường niên năm A - Yêu thương (Mt 22,34-40)

Chúa nhật 30 Thường niên năm A - Yêu thương (Mt 22,34-40)

Chúa nhật 30 Thường niên năm A - Yêu thương (Mt 22,34-40)

Đức Giê-su đáp: “Ngươi phải yêu mến Đức Chúa,
Thiên Chúa của ngươi, hết lòng,
hết linh hồn và hết trí khôn ngươi
.
(Mt 22,37)

BÀI ĐỌC I: Xh 22, 21-27 (Hr 20-26)

“Nếu các ngươi hà hiếp các cô nhi quả phụ, Ta sẽ nổi giận các ngươi”.

Trích sách Xuất Hành.

Đây Chúa phán: “Ngươi chớ làm phiền lòng và ức hiếp khách ngoại kiều: vì các ngươi cũng là khách ngoại kiều ngụ trong đất Ai-cập. Các ngươi đừng làm hại cô nhi quả phụ. Nếu các ngươi hà hiếp những kẻ ấy, họ sẽ kêu thấu đến Ta, và chính Ta đã nghe tiếng họ kêu van. Ta sẽ nổi cơn thịnh nộ, sẽ dùng gươm giết các ngươi, vợ các ngươi sẽ phải goá bụa, và con cái các ngươi sẽ phải mồ côi.

“Nếu ngươi cho người nghèo khó nào trong dân cùng định cư với ngươi mượn tiền, thì ngươi chớ hối thúc nó như kẻ đặt nợ ăn lãi quen làm, và chớ bắt nó chịu lãi nặng. Nếu ngươi nhận áo sống của người láng giềng cầm cố, ngươi hãy trả lại cho kẻ ấy trước khi mặt trời lặn: vì nó chỉ có một áo ấy che thân, và không còn chiếc nào khác mặc để ngủ; nếu kẻ ấy kêu van đến Ta, Ta sẽ nhậm lời nó, vì Ta là Đấng thương xót”.  

Đó là Lời Chúa.

ĐÁP CA: Tv 17, 2-3a. 3bc-4. 47 và 51ab

Đáp: Lạy Chúa là dũng lực con, con yêu mến Chúa (c. 2).

Xướng:

1) Lạy Chúa là dũng lực con, con yêu mến Chúa, lạy Chúa là Đá Tảng, chiến luỹ, cứu tinh. - Đáp.

2) Lạy Chúa là Thiên Chúa, là sơn động chỗ con nương mình, là khiên thuẫn, là uy quyền cứu độ, là sức hộ phù con. Con xướng ca ngợi khen cầu cứu Chúa, và con sẽ được cứu thoát khỏi tay quân thù. - Đáp.

3) Chúa hằng sống, chúc tụng Đá Tảng của con, tán tụng Thiên Chúa là Đấng cứu độ con. Ngài đã ban cho vương nhi Ngài đại thắng, đã tỏ lòng từ bi với Đấng được xức dầu của Ngài. - Đáp.

BÀI ĐỌC II: 1 Tx 1, 5c-10

“Anh em đã bỏ tà thần trở về với Thiên Chúa để phụng sự Người và để trông đợi Con của Người”.

Trích thư thứ nhất của Thánh Phaolô Tông đồ gửi tín hữu Thêxalônica.

Anh em thân mến, khi chúng tôi còn ở giữa anh em, anh em biết chúng tôi sống thế nào vì anh em. Và anh em đã noi gương chúng tôi và noi gương Chúa, đã nhận lấy lời rao giảng giữa bao gian truân, với lòng hân hoan trong Thánh Thần, đến nỗi anh em đã nên mẫu mực cho mọi kẻ tin đạo trong xứ Macêđônia và Akaia.

Vì từ nơi anh em, Tin mừng vang dội không những trong xứ Macêđônia và Akaia, mà còn trong mọi nơi; lòng tin của anh em vào Thiên Chúa đã quá rõ rồi, đến nỗi chúng tôi không còn nói thêm làm gì nữa. Vì người ta thuật lại việc chúng tôi đã đến với anh em thế nào, và anh em đã bỏ tà thần trở về với Thiên Chúa làm sao để phụng thờ Thiên Chúa hằng sống và chân thật, để trông đợi Con của Người từ trời mà đến, “Đấng mà Người đã làm cho từ cõi chết sống lại”, là Đức Giêsu, Đấng đã giải thoát chúng ta khỏi cơn thịnh nộ sắp đến.  

Đó là Lời Chúa.

Tin mừng: Mt 22,34-40

34 Khi nghe tin Đức Giê-su đã làm cho nhóm Xa-đốc phải câm miệng, thì những người Pha-ri-sêu họp nhau lại. - 35 Rồi một người thông luật trong nhóm hỏi Đức Giê-su để thử Người rằng: 36 Thưa Thầy, trong sách Luật Mô-sê, điều răn nào là điều răn trọng nhất ?” 37 Đức Giê-su đáp: “Ngươi phải yêu mến Đức Chúa, Thiên Chúa của ngươi, hết lòng, hết linh hồn và hết trí khôn ngươi. 38 Đó là điều răn quan trọng nhất và điều răn thứ nhất. 39 Còn điều răn thứ hai, cũng giống điều răn ấy, là: “ Ngươi phải yêu người thân cận như chính mình. 40 Tất cả Luật Mô-sê và các sách ngôn sứ đều tuỳ thuộc vào hai điều răn ấy.”


Bài giảng của linh mục Ignatio Hồ Văn Xuân

Giáo lý cho bài giảng Chúa nhật 30 Thường niên năm A:

 

WHĐ (27.10.2023) - Để hỗ trợ các nhà giảng thuyết thuận tiện hơn trong việc thêm giáo lý vào bài giảng, Ban Biên tập xin được trích dẫn những điểm giáo lý phù hợp với các bài đọc Kinh Thánh của các lễ Chúa nhật, lễ trọng theo sự theo hướng dẫn của Bộ Phụng tự và Kỷ luật các Bí tích trong Tập sách Hướng dẫn giảng thuyết được công bố qua Sắc lệnh ký ngày 29.06.2014.


Số 2052-2074: Mười Điều Răn được giải thích qua tình yêu song hành “mến Chúa, yêu người”

Số 2061-2063: Đời sống luân lý như sự đáp lại sáng kiến tình yêu của Thiên Chúa

Bài Ðọc I: Xh 22, 21-27

Bài Ðọc II: 1 Tx 1, 5c-10

Phúc Âm: Mt 22, 34-40

 

Số 2052-2074: Mười Điều Răn được giải thích qua tình yêu song hành “mến Chúa, yêu người”

“Thưa Thầy, tôi phải làm gì...?”

2052. “Thưa Thầy, tôi phải làm điều gì tốt để được hưởng sự sống đời đời ?” Để trả lời cho người thanh niên đặt câu hỏi, Chúa Giêsu nêu lên trước tiên sự cần thiết phải nhận biết Thiên Chúa như “Đấng tốt lành mà thôi”, như Điều Thiện tuyệt hảo và như nguồn mạch của mọi điều tốt lành. Rồi Chúa Giêsu tuyên bố với người đó: “Nếu anh muốn vào cõi sống, thì hãy giữ các điều răn”. Và Người liệt kê các điều răn về tình yêu đối với người lân cận: “Ngươi không được giết người, ngươi không được ngoại tình, ngươi không được trộm cắp, ngươi không được làm chứng gian, ngươi phải thờ cha kính mẹ”. Sau cùng, Chúa Giêsu tóm tắt các điều răn kể trên một cách tích cực rằng: “Ngươi phải yêu đồng loại như yêu chính mình” (Mt 19,16-19).

2053. Chúa Giêsu còn thêm vào câu trả lời đầu tiên: “Nếu anh muốn nên hoàn thiện, thì hãy đi bán tài sản của anh và đem cho người nghèo, anh sẽ được một kho tàng trên trời; rồi hãy đến theo tôi” (Mt 19,21). Câu trả lời này không hủy bỏ câu trả lời trước. Muốn đi theo Đức Kitô, phải tuân giữ các điều răn. Luật cũ không bị bãi bỏ[1], nhưng con người được mời gọi tìm thấy lại Lề luật nơi con người của Thầy mình, Đấng chu toàn Lề luật cách trọn hảo. Trong ba Tin Mừng Nhất Lãm, lời kêu gọi của Chúa Giêsu ngỏ với anh thanh niên giàu có, để đi theo Người với lòng vâng phục của người môn đệ và tuân giữ các điều răn, còn được kết hợp với lời kêu gọi sống nghèo khó và khiết tịnh[2]. Các lời khuyên Phúc Âm không thể bị tách biệt khỏi các điều răn.

2054. Chúa Giêsu đã lấy lại mười điều răn, nhưng Người đã biểu lộ sức mạnh của Thần Khí đang tác động nơi các mặt chữ ấy; Người đã rao giảng sự công chính “vượt trên sự công chính của các kinh sư và những người Pharisêu”[3], cũng như sự công chính của các dân ngoại[4]. Người cho thấy tất cả những đòi hỏi của các điều răn. “Anh em đã nghe luật dạy người xưa rằng: chớ giết người... Còn Thầy, Thầy bảo cho anh em biết: Ai giận anh em mình, thì đáng bị đưa ra tòa” (Mt 5,21-22).

2055. Khi người ta đặt cho Người câu hỏi: “Điều răn nào là điều răn trọng nhất?” (Mt 22,36), Chúa Giêsu đáp: “Ngươi phải yêu mến Chúa, Thiên Chúa của ngươi, hết lòng, hết linh hồn và hết trí khôn ngươi: đó là điều răn quan trọng nhất và điều răn thứ nhất. Còn điều răn thứ hai, cũng giống điều răn ấy, là: Ngươi phải yêu người thân cận như chính mình. Tất cả Lề Luật và các sách ngôn sứ đều tùy thuộc vào hai điều răn ấy” (Mt 22,37-40)[5]. Mười Điều Răn phải được giải thích dưới ánh sáng của điều răn, tuy hai nhưng là một, là đức mến, đó là sự viên mãn của Lề Luật:

“Các điều răn như: Ngươi không được ngoại tình, không được giết người, không được trộm cắp, không được ham muốn, cũng như các điều răn khác, đều tóm lại trong lời này: Ngươi phải yêu người thân cận như chính mình. Đã yêu thương thì không làm hại người đồng loại, yêu thương là chu toàn Lề Luật vậy” (Rm 13, 9-10).

Mười Điều Răn trong Thánh Kinh

2056. Từ “Decalogus” theo sát mặt chữ có nghĩa là “Mười lời” (Xh 34,28; Đnl 4,13; 10,4). “Mười lời” này Thiên Chúa đã mạc khải cho dân Ngài trên núi thánh. Ngài đã viết “Mười lời” này “tự ngón tay Ngài”[6], khác với các mệnh lệnh khác do ông Môisen viết[7]. Mười lời này, theo một nghĩa rất đặc biệt, làm thành những lời của Thiên Chúa. Những lời đó được lưu truyền cho chúng ta trong sách Xuất Hành[8] và sách Đệ Nhị Luật[9]. Từ thời Cựu Ước, các Sách Thánh luôn quy chiếu về “Mười lời”[10], nhưng trong Tân Ước ý nghĩa đầy đủ của những lời đó sẽ được mạc khải nơi Chúa Giêsu Kitô.

2057. Trước hết, Mười Điều Răn phải được hiểu trong bối cảnh của cuộc Xuất Hành, là biến cố giải phóng vĩ đại của Thiên Chúa, ở trung tâm của Giao Ước cũ. Dù được viết với tính cách những mệnh lệnh tiêu cực, những cấm đoán, hay với tính cách những mệnh lệnh tích cực (như “ngươi hãy tôn kính cha ngươi và mẹ ngươi”), “Mười lời” chỉ ra những điều kiện cho một đời sống đã được giải thoát khỏi ách nô lệ tội lỗi. Mười Điều Răn là con đường của sự sống:

“Anh (em) phải yêu mến Chúa, Thiên Chúa của anh (em), đi theo đường lối của Ngài, và tuân giữ các mệnh lệnh, thánh chỉ, quyết định của Ngài, để anh (em) được sống, được thêm đông đúc” (Đnl 30,16).

Sức mạnh giải thoát này của Mười Điều Răn xuất hiện, thí dụ trong điều răn nghỉ ngày sabat, áp dụng cho cả các ngoại kiều và các nô lệ:

“Ngươi hãy nhớ, ngươi đã làm nô lệ tại đất Ai cập, và Chúa, Thiên Chúa của ngươi, đã dang cánh tay mạnh mẽ, uy quyền đưa ngươi ra khỏi đó” (Đnl 5,15).

2058. “Mười lời” tóm tắt và công bố Lề Luật của Thiên Chúa: “Những lời ấy, Chúa đã phán với toàn thể đại hội anh em, trên núi, từ trong đám lửa, giữa mây đen mù mịt, Ngài nói lớn tiếng và không thêm gì cả. Ngài đã viết những lời ấy trên hai bia đá, và ban cho tôi” (Đnl 5,22). Vì vậy, hai bia này được gọi là “Chứng Ước” (Xh 25,16). Những bia đó chứa đựng các điều khoản của Giao Ước đã được ký kết giữa Thiên Chúa và dân Ngài. Các “Bia Chứng Ước” (Xh 31,18; 32,15; 34,29) này phải được đặt vào “Hòm Bia” (Xh 25,16; 40,1-2).

2059. “Mười lời” được Thiên Chúa công bố trong một cuộc thần hiện (“Chúa đã phán với anh em, mặt đối mặt, trên núi, từ trong đám lửa”: Đnl 5,4). Mười lời này thuộc về mạc khải, Thiên Chúa tỏ cho biết về chính Ngài và về vinh quang của Ngài. Khi ban các điều răn, Thiên Chúa ban tặng chính mình Ngài và thánh ý của Ngài. Khi tỏ cho biết các thánh ý Ngài, Thiên Chúa mạc khải chính mình cho dân Ngài.

2060. Việc ban tặng các điều răn và Lề Luật là thành phần của Giao Ước được ký kết bởi Thiên Chúa với dân Ngài. Theo sách Xuất Hành, việc mạc khải “Mười lời” được ban giữa việc chuẩn bị lập giao ước[11] và việc kết thúc giao ước[12] – sau khi dân đã cam kết “thi hành” điều Chúa phán và “tuân phục” điều đó[13]. Mười Điều Răn chỉ được lưu truyền sau khi nhắc nhớ đến Giao Ước. (“Chúa, Thiên Chúa chúng ta, đã lập một Giao Ước với chúng ta tại núi Horeb”: Đnl 5,2).

2061. Các điều răn nhận được ý nghĩa đầy đủ của nó trong Giao Ước. Theo Thánh Kinh, cách hành động theo luân lý của con người có được đầy đủ ý nghĩa của nó trong và nhờ Giao Ước. Điều thứ nhất của “Mười lời” nhắc lại rằng chính Thiên Chúa đã yêu thương dân Ngài trước:

“Chính vì hình phạt tội lỗi là sự kiện chuyển từ địa đàng của sự tự do sang tình trạng nô lệ của trần gian này, mà câu đầu tiên của Mười Điều Răn, lời thứ nhất của các lệnh truyền của Thiên Chúa, nói đến tự do: ‘Ta là Chúa, Thiên Chúa của ngươi, đã đưa ngươi ra khỏi Ai cập, khỏi cảnh nô lệ’ (Xh 20,2; Đnl 5,6)”[14].

2062. Các điều răn theo nghĩa hẹp chỉ giữ vai trò thứ yếu; chúng diễn tả những hệ luận của việc con người thuộc về Thiên Chúa như Giao Ước quy định. Đời sống luân lý là lời đáp cho khởi xướng đầy yêu thương của Chúa. Đó là sự nhận biết, sự suy phục Thiên Chúa và thờ phượng tạ ơn. Đó là sự cộng tác vào dự định mà Thiên Chúa đang theo đuổi trong lịch sử.

2063. Giao Ước và cuộc đối thoại giữa Thiên Chúa với con người cũng được xác nhận qua sự kiện là tất cả các bổn phận đều được phát biểu ở ngôi thứ nhất (“Ta là Chúa…”) và nói với một chủ thể khác (“Ngươi…”). Trong tất cả các điều răn của Thiên Chúa, đại từ nhân xưng ở số ít để chỉ người đón nhận. Khi bày tỏ thánh ý cho toàn dân, Thiên Chúa cũng đồng thời bày tỏ thánh ý của Ngài cho riêng từng cá nhân một:

“Chúa truyền dạy phải yêu mến Thiên Chúa và dạy giữ sự công bằng đối với người lân cận, để con người khỏi bất chính và bất xứng trước mặt Thiên Chúa. Như vậy, nhờ Mười Điều Răn, Thiên Chúa huấn luyện để con người sống trong tình bằng hữu với Ngài và hoà thuận với người lân cận…. Và vì vậy, những lời của Mười Điều Răn vẫn trường tồn đối với chúng ta (các Kitô hữu), những lời đó không bị hủy bỏ, nhưng được mở rộng và triển nở nhờ cuộc Ngự đến của Chúa trong xác phàm”[15].

Mười Điều Răn trong Truyền thống Hội Thánh

2064. Trung thành với Sách Thánh và theo gương Chúa Giêsu, Truyền thống Hội Thánh nhìn nhận Mười Điều Răn có tầm quan trọng và ý nghĩa hàng đầu.

2065. Từ thời thánh Augustinô, “Mười Điều Răn” đã có một vị trí quan trọng trong việc dạy giáo lý cho dự tòng và tín hữu. Vào thế kỷ XV, Mười Điều Răn quen được diễn tả bằng những công thức tích cực, theo văn vần, dễ nhớ, vẫn còn thông dụng ở nhiều nơi tới ngày nay. Các sách giáo lý của Hội Thánh thường trình bày luân lý Kitô giáo theo thứ tự của “Mười Điều Răn”.

2066. Việc phân chia và đánh số các điều răn có thay đổi theo dòng thời gian. Sách Giáo Lý này dựa theo cách phân chia của thánh Augustinô đã trở thành truyền thống trong Hội Thánh Công giáo. Các hệ phái Luther cũng theo cách phân chia này. Các Giáo phụ Hi lạp phân chia hơi khác; cách phân chia đó còn gặp thấy trong các Giáo Hội Chính thống và các cộng đoàn Cải cách.

2067. Mười Điều Răn nêu ra các đòi hỏi của lòng mến Chúa yêu người. Ba điều răn đầu đề cập đến tình yêu đối với Thiên Chúa, và bảy điều răn sau, đến tình yêu đối với người lân cận.

“Cũng như Chúa đã đúc kết tất cả Lề Luật và các Tiên tri vào trong hai điều răn của lòng yêu mến..., thì cũng vậy, Mười Điều Răn được ban trong hai bảng. Ba điều được khắc trên một bảng, và bảy điều trên bảng kia”[16].

2068. Công đồng Triđentinô dạy rằng: các Kitô hữu buộc phải giữ Mười Điều Răn, và người đã được công chính hóa cũng có bổn phận phải tuân giữ các điều răn ấy[17]. Công đồng Vaticanô II cũng khẳng định: “Các Giám mục vì là những vị kế nhiệm các Tông Đồ, nhận từ nơi Chúa... sứ vụ dạy dỗ muôn dân và rao giảng Tin Mừng cho mọi thụ tạo, để mọi người được cứu độ nhờ đức tin, Phép Rửa và việc chu toàn các Điều Răn”[18].

Tính thống nhất của Mười Điều Răn

2069. Mười Điều Răn tạo thành một tổng thể thống nhất không thể tách biệt. Mỗi “lời” quy chiếu về từng lời và về tất cả các lời khác; các lời tương thuộc lẫn nhau. Hai Bảng Luật soi sáng cho nhau, hợp thành một tổng thể thống nhất hữu cơ. Vi phạm một điều răn là vi phạm tất cả các điều răn khác[19]. Không thể tôn trọng người khác mà không chúc tụng Thiên Chúa, Đấng Tạo Hoá của họ. Không thể tôn thờ Thiên Chúa mà không yêu thương tất cả mọi người là thụ tạo của Ngài. Mười Điều Răn thống nhất đời sống đối thần với đời sống xã hội của con người.

Mười Điều Răn và luật tự nhiên

2070. Mười Điều Răn thuộc về mạc khải của Thiên Chúa; đồng thời dạy chúng ta biết nhân tính đích thực của con người. Mười Điều Răn làm sáng tỏ những bổn phận thiết yếu, do đó, một cách gián tiếp, cho thấy những quyền căn bản gắn liền với bản tính của nhân vị. Mười Điều Răn là một cách trình bày đặc sắc của “luật tự nhiên”:

“Từ nguyên thủy, Thiên Chúa đã ghi sâu trong lòng người các lệnh truyền của luật tự nhiên – mà nếu không thi hành thì không được cứu độ –. Sau đó Ngài chỉ cần nhắc lại các điều luật ấy cho họ. Đó chính là Mười Điều Răn”[20].

2071. Mười Điều Răn là mạc khải của Thiên Chúa, dù với lý trí con người có thể tự biết được, nhưng để hiểu biết đầy đủ và chắc chắn về các đòi hỏi của luật tự nhiên, loài người tội lỗi cần đến mạc khải này:

“Trong tình trạng tội lỗi, ánh sáng lý trí bị lu mờ và ý chí bị sai lệch, con người cần đến một trình bày đầy đủ về các điều khoản của Mười Điều Răn”[21].

Chúng ta biết được các điều răn của Thiên Chúa nhờ mạc khải thần linh được trình bày trong Hội Thánh và nhờ tiếng nói của lương tâm.

Tính bắt buộc của Mười Điều Răn

2072. Vì nêu lên những bổn phận căn bản của con người đối với Thiên Chúa và đối với người lân cận, Mười Điều Răn, trong nội dung chính yếu của nó, mạc khải những nghĩa vụ quan trọng. Mười Điều Răn, một cách căn bản, là bất biến và có giá trị bắt buộc mọi lúc và mọi nơi. Không ai có thể miễn chuẩn Mười Điều Răn, đã được Thiên Chúa ghi khắc trong trái tim con người.

2073. Việc tuân phục các điều răn cũng bao hàm những bắt buộc mà theo chất liệu tự nó là nhẹ. Chẳng hạn điều răn thứ năm cấm nhục mạ kẻ khác bằng lời nói; điều này không thể là một lỗi phạm nghiêm trọng nếu không do các hoàn cảnh hoặc ý hướng của người nói lời nhục mạ đó.

“Không có Thầy, anh em không làm gì được”

2074. Chúa Giêsu nói: “Thầy là cây nho, anh em là cành. Ai ở lại trong Thầy và Thầy ở lại trong người ấy, thì người ấy sinh nhiều hoa trái, vì không có Thầy, anh em chẳng làm gì được” (Ga 15,5). Hoa trái được nói đến trong lời này là sự thánh thiện của một đời sống được sinh sôi nảy nở nhờ kết hợp với Đức Kitô. Khi chúng ta tin vào Chúa Giêsu Kitô, chúng ta truyền thông các mầu nhiệm của Người và tuân giữ các điều răn của Người, thì chính Người là Đấng Cứu Độ đến trong chúng ta để yêu thương Cha Người và các anh em Người, cũng là Cha chúng ta và các anh em chúng ta. Nhờ Thần Khí, bản thân Chúa Giêsu trở thành quy luật sống động và nội tâm cho cách hành động của chúng ta. “Đây là điều răn của Thầy: anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em” (Ga 15,12).

 

Số 2061-2063: Đời sống luân lý như sự đáp lại sáng kiến tình yêu của Thiên Chúa

2061. Các điều răn nhận được ý nghĩa đầy đủ của nó trong Giao Ước. Theo Thánh Kinh, cách hành động theo luân lý của con người có được đầy đủ ý nghĩa của nó trong và nhờ Giao Ước. Điều thứ nhất của “Mười lời” nhắc lại rằng chính Thiên Chúa đã yêu thương dân Ngài trước:

“Chính vì hình phạt tội lỗi là sự kiện chuyển từ địa đàng của sự tự do sang tình trạng nô lệ của trần gian này, mà câu đầu tiên của Mười Điều Răn, lời thứ nhất của các lệnh truyền của Thiên Chúa, nói đến tự do: ‘Ta là Chúa, Thiên Chúa của ngươi, đã đưa ngươi ra khỏi Ai cập, khỏi cảnh nô lệ’ (Xh 20,2; Đnl 5,6)”[22].

2062. Các điều răn theo nghĩa hẹp chỉ giữ vai trò thứ yếu; chúng diễn tả những hệ luận của việc con người thuộc về Thiên Chúa như Giao Ước quy định. Đời sống luân lý là lời đáp cho khởi xướng đầy yêu thương của Chúa. Đó là sự nhận biết, sự suy phục Thiên Chúa và thờ phượng tạ ơn. Đó là sự cộng tác vào dự định mà Thiên Chúa đang theo đuổi trong lịch sử.

2063. Giao Ước và cuộc đối thoại giữa Thiên Chúa với con người cũng được xác nhận qua sự kiện là tất cả các bổn phận đều được phát biểu ở ngôi thứ nhất (“Ta là Chúa…”) và nói với một chủ thể khác (“Ngươi…”). Trong tất cả các điều răn của Thiên Chúa, đại từ nhân xưng ở số ít để chỉ người đón nhận. Khi bày tỏ thánh ý cho toàn dân, Thiên Chúa cũng đồng thời bày tỏ thánh ý của Ngài cho riêng từng cá nhân một:

“Chúa truyền dạy phải yêu mến Thiên Chúa và dạy giữ sự công bằng đối với người lân cận, để con người khỏi bất chính và bất xứng trước mặt Thiên Chúa. Như vậy, nhờ Mười Điều Răn, Thiên Chúa huấn luyện để con người sống trong tình bằng hữu với Ngài và hoà thuận với người lân cận…. Và vì vậy, những lời của Mười Điều Răn vẫn trường tồn đối với chúng ta (các Kitô hữu), những lời đó không bị hủy bỏ, nhưng được mở rộng và triển nở nhờ cuộc Ngự đến của Chúa trong xác phàm”[23].

Các bài giảng và huấn dụ của Đức Thánh Cha trong Chúa nhật 30 Thường niên năm A:

Đức Phanxicô:

25.10.2020 – Tình yêu Chúa và tha nhân là nền tảng của đời sống kitô hữu

29.10.2017 – “Giấc mơ” của Thiên Chúa về con người

26.10.2014 – Mầu nhiệm tình yêu duy nhất

 

1. Suy niệm (TGM Giuse Nguyễn Năng)

Suy niệm: Qua bài Tin Mừng hôm nay, Ðức Giêsu đã tóm tắt cả các giới luật quy về hai điều quan trọng: mến Chúa - yêu người. Phải yêu Chúa toàn vẹn con người chúng ta; và yêu tha nhân như chính mình. Trong tương quan với Chúa, nhiều khi chúng ta đến với Ngài để thỏa mãn nhu cầu của chúng ta mà thôi. Chúng ta tính toán với Chúa từng giây từng phút. Còn với anh em, chúng ta hẹp hòi, khó tha thứ. Lời Chúa hôm nay cật vấn chúng ta, chúng ta có suy nghĩ gì ?

Cầu nguyện: Lạy Chúa, xin dạy chúng con luôn ý thức rằng mọi sự đều là của chúa và tất cả những gì chúng con có đều do Chúa ban. Xin ban cho chúng con luôn nhận ra tình yêu của Chúa đối với chúng con, để chúng con biết đáp trả tình Chúa bằng trái tim yêu mến thâm sâu, và sống quảng đại chia sẻ tình thương Chúa cho những anh em đang cần chúng con giúp đỡ. Amen.

Ghi nhớ: “Ngươi hãy yêu mến Chúa là Thiên Chúa ngươi, và yêu thương kẻ khác như chính mình ngươi”.

 

2. Suy niệm (Lm. Carôlô Hồ Bạc Xái)

A. Phân tích (Hạt giống...)

Trả lời cho một luật sĩ hỏi “Giới răn nào trọng nhất ?”, Chúa Giêsu đưa ra hai giới răn mến Chúa và yêu người.

Đặc biệt, Ngài nói “Giới răn thứ hai cũng giống giới răn thứ nhất”, và “Toàn thể lề luật và các sách tiên tri đều tóm lại trong hai giới răn đó”.

B. Suy niệm (...nẩy mầm)

1. Những luật sĩ do thái rất thuộc luật và giữ luật rất kỹ, nhưng họ không biết đến cốt lõi của mọi khoản luật là yêu thương. Có thể chúng ta cũng thế: hằng ngày chăm chỉ giữ luật Giáo Hội và luật cộng đoàn, nhưng không có tình mến Chúa và yêu người. Nếu thế thì tất cả đều vô ích.

2. Có người nói yêu người khó hơn mến Chúa. Dĩ nhiên, vì con người không dễ thương bằng Chúa. Thế nhưng Chúa Giêsu đã coi giới răn thứ hai cũng bằng giới răn thứ nhất.

3. Nếu ai nói ‘tôi yêu mến Thiên Chúa’ mà lại ghét anh em mình, người ấy là kẻ nói dối, vì ai không yêu thương người anh em mà họ trông thấy thì không tể yêu mến Thiên Chúa mà họ không trông thấy. Đây là điều răn mà chúng ta đã nhận được từ Ngài: ai yêu mến Thiên Chúa thì cũng yêu thương anh em mình” (1 Ga 4,20-21)

4. Có một tác giả tưởng tượng câu chuyện sau:

Trên đường đi đến miền đất Chúa hứa, Abraham dựng một cái lều để nghỉ chân. Vừa ra khỏi lều, ngài thấy một người hành khất xin giúp đỡ. Động lòng thương, ngài mời người đó vào và làm tiệc thiết đãi. Trước khi ăn tiệc, ngài mời người hành khất cùng dâng lời chúc tụng cảm tạ Chúa. Nhưng vừa nghe thấy tiếng “Chúa”, người ăn mày liền nói lộng ngôn xúc phạm đến Chúa. Abraham nổi giận đuổi người đó ra khỏi lều. Đêm đó, khi Abraham quỳ cầu nguyện, ngài nghe có tiếng Chúa nói như sau: “Này Abraham, ngươi có biết người ăn mày đó đã nhục mạ Ta 50 năm qua không ? Thế mà mỗi ngày Ta vẫn ban lương thực cho nó. Ngươi không yêu thương cho nó một bữa ăn sao ?”.

Thiên Chúa mà Chúa Giêsu mặc khải là một người cha yêu thương mọi con cái, ngay cả những đứa con bất hiếu ngỗ nghịch. Đồng thời Ngài mời gọi chúng ta hãy nên trọn lành như Cha trên trời, nghĩa là yêu thương mọi người không loại trừ người nào. Đó là tất cả giáo huấn của Chúa Giêsu: Ngài đến để nói với con người rằng Thiên Chúa yêu thương con người và con người cũng hãy yêu thương nhau. (“Mỗi ngày một tin vui”)

5. Còn điều răn thứ hai cũng giống điều răn ấy, là: ngươi phải yêu thương lân cận như chính mình” (Mt 22,39)

Thánh nữ Têrêxa hài đồng Giêsu được giao phó trông coi một chị nữ tu lớn tuổi. Chị này nổi tiếng là khó tính trong nhà dòng. Đến giờ ăn, Têrêxa phải dìu chị đi xuống nhà ăn. Một thiếu sót nhỏ cũng đủ cho Têrêxa bị trách móc. Chị ấy bực bội, không bằng lòng, nhưng Têrêxa vẫn luôn tỏ ra vui tươi hồn nhiên và chịu đựng tất cả vì thánh nữ yêu mến Chúa ; và vì tình yêu Chúa, thánh nữ yêu mến người nữ tu đáng thương này.

Tình yêu đối với Chúa phải được tỏ hiện qua dấu hiệu bên ngoài là tình yêu đối với tha nhân. Và chúng ta phải chứng tỏ tình yêu đối với tha nhân không những bằng lời nói nhưng còn bằng hành động, bằng sự nhẫn nhục, tha thứ và cảm thông.

Cầu nguyện:

Lạy Chúa, xin cho chúng con luôn biết yêu thương tha nhân, nhất là những người thân, sống trong gia đình chúng con. (Hosanna)

 

3. Suy niệm (Lm. Giuse Đinh Lập Liễm)

A. DẪN NHẬP

Tình yêu! Một từ rất quen thuộc, ai cũng biết nhưng người ta chưa hiểu hết nội dung phong phú của nó, hoặc hiểu tình yêu một cách lệch lạc hoặc hiểu một cách phiến diện. Do đó, nhiều khi người ta đã làm mất ý nghĩa cao quý của tình yêu, đồng hoá tình yêu với tình dục. Người ta chỉ biết dùng tình yêu để tìm đến những thú vui hạ đẳng mà không biết nâng cao tâm hồn lên.

Tình yêu mà phụng vụ đề cập đến hôm nay là một tình yêu hoàn hảo, tinh tuyền, cao thượng, phổ quát và phong phú nhất. Tình yêu trong phụng vụ chính là Bác ái công giáo (Caritas). Bác ái là yêu thương một cách rộng rãi như thánh Augustinô đã nói: “Giới hạn của tình yêu là không có giới hạn nào”. Đó là tình yêu đối với Thiên Chúa và đối với tha nhân. Hai tình yêu này khác nhau chăng? Thưa không. Chẳng những hai tình yêu này không tách rời nhau mà còn quyện lấy nhau: chỉ là một. Chính tình yêu này giúp chúng ta yêu mến Chúa và phục vụ tha nhân.

Người đời chê những người chỉ biết yêu trên lỗ miệng, mà không bao giờ đem ra thực hành bằng những việc làm cụ thể và coi đó chỉ là tình yêu giả dối:

Thương miệng thương môi
Thương miếng xôi miếng thịt.

Theo Đức cha Arthur Tonne thì yêu mến Chúa là “ao ước làm vui lòng Chúa” và yêu tha nhân là “làm điều thiện hảo cho họ”. Tình yêu đối với Chúa cũng như đối với tha nhân luôn phải kèm theo những đặc tính là hy sinh, phục vụ và dâng hiến. Bất cứ làm việc gì cũng phải được thực hiện trong tình yêu thì mới có giá trị: “Ama et fac quod vis” (Thánh Augustinô): yêu mến đi rồi làm gì thì làm.      

B. TÌM HIỂU LỜI CHÚA

+ Bài đọc 1: Xh 22,21-27

So sánh Cựu ước và Tân ước, ta thấy Cựu ước còn thô sơ, Tân ước mới hoàn chỉnh. Chính vì thế mà Chúa Giêsu đã nói: “Ta đến không phải để hủy bỏ lề luật và các tiên tri, nhưng để kiện toàn”. Chính vì vậy mà Cựu ước có nhiều điều luật dạy người Do thái phải yêu thương đồng bào mình. Nhưng tình yêu này có tính cách cục bộ.

Bài đọc 1 này trích từ sách Xuất hành nói rõ về đức bác ái và công bình đối với người Do thái với nhau, nhất là đối với những người yếu và kém may mắn nhất: người goá bụa, mồ côi và nghèo khó.

Điểm đặc biệt trong bài đọc hôm nay nói đến tình yêu đối với những người ngoại kiều đang sống trên đất nước mình nữa. Họ là những người đáng thương thiếu sự nâng đỡ và bảo đảm. Chúa đứng ra bênh vực cho họ. Nếu họ là nạn nhân của bất công, họ cứ kêu Chúa và Chúa sẽ đến giúp họ, trừng trị những kẻ nào cư xử xấu đối với họ.

+ Bài đọc 2: 1Tx 1,5c-10

Trong thư gửi cho tín hữu Thessalonica, thánh Phaolô tỏ ra hết sức vui mừng và khen ngợi giáo đoàn vì họ đã mau mắn đón nhận Tin mừng Ngài rao giảng, và đã cố gắng sống Tin mừng ấy trong những hoàn cảnh thật khó khăn.

Thật vậy, dân Thessalonica đã trở nên gương mẫu cho thế giới Hy lạp: đức tin của họ sống động và sáng chói, đến nỗi họ trở thành gương mẫu cho nhiều nơi khác noi theo.

+ Bài Tin mừng: Mt 22,34-30

Trong bài Tin mừng tuần lễ trước, nhóm biệt phái và Hêrôđê đã thất bại trong việc gài bẫy Chúa Giêsu về vấn đề nộp thuế cho vua César. Họ chưa chịu thua, lần này họ cử một tiến sĩ luật để tranh luận với Chúa Giêsu về vấn đề: điều răn nào trọng nhất trong sách Luật.

Câu hỏi này không phải là dễ trả lời. Trong sách Luật Do thái có 613 điều luật, thật là một rừng luật vì còn nhiều điều luật phụ nữa. Mỗi nhóm thích giữ một điều luật và cho điều luật ấy là quan trọng hơn cả. Nếu Chúa Giêsu chọn một điều luật nào đó thì sẽ làm phật lòng các nhóm khác.

Nhưng Chúa Giêsu đã đưa ra một câu trả lời rất xuất sắc làm cho vị tiến sĩ luật không hỏi gì thêm nữa. Câu trả lời này vừa mới mẻ, lại vừa rộng rãi:

- Một là mến Chúa và yêu người rút ra từ các điều luật trong các sách Luật.

- Hai là liên kết hai luật ấy: điều luật đã mến Chúa thì phải yêu người, yêu người là yêu Chúa.

- Ba là có thể tóm gọn hai luật ấy bằng một luật duy nhất là luật yêu thương.

Như vậy, Yêu thương hay Bác ái là cốt lõi của mọi điều luật và nếu phải cần đến một từ để tóm tắt cả Phúc âm thì đó là yêu mến.

C. THỰC HÀNH LỜI CHÚA: Mến Chúa yêu người

I. BỐI CẢNH CÂU TRUYỆN

Sau khi thất bại trong việc gài bẫy Chúa Giêsu trong việc nộp thuế cho vua César, nhóm biệt phái muốn tấn công Chúa Giêsu bằng một đòn khác: họ sai một tiến sĩ luật đến hỏi thử Chúa Giêsu: “Thưa Thầy, trong lề luật điều răn nào trọng nhất?”

Chữ “Lề luật” ở đây có ý chỉ toàn thể lề luật trong Cựu ước. Câu hỏi này không nhằm một trường hợp đặc biệt nào, nhưng muốn tìm biết điểm cốt yếu trong lề luật. Luật Do thái gồm 613 điều luật, trong đó có 365 điều luật cấm và 248 điều luật truyền làm. Các điều đó chia làm trọng luậtkhinh luật. Phạm khinh luật thì chịu phạt đền tội, nhưng phạm trọng luật như giết người, thờ tà thần, gian dâm... thì bị tử hình.

Sở dĩ đặt câu hỏi này là vì một đàng các phe nhóm không đồng ý với nhau về điều răn nào là quan trọng nhất, đàng khác họ muốn thử Chúa Giêsu để gài bẫy Ngài, vì nếu Ngài trả lời điều luật này trọng, điều luật kia không trọng thì thế nào Ngài cũng bị quy lỗi là về phe nhóm này, chống nhóm kia, và như vậy Ngài thiên vị và không còn được kính nể nữa.

Chúa Giêsu đã trả lời một cách rất rõ ràng, rất hợp và xác đáng: “Ngươi hãy yêu mến Chúa là Thiên Chúa ngươi hết lòng, hết linh hồn và hết trí khôn ngươi. Đó là giới răn thứ nhấttrọng nhất”. Câu luật này trích trong sách Đệ nhị luật 6,5 có đổi một chút, thay vì “hết sức” thì Chúa nói là “hết trí”. Song cốt yếu không có gì đổi.

Chúa Giêsu còn thêm: “Nhưng điều răn thứ hai cũng giống điều răn ấy là ngươi hãy yêu thương kẻ khác như chính mình ngươi”. Luật này trích ở sách Lêvi 19,18. Chúa đem điều luật yêu người này đặt ngang hàng với điều luật mến Thiên Chúa là một điểm đặc sắc của Chúa Giêsu, làm cho đạo của Chúa vô cùng cao quý và vô cùng hấp dẫn. Tất cả mọi điểm khác trong luật hoặc các điều luật khác chỉ là để chú giải cắt nghĩa hai điều luật đó thôi.

Kẻ khác hay cũng gọi là tha nhân, theo quan niệm của người Do thái đương thời, thì tha nhân chỉ là những người đồng chủng, đồng hương, đồng xứ (Lv 19,18). Nhưng ở đây chữ “kẻ khác” Chúa có ý dạy phải thương yêu mọi người, chứ không giới hạn trong những người đồng hương với nhau (Mt 25,40; Lc 5,43), không những thế mà lại còn phải yêu thương cả địch thù nữa (Mt 5,43). “Như chính mình”: Chúa Giêsu muốn nhấn mạnh người được yêu đồng hoá với người yêu, vì vậy, phải yêu thương tha nhân cũng bằng chính tình yêu đối với bản thân mình.

II. NÓI VỀ CHỮ YÊU

1. Chưa có một định nghĩa thỏa đáng

Người ta đã định nghĩa rất nhiều về tình yêu, nhưng chưa có một câu định nghĩa nào thoả đáng khiến cho mọi người chấp nhận. Ví dụ Thần học định nghĩa yêu là “diffusivum sui boni”: yêu là thông ban ra sự tốt lành của mình. Câu định nghĩa ấy còn rất trừu tượng.

Thi sĩ Xuân Diệu cũng chịu, không định nghĩa nổi, khi ông nói:

Làm sao cắt nghĩa được tình yêu,
Nó đến với ta một buổi chiều.
Nó chiếm hồn ta bằng nắng nhạt
Bằng mây nhè nhẹ gió hiu hiu.

Thi sĩ Hồ Dzếnh cũng chịu bó tay khi ông nói:

Yêu là khó nói cho xuôi,
Bởi ai hiểu được sao trời lại xanh.

Theo thánh Phaolô tông đồ thì “Yêu là cho tất cả, nhận tất cả và chịu đựng tất cả” (x. 1Cr 13,7).

Thánh Gioan tông đồ thì nói: “Căn cứ vào điều này, chúng ta biết tình yêu là gì: đó là Đức Kitô đã phó mạng vì chúng ta”(1Ga 3,16).

Giới trẻ thì đưa ra nhiều định nghĩa tùy theo cái nhìn của mình. Đại khái:

* Yêu là chết trong lòng một ít (cf Xuân Diệu).
* Yêu là đau khổ.
* Yêu là hy sinh (x. Mt 16,24; Mc 10,52).
* Yêu là phục vụ (x. Ga 13,4-11).
* Yêu là dâng hiến (x. 1Cr 13,7).
* Yêu là quên mình.

Từ ngữ YÊU ở đây không hẳn là AMOR, một thứ tình yêu còn mang tính chất xác thịt mà người Hy lạp gọi là EROS (ái tình), mà đúng ra là CARITAS (Bác ái hay Đức mến). Khi nói đến Tình yêu thì Giáo hội Kitô giáo dùng chữ CARITAS. Từ ngữ Caritas mang một âm thanh vô cùng khả ái đối với hết mọi người – bất kể sắc tộc, tôn giáo hay chính kiến – mỗi khi nghe đến, vì nó là biểu tượng cho tình yêu tha nhân phổ quát của Kitô giáo, một tình yêu bắt nguồn và luôn dựa trên nền tảng tình yêu Thiên Chúa (x. 1Ga 4,6).

Thánh Phaolô, khi nói đến tình yêu thì ngài dùng chữ Caritas (Đức mến). Trong thư gửi cho tín hữu Côrintô, ngài nói: “Đức mến (caritas) thì nhẫn nhục, hiền hậu, không ghen tương, không vênh vang, không tự đắc, không làm điều bất chính, không tìm tư lợi, không nóng giận, không nuôi hận thù, không mừng khi thấy sự gian ác, tin tưởng tất cả, chịu đựng tất cả. Đức mến không bao giờ mất được… Hiện nay đức tin, cậy, mến, cả ba đều tồn tại, nhưng cao trọng hơn cả là đức mến” (1Cr 13,1-13).

2. Yêu trong thực hành

Chúng ta không muốn đưa ra những câu định nghĩa trừu tượng mà đi vào thực hành trong cuộc sống.

Chúng ta có thể nhận câu định nghĩa của Đức cha Arthur Tonne: “Yêu mến Chúa là gì? Yêu mến Chúa là ao ước làm vui lòng Chúa. Lệnh truyền của Chúa có thể đọc là: Con hãy ao ước làm vui lòng Chúa”.

Yêu mến tha nhân có nghĩa là ao ước làm điều thiện hảo cho họ. Chúng ta không thể “làm điều thiện hảo” cho Chúa, nhưng chúng ta có thể ao ước làm vui lòng Ngài. Chúng ta có thể và phải làm điều thiện hảo cho tha nhân. Một trong những cách tốt nhất để làm vui lòng Chúa là làm điều thiện hảo cho tha nhân. Đã có những lần Chúa Giêsu nói với chúng ta rằng: ai yêu mến Chúa thì tuân giữ giới răn của Ngài. Cách đây vài Chúa nhật, chúng ta đã thấy rằng giới răn của Chúa là bằng chứng tình yêu của Ngài đối với chúng ta. Tuân giữ điều răn Chúa là bằng chứng tình yêu của chúng ta đối với Ngài (GM Arthur Tonne, Bài giảng Tin mừng, năm A, tr 130).

III. ĐẶC TÍNH CỦA TÌNH YÊU

1. Tình yêu và hy sinh

Nhà đạo chúng ta sử dụng quen thuộc hai từ “hy tế” và “hy lễ”. Theo từ nguyên Hán thì HY là con trâu thui và SINH là con lợn luộc. Thời nhà Thanh bên Trung quốc, người ta dùng hai lễ vật này để tế Trời ban cho mưa thuận gió hoà. Nếu dùng chữ “hy lễ” và “hy tế” thì chỉ là tế con trâu thui. Nếu dùng từ HY SINH thì có nghĩa là “tế lễ hy sinh”.

Vậy tình yêu và hy sinh phải đi đôi với nhau. Đã yêu thì phải hy sinh: yêu Chúa thì phải dâng lễ hy sinh cho Chúa. Cho nên, khi dùng từ “hy sinh” thì nó gồm cả: chết trong lòng một ít, đau khổ, phục vụ, dâng hiến, quên mình…

Trên đường đời không có con đường nào bằng phẳng cả, nhất là con đường tình yêu. Tình yêu cũng có thử thách, gian nan, đau khổ. Nói chung nó đòi phải hy sinh. Mối tương quan sâu xa giữa tình yêu và hy sinh đau khổ đã là đề tài muôn thuở của thi ca và tiểu thuyết, cũng như nghệ thuật thứ bảy. Và người ta thường ví tình yêu và đau khổ cũng như hoa hồng với gai: không thể có hoa hồng mà không có gai. Mối tương quan có thể nói là “biện chứng” này được diễn tả gọn chỉ trong hai từ ghép lại thành một, đó là “yêu thương” hay là thương yêu: yêu thương cùng với đau thương một vần là thế (x. Thiện Cẩm, Suối nguồn tình yêu, tr 62).

2. Thánh giá là biểu tượng tình yêu

Theo Phúc âm chữ “Yêu” liền với chữ “Thập” nhưng vẫn là yêu. Đó là tình yêu Thập giá. Việc chịu đóng đinh thập giá là DẤU CHỈ gây ấn tượng sâu sắc về tình yêu vĩ đại Chúa Giêsu dành cho chúng ta. Chúa Giêsu đã nói:“Không có tình yêu nào cao cả hơn tình yêu của người hiến mạng sống vì bạn hữu mình” (Ga 15,13).

Tôi rất vui mừng vì Chúa Giêsu đã ban cho chúng ta dấu chỉ vĩ đại ấy, chúng ta cần biết rằng mình đáng yêu vì nếu chúng ta không thấy mình đáng yêu, chúng ta không thể yêu mến kẻ khác được. Tại sao chúng ta không thể yêu nếu không thấy mình đáng yêu? Lý do đơn giản Tình yêu là một món quà tự hiến. Và nếu chúng ta không thấy mình là đáng yêu – và vì thế đáng giá – thì chúng ta sẽ không trao tặng chính mình cho kẻ khác được.

Nói tóm lại, chẳng ai đem cho đồ rác rưởi cho kẻ mình khâm phục sâu xa. Vì thế điều đầu tiên mà sự đóng đinh thập giá đem lại chính là dấu chỉ tình yêu mà Chúa Giêsu dành cho chúng ta. Chúng ta đáng giá và đáng yêu mến đến mức Đức Giêsu tự hiến mạng vì chúng ta (M. Link, Giảng lễ Chúa nhật, năm A, tr 307).

3. Tình yêu trong phục vụ

Cây Thánh giá là biểu tượng của hai mối tình chí thiết: thanh dọc là bàn tay dâng lên Thiên Chúa, thanh ngang là vòng tay ôm lấy anh em. Thiên Chúa và anh em chỉ là một mối tình duy nhất đi về hai hướng. Đây chính là cốt lõi của mạc khải vậy. Người hành khất ngồi bên vệ đường run lập cập vì lạnh giá, được thánh Martinô thành Tours chia cho một nửa chiếc áo choàng phủ thân, chính là Ngài: “Ta mình trần, các ngươi đã cho mặc, Ta đau yếu các ngươi đã đến thăm, Ta bị tù đày các ngươi đã đến với Ta... Những gì các ngươi làm cho một trong các anh em bé mọn của Ta, là các ngươi đã làm cho chính Ta vậy” (Mt 25,36).

Tình yêu phải được thực hiện trong tinh thần phục vụ. Chính Chúa Giêsu đã làm gương trong tinh thần ấy khi Ngài nói: “Ta đến không phải được phục vụ, nhưng để phục vụ và đem giá máu của mình để cứu chuộc muôn người”. Có rất nhiều gương sáng chói trong công cuộc phục vụ những người nghèo và nhất là những người bệnh nạn, đau khổ.

Truyện: Chị nữ tu phục vụ

Mẹ Têrêsa Calcutta kể: “Hôm ấy, một người lạ mặt đến nhà dòng, ông thấy một Sơ vừa đem về một người hấp hối, nằm bên ống cống, mình mẩy giòi bọ rất hôi thối. Thế mà, Sơ rất nương nhẹ nhặt từng con bọ với vẻ mặt vui tươi, thanh thản đầy thương mến... Rồi người lạ đến gặp tôi nói: Thưa mẹ, khi con đến đây với lòng đầy căm hờn của một người vô tín ngưỡng. Nhưng bây giờ con ra về với một tâm hồn hoàn toàn đổi mới. Con bắt đầu tin Chúa, bởi vì con đã chứng kiến tình yêu của Chúa được diễn tả một cách cụ thể qua hành động và qua cách Sơ ấy đối xử với người hấp hối bẩn thỉu kia. Bây giờ con tin thật Chúa là tình yêu. Không có tình yêu Chúa trong tâm hồn, không khi nào có đủ nghị lực để yêu tha nhân được”.

Thật vậy, không mến Chúa, không thể yêu người vô vị lợi được. Vì thế Chúa Giêsu đã nhấn mạnh cho mọi người nhận biết hai điều răn quan trọng nhất là “Mến Chúa yêu người”. Chính tình yêu Chúa đã làm cho người ta bỏ tính vị kỷ mà biết xả kỷ, thay vì chỉ biết lo cho bản thân mình lại biết mở lòng ra để lo cho người khác.

Chúa Giêsu là kiểu mẫu tuyệt hảo về lòng mến Chúa yêu người. Ngài để lại chúc thư: “Hãy yêu mến nhau như Thầy yêu mến các con(Ga 15,34). Và Ngài đã yêu mến chúng ta đến mức chịu chết vì chúng ta. Có thực hy sinh cho nhau mới chứng thực là đã yêu nhau thật. Hãy tập một vài điều trong “Bài ca đức ái” của thánh Phaolô (1Cr 13,4-7): khoan dung, nhân hậu, không ghen tuông, không ba hoa, không tự mãn, không khiếm nhã, không ích kỷ, không cáu kỉnh, không chấp nhất sự dữ, không mừng trước sự bất công.

Thánh Phaolô tông đồ nhắc nhở cho tín hữu Rôma về trách nhiệm phải thực hành đức ái đối với nhau, không yêu nhau là mắc nợ với nhau, vì đây là lệnh truyền của Chúa, Ngài nói: “Anh em đừng mắc nợ gì ai, ngoài món nợ tương thân tương ái, vì ai yêu người thì đã chu toàn lề luật. Đã yêu thương thì không làm hại người đồng loại; yêu thương là chu toàn Lề Luật vậy” (Rm 13,8-10).

Thánh Augustinô khuyên: “Ama et fac quod vis”: yêu mến đi rồi làm gì thì làm. Để kết thúc, chúng ta hãy cầu nguyện: “Lạy Chúa, xin dạy chúng con yêu mến Ngài cho xứng đáng,

Xin dạy chúng con yêu tha nhân như Ngài yêu chúng con
Xin dạy chúng con yêu cho dù yêu là đau khổ,
Bởi vì qua tình yêu chúng con tôn vinh Chúa,
Qua tình yêu chúng con mang hạnh phúc đến cho tha nhân,
Và qua tình yêu chúng con tìm được ý nghĩa của cuộc sống mình.
Nhân danh Cha và Con và Thánh Thần. Amen.

 

4. Suy niệm (Lm. Antôn Nguyễn Cao Siêu, S.J.)

YÊU VỚI TRỌN CẢ TRÁI TIM

Tiếng Việt khá phong phú với những động từ để chỉ tình cảm:

Yêu, mến, thương, quý, ưa, mê, thích…

Mỗi động từ trên có chút gì đó rất riêng.

Hơn nữa, các động từ này đôi khi lại có thể đi với nhau:

yêu mến, yêu thương, yêu quý, yêu thích, quý mến, quý yêu,

mến yêu, mến thương, thương yêu, thương mến.

Khi đi với nhau, chúng tạo ra một hương vị phong phú và mới mẻ.

Khi phải trả lời câu hỏi về điều răn nào trọng nhất,

Đức Giêsu đã hai lần nói đến động từ “yêu mến”:

yêu mến Thiên Chúa và yêu mến người thân cận.

Đây là câu hỏi để thử Đức Giêsu của một nhà thông luật Pharisêu.

Chúng ta không rõ người này có ý gài bẫy Ngài không.

Dù sao câu hỏi này cũng không dễ trả lời.

Các rabbi dạy có 248 điều phải làm và 365 điều cấm làm.

Có ý kiến cho rằng tất cả những điều trên đều ngang nhau.

Đức Giêsu đã đưa ra câu trả lời của mình.

Ngài không chỉ nói về một điều răn trọng nhất và đứng đầu,

Ngài còn thêm một điều răn thứ hai giống điều răn trước.

Cả hai điều răn này không phải là những điều cấm làm

như phần lớn các lệnh truyền trên núi Xinai (Xh 20,1-17).

Nhưng cả hai lại giống hai bia đá của Mười Điều răn

vì hướng đến tương quan với Thiên Chúa và tha nhân.

Điều răn thứ nhất hướng đến Thiên Chúa.

Đức Giêsu lấy điều răn này từ kinh Shema (Đnl 6,5)

mà người Do-thái đọc mỗi ngày hai lần vào sáng và chiều.

Điều răn này đòi ta phải yêu mến Đấng Tạo hóa

với trọn cả trái tim, linh hồn và trí khôn của mình.

Trái tim được người Do-thái ngày xưa coi là bộ phận quan trọng.

Nó hoạt động như cái đầu, để hiểu biết, suy tư, và ghi nhớ.

Yêu với tất cả trái tim là yêu với trọn cả con người mình,

không coi điều gì hơn Chúa, không thờ thần nào ngoài Chúa,

đặt Ngài trên mọi thụ tạo, kể cả mạng sống mình.

Như vậy yêu ở đây không phải là chuyện tình cảm mông lung,

nhưng là một dấn thân được thể hiện bằng cuộc sống.

Điều răn thứ hai hướng đến tha nhân, lấy từ sách Lêvi (19,18).

Yêu người thân cận như yêu bản thân mình.

“Tất cả những gì anh em muốn người ta làm cho mình,

thì chính anh em hãy làm cho họ” (Mt 7,12).

Ngược lại, điều mình không muốn thì đừng làm cho người khác.

Coi người khác cũng có thân xác như ta, có vui buồn như ta.

Ai cũng mong được yêu thương và kính trọng.

Đức Giêsu đã mở rộng lối nhìn về người thân cận.

Thân cận không phải chỉ là người Do-thái theo đạo như mình,

mà là ai đói khát, không nhà, trần trụi, bệnh tật, ở tù (Mt 25,31-46).

Họ còn là những kẻ thù của mình nữa (Mt 5,43-48).

Yêu đơn giản là cầu nguyện cho họ, là giúp đỡ, hỏi thăm.

Sau câu trả lời của Đức Giêsu, không thấy ông thông luật nói gì.

Chắc ông đã tâm phục trước việc Ngài trích dẫn Kinh Thánh.

Có thể nói đây là một câu trả lời độc đáo, cân đối hài hòa.

Đức Giêsu gói cả 613 điều luật trong một động từ “yêu.”

Luật có thể làm người ta bị trói buộc, mệt mỏi.

Còn tình yêu thì làm người ta mở ra đến vô cùng.

Khi yêu Thiên Chúa bằng trọn vẹn trái tim,

và thương người như thể thương thân,

con người được tự do bước vào một thế giới mới,

tràn trề sự sống, niềm vui và bình an.

CẦU NGUYỆN

Lạy Chúa Giêsu,

Xin cho con thấy Chúa thật lớn lao,

để đối với con, mọi sự khác trở thành bé nhỏ.

Xin cho con thấy Chúa thật bao la,

để cả mặt đất cũng chưa vừa cho con sống.

Xin cho con thấy Chúa thật thẳm sâu,

để con dễ đón nhận nỗi khổ đau sâu thẳm nhất.

Lạy Chúa Giêsu,

Xin làm cho con thật mạnh mẽ,

để không nỗi thất vọng nào còn chạm được tới con.

Xin làm cho con thật đầy ắp,

để ngay cả một ước muốn nhỏ

cũng không còn có chỗ trong con.

Xin làm cho con thật lặng lẽ,

để con chỉ còn loan báo Chúa mà thôi.

Xin Chúa ngự trong con cho sống động,

để không phải là con,

mà là chính Ngài đang sống.

Khuyết danh

 

5. Suy niệm (Lm. Nguyễn Vinh Sơn SCJ)

Câu chuyện

Vị linh mục trẻ người Pháp Cassaigne đến Sài Gòn năm 1926, được bài sai đi nhận thí điểm truyền giáo vùng Di Linh có trại phong. Ngài tiếp xúc với anh em dân tộc Thượng, học tiếng của họ, dạy học và chữa bệnh cho những người Thượng bị phong, đó là những công việc thường ngày của cha Cassaigne.

Ngày 24/2/1941, cha Cassaigne nhận được quyết định bổ nhiệm ngài làm người kế vị Đức cha Dumortier trong sứ vụ Giám mục Sài Gòn. Xa rời đàn con bất hạnh của ngài trong hơn 14 năm qua ngày đêm ngài hằng nhớ tới họ... và hình như ngài chỉ mong sao có ngày được đoàn tụ lại với họ.

Từ đầu năm 1947, sức khỏe của Đức cha Cassaigne xấu đi rõ rệt. Thêm vào đó là bệnh sốt rét cũ và chứng suy gan của ngài, sự giảm chất vôi cột sống rất đau đớn; và trên tất cả còn có một mối đe dọa khác: Năm 1943, người ta đã tìm thấy trong cơ thể của ngài có “vi trùng Hansen”.

Ngày 15/7/1955 Đức cha xin từ nhiệm và về hưu tại làng cùi Di Linh, tại đó ngài còn có thể phục vụ và tự chữa bệnh. Ngày 31/10/1973, ngài trút hơi thở cuối cùng giữa những con cái phong cùi của ngài như ngài đã ước nguyện. Ngài đã được mai táng bên cạnh ngôi nhà nguyện của người phong cùi, để họ có ngài ở với họ luôn mãi.

Lòng yêu mến Chúa là sức mạnh thôi thúc vị Giám mục Cassaigne hiến thân phục vụ anh chị em mình, dù là những người con bị bệnh cùi hủi.

Suy niệm

“Phải yêu mến Đức Chúa, Thiên Chúa của ngươi, hết lòng, hết linh hồn và hết trí khôn ngươi… ngươi hãy yêu người thân cận như chính mình” (Mt 22,37-39). Đó là hai giới răn trọng nhất trong niềm tin được Đức Giêsu trích dẫn từ sách Đệ Nhị Luật 6,5 và sách Lêvi 19,18 trong 613 điều răn trong luật của Do Thái. Các thầy rabbi thường tranh luận với nhau về tầm mức quan trọng của mỗi luật để chia ra thành điều răn “lớn” và điều răn “nhỏ”. Đệ Nhị Luật 6,5 là điều răn căn bản và chính yếu của Do Thái giáo. Điều răn này luôn được dùng để mở đầu cho mỗi buổi lễ của người Do Thái, và đây cũng là luật đầu tiên các trẻ em Do Thái phải nhớ. Lòng kính yêu Thiên Chúa phải là hoàn toàn, bao gồm mọi suy xét, cảm kích và là động lực cho cuộc sống. Đức Giêsu liên kết hai điều răn này với nhau và Ngài đặt kính yêu Thiên Chúa trước tiên, sau đó là thương người. Sự liên hệ gắn bó giữa hai giới răn này: Tình yêu tha nhân càng sâu sắc khi chúng ta kính yêu Thiên Chúa.

Tình yêu với Đấng tối cao: “Hết lòng, hết linh hồn và hết trí khôn ngươi…” là đưa cuộc sống ta theo sự dẫn dắt của Ngài. Với người Do Thái, tình yêu tha nhân được định hướng theo sách Lêvi 19,18 viết: “Ngươi phải yêu mến người lân cận như chính mình ngươi”. Nhãn quan Kitô giáo lại đặt tình yêu tha nhân vào địa vị trung tâm, then chốt chủ yếu trong sự gắn bó với Thiên Chúa: “Ai không yêu anh em mình là kẻ mình thấy, thì sẽ không yêu được Thiên Chúa, Ðấng mình chẳng thấy. Khi chúng ta yêu mến Thiên Chúa thì chúng ta yêu mến con cái Chúa” (1Ga 4,20; 5,2). Tình yêu của Thiên Chúa là mô phạm cho các hành động yêu thương nhân loại: “Các con hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu các con” (Ga 13,34). Yêu thương nhau trong Chúa là dấu chỉ thuộc về Thiên Chúa: “Cứ dấu này mọi người sẽ nhận ra các con là môn đệ Thầy: Đó là tình yêu các con trao cho nhau” (Ga 13,35). Yêu Chúa và yêu người là hai giới răn gắn bó chặt chẽ với nhau đến nỗi thánh Gioan tông đồ tuyên bố yêu Chúa mà không yêu tha nhân là kẻ nói láo (x. 1Ga 4,20).

Chính Thiên Chúa khởi xướng việc tỏ tình thương: “Nếu Thiên Chúa đã yêu thương chúng ta, chúng ta phải yêu thương nhau” (1Ga 4,11; x. Ml 2,10; 1Cr 8,11-13; 1Ga 3,16). Tình yêu khuyến khích hiến thân phục vụ (x. 1Tx 2,8; Cn 17,17; 2Cr 12,15; Gl 4,13; Pl 2,30; 4,10; 1Tx 1,9).

Như thế, tình yêu thường dành cho nhau, trong nhãn quan Kitô giáo, gắn chắc với tình yêu Thiên Chúa (x.1Ga 4,20; 5,2), với Lề Luật Thánh: “Yêu thương là chu toàn Lề Luật” (Rm 13,10; x. 1Pr 1,22; 2,17; 1Ga 3,23. 4,22; 2Ga 5; 1Tx 4,9; Dt 13,1; Gc 2,8).

Ý lực sống

Khi chúng ta yêu mến Thiên Chúa thì chúng ta yêu mến con cái Chúa (x. 1Ga 4,20; 5,2).

 

6. Suy niệm (song ngữ)

Interesting Details

• There were 613 prescriptions in the Jewish Law. Although they were to be observed equally, the Jewish scholars often debate their relative importance and classified them as heavies or lights.

• The two commandments that Jesus quoted are from Deuteronomy 6:5, and Levitus 19:18. Jesus must be the first to put these two commandments together, and made them becoming one. He put God first however, and men second; men only become lovable when we love God. Jesus reminded the listeners that God's commandments are meant to put men in relation with God.

• Deuteronomy 6:5 is the basic and essential creed of Judaism, the sentence with which every Jewish service still opens, and the first text that every Jewish child commits to memory. It means that to God, we must give a total love, a love that dominates our emotions, a love that directs our thoughts, and a love that is the motivation of our actions.

• In the Mediterranean culture at the time of Jesus, to love means to be totally attached.

Chi Tiết Hay

• Luật Do-thái có tất cả 613 điều răn. Tất cả đều phải tuân giữ, nhưng các thầy rabi thường tranh luận với nhau đến bất tận về tầm mức quan trọng của mỗi luật để chia ra thành điều răn lớn và điều răn nhỏ.

• Hai điều răn Đức Giêsu trích dẫn là từ sách Thứ Luật 6:5 và sách Lêvi 19:18. Có thể suy ra là Ngài là người đầu tiên liên kết hai điều răn này với nhau. Ngài đặt kính yêu Thiên Chúa trước tiên, và sau đó là thương người; chúng ta chỉ có thể thương người khi chúng ta kính yêu Thiên Chúa. Ngài nhắc nhở rằng các điều răn Thiên Chúa truyền ban là để cho con người kết hợp với Thiên Chúa.

• Thứ Luật 6:5 là điều răn căn bản và chính yếu của Do-thái giáo. Cho tới bây giờ, điều răn này được dùng để mở đầu mỗi buổi lễ của người Do thái, và đây cũng là luật đầu tiên các trẻ em Do thái phải nhớ. Lòng kính yêu Thiên Chúa phải là hoàn toàn, bao gồm mọi suy xét, cảm kích, và là nguyên động cho cuộc sống.

• Theo văn hóa của người vùng Địa trung hải, yêu thương là hoàn toàn quyến luyến với nhau.

One Main Point

The greatest commandment is duty to God and duty to men: to love God, and then to love men whom God made in His own image.

Một Điểm Chính

Điều răn trọng nhất là phận sự đối với Thiên Chúa và nhân loại: kính yêu Thiên Chúa, và rồi thương người là tạo vật Thiên Chúa đã dựng nên theo hình ảnh Ngài.

Reflections

1. Before we start loving God, He loves us first. As always, He is longing our love for Him in return. Look back at the experiences in our life, how would the love of God that we allow to grow in our heart enable us to love other people, even those that we would despise ? Loving God, is that the key to our spiritual life ? Loving men, is that a necessary action to discern how true our love for God is ?

2. Is it easier to love God than our neighbors ? Meditate the teaching: It is love of God first and love of man second.

3. Contemplate the love that you have for God. How do we respond to God ? Test your love for God by checking your tendency to respond to God's love - the way you want to do, or the way God wants you to do.

4. Jesus teaches us a way to love our neighbor: This is the truth I tell you - whatever you did it to one of these least brothers of mine, you did it for me (Mt. 25:40). How would we be able to see Jesus in our neighbors, even in those that we would despise ?

Suy Niệm

1. Trước khi thương người chúng ta phải kính yêu Thiên Chúa. Từ muôn đời Thiên Chúa đã thương yêu con người, và Ngài ao ước chúng ta đáp lại. Nhìn lại những kinh nghiệm sống của chúng ta, khi chúng ta mở lòng cho tình yêu Thiên Chúa phát triển, thì tình yêu ấy giúp chúng ta thế nào để thương người chung quanh, kể cả những người chúng ta không mấy ưa thích ? Kính yêu Thiên Chúa là điều chính yếu cho đời sống nội tâm ? Thương người có phải là tác động cần thiết để đo lường sự trung thực của lòng kính yêu Thiên Chúa của chúng ta ?

2. Kính yêu Thiên Chúa có dễ dàng hơn thương người không ? Suy niệm lời giảng dạy: Kính yêu Thiên Chúa trước tiên, rồi thương người.

3. Suy niệm về lòng kính yêu Thiên Chúa của chúng ta. Phân tách lòng kính yêu Thiên Chúa bằng cách nhận định cách chúng ta thường đáp lại tình yêu của Thiên Chúa - theo ý ta hay theo ý Chúa ?

4. Đức Giêsu dạy chúng ta một cách để thương người: Ta bảo thật các ngươi: mỗi lần làm như thế cho một trong những người anh em bé nhỏ nhất của Ta đây, là các ngươi đã làm cho chính Ta vậy (Mt. 25:40). Làm thế nào chúng ta có thể tìm thấy Chúa Giêsu trong các người chung quanh, kể cả những người chúng ta không ưa thích ?

Top