Chúa nhật 2 mùa Vọng năm A (Mt 3,1-12)
Anh em hãy sám hối vì
Nước Trời đã đến gần.
Bài đọc 1: Is 11, 1-10
Chúa xét xử công minh cho người thấp cổ bé miệng.
Bài trích sách ngôn sứ I-sai-a.
1Ngày ấy, từ gốc tổ Gie-sê, sẽ đâm ra một nhánh nhỏ,
từ cội rễ ấy, sẽ mọc lên một mầm non.
2Thần khí Đức Chúa sẽ ngự trên vị này:
thần khí khôn ngoan và minh mẫn,
thần khí mưu lược và dũng mãnh,
thần khí hiểu biết và kính sợ Đức Chúa.
3Lòng kính sợ Đức Chúa làm cho Người hứng thú,
Người sẽ không xét xử theo dáng vẻ bên ngoài,
cũng không phán quyết theo lời kẻ khác nói,
4nhưng xét xử công minh cho người thấp cổ bé miệng,
và phán quyết vô tư bênh kẻ nghèo trong xứ sở.
Lời Người nói là cây roi đánh vào xứ sở,
hơi miệng thở ra giết chết kẻ gian tà.
5Đai thắt ngang lưng là đức công chính,
giải buộc bên sườn là đức tín thành.
6Bấy giờ sói sẽ ở với chiên con, beo nằm bên dê nhỏ.
Bò tơ và sư tử non được nuôi chung với nhau,
một cậu bé sẽ chăn dắt chúng.
7Bò cái kết thân cùng gấu cái,
con của chúng nằm chung một chỗ,
sư tử cũng ăn rơm như bò.
8Bé thơ còn đang bú giỡn chơi bên hang rắn lục,
trẻ thơ vừa cai sữa thọc tay vào ổ rắn hổ mang.
9Sẽ không còn ai tác hại và tàn phá
trên khắp núi thánh của Ta,
vì sự hiểu biết Đức Chúa sẽ tràn ngập đất này,
cũng như nước lấp đầy lòng biển.
10Đến ngày đó, cội rễ Gie-sê sẽ đứng lên làm cờ hiệu cho các dân.
Các dân tộc sẽ tìm kiếm Người,
và nơi Người ngự sẽ rực rỡ vinh quang.
Đáp ca: Tv 71, 1-2.7-8.12-13.17 (Đ. x. c.7)
Đ.Triều đại Người, đua nở hoa công lý
và thái bình thịnh trị đến muôn đời.
1Tâu Thượng Đế, xin ban quyền bính Ngài cho vị Tân Vương,
trao công lý Ngài vào tay Thái Tử, 2để Tân Vương xét xử dân Ngài theo công lý,
và bênh vực quyền lợi kẻ nghèo hèn.
Đ.Triều đại Người, đua nở hoa công lý
và thái bình thịnh trị đến muôn đời.
7Triều đại Người, đua nở hoa công lý
và thái bình thịnh trị
tới ngày nao tuế nguyệt chẳng còn.8Người làm bá chủ từ biển này qua biển nọ,
từ Sông Cả đến tận cùng cõi đất.
Đ.Triều đại Người, đua nở hoa công lý
và thái bình thịnh trị đến muôn đời.
12Người giải thoát bần dân kêu khổ
và kẻ khốn cùng không chỗ tựa nương, 13chạnh lòng thương ai bé nhỏ khó nghèo.
Mạng sống dân nghèo, Người ra tay tế độ.
Đ.Triều đại Người, đua nở hoa công lý
và thái bình thịnh trị đến muôn đời.
17Danh thơm Người sẽ trường tồn vạn kỷ,
nức tiếng gần xa dưới ánh mặt trời.
Ước gì mọi sắc tộc trần gian, nhờ Người được chúc lành,
và muôn dân thiên hạ ngợi khen Người có phúc.
Đ.Triều đại Người, đua nở hoa công lý
và thái bình thịnh trị đến muôn đời.
Bài đọc 2: Rm 15, 4-9
Đức Ki-tô cứu độ hết mọi người.
Bài trích thư của thánh Phao-lô tông đồ gửi tín hữu Rô-ma.
4 Thưa anh em, mọi lời xưa đã chép trong Kinh Thánh, đều được chép để dạy dỗ chúng ta. Những lời ấy làm cho chúng ta nên kiên nhẫn, và an ủi chúng ta, để nhờ đó chúng ta vững lòng trông cậy.
5 Xin Thiên Chúa là nguồn kiên nhẫn và an ủi, làm cho anh em được đồng tâm nhất trí với nhau, như Đức Ki-tô Giê-su đòi hỏi. 6 Nhờ đó, anh em sẽ có thể hiệp ý đồng thanh mà tôn vinh Thiên Chúa, là Thân Phụ Đức Giê-su Ki-tô, Chúa chúng ta.
7 Vậy, anh em hãy đón nhận nhau, như Đức Ki-tô đã đón nhận anh em, để làm rạng danh Thiên Chúa. 8 Thật vậy, tôi xin quả quyết: Đức Ki-tô có đến phục vụ những người được cắt bì, để thực hiện những gì Thiên Chúa đã hứa với tổ tiên họ, đó là do lòng trung thành của Thiên Chúa. 9 Còn các dân ngoại có được tôn vinh Thiên Chúa, thì đó là do lòng thương xót của Người, như có lời chép: Vì thế giữa muôn dân con cất lời cảm tạ, dâng điệu hát cung đàn ca mừng danh thánh Chúa.
Tin mừng: Mt 3, 1-12
1 Khi ấy, ông Gio-an Tẩy Giả đến rao giảng trong hoang địa miền Giu-đê rằng: 2 “Anh em hãy sám hối, vì Nước Trời đã đến gần.” 3 Ông chính là người đã được ngôn sứ I-sai-a nói tới: Có tiếng người hô trong hoang địa: Hãy dọn sẵn con đường cho Đức Chúa, sửa lối cho thẳng để Người đi.
4 Ông Gio-an mặc áo lông lạc đà, thắt lưng bằng dây da, lấy châu chấu và mật ong rừng làm thức ăn.
5 Bấy giờ, người ta từ Giê-ru-sa-lem và khắp miền Giu-đê, cùng khắp vùng ven sông Gio-đan, kéo đến với ông.
6 Họ thú tội, và ông làm phép rửa cho họ trong sông Gio-đan.
7 Thấy nhiều người thuộc phái Pha-ri-sêu và phái Xa-đốc đến chịu phép rửa, ông nói với họ rằng: “Nòi rắn độc kia, ai đã chỉ cho các anh cách trốn cơn thịnh nộ của Thiên Chúa sắp giáng xuống vậy?
8 Các anh hãy sinh hoa quả để chứng tỏ lòng sám hối.
9 Đừng tưởng có thể bảo mình rằng: ‘Chúng ta đã có tổ phụ Áp-ra-ham.’ Vì, tôi nói cho các anh hay, Thiên Chúa có thể làm cho những hòn đá này trở nên con cháu ông Áp-ra-ham.
10 Cái rìu đã đặt sát gốc cây: bất cứ cây nào không sinh quả tốt đều bị chặt đi và quăng vào lửa.
11 Phần tôi, tôi làm phép rửa cho các anh bằng nước để giục lòng các anh sám hối. Còn Đấng đến sau tôi thì quyền thế hơn tôi, tôi không đáng xách dép cho Người. Người sẽ làm phép rửa cho các anh bằng Thánh Thần và bằng lửa.
12 Tay Người cầm nia, Người sẽ rê sạch lúa trong sân: thóc mẩy thì thu vào kho lẫm, còn thóc lép thì bỏ vào lửa không hề tắt mà đốt đi.”
Giáo lý cho bài giảng Chúa nhật 2 mùa Vọng năm A
WHĐ (05/12/2025) - Để hỗ trợ các nhà giảng thuyết thuận tiện hơn trong việc thêm giáo lý vào bài giảng, Ban Biên tập xin được trích dẫn những điểm giáo lý phù hợp với các bài đọc Kinh thánh của lễ Chúa nhật 2 mùa Vọng năm A theo sự hướng dẫn của Bộ Phụng tự và Kỷ luật các Bí tích.
|
Số 522, 711-716, 722: Các ngôn sứ và sự mong đợi Đấng Messia Số 523, 717-720: Sứ vụ của Thánh Gioan Tẩy Giả Số 1427-29: Sự hối cải của những người đã chịu phép rửa Bài Ðọc I: Is 11, 1-10 Bài Ðọc II: Rm 15, 4-9 Phúc Âm: Mt 3, 1-12 |
Số 522, 711-716, 722: Các ngôn sứ và sự mong đợi Đấng Messia
Số 522. Việc Con Thiên Chúa ngự đến trong thế gian là một biến cố hết sức trọng đại, đến độ Thiên Chúa đã muốn chuẩn bị cho biến cố đó qua nhiều thế kỷ. Các nghi thức và các hy lễ, các hình ảnh và các biểu tượng của “Giao Ước Cũ”[1], tất cả đều được Thiên Chúa làm cho hội tụ trong Đức Kitô: Chính Ngài loan báo Đức Kitô qua miệng các Tiên tri kế tiếp nhau ở Israel. Ngoài ra, Ngài còn khơi dậy trong tâm hồn các người ngoại giáo một sự chờ đợi chưa rõ ràng việc Con Thiên Chúa ngự đến.
Số 711. “Này Ta sắp làm một việc mới” (Is 43,19). Hai đường hướng tiên tri được phác hoạ, một đường dẫn đến sự mong đợi Đấng Messia; đường kia hướng đến việc loan báo một Thần Khí mới, hai đường hướng này đồng quy nơi “số sót” nhỏ bé, nơi dân của những người nghèo[2], họ đang mong đợi “niềm an ủi của Israel” và “sự cứu chuộc Giêrusalem” (Lc 2,25.38) trong niềm hy vọng.
Ở trên, chúng ta đã thấy Chúa Giêsu hoàn thành những lời tiên tri nói về Người như thế nào. Ở đây, chúng ta giới hạn vào những lời tiên tri trong đó tương quan giữa Đấng Messia và Thần Khí của Người xuất hiện rõ ràng hơn.
Số 712. Những nét phác hoạ dung mạo Đấng Messia được mong đợi, bắt đầu được biểu lộ trong sách Emmanuel[3] (khi “ngôn sứ Isaia … đã thấy vinh quang” của Đức Kitô: Ga 12,41), đặc biệt trong đoạn văn Is 11,1-2:
“Từ gốc tổ Giessê, sẽ đâm ra một nhánh nhỏ,
Từ cội rễ ấy, sẽ mọc lên một mầm non.
Thần Khí Chúa sẽ ngự trên vị này:
Thần khí khôn ngoan và minh mẫn,
Thần khí mưu lược và dũng mãnh,
Thần khí hiểu biết và kính sợ Chúa”.
Số 713. Những nét phác hoạ về Đấng Messia được mạc khải chủ yếu trong các bài ca về Người Tôi trung[4]. Những bài ca này loan báo ý nghĩa cuộc khổ nạn của Chúa Giêsu, và cho thấy cách Người sẽ đổ tràn Thần Khí để cho muôn người được sống: không phải từ bên ngoài, nhưng bằng cách “mặc lấy thân nô lệ” của chúng ta (Pl 2,7). Khi mang lấy cái chết của chúng ta trên mình Người, Người có thể truyền thông cho chúng ta Thần Khí riêng của Người, Thần Khí sự sống của Người.
Số 714. Chính vì vậy, Đức Kitô khởi đầu công cuộc loan báo Tin Mừng của Người bằng cách áp dụng cho mình đoạn sau đây của tiên tri Isaia (Lc 4,18-19)[5]:
“Thần Khí Chúa ngự trên tôi,
Vì Chúa đã xức dầu tấn phong tôi,
để tôi loan báo Tin Mừng cho kẻ nghèo hèn,
Ngài đã sai tôi đi công bố cho kẻ bị giam cầm biết họ được tha,
cho người mù biết họ được sáng mắt,
trả lại tự do cho người bị áp bức,
công bố một năm hồng ân của Chua”.
Số 715. Các bản văn tiên tri trực tiếp liên quan đến việc sai Chúa Thánh Thần đến, là những lời sấm trong đó Thiên Chúa lấy ngôn ngữ Lời hứa mà nói vào trái tim của dân Ngài, bằng cung giọng yêu thương và trung tín[6], sáng ngày lễ Ngũ Tuần, thánh Phêrô sẽ tuyên bố việc hoàn thành những điều đó[7]. Theo những lời hứa đó, trong “thời sau hết”, Thần Khí Thiên Chúa sẽ đổi mới trái tim người ta bằng cách ghi khắc Lề luật mới trong họ; Ngài sẽ quy tụ và giao hoà những dân tộc đã bị phân tán và chia rẽ; Ngài sẽ biến đổi công trình tạo dựng thứ nhất và Thiên Chúa sẽ ở đó với người ta trong hoà bình.
Số 716. Đoàn dân “của những người nghèo”[8], những người khiêm nhu và hiền lành, hoàn toàn phó thác cho kế hoạch bí nhiệm của Thiên Chúa của mình, những người mong chờ công lý không bởi người ta nhưng bởi Đấng Messia, đoàn dân ấy cuối cùng là công trình cao cả mà âm thầm của Chúa Thánh Thần, trải suốt thời gian của các Lời hứa, để chuẩn bị cho cuộc Ngự đến của Đức Kitô. Phẩm chất tâm hồn của những người đó, đã được thanh tẩy và soi sáng bởi Thần Khí, được diễn tả trong các Thánh vịnh. Nơi những ngươi nghèo này, Thần Khí chuẩn bị cho Chúa “một dân hoàn hảo”[9].
Số 722. Chúa Thánh Thần đã dùng ân sủng của Ngài mà chuẩn bị Đức Maria. Mẹ của Đấng “nơi Người, tất cả sự viên mãn của thần tính hiện diện cách cụ thể” (Cl 2,9) tất phải “đầy ơn phúc”. Đức Maria đã được thụ thai, trong ân sủng thuần tuý, không hề có tội, với tư cách là người khiêm tốn nhất trong các thụ tạo, xứng đáng nhất trong mọi người để đón nhận hồng ân khôn tả của Đấng Toàn Năng. Thiên thần Gabriel chào Mẹ cách chính xác là “Con gái Sion”: “Kính mừng” (= “Mừng vui lên”)[10]. Chính Mẹ, trong bài thánh ca của mình[11], đã làm cho lời tạ ơn của toàn dân Thiên Chúa và của Hội Thánh lên tới Chúa Cha trong Chúa Thánh Thần, khi Mẹ cưu mang nơi mình Chúa Con vĩnh cửu.
Số 523, 717-720: Sứ vụ của Thánh Gioan Tẩy Giả
Số 523. Thánh Gioan Tẩy Giả là vị Tiền Hô trực tiếp của Chúa[12], đã được sai đến để dọn đường[13]. Thánh nhân là “ngôn sứ của Đấng Tối Cao” (Lc l,76), troi vượt tất cả mọi Tiên tri[14], và là vị Tiên tri cuối cùng[15]. Thánh nhân khởi đầu Tin Mừng[16]; ngay từ trong lòng mẹ đã đón chào Đức Kitô đến[17], và tìm thấy niềm vui trong việc được làm “bạn của chú rể” (Ga 3,29), Đấng mà thanh nhân chỉ cho biết là Chiên “Thiên Chúa, Đấng xoá bỏ tội trần gian” (Ga l,29). Thánh nhân đi trước Chúa Giêsu trong “thần trí và quyền năng của ngôn sứ Êlia” (Lc 1,17), và làm chứng cho Người bằng lời rao giảng của mình, bằng phép rửa thống hối của mình và cuối cùng bằng cuộc tử đạo của mình[18].
Gioan, Vị Tiền hô, Tiên tri và Tẩy giả
Số 717. “Có một người được Thiên Chúa sai đến, tên là Gioan” (Ga 1,6). Ông Gioan được “đầy Thánh Thần, ngay khi còn trong lòng mẹ” (Lc 1,15)[19], do chính Đức Kitô mà Đức Trinh Nữ Maria vừa thụ thai bởi Chúa Thánh Thần. Như vậy, việc Đức Maria “viếng thăm” bà Êlisabeth đã trở thành việc Thiên Chúa viếng thăm dân Ngài[20].
Số 718. Ông Gioan chính là “tiên tri Êlia phải đến”[21]: ngọn lửa của Thần Khí ở trong ông và làm cho ông (với tư cách là người “tiền hô”) “chạy trước” Chúa, Đấng ngự đến. Nơi ông Gioan, vị Tiền hô, Chúa Thánh Thần hoàn tất việc “chuẩn bị một dân sẵn sàng đón Chúa” (Lc 1,17).
Số 719. Ông Gioan “còn hơn một Tiên tri nữa”[22]. Nơi ông, Chúa Thánh Thần hoàn thành việc “dùng các Tiên tri mà phán dạy”. Ông Gioan kết thúc hàng ngũ các Tiên tri khởi đầu từ ông Êlia[23]. Ông loan báo niềm an ủi Israel đã gần kề, là “tiếng” của Đấng An Ủi, Đấng ngự đến[24]. Chính ông, như Thần chân lý cũng sẽ làm, “đến để làm chứng, và làm chứng về ánh sáng” (Ga 1,7)[25]. Nơi ông Gioan, Thần Khí hoàn thành “điều các tiên tri tìm hiểu” và các Thiên thần “ước mong”[26]: “Ngươi thấy Thần Khí xuống và ngự trên ai, thì người đó chính là Đấng làm phép rửa trong Thánh Thần. Tôi đã thấy, nên xin chứng thật rằng Người là Đấng Thiên Chúa tuyển chọn…. Đây là Chiên Thiên Chúa” (Ga 1,33-36).
Số 720. Cuối cùng, với ông Gioan Tẩy Giả, Chúa Thánh Thần khởi sự và biểu hiện trước những gì Ngài sẽ thực hiện với Đức Kitô và trong Đức Kitô: đó là phục hồi cho con người sự “giống như” Thiên Chúa. Phép rửa của ông Gioan là phép rửa thống hối, còn Phép Rửa trong nước và trong Thần Khí sẽ là sự tái sinh[27].
Số 1427-29: Sự hối cải của những người đã chịu phép rửa
Số 1427. Chúa Giêsu kêu gọi hối cải. Lời kêu gọi này là một phần cốt yếu của việc loan báo Nước Thiên Chúa: “Thời kỳ đã mãn, và Triều Đại Thiên Chúa đã đến gần. Anh em hãy sám hối và tin vào Tin Mừng” (Mc 1,15). Trong việc rao giảng của Hội Thánh, lời kêu gọi này trước hết nhằm đến những người chưa biết Đức Kitô và Tin Mừng của Người. Như vậy, bí tích Rửa Tội là vị trí đầu tiên và căn bản của việc hối cải. Chính nhờ tin vào Tin Mừng và nhờ bí tích Rửa Tội[28] mà người ta từ bỏ sự dữ và đạt được ơn cứu độ, nghĩa là được ơn tha thứ mọi tội lỗi và được hưởng hồng ân sự sống mới.
Số 1428. Lời kêu gọi hối cải của Đức Kitô vẫn tiếp tục vang vọng trong đời sống các Kitô hữu. Cuộc hối cải thứ hai này là một nhiệm vụ liên tục của toàn thể Hội Thánh vì “mang trong lòng mình những tội nhân, vừa thánh thiện vừa luôn cần được thanh luyện, Hội Thánh phải không ngừng thống hối và canh tân”[29]. Nỗ lực hối cải này không chỉ là công việc của con người. Việc thống hối là hành động của một “tâm hồn tan nát”[30] được ân sủng lôi kéo và thúc đẩy[31], để đáp lại tình yêu thương xót của Thiên Chúa, Đấng đã yêu thương chúng ta trước[32].
Số 1429. Có thể lấy cuộc hối cải của thánh Phêrô, sau khi chối Thầy mình ba lần, làm bằng chứng cho điều đó. Cái nhìn của lòng thương xót vô biên của Chúa Giêsu khiến ông khóc lóc thống hối[33] và, sau khi Chúa sống lại, ông đã ba lần khẳng định tình yêu của ông đối với Người[34]. Cuộc hối cải thứ hai cũng mang chiều kích cộng đoàn. Điều này được thấy rõ trong lời kêu gọi của Chúa với toàn thể Hội Thánh: “Hãy hối cải!” (Kh 2,5.16).
Thánh Ambrôsiô nói về hai cuộc hối cải: “Hội Thánh có nước và nước mắt, nước của bí tích Rửa Tội, và nước mắt của bí tích Thống Hối”[35].
Bài giảng Đức Thánh Cha - Chúa nhật 2 mùa Vọng năm A
Đây là những bài giảng và huấn dụ của Đức Thánh Cha trong các thánh lễ và các buổi đọc kinh Truyền tin với các tín hữu vào Chúa nhật 2 mùa Vọng năm A.
|
Đức Phanxicô, Huấn dụ Chúa nhật 2 Mùa Vọng năm A (04/12/2022) - Dị ứng với sự hai lòng |
1. Suy niệm (Lm Ignatio Hồ Văn Xuân)
CHIA SẺ LỜI CHÚA
1. Bài đọc 1 : Is 11,1-10
1. Bài đọc 1 chúng ta vừa nghe nói về gia phả của vua Đa-vít. Chúng ta nhớ lại ông Gie-sê có tám người con trai và Thiên Chúa chọn một trong tám người con trai đó làm vua cai trị Ít-ra-en. Theo lệnh của Đức Chúa, ông Sa-mu-en không chọn người lớn tuổi nhất, cao lớn nhất, vạm vỡ nhất, nhưng chọn người trẻ nhất, một cậu bé đang chăn chiên ngoài đồng, đó là cậu bé Đa-vít, sẽ là một vị vua vĩ đại của Ít-ra-en, và nhờ đó ông Gie-sê trở nên nổi tiếng vì ông là cha của vua Đa-vít, là tổ tiên của một dòng dõi đông đảo, dòng dõi này thường được tượng trưng bằng một cái cây : một cái cây sẽ có tương lai huy hoàng, một cái cây không bao giờ chết.
Một ngôn sứ khác, ngôn sứ Na-than cũng nói với vua Đa-vít : Thiên Chúa hứa ban cho dòng dõi nhà vua sẽ mãi mãi trường tồn và cuối cùng dân chúng sẽ hoàn toàn hiệp nhất và bình an. Nhưng chúng ta phải thẳng thắn nhìn nhận rằng : không một vị vua nào của dòng dõi vua Đa-vít đã thực hiện được những lời hứa tốt đẹp này ; dù vậy dân chúng vẫn tiếp tục hy vọng vì Thiên Chúa đã hứa thì sớm hay muộn gì, lời hứa cũng sẽ trở thành hiện thực bởi Thiên Chúa là Đấng trung tín. Vì thế, từ “Mê-si-a” đã thay đổi ý nghĩa.
2. Tất cả các vị vua, dù tốt hay xấu, đều xứng đáng với danh xưng “mê-si-a”, trong tiếng Híp-ri có nghĩa là “người được xức dầu”, ám chỉ việc một vị vua được xức dầu ngày đăng quang. Nhưng với thời gian, từ “mê-si-a” đồng nghĩa với “vị vua lý tưởng”, vị vua mang lại hạnh phúc và công bằng trên trái đất này.
Chúng ta trở lại câu nói đầu tiên của bài đọc 1 hôm nay : “Ngày ấy, từ gốc tổ Gie-sê (cha của Đa-vít), sẽ đâm ra một nhánh nhỏ.” Lời này ngôn sứ I-sai-a muốn nói với những người đương thời là hiện tại, mọi người có cảm tưởng tất cả những lời hứa đẹp đẽ đều bay mất hết và cây gia phả của Đa-vít chẳng sản sinh ra cái gì tốt cả ! Nhưng, ngay cả từ một cây đã chết khô, từ một cội rễ, Thiên Chúa sẽ làm nảy sinh một chồi non không ai ngờ cả. Vì thế xin mọi người yên tâm, sớm hay muộn gì thì Đấng Mê-si-a sẽ tới !
Trở lại bài đọc 1, ta thấy có hai câu đóng khung cây Gie-sê, và bên trong khung này có hai phần : Phần thứ nhất nói về vị Vua – Mê-si-a mà Thần Khí Đức Chúa sẽ ngự trên vị này, với các ơn ban : thần khí khôn ngoan và minh mẫn, thần khí mưu lược và dũng mãnh, thần khí hiểu biết và kính sợ Đức Chúa. Trong Kinh Thánh, con số 7 chỉ sự tròn đầy ; bản văn nhấn mạnh đến ơn kính sợ Đức Chúa : Vào thời ngôn sứ I-sai-a, khi nói “kính sợ Thiên Chúa”, người ta muốn nói đến thái độ hiếu thảo, tin tưởng và kính trọng. Vị Vua – Mê-si-a, khi ngự đến, sẽ cư xử với Thiên Chúa như một người con đối với cha của mình, nghĩa là Người sẽ cai trị dân chúng như Thiên Chúa muốn.
3. Chúng ta thấy ngôn sứ I-sai-a nhấn mạnh đến sự công chính, đó là ưu phẩm của vị vua lý tưởng : “Đai thắt ngang lưng là đức công chính, giải buộc bên sườn là đức tín thành. Người sẽ không xét xử theo dáng vẻ bên ngoài, cũng không phán quyết theo lời kẻ khác nói, nhưng xét xử công minh cho người thấp cổ bé miệng, và phán quyết vô tư bênh kẻ nghèo hèn trong xứ sở.” Chúng ta biết ngôn sứ I-sai-a đã khiển trách nặng lời những người đương thời với ông về vấn đề này. Ngôn sứ I-sai-a tiếp tục : “Lời Người nói là cây roi đánh vào xứ sở, hơi miệng thở ra giết chết kẻ gian tà” ; như vậy vị Vua – Mê-si-a tuyên chiến với bất công.
Phần thứ hai của bản văn chúng ta có thể gọi là “chuyện ngụ ngôn của loài vật”, hình ảnh tuyệt vời về sự hoà hợp chung ; đây có ý nói ngày kết thúc kế hoạch yêu thương của Thiên Chúa, ngày mà Thần Khí dẫn chúng ta tới sự thật toàn vẹn, như Chúa Giê-su đã nói, ngày mà “sự hiểu biết Đức Chúa sẽ tràn ngập đất này, cũng như nước lấp đầy lòng biển”.
Cuối cùng, ngôn sứ I-sai-a nhắc lại một lần nữa về kế hoạch của Thiên Chúa liên quan đến toàn thể nhân loại : “Đến ngày đó, cội rễ Gie-sê sẽ đứng lên làm cờ hiệu cho các dân. Các dân tộc sẽ tìm kiếm Người.” Sau này, Chúa Giê-su sẽ nói : “Phần tôi, một khi được giương cao lên khỏi mặt đất, tôi sẽ kéo mọi người lên với tôi” (Ga 12,32).
2. Đáp ca : Tv 71
1. Thánh vịnh 71 nói về vương quyền của Đức Ki-tô : “Tâu Thượng Đế, xin ban quyền bính Ngài cho vị Tân Vương” : đây là một lời cầu nguyện ; “để Tân Vương xét xử dân Ngài theo công lý” : đó là một ước mong. Đó là những lời được đọc lên trong lễ tấn phong một Tân Vương. Chúng ta đang ở Đền Thờ Giê-ru-sa-lem, nhưng chúng ta biết là thánh vịnh này được sáng tác và hát lên sau thời gian lưu đày ở Ba-by-lon, nghĩa là vào thời kỳ Ít-ra-en không có vua nữa ; điều đó muốn nói rằng lời cầu nguyện cũng như ước mong này không liên quan đến một vị vua bằng xương bằng thịt, nhưng liên quan đến một vị vua mà mọi người đang trông đợi mà Thiên Chúa đã hứa ban, đó là vị Vua – Mê-si-a. Vì đó là một lời hứa của Thiên Chúa, nên chắc chắn sẽ trở thành hiện thực vì Thiên Chúa là Đấng trung tín.
2. Kế hoạch yêu thương của Thiên Chúa là muốn cho con người được hạnh phúc. Thiên Chúa đã báo điều đó ngay trong lời nói đầu tiên với ông Áp-ra-ham : “Nhờ ngươi, mọi gia tộc trên mặt đất sẽ được chúc phúc” (St 12,3). Điều quan trọng ta cần ghi nhớ là ngay từ đầu, mặc khải Kinh Thánh liên quan đến toàn thể nhân loại, và dân Ít-ra-en dần dần hiểu rằng họ không được phép giấu kín bí mật này mà phải công bố cho cả thế giới được biết. Thánh vịnh hôm nay đâu có nói điều gì khác đâu : “Ước gì mọi sắc tộc trần gian, nhờ Người được chúc lành, và muôn dân thiên hạ ngợi khen Người có phúc.” Một lời hứa khác Chúa dành cho ông Áp-ra-ham : “Hôm đó, Chúa lập giao ước với ông Áp-ra-ham như sau : ‘Ta ban cho dòng dõi ngươi đất này, từ sông Ai-cập đến sông Cả, tức sông Êu-phơ-rát’” (St 15,18). Thánh vịnh hôm nay như một tiếng dội lại của lời hứa đó : “Người làm bá chủ từ biển này qua biển nọ, từ sông Cả đến tận cùng cõi đất.”
Cuối cùng là một nhân loại sống trong tình huynh đệ và hoà bình, không còn ai bị chà đạp : “Triều đại Người, đua nở hoa công lý, và thái bình thịnh trị tới ngày nao tuế nguyệt chẳng còn.” Đó là ước mơ tha thiết nhất của tất cả mọi người đang sống trên hành tinh này, trong số đó có tất cả chúng ta.
3. Bài đọc 2 : Rm 15,4-9
1. “Thưa anh chị em, mọi lời xưa đã chép trong Kinh Thánh, đều được chép để dạy dỗ chúng ta. Những lời ấy làm cho chúng ta nên kiên nhẫn, và an ủi chúng ta, để nhờ đó chúng ta vững lòng trông cậy.” Chúng ta cùng xác tín là Kinh Thánh chỉ có một mục tiêu duy nhất là dạy dỗ chúng ta, để chúng ta vững lòng trông cậy. Kinh Thánh luôn chứa đựng Tin Mừng, nuôi dưỡng niềm hy vọng của tất cả chúng ta, vì Kinh Thánh luôn đề cập đến một chủ đề duy nhất công bố kế hoạch lạ lùng của Thiên Chúa mà thánh Phao-lô gọi là “ý định yêu thương của Thiên Chúa”, nghĩa là lời yêu thương của Thiên Chúa dành cho nhân loại.
Trở lại bài đọc 2 hôm nay, thánh Phao-lô mời gọi tín hữu Rô-ma : “Anh em hãy đón nhận nhau, như Đức Ki-tô đã đón nhận anh em.” Từ câu nói trên của thánh Phao-lô, ta có thể hiểu là trong cộng đoàn Rô-ma có vấn đề, có một cuộc xung đột xảy ra giữa những người Ki-tô hữu gốc Do-thái giáo và những anh chị em Ki-tô hữu gốc dân ngoại : những người Ki-tô hữu gốc Do-thái giáo tuân giữ nghiêm ngặt tất cả mọi lề luật Cựu Ước, nhất là về vấn đề thức ăn, trong khi những anh chị em gốc dân ngoại thì không chấp nhận việc đó. Vì thế, thánh Phao-lô “xin Thiên Chúa là nguồn kiên nhẫn và an ủi, làm cho cộng đoàn tín hữu Rô-ma được đồng tâm nhất trí với nhau, sống chung hoà bình, như Đức Ki-tô đòi hỏi. Nhờ đó, họ có thể hiệp ý đồng thanh mà tôn vinh Thiên Chúa là Thân Phụ Đức Giê-su Ki-tô, Chúa chúng ta”. Trong những câu trước bài đọc 2 hôm nay, thánh Phao-lô mời gọi tín hữu Rô-ma : “Vậy chúng ta hãy theo đuổi những gì đem lại bình an và những gì xây dựng cho nhau.”
2. Người Ki-tô hữu chúng ta phải luôn noi gương Đức Ki-tô trong cách xử sự thường ngày của mình : “Anh em hãy đón nhận nhau, như Đức Ki-tô đã đón nhận anh em, để làm rạng danh Thiên Chúa.” Vậy Đức Ki-tô làm gì ? Thánh Phao-lô xác nhận : “Đức Ki-tô có đến phục vụ những người được cắt bì” (người Do-thái), ám chỉ “người tôi tớ” ngôn sứ I-sai-a đã đề cập tới trong các chương 42–53 (các bài ca “Người tôi tớ” : Is 42,1-7 ; 49,1-6 ; 50,4-7 ; 52,13–53,12). Có thể nói khi viết thư cho các tín hữu Rô-ma, thánh Phao-lô đã hiểu rõ bốn bài ca về Người tôi tớ trong sách I-sai-a, và ngài đã đọc lại cuộc đời của Đức Ki-tô dưới ánh sáng của 4 bài ca này. “Đức Ki-tô có đến phục vụ những người được cắt bì, để thực hiện những gì Thiên Chúa đã hứa với tổ tiên họ, đó là do lòng trung thành của Thiên Chúa. Còn các dân ngoại có được tôn vinh Thiên Chúa, thì đó là do lòng thương xót của Người.”
4. Bài Tin Mừng : Mt 3,1-12
1. Chính dưới ánh sáng của Đấng Phục Sinh sẽ đến trong ngày quang lâm mà ta khai mạc mùa Vọng này. Cũng chính dưới ánh sáng đó, cùng với thánh Mát-thêu mà chúng ta chứng kiến thời đầu sứ vụ của thánh Gio-an Tẩy Giả. Chỉ một câu thôi cũng đủ gợi lên sự nhập cuộc của ngài : “Hồi ấy, ông Gio-an Tẩy Giả đến rao giảng trong hoang địa miền Giu-đê rằng : ‘Anh em hãy sám hối, vì Nước Trời đã đến gần.’” Ông Gio-an giới thiệu sự xuất hiện của Đức Giê-su : “Bấy giờ, Đức Giê-su từ miền Ga-li-lê đến sông Gio-đan, gặp ông Gio-an để xin ông làm phép rửa cho mình” (Mt 3,13).
Ông Gio-an đến rao giảng trong hoang địa. Trong ký ức của dân Ít-ra-en, hoang địa là nơi thử thách, nhưng cũng là nơi thể hiện tình nghĩa cha con giữa Thiên Chúa và dân riêng Người chọn, dân Ít-ra-en, và là nơi của mọi khởi đầu. Ta chỉ cần nhắc lại bốn mươi năm vượt qua sa mạc Xi-nai, bốn mươi ngày bốn mươi đêm của ngôn sứ Ê-li-a trên đường về núi Kho-rép, bốn mươi ngày bốn mươi đêm của Đức Giê-su trong hoang địa khi bắt đầu sứ vụ của Người.
2. Ông Gio-an loan báo điều gì ? “Anh em hãy sám hối, vì Nước Trời đã đến gần.” Trọng tâm lời rao giảng của ông Gio-an Tẩy Giả trong Tin Mừng Mát-thêu, cũng là trọng tâm lời công bố của Chúa Giê-su : “Anh em hãy sám hối, vì Nước Trời đã đến gần” (Mt 4,17), trọng tâm lời rao giảng của Giáo Hội trong sách Công vụ Tông Đồ 10,7, sự kiện đặc biệt quan trọng là người ngoại cũng được Thiên Chúa yêu thương, cứu độ qua việc Thánh Thần Chúa sai ông Phê-rô đến nhà viên sĩ quan Co-nê-li-ô. Lời rao giảng của ông Gio-an Tẩy Giả mở màn cho một giai đoạn mới của lịch sử cứu độ : “Có tiếng người hô trong hoang địa : Hãy dọn sẵn con đường cho Đức Chúa, sửa lối cho thẳng để Người đi.” Một nhà chú giải Kinh Thánh tên Tassin giải thích như sau : “Ngày xưa, dân Ít-ra-en được sinh ra từ hoang địa trong cuộc Xuất hành, rồi sau đó lại được sinh ra một lần nữa sau cuộc lưu đày ở Ba-by-lon trở về. Ngày nay chúng ta, các Ki-tô hữu phải được tái sinh nhờ lắng nghe lời các ngôn sứ để dọn đường cho Chúa đến. Chính Chúa Giê-su làm gương cho chúng ta qua việc Người chịu phép rửa tại sông Gio-đan bởi ông Gio-an và bốn mươi ngày đêm sống trong hoang địa.”
3. “Ông Gio-an mặc áo lông lạc đà”, ngày hôm nay, chúng ta cảm thấy xa lạ với cách ăn mặc này, nhưng ngày xưa, việc ăn mặc như vậy có giá trị biểu tượng rất cao, bởi vì gợi nhớ y phục của ngôn sứ Ê-li-a (2 V 1,8) : “Đó là một người ăn mặc áo lông, đóng khố da” mà theo truyền thống Do-thái, việc ông tái xuất hiện dọn đường cho Đấng Cứu Thế ngự đến : “Này Ta sai sứ giả của Ta đi trước mặt Con, người sẽ dọn đường cho Con đến.” “Nếu anh em chịu tin lời tôi (Đức Giê-su), thì ông Gio-an chính là Ê-li-a, người phải đến” (Mt 11,10.14).
Lời rao giảng của ông Gio-an lan toả khắp miền Giu-đê, cũng giống như Đức Giê-su trong chương 4,25 cũng của Tin Mừng Mát-thêu : “Từ miền Ga-li-lê, vùng Thập Tỉnh, thành Giê-ru-sa-lem, miền Giu-đê, và bên kia sông Gio-đan, dân chúng lũ lượt kéo đến đi theo Người” (Mt 11,4).
Theo lời kêu gọi của ông Gio-an Tẩy Giả trong hoang địa, một dân tộc tội lỗi sẽ đến dìm mình trong dòng nước mà ngày xưa họ vượt qua để vào Đất Hứa : “Họ thú tội, và ông làm phép rửa cho họ tại sông Gio-đan.” Đó là một khởi đầu mới, một sự sinh ra mới đã được chuẩn bị kỹ lưỡng.
4. Phải gấp rút hoán cải đời sống
Thánh Mát-thêu kể ra những loại người đặc biệt đến xin ông Gio-an làm phép rửa tại sông Gio-đan. Thấy nhiều người thuộc phái Pha-ri-sêu và phái Xa-đốc đến chịu phép rửa, ông nói ngay chẳng nể nang gì cả : “Nòi rắn độc kia, ai đã chỉ cho các anh cách trốn cơn thịnh nộ của Thiên Chúa sắp giáng xuống vậy ? Các anh hãy sinh hoa quả để chứng tỏ lòng sám hối.” … Nguyên danh xưng con cháu ông Áp-ra-ham không bảo đảm sẽ được cứu rỗi đâu, vì “Thiên Chúa có thể làm cho những hòn đá này trở nên con cháu Áp-ra-ham. Cái rìu đã đặt sát gốc cây : bất cứ cây nào không sinh quả tốt đều bị chặt đi và quăng vào lửa.”
Kết : Chúng ta đang sống trong mùa Vọng là thời gian mỗi người tích cực chuẩn bị tâm hồn để đón mừng đại lễ Chúa Giáng Sinh, đồng thời hướng lòng chúng ta về ngày Chúa quang lâm. Hai việc làm không thể thiếu được là thống hối và làm việc thiện.
Thống hối là nhận biết tội lỗi, đoạn tuyệt với lối sống cũ, trở về với Thiên Chúa cách triệt để.
Thống hối hàm chứa lòng ước ao và sự quyết tâm thay đổi đời sống, bằng cách trông cậy vào lòng thương xót của Thiên Chúa. Thống hối là ân sủng của Thiên Chúa – tái tạo và thúc đẩy hối nhân trở về với Người (x. Giáo lý Hội Thánh Công Giáo, các số 1430 đến 1433).
Sự thống hối có thể được diễn tả qua việc ăn chay, cầu nguyện và bố thí (chia sẻ của cải cho người nghèo) (x. Mt 6,1-18) là những hình thức được nhấn mạnh nhất. Ngoài ra, sự thống hối còn được thể hiện bằng những cử chỉ hoà giải, sửa lỗi cho nhau trong tình bác ái, quan tâm giúp đỡ người nghèo (x. Giáo lý Hội Thánh Công Giáo, số 1435).
Bí tích Thánh Thể và bí tích Hoà Giải là nguồn mạch và lương thực của sự thống hối, các thời điểm như mùa Chay và mỗi thứ Sáu tưởng niệm Chúa chịu chết là những lúc thích hợp để thực hành thống hối (x. Giáo lý Hội Thánh Công Giáo, các số 1434 đến 1439).
Cầu nguyện :
Lạy Chúa Giê-su, chúng con đang tích cực chuẩn bị tâm hồn đón mừng Chúa xuống thế làm người và ở cùng chúng con. Xin Chúa giúp chúng con cố gắng sống trọn vẹn chương trình thánh Gio-an Tẩy Giả mời gọi chúng con sống trong mùa Vọng này : đó là thống hối tội lỗi, dọn đường cho Chúa ngự đến và nhiệt thành làm việc thiện.
Tự vấn :
Ngôn sứ I-sai-a mời gọi mỗi người chúng ta nỗ lực dọn đường cho Ngôi Hai xuống thế làm người và ở cùng chúng ta bằng cách : san bằng những núi đồi kiêu căng hiện có trong tâm trí chúng ta, lấp đầy những hố sâu chia rẽ vốn có trong cộng đoàn chúng ta và quảng đại giúp đỡ những người nghèo khổ, bất hạnh đang sống chung quanh chúng ta. Chúng ta đã làm chưa ?
C. BÀI ĐỌC THÊM
1. “Không thể có Phúc Âm hoá mà không có sự trở lại” (Mgr. L. Daloz, trong “Nước Thiên Chúa đã gần”, Desclée de Brouwer, tr. 23-24).
Ông Gio-an chất vấn bằng lời nói, nhưng cũng bằng cách sống của ông : hoang địa, y phục, lương thực … Chính cuộc sống của ông đặt vấn đề và lôi cuốn. Sau này, Đức Giê-su nhắc lại điều đó : “Anh em ra xem gì trong hoang địa ? Một cây sậy phất phơ trước gió chăng ? Thế thì anh em ra xem gì ? Một người mặc gấm vóc lụa là chăng ? Kìa những kẻ mặc gấm vóc lụa là thì ở trong cung điện nhà vua” (Mt 11,7-8). Ngôn sứ là người đầu tiên phải trở lại. Trước khi loan báo Nước Trời cho người khác, chính ông phải sẵn sàng đón nhận Nước ấy. Không thể nào loan báo cho người khác nếu chính mình không hồi tâm trở lại, bởi vì đó không phải chỉ đơn thuần là chuyển giao một kiến thức. Thông tin về Nước Trời chỉ có thể được tiếp nhận bởi người nào chấp nhận biến đổi đời mình : Hãy ăn năn thống hối : Nước Trời đã gần đến. Không ăn năn trở lại, thì Nước Trời vẫn ở ngoài cửa mà thôi. Chúng ta cần nghe lại sứ điệp của ông Gio-an Tẩy Giả. Trong một thế giới mà việc loan báo Tin Mừng về Nước Thiên Chúa là Nước không được nhận biết, không được đón nhận, thì không được quên rằng, sẽ không được Phúc Âm hoá nếu không có sự ăn năn trở lại của người loan báo, cũng như của người lắng nghe Tin Mừng. Chúng ta luôn luôn phải chạm trán với sự không tin hay với sự thờ ơ, dửng dưng. Chúng thách thức ta phải kiểm điểm lại sự trung thành với Tin Mừng, trình bày Tin Mừng không phải là một giáo huấn đơn thuần cho trí hiểu, nhưng là một lời mời gọi biến đổi đời mình. Bởi vì Tin Mừng là sức mạnh đổi mới, hướng dẫn đời sống một cách khác. Tin Mừng khơi gợi một sự ý thức về tội lỗi, một ý chí muốn thay đổi cuộc sống. Đó là ý nghĩa phép rửa của ông Gio-an : trong khi xưng thú tội lỗi, họ để ông làm phép rửa trong sông Gio-đan.
2. “Với Thiên Chúa, chúng ta không thể gian lận” (G. Boucher, trong “Đất nói với trời”, xuất bản tại nhà tác giả : Résidence de Kerampir, 29820 Bohars).
Ông Gio-an không rào trước đón sau, mắng nhiếc thậm tệ những người đến với ông. Chúng ta có thể nghĩ rằng những người đến với ông đều tỏ ra thiện chí. Bởi vì họ đã bước xuống nước sông Gio-đan. Bởi vì họ đã dìm mình xuống dòng sông thanh tẩy. Nhưng không đúng thế.
Nghi thức tự nó không đủ. Chính con tim và cách sống mới quan trọng. Và khi Thiên Chúa đến thì sẽ là phép rửa bằng lửa : một ngọn lửa tinh luyện và đúc rèn. Một ngọn lửa thiêu đốt thế giới. Một ngọn lửa cháy lên vinh quang huy hoàng.
Chúng ta thấy đó : không phải là vấn đề giả vờ. Với Thiên Chúa, chúng ta không thể gian lận. Và nhất là, nếu chúng ta để Thiên Chúa hành động, thì Người sẽ cho thực hiện các phép lạ. Các bạn sẽ sản xuất ra nhiều hoa trái một cách dồi dào phong phú, các kho lẫm trên trời sẽ đầy tràn chan chứa.
Nhưng trước tiên, các bạn hãy ăn năn trở lại ! Hãy từ bỏ sự tự mãn ! Hãy để Thiên Chúa tràn ngập các bạn và đốt lửa lên trong lòng các bạn !
Các bạn hãy thành thật đi ! Đừng tìm cách đánh lừa Thiên Chúa. Hãy từ bỏ sự bảo đảm dựa trên các tập quán để mở rộng con tim các bạn đón nhận những cái mới căn bản của Nước Trời !
2. Suy niệm (TGM Giuse Nguyễn Năng)
Suy niệm: Gioan kêu gọi mọi người ăn năn sám hối vì Nước Trời đã gần. Ăn năn sám hối là gì ? Là thay đổi cuộc sống, thay đổi tư tưởng và những hành động không hợp với ý Chúa, để bắt đầu một cuộc sống mới tốt đẹp. Dẹp bỏ những chướng ngại lớn nhất trên con đường trở lại.
Cầu nguyện: Lạy Cha, xin giúp chúng con nhìn ra con người yếu hèn của mình. Xin cho chúng con khám phá ra những ngăn trở làm chúng con không đến được với Cha, không đến được với anh chị em chúng con. Chúng con đánh mất chính mình.
Xin cho chúng con biết tìm về tận căn của những lỗi phạm ấy và làm một cuộc hoán cải đúng nghĩa. Nhờ hoa trái của lòng sám hối, chúng con đáng được Cha thương trong ngày đó. Amen.
Ghi nhớ: “Hãy ăn năn thống hối, vì nước trời gần đến”.
3. Suy niệm (Lm. Antôn Nguyễn Cao Siêu, SJ.)
CÂY KHÔNG SINH QUẢ TỐT
Vào Mùa Vọng, phụng vụ chuyển sang màu Tím,
dù lẽ ra hy vọng phải mang màu Xanh lá cây!
Vào Mùa Vọng, phụng vụ cho ta gặp Gioan Tẩy giả.
Ông đi rao giảng lúc ông đã quá ba mươi tuổi,
và Đức Giêsu lúc đó cũng suýt soát bằng tuổi ông.
Ông không giảng về mầu nhiệm Chúa giáng sinh ở Belem.
Ông không nói về các mục đồng, hay các vì sao lạ.
Ông chỉ chuẩn bị lòng dân Ítraen đón nhận Đức Giêsu.
Đây là Đấng đến để khai mở một thời đại mới,
một thời gian đặc biệt vì Nước Trời đến gần rồi (Mt 3, 2).
Bài Tin mừng hôm nay ba lần nói đến hối cải (Mt 3, 2.8.11).
Hối cải là điểm nhấn trong lời rao giảng của Gioan.
Ông đã đi khắp vùng hoang địa để kêu gọi:
“Anh em hãy hối cải, vì Nước Trời đã đến gần.”
Phải chăng vì thế mà Mùa Vọng có màu Tím?
Không phải màu Tím của buồn thương, mà của hối cải.
Hối cải đơn giản là dọn lòng để đón nhận Nước Trời.
Nước Trời là quà tặng quý giá của Thiên Chúa.
Ông Gioan muốn toàn dân Do-thái cùng nhau hối cải.
Hối cải màu Tím nhưng hối cải vẫn rất tươi.
“Hãy sinh hoa trái xứng với lòng hối cải” (Mt 3, 8).
Hối cải thật sự thì như cây vả sinh trái nhiều và ngon
sau nhiều năm cằn cỗi (Lc 13, 6-9).
Hối cải là nắn con đường lòng mình cho thẳng ngay (Mt 3, 3),
để Chúa dễ dàng bước đi trên đó.
Hối cải là chuyển hướng, định hướng lại,
đổi lối suy nghĩ và hành động đã quen thành nếp xưa nay.
Như thế hối cải chẳng bao giờ dễ dàng.
Quay đi khỏi tội lỗi để quay về với Thiên Chúa.
Cần khẩn trương hối cải để tránh cơn thịnh nộ của Ngài.
Thiên Chúa trừng phạt vì Thiên Chúa là Đấng công bình.
Ngài có thể chặt cây nào không sinh trái tốt,
đốt thóc lép, còn thóc mẩy thu vào kho.
Gioan giảng hối cải và ông đã sống khổ hạnh.
Không lập gia đình, sống trong hoang địa (Lc 1, 80),
mặc áo lông lạc đà, ăn châu chấu và mật ong rừng.
Lời giảng của ông đi đôi với cuộc sống nên đáng tin.
Dân chúng kéo đến với ông, coi ông là ngôn sứ.
Họ bày tỏ lòng hối cải bằng cách thú tội với ông,
và để ông dìm mình dưới dòng nước sông Giođan.
Phép rửa của Gioan được nhiều người đón nhận.
Đây là phép rửa chỉ chịu một lần, nhưng biến đổi tận căn.
Nếu Gioan sống Mùa Vọng trong thế kỷ 21,
chắc lời giảng của ông không thay đổi mấy.
Ông vẫn muốn mời mọi người đón lấy Chúa Giêsu,
bằng một sự hối cải nghiêm túc và cụ thể.
Ông vẫn mời chúng ta đi vào lòng mình
để giữ cái tâm cho thẳng, lấp hố sâu ngăn cách nhau,
bạt xuống núi đồi của lòng kiêu căng tự mãn.
Thế giới thời Gioan không khác với thế giới hôm nay,
dù cách nhau hai ngàn năm lịch sử.
Vẫn là một thế giới đói khát Thiên Chúa,
đầy chiến tranh, nghèo đói, bất công, phóng đãng.
Chúng ta đã chịu Phép Rửa của Chúa Giêsu
cao trọng hơn phép rửa của Gioan ở sông Giođan.
Để sống Mùa Vọng, chúng ta phải thành những Gioan mới
tìm ra những con đường mới,
để Giêsu và nhân loại hôm nay gặp nhau.
LỜI NGUYỆN
Lạy Chúa,
xin cho con quả tim của Chúa.
Xin cho con đừng khép lại trên chính mình,
nhưng xin cho quả tim con quảng đại như Chúa
vươn lên cao, vượt mọi tình cảm tầm thường
để mặc lấy tâm tình bao dung tha thứ.
Xin cho con vượt qua mọi hờn oán nhỏ nhen,
mọi trả thù ti tiện.
Xin cho con cứ luôn bình an, trong sáng,
không một biến cố nào làm xáo trộn,
không một đam mê nào khuấy động hồn con.
Xin cho con đừng quá vui khi thành công,
cũng đừng quá bối rối khi gặp lời chỉ trích.
Xin cho quả tim con đủ lớn
để yêu người con không ưa.
Xin cho vòng tay con luôn rộng mở
để có thể ôm cả những người thù ghét con.
3. Suy niệm (song ngữ)
2nd Sunday of Advent
Reading I: Isaiah 11:1-10
Reading II: Romans 15:4-9
Chúa Nhật 2 Mùa Vọng
Bài Đọc I: Isaia 11:1-10
Bài ĐọcII: Rôma 15:4-9
Gospel
Matthew 3:1-12
1 In those days John the Baptist appeared, preaching in the desert of Judea
2 (and) saying, “Repent, for the kingdom of heaven is at hand!”
3 It was of him that the prophet Isaiah had spoken when he said: “A voice of one crying out in the desert, 'Prepare the way of the Lord, make straight his paths”.
4 John wore clothing made of camel's hair and had a leather belt around his waist. His food was locusts and wild honey.
5 At that time Jerusalem, all Judea, and the whole region around the Jordan were going out to him
6 and were being baptized by him in the Jordan River as they acknowledged their sins.
7 When he saw many of the Pharisees and Sadducees 7 coming to his baptism, he said to them, “You brood of vipers! Who warned you to flee from the coming wrath?
8 Produce good fruit as evidence of your repentance.
9 And do not presume to say to yourselves, 'We have Abraham as our father.' For I tell you, God can raise up children to Abraham from these stones.
10 Even now the ax lies at the root of the trees. Therefore every tree that does not bear good fruit will be cut down and thrown into the fire.
11 I am baptizing you with water, for repentance, but the one who is coming after me is mightier than I. I am not worthy to carry his sandals. He will baptize you with the holy Spirit and fire.
12 His winnowing fan is in his hand. He will clear his threshing floor and gather his wheat into his barn, but the chaff he will burn with unquenchable fire.”
Phúc Âm
Mátthêu 3,1-12
1 Hồi ấy, ông Gioan Tẩy Giả đến rao giảng trong hoang địa miền Giuđê rằng:
2 “Anh em hãy sám hối, vì Nước Trời đã đến gần.”
3 Ông chính là người đã được ngôn sứ Isaia nói tới: Có tiếng người hô trong hoang địa: Hãy dọn sẵn con đường của Đức Chúa, sửa lối cho thẳng để Người đi.
4 Ông Gioan mặc áo lông lạc đà, thắt lưng bằng dây da, lấy châu chấu và mật ong làm thức ăn.
5 Bây giờ, người ta từ Giêrusalem và khắp miền Giuđê, cùng khắp vùng ven sông Giođan, kéo đến với ông.
6 Họ thú tội, và ông làm phép rửa cho họ trong sông Giođan.
7 Thấy nhiều người thuộc phái Phrisêu và phái Xađốc đến chịu phép rửa, ông nói với họ rằng: “Nòi rắn độc kia, ai đã chỉ cho các anh cách trốn cơn thịnh nộ của Thiên Chúa sắp giáng xuống vậy?
8 Các anh hãy sinh hoa quả xứng với lòng sám hối.
9 Và đừng tưởng có thể nghĩ bụng rằng: “Chúng ta đã có tổ phụ Ápraham”. Vì, tôi nói cho các anh hay, Thiên Chúa có thể làm cho những hòn đá này trở nên con cháu ông Ápraham.
10 Cái rìu đã đặt sát gốc cây: bất cứ cây nào không sinh quả tốt đều bị chặt đi và quăng vào lửa.
11 Tôi, tôi làm phép rửa cho các anh trong nước để giục lòng các anh sám hối. Còn Đấng đến sau tôi thì quyền thế hơn tôi, tôi không đáng xách dép cho Người. Người sẽ làm phép rửa cho các anh trong Thánh Thần và lửa.
12 Tay Người cầm nia, Người sẽ rê sạch lúa trong sân: thóc mẩy thì thu vào kho lẫm, còn thóc lép thì bỏ vào lửa không hề tắt mà đốt đi”.
Interesting Details
- “The kingdom of heaven” appears in Matthew 32 times, showing its importance. Kingdom here indicates an active ruling, not a static place or group of people.
- John's place (wilderness) resembles the purifying trip from Egypt to the Promised Land, from slavery to freedom. John's clothes (camel's hair and a strip of dried animal hide) show simplicity and also resemble that of the prophet Elijah (2 Kings 1:8). People believed that a prophet like Elijah would come just before the end of time. John's foods (locusts and wild honey) were common staples of the poor, were also foods eaten by Samson who fought against injustice and oppression.
- Pharisees and Sadducees were highly respected in the Church. Pharisees (29 times in Matthew), meaning “separated,” thought that they were above others because they observed the religious laws of the Jews very carefully. The high-priest Sadducees were considered descendants of the high priest Zadok of David and Solomon's time; they moved primarily among the rich and the politically powerful, so they did not like revolutionaries like John. For those who were proud of their ancestry, calling them “brood of vipers” would be the most offensive. Vipers are extremely poisonous snakes, which look like a good dry branch. St. Paul was bitten by a viper once when he was gathering wood.
- “Baptism” comes from the Greek word meaning “dipping in liquid.” Water, fire, and wind were all considered “liquid.” Therefore John dipped people in water, but Jesus dips people in fire and wind. This dipping can be violent, can kill, and relates to the image of death and resurrection.
Chi Tiết Hay
- Chữ “nước trời” được dùng đến 32 lần trong Phúc Âm thánh Mathêu, điều đó nói lên sự quan trọng của danh từ này. Vương quốc ở đây diễn tả một vương quyền sống động, chứ không phải chỉ muốn nói đến một nơi chốn hoặc một nhóm người.
- Chỗ ở của Gioan trong hoang địa cũng giống như cuộc hành trình để được thanh tẩy của dân Do Thái từ Ai Cập qua miền Đất Hứa, từ nô lê đến tự do. Quần áo của Gioan bằng lông lạc đà và dây da thú chứng tỏ sự giản dị và cũng giống quần áo của tiên tri Êlia (2 Kings 1:8). Người ta tin rằng một tiên tri tương tự như Êlia sẽ đến vào trước ngày tận thế. Thức ăn của Gioan (châu chấu và mật ong rừng) là thức ăn căn bản của người nghèo, và cũng là thức ăn mà Samson dùng; Samson là ngưòi tranh đấu chống bất công và áp bức.
- Người biệt phái Pharisêu và văn nhân Saduxê là những người rất được kính trọng trong giáo đoàn. Người biệt phái (được nhắc đến 29 lần trong Phúc Âm thánh Mathêu), có nghĩa là “phân cách”, nghĩ rằng họ hơn những người khác vì họ giữ luật rất kỹ càng. Còn những người phái Saduxê thì được coi là những người thuộc dòng dõi thầy cả thượng thẩm Zadok trong thời các vua David và Solomon. Họ đa số là những người giàu có và có thế lực, vì vậy họ không thích những người làm cách mạng như Gioan. Đối với những người hãnh diện về gốc gác của mình mà bị gọi là “nòi rắn độc” là một điều sỉ nhục vô cùng. Loại rắn rất độc này nhìn giống như cành cây khô. Thánh Phaolô đã từng bị rắn độc này cắn trong khi đi kiếm củi.
- “Rửa tội” theo tiếng Hy Lạp có nghĩa là “nhúng vào trong chất lỏng.” Nước, lửa và gió đều được coi là “chất lỏng”. Vì vậy Gioan làm phép rửa trong nước, nhưng Chúa Giêsu làm phép rửa trong lửa và gió. Phép rửa này có thể mạnh mẽ đến làm chết người, và làm liên tưởng đến hình ảnh của sự chết và sự sống lại.
One Main Point
METANOIA (repentance)
Metanoia means “afterthought,” a change of heart and mind about what is and what is not important in life, followed by a corresponding change in behavior, or “bear[ing] fruit.” It does not mean having an emotional binge of remorse over a past that is now beyond our control. Repentance is also the first word Jesus preaches about (Mt 4:17), and the message Jesus sent disciples out to preach (Mk 6:12).
Một Điểm Chính
SÁM HỐI
Sám hối có nghĩa là “nghĩ lại”, là sự thay đổi trong trái tim và trong lý trí giúp nhận ra những gì được coi là quan trọng và không quan trọng trong cuộc sống, để đem lại một sự thay đổi trong cách sống, hoặc là “sinh hoa quả”. Nó không có nghĩa là một sự ân hận sâu xa về một quá khứ mà bây giờ đã qua khỏi tầm tay. Sám hối là điều đầu tiên Chúa Giêsu khuyên dạy mọi người (Mt 4:17), và là sứ điệp Chúa Giêsu giao cho các tông đồ đi rao giảng (Mk 6:12).
Reflections
1. What is the basis of my self-worth? A certain “separatedness” because of my social class or my actions in the Holy Church?
2. What is my value system now, and how does God call me to view my world differently?
3. In my baptism, what in me should die, and what will have a new life?
Suy Niệm
1. Đâu là tiêu chuẩn để tôi tự đánh gía trị con người của tôi? Có phải là dựa trên giai cấp của tôi trong xã hội, hoặc là dựa trên việc làm của tôi cho Giáo Hội?
2. Nấc thang giá trị hiện tại của tôi là gì? Chúa kêu mời tôi nhìn thế giới của tôi một cách khác biệt hơn như thế nào?
3. Khi được rửa tội, trong tôi những gì phải chết đi và những gì bắt đầu đời sống mới?
bài liên quan mới nhất
- Thứ Bảy tuần 1 mùa Vọng - Cảm thông (Mt 9,35-10,1.6-8)
-
Thứ Sáu tuần 1 mùa Vọng - Mù lòng Tin (Mt 9,27-31) -
Thứ Năm tuần 1 mùa Vọng - Thi hành ý muốn của Cha (Mt 7,21.24-27) -
Ngày 03/12: Thánh Phanxicô Xaviê, linh mục (Mc 16,15-20) -
Thứ Ba tuần 1 mùa Vọng - Hãy vui mừng (Lc 10,21-24) -
Thứ Hai tuần 1 mùa Vọng (Mt 8,5-11) -
Chúa nhật 1 mùa Vọng năm A (Mt 24,37-44) -
Thứ Bảy tuần 34 Thường niên năm I - Cầu nguyện liên (Lc 21,34-36) -
Thứ Sáu tuần 34 Thường niên năm I - Tỉnh thức chờ đợi (Lc 21,29-33) -
Thứ Năm tuần 34 Thường niên năm I - Thời dân ngoại & Thời của Chúa (Lc 21,20-28)
bài liên quan đọc nhiều
- Mùng 2 Tết: Kính nhớ tổ tiên và ông bà cha mẹ (Mt 15,1-6)
-
Chúa nhật 4 mùa Chay năm C - Trở về (Lc 15,1-3.11-32) -
Thứ Năm Tuần Thánh (Ga 13,1-15) -
Thứ Sáu Tuần Thánh - Thương khó (Ga 18,1-19,42) -
Chúa nhật 2 Phục sinh - Bình an cho anh em (Ga 20,19-31) -
Mùng 1 Tết: Cầu bình an trong năm mới (Mt 6,25-34) -
Thứ Tư Lễ Tro - Giữ chay và kiêng thịt (Mt 6,1-6.16-18) -
Ngày 08/09: Sinh nhật Đức Trinh Nữ Maria (Mt 1,1-16.18-23) -
Lễ thánh nữ Têrêsa hài đồng Giêsu -
Ngày 02/11: Cầu cho các tín hữu đã qua đời - Hãy tin vào Chúa (Ga 6, 37-40)