Suy niệm Lời Chúa: Chúa Nhật 33 Thường Niên B

Suy niệm Lời Chúa: Chúa Nhật 33 Thường Niên B

Các bài suy niệm CHÚA NHẬT 33 THƯỜNG NIÊN - B
Lời Chúa: Đn 12,1-3; Dt 10,11-14.18; Mc 13,24-32

 

Mục Lục
1. Ngày quang lâm
2. Ngày của Chúa
3. Chờ đợi ngày Chúa đến
4. Trời đất sẽ qua đi
5. Với uy quyền và vinh quang

 


1. Ngày quang lâm

  Phân tích

Chúa Giêsu nói về ngày Ngài quang lâm trở lại. Ngài không mô tả ngày đó nhưng cho biết những nét chính:

  - Ngày Chúa quang lâm cũng là ngày bắt đầu một cuộc tạo dựng mới: “mặt trời sẽ ra tốt tăm, mặt trăng không còn chiếu sáng, các ngôi sao từ trời sa xuống, các quyền lực trên trời bị lay chuyển” là đối ảnh của St 1,1.16 mô tả lúc Thiên Chúa tạo dựng: “Lúc khởi nguyên, Thiên Chúa dựng nên các tầng trời và trái đất. Ngài làm 2 chiếc đèn lớn, chiếc lớn hơn để cai ngày, chiếc nhỏ hơn để cai đêm, rồi các ngôi sao”.

  - “Lúc đó Ngài sẽ sai thiên sứ và tập hợp những kẻ được Ngài tuyển chọn từ bốn phương về, từ đầu mặt đến cuối chân trời: khi vũ trụ cũ đầy gian tà sụp đổ thì cũng là lúc quyền lực của Chúa lên ngôi. Những kẻ lành được Ngài chọn sẽ làm thành nhân loại mới.”

  Suy niệm

1. Trong tuần áp chót năm Phụng vụ, Giáo Hội muốn chúng ta hướng mắt nhìn lên lúc cuối cùng. Vũ trụ này không tồn tại vĩnh viễn, vì nó là vật chất nên nó phải theo luật vật chất do đó tất có ngày tận cùng. Khi đó mọi thứ giá trị vật chất cũng sẽ tiêu tan.

Nhìn trong một phạm vi nhỏ hơn là cuộc sống mỗi người thì cũng thế. Không ai sống mãi ở đời này. Cuộc sống này thế nào cũng có ngày kết thúc.Vậy tại sao tôi quá bám víu vào nó? Tại sao sống như là không bao giờ chết?

2. “Khi thấy những điều ấy xảy ra, anh em hãy biết là Ngài đã đến gần, ở ngay ngoài cửa rồi”: “những điều ấy” đối với tôi là sức khoẻ giảm sút, bệnh tật phát sinh, tóc bạc dần… Chúa thương cho tôi những tiếng báo động ấy để tôi chuẩn bị cho ngày từ giã cõi đời.

3. Đây là cuộc nói chuyện giữa một thanh niên đầy tham vọng và một cụ già rất từng trải:
  - Tôi sẽ trau giồi nghiệp vụ
  - Rồi sau đó?
  - Tôi sẽ lao vào kinh doanh.
  - Rồi sau đó?
  - Tôi sẽ tích luỹ lấy một sản nghiệp.
  - Rồi sau đó?
  - Khi về già, tôi nghỉ hưu và sống bằng đồng tiền của mình.
  - Rồi sau đó?
  - Dĩ nhiên là một ngày nào đó, tôi sẽ chết.
  - Rồi sau đó?
  - … ! (Góp nhặt)

4. Ông vua nọ có một anh hề trong cung. Vua đưa cho một cây gậy và nói: “Hãy trao gậy này cho bất cứ ai mà ngươi nhận thấy ngốc hơn ngươi”.
Một ngày kia, biết mình sắp chết, vua phàn nàn: “Ta sắp tới nơi khác và sẽ không bao giờ trở lại”. Anh hề nói với vua: “Tâu vua, ngài đã làm mọi sự để có được một căn nhà ở nơi đó?” Vua thừa nhận là chưa, anh hề ném cây gậy cho vua và nói: “Nó thuộc về Ngài. Ngài ngốc hơn tôi”.

2. Ngày của Chúa

Việc Chúa sẽ trở lại "phán xét kẻ sống và kẻ chết" là một tín điều được tuyên xưng trong Kinh Tin Kính. Niềm hy vọng về Chúa Kitô trở lại làm rung động lòng các tín hữu trong thế kỷ đầu tiên. Khi sự việc ấy được nhắc đến hơn ba trăm lần trong Tân Ước, trung bình cứ mười ba câu lại nhắc đến một lần. Còn đối với chúng ta, niềm hứng khởi xem ra ít hơn là bối rối; tâm trí chúng ta bối rối về sự kiện lời tiên tri bị che khuất, sự trở lại của Chúa được giấu kín. Nó được trình bày cho những người "thức lâu chầu mỏi" nên lâu dần coi như không có nữa. Đàng khác, những người tin Chúa "nhút nhát" sợ rằng người ta biệt mình vào loại chú tâm vào đời sau mà lơ là đời này, bận tâm về thế giới bên kia mà coi thường cuộc đời trần thế.

Dầu có thái độ nào đi nữa cũng không xứng đáng với Chúa: "Trời đất đã qua đi, nhưng lời Ta nói sẽ không qua đâu". Sự kiện việc trở lại của Chúa Giêsu nói ra trong hình ảnh "ngày của Chúa" được mô tả trong Cựu Ước và ngôn ngữ phổ thông. Trước ngày của Chúa, mặt trời mặt trăng sẽ tối tăm. Cựu Ước có nhiều câu như thế: "Kìa, ngày của Đức Chúa đến, ngày khắc nghiệt, ngày của phẫn nộ của lôi đình, ngày làm cho đất tan hoang và tiêu diệt phường tội lỗi. Tinh tú bầu trời và các chòm sao sẽ không chiếu sáng nữa, mặt trời vừa mọc lên sẽ tối sầm, mặt trăng sẽ không còn tảo sáng". (Is 13,9-10) hay Amốt: "Sấm ngôn của Đức Chúa là Chúa Thượng: trong ngày ấy ta sẽ truyền cho mặt trời lặn giữa trưa và khiến mặt đất tối sầm giữa lúc ngày đang sáng" (8-9).

Phần văn chương đại chúng thời Chúa Giêsu cũng có nhiều câu như thế: "Mặt trời thình lình chiếu sáng ban đêm, và mặt trăng ban ngày. Quỹ đạo của các ngôi sao thay đổi" (4Êxơra 5,4-7). Sách "Môsê thăng thiên" thấy trước một thời kỳ mà mặt trăng sẽ không chiếu sáng và hoàn toàn biến thành máu, và quỹ đạo của các ngôi sao bị xáo trộn" (10,5)... Chúa Giêsu đã dùng phần ngôn ngữ phổ thông mà thời của Ngài ai cũng biết.

Một phần của hình ảnh vẫn thường xuất hiện, ấy là dân Do Thái từ bốn góc trái đất sẽ được thâu góp về Palettin. Cựu Ước vốn đầy những ý niệm như vậy: "Đến ngày ấy, tù và rúc lớn, những kẻ đang mòn mỏi tại đất Átma và những kẻ bị xua đuổi sang Ai Cập sẽ đến và thờ lạy Đức Chúa trên núi thánh tại Giêrusalem" (Is 27,13). Và tiên tri Mikha: "Ngày ấy người ta sẽ tuôn đến với ngươi, từ Átma đến các thành Aicập, từ AIcập đến sông cả, từ biển này qua biển nọ, từ núi này đến tận núi kia" (7,12) "Do lòng thương xót tha thiết của Ngài, Chúa Giavê sẽ thâu góp các ngươi lại trong đức tin nhờ danh của Apraham, Isaac và Giacop" (Di chúc của Ase 7,5-7)

Khi đọc những lời đầy hình ảnh của Chúa Giêsu về việc trở lại của Ngài, chúng ta nhớ rằng Ngài không hề ban cho chúng ta một bản đồ về cõi đời đời hay một thời gian biểu cho tương lai, nhưng Ngài chỉ dùng ngôn ngữ và các hình ảnh người do thái đã từng biết và xử dụng từ nhiều thế kỷ trước Ngài. Điều duy nhất chúng ta cần biết là Ngài sẽ lại.
Thỉnh thoảng có người chủ trương rằng khi Chúa Giêsu bảo các việc này xảy ra trong vòng một thế hệ là Ngài đã nói sai. Nhưng Chúa Giêsu nói đúng vì câu này không hề ám chỉ sự tái lâm. Câu này không thể nói như thế vì ngay câu tiếp theo đó, Ngài còn bảo sẽ không ai biết ngày giờ nào việc ấy sẽ xảy ra. Nó ám chỉ về những lời tiên tri của Chúa Giêsu về việc thành Giêrusalem thất thủ và Đền Thờ sẽ bị phá hủy, là những việc đã ứng nghiệm một phần lớn.

Chúa Giêsu bảo rằng Ngài không biết ngày nào Ngài sẽ tái lâm. Có nhiều điều Ngài trao trọn vào tay Thiên Chúa Cha mà không thắc mắc. Không thể có lời cảnh cáo và quy trách nào nghiêm trọng hơn cho những kẻ muốn tính ngày giờ cho việc Chúa tái lâm. Chắc chắn chúng ta muốn truy tầm tra vấn cho ra điều mà chính Chúa bằng lòng không tìm biết, thì tội đó quả là tội phạm thượng.

Chúng ta đang sống trong bóng của cõi đời đời. Không có lý gì để sợ hãi hoặc sốt ruột chờ trông. Điều có lẽ nhất là hằng ngày chúng ta phải làm cho trọn phần việc của mình, chúng ta phải sống dường như việc Chúa tái lâm lúc nào cũng là việc rất bình thường. Nhưng nó cũng cảnh giác chúng ta biết trong mọi sự việc làm điên dại hơn hết là quên Thiên Chúa mà chìm đắm trong thế gian. Người khôn ngoan không bao giờ quên mình phải sẵn sàng khi nghe tiếng kêu gọi. Nếu các hướng đạo sinh có thể học cách sống với hoàn cảnh thức tế dù bất cứ chuyện gì xảy ra với phương châm: "Hãy sẵn sàng" thì tại sao các Kitô hữu là chúng ta lại quá chậm trong việc học bài học tương tự liên quan đến việc Chúa trở lại. Nếu chúng ta sống và luôn luôn nhớ rõ như vậy thì kết cuộc sẽ không hề là kinh khủng nhưng là niềm vui đời đời. "Hãy sống mỗi ngày như thể hôm nay là ngày cuối".

3. Chờ đợ ngày Chúa đến

  Từ nhưng hình ảnh Khải huyền

Chương 13 của Tin Mừng Máccô đã được trích đọc vào Chúa Nhật thứ nhất Mùa Vọng để khai mạc năm phục vụ B, mà cũng được trích đọc hôm nay để kết thúc năm phục vụ này. Vào lúc Đức Giêsu ra khỏi đền thờ để rồi không bao giờ trở lại nữa, một trong số các môn đệ của Ngài mong muốn Thầy chia sẽ lòng thán phục của mình: "Này Thầy nhìn kìa, những phiến đá rực rỡ biết bao, toà kiến trúc rực rỡ chừng nào!". Ngôi đền thờ thực ra có gì đáng thán phục. J,Putin giải thích: "Đền thờ do Hêrôđê xây lên đã là một trong những công trình đẹp nhất thế giới. Ngay cả đến Rôma cũng không có ngôi đền thờ tôn giáo nào hùng vĩ đến như vậy. Tính bạo tàn của người xây lên nó cũng giảm bớt hung hãn trước vẻ tráng lệ của nó; nó còn vượt xa đền thờ vinh hiển của Salomon. Nền móng vững chắc của nó bảo đảm nó có thể đứng vững nhiều thế kỉ, vẻ sáng ngời của cẩm thạch và vàng bạc trang trí ngời lên đức tin độc thần lan đi khắp cả hành tinh" ("Jésus, l'histoire vraie", Centurion, tr-396).

Câu trả lời của Đức Giêsu làm môn đệ người cụt hứng: "sẽ không còn phiến đá nào chồng lên phiến đá nào" (13,1-2). Nào đền thờ không biểu trưng cho Thiên Chúa hiện diện giữa dân Người đấy ư? Phải chăng lời tiên báo về đền thờ sẽ bị huỷ là mào đầu cho một thiên tai to lớn hơn: đó là ngày tận cùng của cả thế giới hay tận cùng của cả dân tộc?
Vì vậy, ngay khi Đức Giêsu vừa ngồi ở sườn núi cây dầu mà từ đây người ta có thể nhìn toàn cảnh của thành thánh và đền thờ, thì Phêrô, Gioan, Giacôbê, Anrê những môn đệ được Chúa gọi đầu tiên, xin Chúa trả lời những câu hỏi đầy lo lắng của họ: "Xin Thầy nói cho biết khi nào các sự việc ấy xảy ra và khi tất cả sắp đến hồi chung cục, thì có điềm gì báo trước?" (13,3). Lời thỉnh cầu của bốn môn đệ này là cơ hội để Đức Giêsu nói lên diễn từ dài nhất trong Tin Mừng thánh Máccô: trong diễn từ đó, cái nhìn hướng về sự tiêu hủy của đền thờ pha trộn với cái nhìn hướng về ngày thế mạt. Lối văn dùng nhiều kiểu nói của những sách Khải huyền, mang lại niềm hy vọng đến cho những người sống trong cơn khủng hoảng trầm trọng. Những hình tượng màu mè, tuy hoàn toàn truyền thống, không chủ ý gieo rắc nỗi lo sợ kinh hoàng, nhưng muốn làm nổi bật cuộc xáo trộn do sự can thiệp của Thiên Chúa gây nên. J,Hervieux trong cuốn "L'Evangile de Marc", (Centurion, trang 192) cảnh báo rằng: "Người đọc mà hiểu theo mặt chữ thì cách hiểu của họ và của người Do Thái thế kỉ thứ nhất cách xa nhau hàng trăm dặm". Mặt trời ra tối tăm, mặt trăng không còn chiếu sáng, các vì sao từ trời rơi xuống, các quyền lực trên trời bị lay chuyển... chỉ là loan báo các cuộc hiển thắng cuối cùng của Chúa vào ngày tận cùng của lịch sử.

  Đến Tin Mừng mà những hình ảnh ấy loan báo

Trong bối cảnh một vũ trụ được đổi mới tận căn này, Đức Giêsu đã loan báo Tin Mừng về Vương Quốc công chính và hòa bình của Người được biểu lộ vào lúc tận cùng thời gian. Người tự đồng hóa với Con người của sách ngôn sứ Đaniel (bài đọc I Chúa Nhật tới), Đấng ngự trong đám mây mà đến, sẽ sai các thiên sứ đi tập họp những kẻ được Người tuyển chọn-tức là những người đã luôn trung thành qua những cuộc thử thách từ bốn phương về, từ đầu mặt đất cho đến cuối chân trời. Ngày Chúa trởi lại sẽ là ngày tuyệt vời, ngày mà tình thương và sự sống chến thắng quyền lực sự ác và cái chết.

J.Hervieux gợi ý: "Các môn đệ nêu lân câu hỏi về sự cố hủy diệt đền thờ: bao giờ việc ấy xảy ra? Câu đáp của Chúa đưa các ông vượt qua biến cố đó một quãng xa. Không nên chỉ nhìn đền thờ như một địa điểm tụ họp. Nó sẽ điều tàn và cả những gì thuộc về nó cũng vậy. Cần phải ngước mắt nhìn lên Đấng, còn cao hơn Đền thờ, sẽ là Đấng tập họp toàn thể nhân loại đã được giải thoát khỏi ác thần. Đó là Đức Kitô vinh hiển, Đấng Phục Sinh" (Sđd, tr-195). Thật là đầy ý nghĩa, Máccô trước khi bước sang chương 14 tường thuật cuộc khổ nạn của Đức Giêsu, đã muốn "vén bức màn" (đó là nghĩa của từ Apocalypse-mạc khải), để hé mở cho ta nhìn thấy ánh sáng chói ngời của ngày Người trở lại trong vinh quang, ngày khiến lịch sử cuộc đời ta có ý nghĩa.

  Và đến thái độ mà những hình ảnh ấy khơi dậy: tỉnh thức

Cây vả, loại cây có trái trễ, rất quen thuộc đối với các thính giả, cung cấp chó Đức Giêsu tư liệu của một dụ ngôn minh họa cho sứ điệp của Người. Nó rụng hết lá vào mùa đông, và khi bước sang xuân ngắn ngủi của vùng Pelestin, thấy xuất hiện chồi non và rồi đến lá non, báo hiệu mùa hạ, mà trong mùa đó trái vả ngọt ngào sẽ chín mùi. Vâng cũng như bất cứ người nông dân biết quan sát nào cũng có khả năng đoán biết mùa hạ sẽ đến sớm hay trễ, thì các môn đệ Chúa cũng phải học cách đọc các dấu chỉ thời đại để nhận ra ở giữa dòng lịch sử thời đại mình có "Đấng đã gần đến", có "Đấng đang đứng ở cửa". Đó là Con người.

Đức Giêsu còn nói tiếp: "Thế hệ này sẽ chẳng qua đi, trước khi mọi điều ấy xảy ra". Một câu nói gây nhiều rắc rối cho các nhà chú giải thánh kinh, và họ cắt nghĩa mỗi người một cách.

Ta chỉ nên lưu ý kiểu nói này khá mơ hồ và khái quát, nên không ám chỉ những độc giả của Máccô (là những Kitô hữu đang phải đương đầu với những xáo trộn và với cuộc bách hại), nhưng còn chỉ bất cứ thế hệ tiếp theo nào của lịch sử: như thế hệ chúng ta ngày nay, thế hệ đã bước qua thiên niên kỷ thứ ba.

Đức Giêsu kết luận: "Còn về ngày hay giờ đó thì không ai biết được... ngay cả Con người cũng không, chỉ có Chúa Cha mới biết mà thôi".

Sự không biết của Chúa Con này có thể khiến chúng ta kinh ngạc. Dù sao, nó nhấn mạnh đặt biệt nhân tính của Đức Giêsu. Và Máccô cho rằng đó là thêm một lý do để chấm dứt những suy diễn và tò mò có hại về ngày giờ xảy ra tận thế, vì đó là bí nhiệm tuyệt đối của Chúa Cha, và là lý do để kêu gọi mọi tín hữu sống giây phút hiện tại trong tinh thần chờ đợi Đấng sẽ đến.

4. Trời đất sẽ qua đi

Thường thường vào cuối năm phụng vụ Giáo Hội thường chọn thực ti cánh chung làm đề tài suy niệm. Cuối năm là lúc thuận tiện nhất để suy nghĩ về ý nghĩa đời người và ý nghĩa của toàn lịch sử. Điều đáng suy niệm hơn cả sự mong manh và giới hạn của thế giới hiện tại. Thế giới này trước sau rồi sẽ qua đi và sẽ được thay thế bằng thế giới vĩnh củu mà Thánh kinh gọi là "trời mới đất mới".

  Lịch sử sẽ không vô tận

Một ngày kia nó sẽ chấm dứt. Điều này nhiều lúc có vẻ phi thực, xa xôi với con người thực tiễn hôm nay. Đây xem ra rất xa lạ với những ý nghĩ, ưa tư và nhịp sống thường ngày của đại chúng. Trong lúc khắp nơi cuộc sống diễn ra bình thường hoặc sôi nổi, hoạt động kinh tế khẩn trương, khoa học kỹ thuật phát triển với tốc độ chớp nhoáng, nhiều chương trình phát triển dài hạn được dự tính, những số vốn khổng lồ được dự chi cho những công trình thế kỷ mà lại nhắc đến chuyện lịch sử mong manh, thế giới có giới hạn thì xem ra có vẻ viển vông, lạc điệu.

Nhưng lại là chân lý đức tin, là sự thật có lẽ không vui nhưng không thể phủ nhận. Trên đời này, ngoài lời hằng sống của Thiên Chúa, có gì mà lại không qua đi. Loài người không phải là thần thánh bất tử. Những công trình do tay người làm nên, dầu là kim tự tháp hay vạn lý trường thành, đều có niên hạn. Mòn mỏi, tiêu hao, xuống cấp, suy tàn là định luật của vật chất và thời gian, nó nằm ngay trong bản chất của sự vật.

Hồi kết thúc, cái tận điểm có lẽ còn xa, rất xa... nhưng dầu xa bao nhiêu, tận điểm vẫn là tận điểm, kết thúc vân là kết thúc. Xa nhưng rồi cũng sẽ đến, trước sau rôi cũng sẽ phải đến.

Nói như vậy không phải để chúng ta bi quan, thụ động hay quay lưng lại với cuộc sông. Lẩn trốn cuộc đời nhất định không phải là một thái độ hợp với Tin Mừng. Chúa Giêsu không bao giờ bảo chúng ta khinh chê cuộc đời. Nếu tự nó cuộc đời đáng khinh chê thì Ngài đã không sinh làm người, nhận cuộc sống trần gian này làm của mình. Nhưng đồng thời Ngài nhắc nhở chúng ta: cuộc đời này, thế giới hiện tại dầu sao cũng chỉ tương đối. Tương đối vì chỉ là con đường, nhưng chưa phải là nơi ta có thể ngưng chân.
Con đường này phải dẫn tới một thế giới khác, thế giới mới mà Chúa Giêsu đã hứa. Đó mới là nơi chứng ta sẽ dừng chân để an nghỉ. Vậy trên con đường đó chúng ta phải luôn tiên về phía tníớc. Tiến nhanh, vui vẻ mà đi, nhất là không để mình bị sa lầy. Hưởng đúng mức cuộc đời hiện tại, nhưng luôn hướng tới cuộc đời vĩnh cưu, chung cuộc, nơi Thiên Chúa đang đợi mỗi người chúng ta và toàn thế loài người.

  Chúa đợi ở cuối đường

Có thật Chúa đang đợi ta ở cuối đường và ở đó ta sẽ gặp Ngài không?
Chắc chắn cuộc gặp gỡ này sẽ diễn ra. Trong đoạn Tin Mừng nêu trên, sau khi nhắc tới tính mong manh và tương đối của thế giới hiện tại, Chúa Giêsu kết luận: “Trời đất sẽ qua đi, nhưng lời Ta nói sẽ chẳng qua đâu.”

Đó là chân lý của đời Kitô hữu và cũng là niềm hy vọng cuối cùng của những người tin. Mọi cái sẽ lần lượt qua đi, chẳng còn gì, kể cả mỗi người chúng ta, con cháu chúng ta và mọi thế hệ tiếp theo. Mỗi người theo lượt của mình, trong tương lai gần hay tương lai xa

Sau cùng chỉ còn Thiên Chúa vĩnh cửu, siêu thời gian, chỉ còn tình yêu thương vô tận và ơn cứu độ của Ngài, chỉ còn những ai trong suốt cuộc đời đã tin vào Ngài, đi theo Ngài và yêu mến Ngài, chỉ còn những gì chúng ta đã làm vì Ngài và vì tha nhân.

Trong cơn bão táp làm sụp đổ mọi sự, trong cơn lũ cuốn trôi tất cả, muốn được cứu sống phải bám vào một điểm tựa thật kiên cố. Thánh Kinh gọi Thiên Chúa là "thành lũy', là "tảng đá" không phải là thiếu ý nghĩa. Ngài kiên vững, trường tồn, bất biến, vĩnh cửu. Mọi thế hệ và mọi sự sẽ lần lượt qua đi, thế hệ này nối tiếp thế hệ kia. Trong cơn bão táp sóng gió dữ dội đó, chúng ta phải tìm kiếm cái chân thật vĩnh cửu, sống cho những giá trị vĩnh cửu, hướng dẫn cuộc đời theo những chân lý vĩnh cửu, gắn bó với Đấng vĩnh cửu là Thiên Chúa. "Trời dất sẽ qua di, nhưng lời Ta nói sẽ chẳng qua dâu".

5. Với uy quyền và vinh quang

Jim mới được 10 tuổi, một nhóm thiếu niên trong tuổi 15 đã làm em khổ sở. Chúng đẩy em xuống đường, làm em trượt té trên sân trường, và còn lấy cắp tiền ăn trưa của em nữa. Chúng dọa đánh em. Đâm em bằng con dao sáng loáng. Jim không bao giờ nói cho ai hay. Một hôm, đám du côn làm quá, em phải thốt lên: “Tao sẽ méc anh tao cho tụi bay”. Chúng chế nhạo: “Đem nó lại đây, càng lớn té càng đau”.

Ít ngày sau, đán du côn thấy Jim đi phố, bên cạnh một người lực lưỡng, cao 1m8 trong bộ đồng phục nhà binh với những giây chiến thắng. Đó là anh của Jim tên Bob, bất thần Bob ra lệnh: “Nhãi con, trả tiền cho em tao”. Chúng móc hết túi ra và còn phải hứa trả tiền ăn cắp còn lại.

Chợt nhớ câu chuyện khi chúng ta nghe bài Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu nói về Người trong bài phán xét chung: “Họ sẽ thấy con người đến trong mây trời với uy quyền và vinh quang”.

Thường thường ý tưởng về ngày phán xét chung gợi cho chúng ta lòng kính sợ Chúa. Như hôm nay, tôi nghĩ rằng: “Ngày phán xét chung cho những người phụng sự Chúa: một hy vọng lớn lao, một niềm cậy trông vui mừng, một cái gì giông giống niềm hy vọng của Jim: anh của Jim sẽ làm sáng tỏ vấn đề.

Với chúng ta, những người theo Chúa Kitô: ý tưởng về ngày phán xét tận cùng phải là một ngày hạnh phúc, vui mừng.

Đó là đề tài của lời cầu nguyện sau Kinh Lạy Cha trong thánh lễ: “Trong lòng nhân từ của Cha, xin giữ chúng con khỏi tội lỗi và che chở chúng con khỏi mọi nỗi lắng lo. Trong khi chúng con trông đợi, trong hy vọng hân hoan sự trở lại của Chúa Kitô, Đấng cứu chuộc chúng con”.

Rồi linh mục và giáo dân hô to: “Vì nước trời, uy quyền và vinh quang là của Cha. Bây giờ và mãi mãi”.

Lời kinh nguyện thứ ba dùng thành ngữ: “Sẵn sàng đón mừng Người khi Người trở lại”.

Trong lời kinh nguyện ấy, trong việc tưởng nhớ Người chết, chúng ta tuyên xưng đức tin: “Chúa Kitô sẽ làm cho thân xác hay chết của chúng ta trở nên giống thân xác của Người trong vinh quang... chúng con hy vọng được chia sẻ vinh quang của Chúa. Khi mọi nước mắt của chúng con được lau sạch”.

Chúng ta trông đợi trong niềm tin cậy và hy vọng hân hoan sự trở về của người anh cả: đức Giêsu đầy uy quyền và vinh quang với tình yêu vô hạn đối với em nhỏ của Người là bạn và tôi. Người chỉ đáng sợ đối với những kẻ khinh thường Người, những kẻ coi nhẹ Người và các kẻ theo Người. Nhưng Người đầy uy quyền và vinh quang đối với những kẻ ca tụng Người, tôn vinh Người và theo Người như chúng ta hôm nay và ngày mai.

Xin Chúa chúc lành bạn.

Top