Thần học Thánh Kinh về Thập giá

Thần học Thánh Kinh về Thập giá

Trải qua lịch sử Kitô giáo đã có nhiều thứ thần học về Thập giá, bắt nguồn từ những đường lối suy tư và chiêm ngắm khác nhau khi người tín hữu đứng trước Thập giá.

Không ai chối cãi được sự quan trọng của Thập giá đối với Kitô giáo. Không những các Kitô hữu đeo ảnh Thập giá trên người để tỏ lòng mộ mến hay để tỏ ra căn cước của mình, mà thậm chí người ngoại đạo cũng coi Thập giá như là biểu tượng của Kitô giáo: chính vì thế mà tổ chức từ thiện “Hội chữ thập đỏ” đã bị các nước Hồi giáo bắt sửa lại phù hiệu thành “vầng trăng đỏ” để tránh lẫn lộn công tác nhân đạo với Kitô giáo. Mặt khác, nhiều người Kitô hữu đã gắn liền Thập giá với hy sinh đau khổ, và họ có cảm tưởng rằng không còn gì khác để nói ngoài đề tài đó. Cảm tưởng đó chỉ đúng một phần, theo nghĩa là từ hai mươi thế kỷ nay, mỗi lần nói tới Thập giá thì không thể nào tránh được vấn đề đau khổ. Tuy nhiên, ngoài đề tài đau khổ ra còn có những khía cạnh khác nữa. Một điểm đáng ghi nhận là tuy rằng đã có nhiều suy tư về ý nghĩa của Thập giá trải qua suốt lịch sử Kitô giáo, nhưng mãi tới thập niên 70 của thế kỷ XX, mới nảy ra một ngành thần học mang tựa đề là “Thần học về Thập giá” (staurologia), theo nghĩa là Thập gia trở thành trung tâm của thần học: chính nhờ Thập giá mà chúng ta biết được khuôn mặt đích thực của Thiên Chúa.

A. Thần học Kinh thánh về Thập giá.

Trong phần này, xin đề cập đến 3 vấn đề:

Thập giá trog khung cảnh lịch sử của nó.
Bốn tác giả Phúc âm đã nghĩ gì về việc Đức Giêsu phải chịu chết trên Thập giá.
Thần học của Thánh Phao-lô về Thập giá.

I. Nhục hình Thập giá

Vào thời của Đức Giêsu, Thập giá tiên vàn là một nhục hình. Trong đế quốc Rôma, Thập giá là một hình phạt dành cho các trọng tội. Tội nhân thường bị đánh đòn, và sau đó phải vác thanh ngang được chồng lên chóp của cây gỗ giống như chữ T (thanh ngang được chồng lên chóp của cây gỗ đứng); một thứ giống hình chữ thập, với bản án ghi vào ở trên thanh ngang. Thêm vào đó, cũng có nhiều kiểu để treo tử tội: thường là y bị lột hết áo xống, và bị cột hoặc đóng đinh vào khổ giá, có khi đầu bị dốc ngược xuống đất. Nói chung, đây là một hình phạt chỉ dành cho lớp bần đinh hoặc nô lệ, các tên đại tặc hay là phiến loạn; các công dân Rôma không phải chịu hình phạt này trừ kho nào họ đã bị tước quyền công dân. Ngoài sự đau đớn do cuộc hành hình gây ra, hình phạt Thập giá còn mang thêm tính cách ô nhục: tử tội không được an táng, nhưng phải phơi thây giữa trời làm mồi cho chim muông dã thú. Vì tính cách nhục nhã như vậy nên không ai muốn làm anh hùng bằng cái chết trên Thập giá. Cũng vì lý do đó mà việc tôn kính Đức Kitô trên thập tự là cả một chuyện điên rồ hèn hạ: không những thánh Phaolô đã viết như vậy trong thư thứ nhất gửi tín hữu Corintô vào khoảng 20 năm sau biến cố xảy ra, mà rồi một thế kỷ sau đó (khoảng 150-153) trong quyển sách “Hộ giáo” (Apologia I,13,4), thánh Giustinô còn ghi nhận rằng: dân ngoại coi chúng tôi là bọn khùng bởi vì đã tôn một tên tử tội trên Thập giá làm Đấng Tạo dựng đất trời.

II. Từ tường thuật hình khổ Thập giá tới suy niệm về ý nghĩa Thập giá dựa theo bốn tác giả Phúc âm

Việc Đức Giêsu chết trên Thập giá là một biến cố lịch sử, được tất cả bốn tác giả Phúc âm thuật lại; biến cố đó cũng được ghi chép nơi các sử gia Rôma (như Tacitus, Annales XV, 44-45) và Do thái (Josephus Flavius, Antiquitates Judaicae XVIII, 64). Những người hoài nghi về sử tính của Phúc âm thì chỉ nêu nghi vấn chung quanh những đoạn viết về lời giảng hay về phép lạ của Đức Giêsu, chứ không hề đụng tới câu chuyện bị chết trên Thập giá. Các Kitô hữu cũng không hề hổ thẹn gì để chấp nhận sự kiện thầy mình đã bị xử án giống như các tên trộm cướp. Thậm chí M.Kaeler cho ranừg lúc đầu Phúc âm là bản tường thuật về cuộc tử nạn của Đức Giêsu trên thập giá, rồi về sau người ta mới thêm một phần dẫn nhập để giải nghĩa lý do gì đã đưa tới sự cố đó. Dù những giả thuyết về tiến trình sự thành hình của bốn Phúc âm thế nào đi nữa, một điều rõ ràng mà chúng ta nhận thấy là tất cả bốn thánh sử đều khá đồng nhất khi thuật lại cuộc tử nạn của Đức Giêsu , với ba hồi chính:

Ngài bị bắt;
bị xét xử vàlên án;
bị đóng đinh.

1. Trong hồi thứ nhất (xức dầu ở Betania, tiệc ly, hấp hối trong vườn cây dầu), chúng ta thấy rằng Đức Giêsu đã biết và đã báo trước điều sắp xảy ra cho mình, và giải thích lý do và ý nghĩa của nó: điều đó cần phải xảy ra để hoàn tất sứ mạng. Tuy bề ngoài Ngài bị bắt nhưng kỳ thực là Ngài đã được trao nộp theo chương trình của Chúa Cha.

2. Hồi thứ hai diễn ra ở hai tòa: do thái và Rôma, kết thúc với án tử hình được thi hành ngay tức khắc. Các thánh sử đều quả quyết rằng bản án đó bất công vì Đức Giêsu không có tội tình gì hết.

3. Hồi thứ ba gồm có việc đóng đinh vào Thập giá, chết và an táng. Giọng văn kín đáo, gọn gàng, không có những chi tiết lâm ly bi đát.

Nên biết thêm là ngoài những chương thuật lại cuộc Tử nạn, Phúc âm ít khi nói tới Thập giá. Xem ra các Kitô hữu đầu tiên chấp nhận việc Đức Giêsu chịu đóng đinh vào Thập giá như là một sự kiện đã xảy ra, nhưng họ ngượng ngùng khi nhắc tới chuyện kinh hoàng ô nhục đó. Họ tìm cách lục lọi các bản văn Kinh thánh (mà ta gọi là Cựu ước) để tìm hiểu lý do và ý nghĩa của nó trong chương trình của Thiên Chúa: tại sao Thiên Chúa lại để cho Đức Giêsu bị trao nộp và chết cách thảm thương như vậy? Vì thế, dần dần các tín hữu ít nghĩ tới chính cây thập giá cho bằng suy gẫm nhiều hơn về việc Đức Kitô chết trên Thập giá. Nói khác đi, các thánh sử không chú trọng tới cây Thập giá cho bằng tới ý nghĩa của việc Đức Giêsu chịu chết trên Thập giá xét trong toàn thể sứ mạng của Ngài. Việc đong đinh trên Thập giá chỉ là một hồi trong tấn kịch dài hơn.

Thánh Matthêu và Marcô trình bày Đức Giêsu như một người hoàn toàn công chính đã bị bắt bớ và bị hăm hại vì sứ mạng của mình. Việc thiết lập bí tích thánh thể (được đặt ở hồi thứ nhất của cuộc tử nạn) đã trình bày ý nghĩa cái chết của Đức Giêsu như là sự trao hiến mạng sống của mình cho những người anh chị em. Kế đó người công chính đã lần lượt bị các bạn hữu của mình bỏ rơi, bị những người đồng đạo Do thái xét xử và nộp cho quân Rôma để bị giết. Hơn thế nữa, Mt (27,46) và Mc (15,34) còn nhấn mạnh tới việc Đức Giêsu bị bỏ rơi trên thập tự: “Chúa ôi, Chúa ôi, tại sao Chúa bỏ con?”. Đã có nhiều giải thích khác nhau về ý nghĩa của lời than ấy, chẳng hạn như: đó là tiếng kêu tuyệt vọng, tiếng kêu phản kháng, hoặc chỉ bộc lộ tình trạng tối tăm trong tâm hồn vì không thể hiểu được đường lối của Thiên Chúa. Dù sao, thì Thiên Chúa vẫn thinh lặng; hay nói đúng hơn, Thiên Chúa đã trả lời qua sự thinh lặng. Thực vậy, vào lúc mà tối tăm bao trùm khắp mặt đất, ra như vùi lấp hết những công trình của Thiên Chúa, thì này viên đội trưởng đã thốt lên: “Ông này quả thực là con Thiên Chúa” (Mc 15,39). Chính lúc xem ra tuyệt vọng hơn cả, lúc mà xem như Đức Giêsu bị Thiên Chúa bỏ rơi, thì viên đội trưởng lại nhận được ánh sáng mặc khải để khám phá ý nghĩa hoàn toàn trái ngược: không phải là Đức Giêsu bị Thiên Chúa bỏ rơi, nhưng mmà chính Đức Giêsu đã phó mặc mạng sống mình cho Thiên Chúa, và Chúa Cha đã trao ban mình cho Con.

Luca đánh dấu thêm một bước tiến nữa trong việc suy niệm về ý nghĩa thập giá. Không những viên đội trưởng đa tuyên xưng rằng Đức Giêsu hoàn toàn vô tội, nhưng nhờ cái chết của Ngài mà bao nhiêu người đã được ơn trở lại: Simon Phêrô đã khóc lóc sau khi chối bỏ thầy, Simon Cirênê đã hoán cải từ chỗ bị cưỡng bách phải tháp tùng Đức Giêsu tới chỗ vác Thập giá như một môn đệ theo thầy; một số phụ nữ đã đám ngực than khóc thống hối; một tên tử tội cũng ăn năn. Nhất là những giây phút chót của Đức Giêsu trên Thập giá đã trở thành cao điểm của ơn cứu chuộc: Đức Giêsu đã xin Chúa Cha tha tội cho những lý hình; và ơn cứu chuộc được thể hiện cách cụ thể khi mà tên trộm lành được hứa vào nước trời ngay hôm ấy. Sau cùng, lời cuối cùng của Đức Giêsu trước khi tắt thở biểu lộ long tín thác vô biên nơi Chúa Cha: “Lạy Cha, con xin phó thác thần trí con trong tay Cha” (Lc 23,46). Như vậy, đối với Luca, việc Đức Giêsu chịu chết trên Thập giá không còn phải là chuyện hành hình của một tử tội nữa, nhưng là một biến cố cứu rỗi.

Gioan thì nhìn Thập giá như sự bộc lộ của vinh quang Thiên Chúa: Đức Kitô bị treo lên Thập giá là biểu trưng của việc Ngài được nhấc lên khỏi mặt đất để thu hút mọi sự về với việc rửa chân cho các môn đệ và di chúc về tình yêu: Đức Giêsu giải thích ý nghĩa cái chết của mình như một cử chỉ tình nguyện để bộc lộ tình yêu dành cho các bằng hữu. Chính Ngài đi ra đón những kẻ lùng bắt mình. Cuộc tra tấn dã man biến thành lễ nghi phụng vụ, khi Đức Giêsu khoác tấm áo đỏ với vòng gai, và bản án là Vua (Ga 19,14.19). Thánh Gioan lặng lẽ theo dõi những giây phút chót của Đức Giêsu trên Thập giá, ghi chú những cử chỉ nhằm hoàn tất Kinh thánh: từ việc ký thác bà mẹ cho môn đệ, việc nhắp những giọt giấm cho tới việc bị ngọn giáo đâm thủng sườn: nhất là Gioan nhận định về những hậu quả của cái chết: máu, nước, Thánh Thần, biêu hiện của mạch sống mới. Thập giá trở thành nơi bộc lộ của vinh quang Thiên Chúa: Thiên Chúa tỏ vinh quang của tình yêu khi ban Con một nhục hình nhưng là ngai tòa mà Ngài hành sử vương quyền, không phải vương quyền theo nghĩa trần tục nhưng là vương quyền của tình yêu.

Như vậy ta thấy nơi bốn quyển Phúc âm đã có một diễn trình từ chỗ tường thuật một biến cố kết liễu cuộc đời của Đức Giêsu cho đến chỗ khám phá ra ý nghĩa của biến cố trong kế hoạch của Thiên Chúa.

Top