Giáo lý về cầu nguyện của Đức Bênêđictô XVI - Bài 34: Thánh Phaolô

Giáo lý về cầu nguyện của Đức Bênêđictô XVI - Bài 34: Thánh Phaolô

Giáo lý về cầu nguyện của Đức Bênêđictô XVI - Bài 34: Thánh Phaolô

WHĐ (30.06.2024) – Trong buổi Tiếp kiến chung sáng thứ Tư ngày 16.05.2012, Đức Thánh Cha Bênêđictô XVI tiếp tục trình bày loạt bài giáo lý về cầu nguyện với bài thứ 34: Thánh Phaolô. Sau đây là toàn văn bài giáo lý của Đức Thánh Cha.

ĐỨC BÊNÊĐICTÔ XVI

TIẾP KIẾN CHUNG

Quảng trường Thánh Phêrô

Thứ Tư, 16 tháng 05 năm 2012

Anh chị em thân mến,

Trong các chương trước, chúng ta đã suy tư về lời cầu nguyện trong Sách Công vụ Tông đồ. Giờ đây tôi muốn bắt đầu nói về lời cầu nguyện trong các Thư thánh Phaolô, vị Tông đồ dân ngoại. Trước tiên, tôi muốn ghi nhận rằng không phải tình cờ mà các thư của thánh nhân luôn luôn được mở đầu và kết thúc với các kiểu diễn tả lời cầu nguyện: mở đầu với lời nguyện tạ ơn, chúc tụng, và kết thúc với lời cầu chúc ân sủng Chúa hướng dẫn con đường của cộng đoàn tín hữu. Giữa công thức mở đầu: “Tôi tạ ơn Thiên Chúa nhờ Đức Giêsu Kitô” (Rm 1,8) và lời cầu chúc kết thúc “cầu chúc anh em đầy tràn ân sủng của Chúa Giêsu!” (1Cr 16,23), đó là nội dung của các thư. Lời cầu nguyện của thánh Phaolô là một lời cầu nguyện biểu lộ các hình thái rất phong phú, từ lời cảm tạ tới lời chúc lành, từ lời ca ngợi tới lời xin ơn và chuyển cầu, từ thánh thi tới lời khẩn nài: một thay đổi các kiểu diễn tả chứng minh cho thấy lời cầu nguyện lôi cuốn và thấm nhập tất cả mọi tình trạng sống cá nhân cũng như cộng đoàn mà thánh nhân hướng tới.

Một yếu tố đầu tiên mà vị Tông đồ này muốn làm cho chúng ta hiểu đó là không được coi lời cầu nguyện đơn thuần như là một hành động, một công việc làm tốt, mà chúng ta chu toàn đối với Thiên Chúa. Nhưng trước hết nó là một ân huệ, hoa trái của sự hiện diện sinh động, trao ban sức sống của Chúa Cha và của Đức Giêsu Kitô trong chúng ta. Trong thư gửi tín hữu Rôma, thánh nhân viết: “Hơn nữa, lại có Thần Khí giúp đỡ chúng ta là những kẻ yếu hèn, vì chúng ta không biết cầu nguyện thế nào cho phải; nhưng chính Thần Khí cầu thay nguyện giúp chúng ta, bằng những tiếng rên siết khôn tả” (Rm 8,26). Và chúng ta thấy rằng lời của thánh Phaolô chân thực biết bao: “Chúng ta không biết cầu nguyện thế nào cho phải”. Thật thế, chúng ta muốn cầu nguyện nhưng Thiên Chúa ở xa, chúng ta không có những lời và từ ngữ kể cả tư tưởng để thưa với Thiên Chúa. Chúng ta chỉ có thể rộng mở chính mình, dành thời giờ cho Thiên Chúa, chờ đợi Người giúp chúng ta bước vào trong cuộc đối thoại đích thực với Người. Nhưng thánh nhân nói cho chúng ta biết rằng chính sự thiếu vắng lời nói, ước mong tiếp xúc với Thiên Chúa, là lời cầu nguyện, mà Chúa Thánh Thần không chỉ hiểu, nhưng còn giải thích bên Thiên Chúa nữa. Qua Chúa Thánh Thần, chính sự yếu đuối đó đã trở thành lời cầu nguyện, sự tiếp xúc đích thực với Thiên Chúa. Chúa Thánh Thần, như thể một thông dịch viên, làm cho chính chúng ta và Thiên Chúa hiểu điều chúng ta muốn nói.

Hơn là trong tất cả mọi chiều kích khác trong cuộc sống, trong lời cầu nguyện, chúng ta kinh nghiệm được sự yếu hèn, sự nghèo nàn, thân phận là thụ tạo của chúng ta, bởi vì chúng ta được đặt đứng trước sự toàn năng và siêu việt của Thiên Chúa. Càng tiến xa trong việc lắng nghe và đối thoại với Thiên Chúa bao nhiêu, bởi vì lời cầu nguyện trở thành hơi thở thường ngày của linh hồn chúng ta, thì chúng ta càng nhận ra ý nghĩa sự hạn hẹp của chúng ta bấy nhiêu, không phải chỉ trước các hoàn cảnh cụ thể mỗi ngày, mà cả trong tương quan với Thiên Chúa nữa. Và khi đó lớn lên trong chúng ta sự cần thiết ngày càng phó thác cho Người... Và chính Chúa Thánh Thần trợ giúp sự bất lực này của chúng ta, Người soi sáng tâm trí và sưởi ấm con tim chúng ta, bằng cách hướng chúng ta về Thiên Chúa. Đối với thánh Phaolô, lời cầu nguyện trước hết là hoạt động của Chúa Thánh Thần trong bản tính nhân loại của chúng ta, để mang lấy sự yếu hèn của chúng ta và biến đổi chúng ta từ những con người bị ràng buộc vào các thực tại vật chất trở thành các con người thiêng liêng. Thánh Phaolô viết trong thư thứ nhất gửi tín hữu Côrintô rằng: “Phần chúng ta, chúng ta đã không lãnh nhận thần trí của thế gian, nhưng là Thần Khí phát xuất từ Thiên Chúa, để nhận biết những ân huệ Thiên Chúa đã ban cho chúng ta. Để nói về những điều đó, chúng tôi không dùng những lời lẽ đã học được nơi trí khôn ngoan của loài người, nhưng những lời lẽ Thần Khí linh hứng để diễn tả thực tại thuộc về Thần Khí” (1Cr 2,12-13).

Với sự hiện diện này của Chúa Thánh Thần, sự hiệp nhất của chúng ta với Chúa Kitô được thực hiện, bởi vì đây là Thần Khí của Con Thiên Chúa, nơi Người chúng ta được trở thành con. Thánh Phaolô nói về Thần Khí của Chúa Kitô (Rm 8,9) chứ không phải chỉ là Thần Khí của Thiên Chúa. Và đương nhiên, nếu Chúa Kitô là Con Thiên Chúa, thì thần trí của Người cũng là thần trí của Thiên Chúa, và như thế nếu thần trí của Thiên Chúa và thần trí của Chúa Kitô đã trở thành rất gần gũi chúng ta trong Con Thiên Chúa, thì Thần Khí của Thiên Chúa cũng trở thành Thần Khí con người và đụng tới chúng ta. Chúng ta có thể bước vào sự hiệp thông với Thần Khí. Giống như thể nói rằng không chỉ có Chúa Cha đã trở thành hữu hình trong sự Nhập Thể của Chúa Con, mà cả Thần Khí của Thiên Chúa cũng tự biểu lộ ra trong cuộc sống và hành động của Đức Giêsu Kitô, là Đấng đã sống, đã bị đóng đinh, chết và sống lại. Thánh Tông đồ nhắc lại rằng “không ai có thể nói “Đức Giêsu là Chúa”, nếu không do tác động của Chúa Thánh Thần” (1Cr 12,3). Như vậy Thần Khí hướng con tim chúng ta về Đức Giêsu Kitô, đến độ “không phải chúng ta sống nữa, mà là Chúa Kitô sống trong chúng ta” (Gl 2,20). Trong cuốn sách về Các Bí tích (De sacramentis), khi suy tư về Thánh Thể, thánh Ambrôsiô đã khẳng định rằng: “Bất cứ ai say mê Thần Khí thì đều được bắt nguồn từ Đức Kitô” [Saint Ambrose, De sacramentis, 5,3,17: PL 16, 450].

Đến đây tôi muốn nhấn mạnh đến 3 thành quả đối với đời sống Kitô hữu của chúng ta khi chúng ta để cho, không phải theo tinh thần của thế gian, nhưng là Thần Khí của Đức Kitô, hoạt động trong chúng ta như là một nguyên lý nội tại cho tất cả mọi hành động của chúng ta.

Trước hết, với lời cầu nguyện, được Thần Khí linh hứng, chúng ta được đặt để trong điều kiện từ bỏ và thắng vượt mọi hình thức sợ hãi và nô lệ, bằng cách sống sự tự do đích thực của con cái Thiên Chúa. Không có lời cầu nguyện nuôi dưỡng việc ở trong Đức Kitô mỗi ngày trong sự thân tình lớn lên từ từ, thì chúng ta rơi vào hoàn cảnh, mà thánh Phaolô diễn tả trong thư gửi tín hữu Rôma rằng: chúng ta không làm điều thiện chúng ta muốn, nhưng làm điều ác mà chúng ta không muốn (x. Rm 7,19). Đó là kiểu diễn tả sự tha hóa, sự hủy hoại tự do của cuộc sống chúng ta, bởi tội tổ tông... “Ở đâu có Thần Khí của Chúa, thì ở đó có tự do” (2Cr 3,17). Với lời cầu nguyện, chúng ta sống kinh nghiệm sự tự do do Thần Khí ban tặng: một sự tự do đích thực, khỏi tội lỗi và sự dữ, tự do cho sự thiện, cho sự sống và cho Thiên Chúa. Sự tự do ấy không đồng hóa với lối sống buông thả, hay khả năng lựa chọn sự dữ, mà “hoa quả của Thần Khí, là bác ái, hoan lạc, bình an, nhẫn nhục, nhân hậu, từ tâm, trung tín, hiền hòa, tiết độ” (Gl 5,22). Đó chính là sự tự do đích thực: khả năng thực sự làm theo ý muốn thiện hảo, được hân hoan đích thực, được hiệp thông với Thiên Chúa chứ không bị áp lực bởi những hoàn cảnh khiến chúng ta đi vào những con đường khác.

Hiệu quả thứ hai khi chúng ta để cho Thần Khí Chúa Kitô hoạt động trong chúng ta: đó là tương quan của chúng ta với Thiên Chúa trở thành sâu đậm đến độ không có thực tại hay trạng huống nào có thể gây thiệt hại cho chúng ta. Khi đó chúng ta hiểu rằng với lời cầu nguyện chúng ta không được giải thoát khỏi các thử thách hay các khổ đau, nhưng chúng ta có thể sống chúng trong sự kết hiệp với Chúa Kitô, với các khổ đau của Người, trong viễn tượng cũng chia sẻ vinh quang của Người (Rm 8,17). Rất nhiều lần trong lời cầu nguyện chúng ta xin Thiên Chúa giải thoát chúng ta khỏi sự dữ vật lý và tinh thần, vá chúng ta làm điều đó với lòng tin tưởng. Nhưng thường khi chúng ta có cảm tưởng không được nhận lời, và khi đó chúng ta chán nản ngã lòng và không kiên trì nữa. Thật ra, không có tiếng kêu than nào của con người mà không được Thiên Chúa lắng nghe; và chính trong lời cầu nguyện liên lỉ và trung thành chúng ta hiểu với thánh Phaolô rằng: “Những đau khổ chúng ta chịu bây giờ sánh sao được với vinh quang mà Thiên Chúa sẽ mặc khải nơi chúng ta” (Rm 8,18). Lời cầu nguyện không miễn trừ cho chúng ta khỏi thử thách và khổ đau, như thánh Phaolô nêu lên “chúng ta biết rằng: cho đến bây giờ, muôn loài thọ tạo cùng rên siết và quằn quại như sắp sinh nở” (Rm 8,23). Lời cầu nguyện không miễn trừ cho chúng ta khỏi thử thách và khổ đau, nhưng cho phép chúng ta sống và đương đầu với các khổ đau đó với một sức mạnh mới, với chính lòng tin tưởng của Đức Giêsu, Đấng đã được nói tới trong Thư gởi tín hữu Do Thái rằng: “Khi còn sống kiếp phàm nhân, Đức Giêsu đã lớn tiếng kêu van khóc lóc mà dâng lời khẩn nguyện nài xin lên Đấng có quyền năng cứu Người khỏi chết. Người đã được nhậm lời, vì có lòng tôn kính” (Dt 5,7). Câu trả lời của Thiên Chúa cho tiếng kêu van khóc lóc của Đức Giêsu đã không phải là sự giải thoát ngay lập tức khỏi những khổ đau, thập giá và cái chết, nhưng đã là một sự chấp nhận vĩ đại hơn nhiều, một câu trả lời sâu sắc hơn nhiều. Nhờ Thập giá và cái chết, Thiên Chúa đã trả lời với sự phục sinh của Con mình, bằng một sự sống mới. Lời cầu nguyện được Chúa Thánh Thần tác động cũng dẫn chúng ta tới cuộc hành trình đời sống bằng những thử thách và đau khổ hằng ngày với trọn vẹn niềm hy vọng và tin tưởng nơi Thiên Chúa, Đấng đáp ứng như Người đã đáp ứng Chúa Con.

Hiệu quả thứ ba đó là lời cầu của tín hữu rộng mở cho các chiều kích của toàn nhân loại và mọi thụ tạo, nhận lấy sự chờ mong ngong ngóng ngày Thiên Chúa mặc khải vinh quang của con cái người (Rm 8,19). Lời cầu nguyện được nâng đỡ bới Thần Khi của Chúa Kitô không đóng kín trong chính nó, cũng không chỉ là lời cầu nguyện cho tôi, mà rông mở cho sự chia sẻ với các nỗi khổ đau của người khác trong thời đại chúng ta. Nó trở thành lời bầu cử cho người khác, và như thế là trở thành sự giải thoát từ tôi, là con kênh hy vọng cho mọi thụ tạo, diễn tả tình yêu của Thiên Chúa, mà Thần Khí đổ tràn đầy tâm hồn chúng ta (x. Rm 5,5). Và đó là một dấu hiệu cho việc cầu nguyện chân thật, một cầu nguyện không kết thúc nơi chính chúng ta, nhưng hướng về những người khác và vì thế giải thoát tôi, nhờ đó giúp vào việc cứu chuộc thế gian.

Anh chị em thân mến, thánh Phaolô dạy chúng ta rằng trong việc cầu nguyện của chúng ta chúng ta cần phải cởi mở bản thân mình cho sự hiện diện của Chúa Thánh Thần, Đấng cầu nguyện trong chúng ta bằng những lời lẽ quá sâu xa, để mang chúng ta đến chỗ gắn bó với Thiên Chúa bằng tất cả tâm hồn và tất cả con người của chúng ta. Thánh Thần của Chúa Cha trở thành sức mạnh cho việc cầu nguyện “yếu hèn” của chúng ta, thánh ánh sáng cho lời cầu nguyện “lịm tắt” của chúng ta, thành ngọn lửa cho việc cầu nguyện “nguội lạnh và khô khan” của chúng ta, bằng cách ban cho chúng ta niềm tự do nội tâm chân thực, bằng việc dạy cho chúng ta sống đương đầu với những thử thách của cuộc đời một cách tin tưởng rằng chúng ta không lẻ loi cô độc một mình, và bằng cách hướng chúng ta về những chân trời nhân loại và thụ tạo “đang rên xiết quằn quại cho tới nay” (Rm 8,22).

Trích từ: Tác phẩm "Cầu nguyện" của Đức Bênêđictô XVI

 

bài liên quan mới nhất

bài liên quan đọc nhiều

Top