Hiệp thông và vấn đề những người ly dị tái hôn

Hiệp thông và vấn đề những người ly dị tái hôn

Bài của linh mục Edward McNamara, LC. Ngài là Giáo sư Phụng vụ và là Trưởng Khoa Thần học tại Đại học Nữ Vương các thánh Tông đồ (Regina Apostolorum).

Câu hỏi: Trong cuộc thảo luận tại một cuộc họp gần đây ở một giáo hạt trong địa phận, một linh mục bày tỏ rằng ngài cho các giáo dân công giáo đã ly dị và tái hôn dân sự (nghĩa là chưa có được sắc lệnh tuyên bố hôn nhân của họ bất thành) được rước lễ, nại tới quyền của “tòa trong” mà không xem xét gì tới sinh hoạt vợ chồng của họ. Vậy, dưới ánh sáng của sách Giáo Lý Hội Thánh Công Giáo số 1650, vị linh mục ấy đang nói về vấn đề gì vậy? Không biết tôi có thiếu sót điều gì không? (G. S., một tín hữu ở Florida.)

Trả lời: Sách Giáo Lý số 1650 nói như sau:

«Ngày nay có nhiều người Công giáo, ở một số nơi, đã ly dị và tái hôn theo luật đời. Hội Thánh, vì trung thành với lời của Chúa Giêsu Kitô (“Ai rẫy vợ mà cưới vợ khác là phạm tội ngoại tình đối với vợ mình; và ai bỏ chồng để lấy chồng khác, thì cũng phạm tội ngoại tình” : Mc 10,11-12), nên không thể công nhận việc tái hôn như vậy là thành sự, nếu hôn nhân lần đầu đã thành sự. Nếu những người đã ly dị tái hôn theo luật đời, thì họ ở trong tình trạng vi phạm luật Thiên Chúa một cách khách quan. Kể từ lúc đó, họ không được ruớc lễ, bao lâu còn sống trong tình trạng này. Cũng vì vậy họ không thể đảm nhận một số trách nhiệm trong Hội Thánh. Sự giao hòa qua bí tích Thống Hối chỉ có thể được ban cho những ai thống hối vì mình đã vi phạm dấu chỉ của giao uớc và của sự trung thành với Đức Kitô, và tự buộc mình sống tiết dục trọn vẹn».

Cần bổ túc thêm đoạn của số tiếp theo 1651 sau đây:

«Đối với những Kitô hữu đang sống trong tình trạng như vậy mà vẫn giữ đức tin và ao ước giáo dục con cái họ theo Kitô giáo, các tư tế và toàn thể cộng đoàn phải tỏ ra ân cần quan tâm, để họ đừng tự coi như bị tách lìa khỏi Hội Thánh: họ có thể và phải tham gia vào đời sống của Hội Thánh với tư cách là những người đã được rửa tội:

“Họ được khuyền khích nghe Lời Chúa, tham dự hy tế Thánh lễ, kiên trì cầu nguyện, góp phần vào việc bác ái và các việc phục vụ đức công bằng của cộng đoàn, giáo dục con cái trong đức tin Kitô giáo, sống tinh thần thống hối và làm các việc đền tội, để như vậy, hằng ngày họ nài xin Thiên Chúa ban ân sủng” (Familiaris Consortio 84)».

Giáo lý này tóm lược giáo thuyết của Hội Thánh vốn được hình thành trong một thời gian lâu dài nhưng cũng có xét đến những ý kiến tranh luận trong một vài thập kỷ vừa qua.

Thực tế là mỗi vị mục tử đều phải đối diện để giúp đỡ những người tốt nhưng lại rơi vào hoàn cảnh đã dấn thân trong những mối quan hệ mới tương đối bền vững trong khi dây hôn phối bí tích cũ vẫn còn hiệu lực. Sự thường đó là một quan hệ thứ hai đã kéo dài lâu hơn quan hệ thứ nhất và lại đã có phúc lành con cái. Sự kiện nhiều người tín hữu sống trong hoàn cảnh như thế mà không được rước lễ là một nỗi đau đớn đối với họ.

Những hoàn cảnh khó khăn như vậy đã khiến cho một số các giám mục và các nhà thần học đề xướng giải pháp gọi là “tòa trong” hay “lương tâm ngay lành” giải quyết cho một số trường hợp đặc biệt những đôi ly dị và tái hôn.

Những người đề xuất lý thuyết này cũng khác nhau trong khi định nghĩa và áp dụng giải pháp giả định. Nhìn chung, đó là một giải đáp mục vụ trong đó một người nào đó, với sự giúp đỡ của một linh mục, xác tín cuộc hôn nhân trước của mình là vô hiệu dù chưa có được một minh định bên ngoài nào của tòa án về tính hiệu lực hay không hiệu lực của hôn nhân đó. Từ đó, với niềm tin tưởng ấy người này nghĩ mình được phép trở lại lãnh các bí tích cách bình thường. Tuy nhiên, có nhiều ý kiến khá khác nhau khi áp dụng cụ thể giải pháp giả định này. Một số tác giả nhấn mạnh rằng giải pháp này không do một linh mục ban phép cho nhưng chỉ được thực thi bởi sự hướng dẫn của ngài. Những người khác thì minh nhiên cho rằng đó là một quyết định từ phía một linh mục làm bên ngoài tòa án.

Cũng có những người khác cho rằng trước khi viện đến tòa trong (lương tâm ngay lành) đương sự đã phải nỗ lực nhiều để tiến hành những thủ tục tòa ngoài (tòa án hôn phối) nhưng không thành công hay gặp nhiều khó khăn. Những người khác nữa thì cho rằng đó có thể là những trường hợp đương sự tự quyết định dù không có một liên hệ nào với tòa án vì có những lí do chính đáng để không làm như vậy.

Các tác giả ủng hộ “giải pháp tòa trong” này đồng lòng công nhận rằng chỉ giới hạn áp dụng cho một số cặp li dị tái hôn nào đó mà thôi chứ không phải chấp nhận cho phép tất cả được trở lại lãnh nhận các bí tích.

Một số điều kiện hoàn cảnh mà các tác giả này lưu ý có thể như sau: rằng họ có thể lãnh nhận các bí tích với điều kiện không gây cớ vấp phạm trong cộng đoàn; rằng họ phải hứa tiến hành làm phép hôn phối của họ khi người phối ngẫu trước qua đời; họ cho thấy mối quan hệ thứ hai đó là bền vững; họ phải hiểu rằng việc cá nhân họ được phép lãnh các bí tích không có nghĩa là giáo lý hôn nhân Công giáo vốn bất khả phân ly nay đã bị thay đổi, đó cũng không phải là một quyết định chính thức tuyên bố hôn nhân trước bất thành.

Chúng tôi đã nhất thiết trình bày lại cho đơn giản các luận cứ của các tác giả đó, nhưng hi vọng đã không hiểu sai họ.

Đồng thời, chúng tôi cũng lưu ý rằng đây chỉ là những ý kiến chứ không phải là giáo lý chính thức của Hội Thánh Công giáo về vấn đề tòa trong.

Giáo huấn chính thức của Hội Thánh về đề tài này có nhiều. Chúng tôi sẽ chỉ tham khảo những văn kiện quan trọng nhất cho lấp luận của mình.

Ngày 11/04/1973 Đức Hồng y Franjo Seper, bộ trưởng Bộ Giáo lý Đức tin đã viết cho Đức Giám mục chù tịch Hội Đồng Giám mục Hoa kỳ về “những ý kiến chối từ hay ra sức kêu gọi người ta đặt thành vấn đề giáo huấn của Hội Thánh về hôn nhân bất khả phân ly”,  và kết thúc với những lời hướng dẫn thực tiễn sau đây:

“Về vấn đề có đón nhận hay không những người (ly dị tái hôn) cho họ lãnh nhận các bí tích các đấng Bản Quyền được yêu cầu, một mặt phải kêu gọi họ tuân giữ kỷ luật hiện hành của Hội Thánh, mặt khác, các mục tử phải lo liệu quan tâm cách đặc biệt tìm kiếm cho được những người đang sống trong những tình cảnh hôn nhân trái luật như vậy, và giúp giải gỡ cho họ đồng thời bổ túc thêm bởi một phương tiện đúng đắn, đó là thực hành được Hội Thánh chuẩn nhận ở phạm vi tòa trong” (probatam Ecclesiae praxim in foro interno)”.

Một số các Đức Giám mục yêu cầu minh định ý nghĩa của sự thực hành được Hội Thánh chuẩn nhận ở phạm vi tòa trong. Ngày 21 / 03 / 1975 đức tổng giám mục Jean Hamer, Thư ký Bộ Giáo lý Đức tin đã viết như sau:

“Lúc này tôi muốn nói rằng câu nói này [probata praxis Ecclesiae] phải được hiểu trong bối cảnh của thần học luân lý truyền thống. Những người này [những người Công giáo đang sống trong hoàn cảnh hôn nhân trái luật] có thể được lãnh nhận các bí tích với hai điều kiện: họ phải cố gắng sống phù hợp với các đòi hỏi của các nguyên tắc luân lý Kitô giáo, và họ lãnh nhận các bí tích trong các nhà thờ nơi mọi người không biết đến tình trạng của họ để không tạo ra cớ vấp phạm cho ai hết”.

Những tài liệu này cùng với tông huấn Familiaris Consortio của Đức Thánh Cha Gioan-Phaolô II là cơ sở cho Giáo lý trên.

Năm 1994, hai năm sau công bố sách Giáo lý của Hội Thánh, trả lời cho một số những ý kiến đề xuất có thể có chăng những ngoại lệ mục vụ ngoài giáo thuyết này cũng như ngoài các điều khoản Giáo luật đã định, Bộ Giáo lý Đức tin đã viết một bức thư gửi cho các giám mục trên toàn thế giới, “Về vấn đế rước lễ của những người tín hữu ly dị - và tái hôn”.

Văn thư này lặp lại quan điểm của Familiaris Consortio và sách Giáo lý Hội Thánh (bao gồm hai lý do nói trên), và còn nói thêm rằng “cấu trúc của Tông huấn và cung điệu của những lời lẽ phát biểu của giáo huấn đó cho ta hiểu cách rõ ràng là, trong thực hành có tính bắt buộc đó không thể có sự thay đổi vì lý do có những hoàn cảnh khác biệt nào”.

Giáo lý cơ bản này được khẳng định một lần nữa năm 2007 trong Tông huấn “Sacramentum Caritatis” (Bí tích Tình Yêu) : “Thượng Hội đồng các Giám mục xác nhận thực hành của Hội Thánh, căn cứ trên Thánh Kinh (x. Mc 10,2-12), là không chấp nhận người li dị và tái hôn được đón nhận các bí tích, vì tình trạng và hoàn cảnh sống của họ mâu thuẫn khách quan với sự kết hợp yêu thương giữa Đức Kitô và Hội Thánh vốn được biểu thị và hiện diện nơi bí tích Thánh Thể”.

Như thế, rõ ràng là Tòa Thánh đã bác bỏ “giải pháp tòa trong” như là một cách thức khả thể có hiệu lực để giải quyết vấn đề tính hợp pháp của hôn phối. Kết hôn là một hành vi công khai trước mặt Thiên Chúa và trước mặt cộng đồng xã hội, vì thế những vấn đề liên hệ đến tính hợp pháp hay không hợp pháp của hôn phối chỉ có thể được giải quyết ở tòa ngoài. Chấp nhận được lãnh nhận bí tích có lẽ chỉ đối với những hoàn cảnh Giáo lý đã nói tới.

Tuy nhiên, các Đức Thánh Cha gần đây đã cảm nhận sâu sắc nỗi khốn khổ buồn đau của các cặp ở trong tình cảnh này. Từ những tháng đầu tiên trên ngôi Giáo hoàng Đức Bênêđictô XVI đã yêu cầu nghiên cứu sâu xa hơn nữa điểm khó khăn này. Cũng thế Đức Phanxicô cũng đề cập đến đề tài này và kêu gọi các Đức Giám mục đề xuất những sáng kiến khả dĩ giúp Hội Thánh chăm sóc các thành phần này của Thân mình Đức Kitô cách tốt hơn.

Thế nhưng, như một vị hồng y đáng kính kia lưu ý khi nói đến đề tài này, “đen sẽ không thể thành trắng được”. Không một giải pháp mục vụ nào có thể thay đổi Tin mừng hoặc giáo huấn của Hội Thánh về hôn nhân bất khả phân ly được.

Việc mục vụ quan trọng nhất mà Hội Thánh có thể và nên làm là cố gắng khuyến khích việc đào luyện những người trẻ Công giáo để sao cho họ tiến tới hôn nhân với ý hướng hợp tác với ân sủng của Chúa giúp để làm một dấn thân trọn đời. Nói cách khác, giải pháp căn cơ nhất giải quyết việc ly dị và tái hôn là trước hết phải tránh ly dị.

Đồng thời, cũng là ngây thơ nếu nghĩ rằng một số cuộc hôn nhân sẽ không gặp thất bại, hoặc không bao giờ có một cử hành hôn phối bất thành nào. Đây là một hệ luận không tránh khỏi của sự yếu đuối và tự do của con người. Cũng thế, hiện nay có rất nhiều người Công giáo đang sống trong tình trạng bất hợp luật (rối) đang có nhu cầu mục vụ cụ thể cần được giúp đỡ, và Hội Thánh được thúc bách phải tìm những phương cách giúp đỡ họ, trong khi vẫn tôn trọng giáo huấn của Đức Kitô về hôn nhân thánh thiện.

Có lẽ đây là tinh thần mà Đức Thánh Cha Phanxicô và các Đức Giám mục sẽ khảo sát mọi con đường và sáng kiến nào sẵn có thể đem ánh sáng Đức Kitô đến cho mọi thành phần của Hội Thánh.

Top