Chúa nhật 5 Thường niên năm C (Lc 5,1-11)
BÀI ÐỌC I: Is 6, 1-2a, 3-8
“Này tôi đây, xin hãy sai tôi”.
Trích sách Tiên tri Isaia.
Năm vua Ozias băng hà, tôi nhìn thấy Chúa ngự trên ngai cao, và đuôi áo của Người bao phủ đền thờ. Các Thần Sốt Mến đứng trước mặt Người, và luân phiên tung hô rằng: “Thánh, Thánh, Thánh! Chúa là Thiên Chúa các đạo binh, toàn thể địa cầu đầy vinh quang Chúa”. Các nền nhà đều rung chuyển trước tiếng tung hô, và nhà cửa đều đầy khói.
Lúc bấy giờ tôi mới nói: “Vô phúc cho tôi! Tôi chết mất, vì lưỡi tôi nhơ bẩn, tôi ở giữa một dân tộc mà lưỡi họ đều nhơ nhớp, mắt tôi đã trông thấy Ðức Vua, Người là Chúa các đạo binh”. Nhưng lúc đó có một trong các Thần Sốt Mến bay đến tôi, tay cầm cục than cháy đỏ mà ngài đã dùng cặp lửa gắp ở bàn thờ. Ngài đặt than lửa vào miệng tôi và nói: “Hãy nhìn xem, than lửa này đã chạm đến lưỡi ngươi, lỗi của ngươi được xoá bỏ, và tội của ngươi được thứ tha”. Và tôi nghe tiếng Chúa phán bảo: “Ta sẽ sai ai đi? Và ai sẽ đi cho chúng ta?” Tôi liền thưa: “Này con đây, xin hãy sai con”.
Ðó là lời Chúa.
ÐÁP CA: Tv 137, 1-2a. 2bc-3.4-5. 7c-8
Ðáp: Lạy Chúa, trước mặt các thiên thần, con đàn ca mừng Chúa (c. 1c).
Xướng: Lạy Chúa, con sẽ ca tụng Chúa hết lòng, vì Chúa đã nghe lời miệng con xin; trước mặt các thiên thần, con đàn ca mừng Chúa, con sấp mình thờ lạy bên thánh điện Ngài.
Xướng: Và con sẽ ca tụng uy danh Chúa, vì lòng nhân hậu và trung thành của Chúa. Khi con kêu cầu, Chúa nhậm lời con, Chúa đã ban cho tâm hồn con nhiều sức mạnh.
Xướng: Lạy Chúa, các vua địa cầu sẽ ca ngợi Chúa, khi họ nghe những lời miệng Chúa phán ra; và họ sẽ ca ngợi đường lối của Chúa: “Thực, vinh quang của Chúa lớn lao!”
Xướng: Tay hữu Chúa khiến con được sống an lành. Chúa sẽ hoàn tất cho con những điều đã khởi sự. Lạy Chúa, lòng nhân hậu Chúa tồn tại muôn đời, xin đừng bỏ rơi công cuộc tay Ngài.
BÀI ÐỌC II: 1 Cr 15, 1-11 (bài dài)
“Chúa hiện ra với Giacôbê, rồi với tất cả các Tông đồ”.
Trích thư thứ nhất của Thánh Phaolô Tông đồ gửi tín hữu Côrintô.
Anh em thân mến, tôi xin nhắc lại cho anh em Tin Mừng mà tôi đã rao giảng cho anh em, và anh em đã lãnh nhận và đang tin theo, nhờ đó anh em được cứu độ, nếu anh em tuân giữ lời lẽ tôi đã rao giảng cho anh em, bằng không anh em đã tin cách vô ích. Tôi đã rao truyền cho anh em trước tiên điều mà chính tôi đã nhận lãnh: đó là Ðức Kitô đã chết vì tội lỗi chúng ta, đúng theo như lời Thánh Kinh. Người được mai táng và ngày thứ ba Người đã sống lại đúng theo như lời Thánh Kinh. Người đã hiện ra với ông Kêpha, rồi với mười một vị. Sau đó, Người đã hiện ra với hơn năm trăm anh em trong một lúc; nhiều người trong số anh em đó hãy còn sống tới nay, nhưng có vài người đã chết. Thế rồi Người hiện ra với Giacôbê, rồi với tất cả các Tông đồ. Sau cùng, Người cũng hiện ra với chính tôi như với đứa con đẻ non. Tôi vốn là kẻ hèn mọn nhất trong các tông đồ, và không xứng đáng được gọi là tông đồ, vì tôi đã bắt bớ Hội Thánh của Thiên Chúa. Nhưng nay tôi là người thế nào, là nhờ ơn của Thiên Chúa, và ơn của Người không vô ích nơi tôi, nhưng tôi đã chịu khó nhọc nhiều hơn tất cả các Ðấng: song không phải tôi, nhưng là ơn của Thiên Chúa ở với tôi. Dù tôi, dù là các Ðấng, chúng tôi đều rao giảng như thế cả, và anh em cũng đã tin như vậy.
Ðó là lời Chúa.
Hoặc đọc bài vắn này: 1 Cr 15, 3-8. 11
“Chúa hiện ra với Giacôbê, rồi với tất cả các Tông đồ”.
Trích thư thứ nhất của Thánh Phaolô Tông đồ gửi tín hữu Côrintô.
Anh em thân mến, tôi đã rao truyền cho anh em trước tiên điều mà chính tôi đã nhận lãnh: đó là Ðức Kitô đã chết vì tội lỗi chúng ta, đúng theo như lời Thánh Kinh. Người được mai táng và ngày thứ ba Người đã sống lại đúng theo như lời Thánh Kinh. Người đã hiện ra với ông Kêpha, rồi với mười một vị. Sau đó, Người đã hiện ra với hơn năm trăm anh em trong một lúc; nhiều người trong số anh em đó hãy còn sống tới nay, nhưng có vài người đã chết. Thế rồi Người hiện ra với Giacôbê, rồi với tất cả các Tông đồ. Sau cùng, Người cũng hiện ra với chính tôi như với đứa con đẻ non. Dù tôi, dù là các Ðấng, chúng tôi đều rao giảng như thế cả, và anh em cũng đã tin như vậy.
Ðó là lời Chúa.
Tin mừng: Lc 5, 1-11
1Một hôm, Đức Giêsu đang đứng ở bờ hồ Ghennêxarét, dân chúng chen lấn nhau đến gần Người để nghe lời Thiên Chúa.
2Người thấy hai chiếc thuyền đậu dọc bờ hồ, còn những người đánh cá thì đã ra khỏi thuyền và đang giặt lưới.
3Đức Giêsu xuống một chiếc thuyền, thuyền đó của ông Simôn, và Người xin ông chèo thuyền ra xa bờ một chút. Rồi Người ngồi xuống, và từ trên thuyền Người giảng dạy đám đông.
4Giảng xong, Người bảo ông Simôn: “Chèo ra chỗ nước sâu mà thả lưới bắt cá.” 5Ông Simôn đáp: “Thưa Thầy, chúng tôi đã vất vả suốt đêm mà không bắt được gì cả. Nhưng vâng lời Thầy, tôi sẽ thả lưới.”
6Họ đã làm như vậy, và bắt được rất nhiều cá, đến nỗi hầu như rách cả lưới. 7Họ làm hiệu cho các bạn chài trên chiếc thuyền kia đến giúp. Những người này tới, và họ đã đổ lên được hai thuyền đầy cá, đến gần chìm.
8Thấy vậy, ông Simôn Phêrô sấp mặt dưới chân Đức Giêsu và nói: “Lạy Chúa, xin tránh xa con, vì con là kẻ tội lỗi!”
9Quả vậy, thấy mẻ cá vừa bắt được, ông Simôn và tất cả những người có mặt ở đó với ông đều kinh ngạc.
10Cả hai người con ông Dêbêđê, là Giacôbê và Gioan, bạn chài với ông Simôn, cũng kinh ngạc như vậy. Bấy giờ Đức Giêsu bảo ông Simôn: “Đừng sợ, từ nay anh sẽ là người thu phục người ta.”
11Thế là họ đưa thuyền vào bờ, rồi bỏ hết mọi sự mà theo Người.
Giáo lý cho bài giảng Chúa nhật 5 Thường Niên năm C
WHĐ (06/02/2025) - Để hỗ trợ các nhà giảng thuyết thuận tiện hơn trong việc thêm giáo lý vào bài giảng, Ban Biên tập xin được trích dẫn những điểm giáo lý phù hợp với các bài đọc Kinh Thánh của lễ Chúa nhật 5 Thường Niên năm C theo sự hướng dẫn của Bộ Phụng tự và Kỷ luật các Bí tích.
NỘI DUNG CHÍNH Số 520, 618, 923, 1618, 1642, 2053: Tất cả đều được mời gọi bước theo Đức Kitô Số 2144, 2732: Sự kính sợ Thiên Chúa so với sự tự cao tự đại Số 631-644: Các Tông Đồ là chứng nhân của Sự Phục Sinh Bài Ðọc I: Is 6, 1-2a, 3-8 Bài Ðọc II: 1Cr 15, 1-11 (bài dài) Phúc Âm: Lc 5, 1-11 |
Số 520, 618, 923, 1618, 1642, 2053: Tất cả đều được mời gọi bước theo Đức Kitô
Số 520. Trong cả cuộc đời của Người, Chúa Giêsu tỏ mình là mẫu mực của chúng ta[1]: chính Người là “con người hoàn hảo”[2], Người mời gọi chúng ta trở nên môn đệ của Người và bước đi theo Người; qua việc tự hạ của Người, Người ban cho chúng ta một gương mẫu để bắt chước[3]; qua việc cầu nguyện của Người, Người lôi kéo chúng ta cầu nguyện[4]; qua sự nghèo khó của Người, Người kêu gọi chúng ta tự nguyện chấp nhận sự thiếu thốn và những cơn bách hại[5].
Số 618. Thánh giá là hy tế duy nhất của Đức Kitô, Đấng trung gian duy nhất giữa Thiên Chúa và loài người[6]. Nhưng bởi vì, trong Ngôi Vị Thiên Chúa nhập thể của Người, “một cách nào đó Người đã tự kết hợp với toàn thể mọi người”[7], nên Người đã “ban cho mọi người một khả năng để, theo cách Thiên Chúa biết, họ được kết hợp vào mầu nhiệm Vượt Qua”[8]. Người kêu gọi các môn đệ vác thập giá mình mà theo Người[9], bởi vì Người đã chịu khổ nạn vì chúng ta, đã để lại một gương mẫu cho chúng ta dõi bước theo Người[10]. Quả thật, Người cũng muốn những người đầu tiên hưởng nhờ hy tế cứu chuộc của Người được kết hợp vào hy tế ấy [11]. Điều đó được thực hiện, một cách cao cả nhất, nơi Mẹ Người, Mẹ được kết hợp vào mầu nhiệm cuộc khổ nạn cứu chuộc của Người một cách mật thiết hơn bất cứ ai khác[12].
“Đây là chiếc thang thật và duy nhất của thiên đàng, và ngoài thập giá, không có chiếc thang nào khác để lên trời”[13].
Số 923. Các trinh nữ “là những người nói lên sự quyết tâm lành thánh theo sát Đức Kitô, họ được Giám mục giáo phận cung hiến cho Thiên Chúa theo nghi thức phụng vụ được phê chuẩn, họ đính hôn cách huyền nhiệm với Đức Kitô, Con Thiên Chúa, và hiến thân phục vụ Hội Thánh”[14]. Qua nghi thức trọng thể này (Nghi thức Thánh hiến các Trinh nữ), “trinh nữ trở thành một nhân vị được thánh hiến, một dấu chỉ siêu việt của tình yêu của Hội Thánh đối với Đức Kitô, một hình ảnh cánh chung của Hiền thê thiên quốc và của đời sống tương lai”[15].
Số 1618. Đức Kitô là trọng tâm của toàn bộ đời sống Kitô giáo. Dây liên kết với Người chiếm vị trí hàng đầu so với mọi dây liên kết khác về gia đình hay xã hội[16]. Ngay thuở ban đầu của Hội Thánh, đã có những người nam và người nữ từ bỏ lợi ích lớn lao của hôn nhân để theo Con Chiên đi bất cứ nơi nào Người đi[17], để chuyên lo việc của Chúa, để tìm cách làm đẹp lòng Người[18], và để đi đón Tân Lang đang đến[19]. Chính Đức Kitô đã mời gọi một số người đi theo Người trong cách sống này, cách sống mà Người luôn là mẫu mực:
“Có những người không kết hôn vì từ khi lọt lòng mẹ, họ đã không có khả năng; có những người không thể kết hôn vì bị người ta hoạn; lại có những người tự ý không kết hôn vì Nước Trời. Ai hiểu được thì hiểu” (Mt 19,12).
Số 1642. Đức Kitô là nguồn mạch của ân sủng này. “Cũng như xưa kia, Thiên Chúa đến gặp dân Ngài bằng một giao ước tình yêu và trung thành, thì ngày nay, Đấng Cứu Độ loài người và là Phu Quân của Hội Thánh, cũng đến gặp các đôi phối ngẫu Kitô hữu qua bí tích Hôn Phối”[20]. Người ở lại với họ, ban sức mạnh cho họ để họ nhận lấy thập giá của mình mà bước theo Người, để họ chỗi dậy sau khi sa ngã, để họ tha thứ cho nhau, để họ vác lấy gánh nặng cua nhau[21], để họ “tùng phục lẫn nhau vì lòng kính sợ Đức Kitô” (Ep 5,21), và yêu thương nhau bằng một tình yêu siêu nhiên, tế nhị và sinh sôi nảy nở. Thiên Chúa ban cho họ, ngay từ đời này, trong những niềm vui của tình yêu và của đời sống gia đình họ, được nếm trước tiệc cưới Con Chiên:
“Làm sao chúng ta có thể mô tả được niềm hạnh phúc của cuộc hôn nhân được Hội Thánh nối kết, được hy lễ củng cố, được lời chúc lành đóng ấn, được các Thiên thần công bố và được Cha trên trời chuẩn nhận? Có đôi bạn nào bằng đôi bạn tín hữu, được kết hợp do cùng một niềm hy vọng, cùng một ước nguyện, cùng một kỷ luật, cùng một công việc phục vụ. Cả hai là anh em (con một Cha), là đồng phục vụ (cho một Chủ); không bị phân rẽ trong tinh thần và trong xác thịt, thật sự là hai trong một xác thịt. Ở đâu xác thịt nên một, thì tinh thần cũng nên một”[22].
Số 2053. Chúa Giêsu còn thêm vào câu trả lời đầu tiên: “Nếu anh muốn nên hoàn thiện, thì hãy đi bán tài sản của anh và đem cho người nghèo, anh sẽ được một kho tàng trên trời; rồi hãy đến theo tôi” (Mt 19,21). Câu trả lời này không hủy bỏ câu trả lời trước. Muốn đi theo Đức Kitô, phải tuân giữ các điều răn. Luật cũ không bị bãi bỏ[23], nhưng con người được mời gọi tìm thấy lại Lề luật nơi con người của Thầy mình, Đấng chu toàn Lề luật cách trọn hảo. Trong ba Tin Mừng Nhất Lãm, lời kêu gọi của Chúa Giêsu ngỏ với anh thanh niên giàu có, để đi theo Người với lòng vâng phục của người môn đệ và tuân giữ các điều răn, còn được kết hợp với lời kêu gọi sống nghèo khó và khiết tịnh[24]. Các lời khuyên Phúc Âm không thể bị tách biệt khỏi các điều răn.
Số 2144, 2732: Sự kính sợ Thiên Chúa so với sự tự cao tự đại
Số 2144. Sự tôn kính Danh Chúa diễn tả lòng tôn kính cần phải có đối với mầu nhiệm của chính Thiên Chúa và đối với mọi thực tại thánh thiêng mà mầu nhiệm này gợi lên. Cảm thức về sự thánh thiêng thuộc nhân đức thờ phượng:
“Cảm thức kính sợ và cảm thức về sự thánh thiêng có phải là những cảm thức Kitô giáo không? Không ai có thể hoài nghi cách hữu lý về vấn đề này. Đó là những cảm thức mà chúng ta có, và có một cách mãnh liệt, nếu chúng ta được chiêm ngắm Thiên Chúa uy linh. Đó là những cảm thức mà chúng ta có, nếu chúng ta ý thức sự hiện diện của Ngài. Chúng ta phải có những cảm thức đó, tùy theo mức độ chúng ta tin Ngài đang hiện diện. Không có những cảm thức đó, tức là không ý thức vấn đề này, không tin Ngài đang hiện diện”[25].
Số 2732. Cơn cám dỗ thường gặp nhất, kín đáo nhất, là chúng ta thiếu đức tin. Đây không phải là việc tuyên bố rõ ràng không tin Chúa, cho bằng một chọn lựa ưu tiên trong thực tế. Khi chúng ta khởi sự cầu nguyện, hàng ngàn công việc và lo toan, được coi là cấp bách, xuất hiện như những điều đòi được ưu tiên: một lần nữa, đây là lúc chúng ta thấy rõ lòng mình và tình cảm ưu tiên của nó. Có khi chúng ta quay về với Chúa như chỗ cậy dựa cuối cùng, nhưng liệu chúng ta có thật sự tin điều đó không? Có khi chúng ta nhận Chúa làm đồng minh, nhưng lòng vẫn còn tự cao tự đại. Trong mọi trường hợp, sự thiếu đức tin của chúng ta cho thấy rằng chúng ta chưa có một tâm hồn khiêm tốn: “Không có Thầy, anh em chẳng làm gì được” (Ga 15,5).
Số 631-644: Các Tông Đồ là chứng nhân của Sự Phục Sinh
Số 631. Chúa Giêsu “đã xuống tận các vùng sâu thẳm dưới mặt đất. Đấng đã xuống, cũng chính là Đấng đã lên” (Ep 4,9-10). Tín biểu của các Tông Đồ tuyên xưng trong cùng một mục, việc Đức Kitô xuống ngục tổ tông và việc ngày thứ ba Người bởi trong kẻ chết mà sống lại, bởi vì trong cuộc Vượt Qua của Người, chính từ trong lòng cái chết mà Người làm vọt lên sự sống:
“Đức Kitô, Con yêu quý của Cha,
Đấng đã từ cõi âm ty trở lại,
đem ánh sáng thanh bình soi chiếu vạn dân,
Người hằng sống hiển trị muôn đời. Amen”[26].
Số 632. Những xác quyết thường xuyên của Tân Ước, theo đó Chúa Giêsu “trỗi dậy từ cõi chết” (1 Cr 15,20)[27], giả thiết là, trước khi Người sống lại, Người đã ở nơi của những người chết[28]. Lời rao giảng của các Tông Đồ về việc Chúa Giêsu xuống ngục tổ tông có ý nghĩa đầu tiên này: Chúa Giêsu đã chết giống như mọi người, và linh hồn Người đã xuống với họ, ở nơi của những người chết. Nhưng Người xuống đó với tư cách là Đấng Cứu Độ, để loan báo Tin Mừng cho các vong linh bị cầm giữ ở đó[29].
Số 633. Thánh Kinh gọi nơi ở của những người chết, mà Đức Kitô khi chết đã xuống, là âm phủ, Sheol (tiếng Do thái) hoặc Hades (tiếng Hy lạp)[30], bởi vì những kẻ ở đó không được nhìn thấy Thiên Chúa[31]. Thật vậy, tình trạng của mọi người đã chết, dù họ công chính hay xấu xa, đều như vậy, trong khi mong đợi Đấng Cứu Chuộc[32], điều này không có nghĩa là số phận của họ đều như nhau, như Chúa Giêsu cho thấy trong dụ ngôn anh Lazarô nghèo khổ được đem “vào lòng ông Abraham”[33]. “Khi xuống ngục tổ tông, Chúa Kitô đã giải thoát linh hồn những người công chính đang ở trong lòng ông Abraham mà mong đợi Đấng Cứu Độ”[34]. Chúa Giêsu không xuống ngục tổ tông để giải thoát những kẻ đã bị kết án[35] hoặc để phá hủy địa ngục đọa đày[36], nhưng để giải thoát những người công chính đã đi trước Người[37].
Số 634. “Tin Mừng đã được loan báo ngay cho cả những kẻ chết” (1 Pr 4,6). Việc xuống ngục tổ tông là sự hoàn thành, một cách sung mãn, việc loan báo Tin Mừng cứu độ. Đây là chặng cuối cùng trong sứ vụ làm Đấng Messia của Chúa Giêsu, trong một thời gian ngắn ngủi, nhưng trong một ý nghĩa thật hết sức rộng lớn của việc mở rộng công trình cứu chuộc cho mọi người thuộc mọi thời và mọi nơi, bởi vì tất cả những ai được cứu độ đều được tham dự vào công trình Cứu Chuộc.
Số 635. Vì vậy, Đức Kitô đã xuống cõi thâm sâu của sự chết[38] để “các kẻ chết nghe tiếng Con Thiên Chúa, ai nghe thì sẽ được sống” (Ga 5,25). Chúa Giêsu, “Đấng khơi nguồn sự sống”[39], đã “nhờ cái chết của Người, Người đã tiêu diệt tên lãnh chúa gây ra sự chết, tức là ma quỷ, và đã giải thoát những ai vì sợ chết mà suốt đời sống trong tình trạng nô lệ” (Dt 2,14-l5). Từ nay, Đức Kitô phục sinh “nắm giữ chìa khóa của Tử thần và Âm phủ” (Kh 1,18) và “khi vừa nghe Danh Thánh Giêsu, cả trên trời dưới đất và trong nơi âm phủ, muôn vật phải bái quỳ” (Pl 2,10).
“Hôm nay mặt đất hoàn toàn thinh lặng, hoàn toàn thinh lặng và hoàn toàn cô quạnh; hoàn toàn thinh lặng vì Đức Vua an giấc; trái đất đã sợ hãi rồi yên tĩnh, vì Thiên Chúa đang ngủ trong xác phàm, và Người đánh thức những kẻ đang ngủ từ bao đời…. Chắc chắn Người đi tìm nguyên tổ như tìm con chiên lạc. Người muốn đến thăm tất cả những ai đang ngồi trong tối tăm và trong bóng sự chết; Đấng vừa là Thiên Chúa, vừa là con cháu của nguyên tổ đến để giải thoát ông Ađam đang bị cầm giữ cùng với bà Evà bị cầm giữ khỏi những sự đau buồn. Ta là Thiên Chúa của ngươi, nhưng vì ngươi, Ta đã trở thành con của ngươi…. Hãy trỗi dậy, hỡi người ngủ mê: vì Ta dựng nên ngươi không phải để cho ngươi ở lại đây trong gông cùm âm phủ. Hãy trỗi dậy từ cõi chết; Ta là Sự Sống của những kẻ đã chết”[40].
Số 636. Bằng kiểu nói “Chúa Giêsu xuống ngục tổ tông”, Tín biểu tuyên xưng Chúa Giêsu thật sự đã chết và nhờ cái Chết của Người vì chúng ta, Người đã chiến thắng cả sự chết lẫn ma quỷ, “tên lãnh chúa gây ra sự chết” (Dt 2,14).
Số 637. Đức Kitô đã chết, với linh hồn được kết hợp cùng Ngôi Vị thần linh, Người đã xuống nơi ở của những kẻ chết. Người đã mở cửa trời cho những người công chính đã đi trước Người.
Số 638. “Chúng tôi xin loan báo cho anh em Tin Mừng này: điều Thiên Chúa hứa với cha ông chúng ta, thì Ngài đã thực hiện cho chúng ta là con cháu các ông, khi làm cho Chúa Giêsu sống lại” (Cv l3,32-33). Sự Sống Lại của Chúa Giêsu là chân lý cao cả nhất của đức tin chúng ta vào Đức Kitô, với tính cách là một chân lý trung tâm đã được tin và thể hiện trong cuộc sống bởi cộng đoàn Kitô giáo tiên khởi, đã được lưu truyền bởi Thánh Truyền như chân lý nền tảng, đã được xác lập bởi các văn kiện của Tân Ước, và được rao giảng, đồng thời cùng với thập giá, như là phần thiết yếu của mầu nhiệm Vượt Qua:
“Đức Kitô đã sống lại từ cõi chết,
Nhờ cái Chết của Người, Người đã chiến thắng sự chết,
Người đã ban sự sống cho những kẻ đã chết”[41].
Số 639. Mầu nhiệm của sự Sống lại của Đức Kitô là một biến cố có thật, với những cuộc tỏ hiện đã được kiểm chứng theo lịch sử, như Tân Ước làm chứng. Khoảng năm 56, thánh Phaolô đã có thể viết cho tín hữu Côrintô: “Trước het, tôi đã truyền lại cho anh em điều mà chính tôi đã lãnh nhận, đó là: Đức Kitô đã chết vì tội lỗi chúng ta đúng như lời Kinh Thánh, rồi Người đã được mai táng, và ngày thứ ba đã sống lại, đúng như lời Kinh Thánh. Ngươi đã hiện ra với ông Kêpha, rồi với nhóm Mười Hai” (1 Cr l5,3-4). Ở đây vị Tông Đồ nói đến truyền thống sống động về sự Sống lại mà ngài đã học được sau cuộc hối cải của ngài ở cổng thành Đamas[42].
Ngôi mộ trống
Số 640. “Sao các bà lại tìm Người Sống ở giữa kẻ chết? Người không còn đây nữa, nhưng đã sống lại rồi” (Lc 24,5-6). Trong các biến cố Vượt Qua, yếu tố đầu tiên mà ta gặp là ngôi mộ trống. Tự nó, điều này không phải là một bằng chứng trực tiếp. Việc thân thể Đức Kitô không còn trong mộ có thể được giải thích cách khác[43]. Dầu vậy, ngôi mộ trống vẫn là một dấu chỉ căn bản đối với mọi người. Việc phát hiện ngôi mộ trống là bước đầu dẫn các môn đệ đến việc nhìn nhận chính sự kiện Sống lại. Trước hết đó là trường hợp của các phụ nữ thánh thiện[44], rồi đến ông Phêrô[45]. Người môn đệ “Chúa Giêsu thương mến” (Ga 20,2), khi vào trong mộ và thấy “những băng vải để ở đó” (Ga 20,6), khẳng định rằng ông đã thấy và đã tin[46]. Điều này giả thiết rằng khi thấy ngôi mộ trống[47] ông đã nhận ra rằng việc thân thể Chúa Giêsu không còn đó không phải là một việc do người phàm và Chúa Giêsu đã không đơn thuần trở lại cuộc sống trần thế như trường hợp anh Lazarô[48].
Những lần hiện ra của Đấng Phục Sinh
Số 641. Bà Maria Magđalêna và các phụ nữ thánh thiện, những người đã đến để hoàn thành việc xức dầu cho thân thể của Chúa Giêsu[49], vốn được mai táng cách vội vã vào chiều ngày Thứ Sáu vì đã đến ngày sabat[50], là những người đầu tiên được gặp Đấng Phục Sinh[51]. Như vậy, các phụ nữ là những sứ giả đầu tiên loan báo sự sống lại của Đức Kitô cho chính các Tông Đồ[52]. Sau đó Chúa Giêsu hiện ra với các ông, trước hết là với ông Phêrô, sau đó với nhóm Mười Hai[53]. Vì vậy ông Phêrô, người đã được kêu gọi để củng cố đức tin của các anh em mình[54], đã thấy Đấng Phục Sinh trước các anh em và dựa trên chứng từ của ông mà cộng đoàn kêu lên: “Chúa đã sống lại thật rồi, và đã hiện ra với ông Simon” (Lc 24,34).
Số 642. Tất cả những gì đã xảy ra trong những ngày lễ Vượt Qua đó, đòi buộc mỗi vị Tông Đồ, đặc biệt là ông Phêrô, xây dựng một kỷ nguyên mới, kỷ nguyên đã bắt đầu từ sáng ngày Vượt Qua. Với tư cách là những chứng nhân của Đấng Phục Sinh, các ngài mãi là những tảng đá nền móng của Hội Thánh Người. Đức tin của cộng đoàn các tín hữu tiên khởi được xây dựng trên lời chứng của những con người cụ thể mà các Kitô hữu quen biết và phần đông lúc đó còn sống giữa họ. “Những chứng nhân về cuộc Phục Sinh của Đức Kitô”[55] trước hết là ông Phêrô và Nhóm Mười Hai, nhưng không chỉ có các vị ấy: ông Phaolô nói đến hơn năm trăm người đã được Chúa Giêsu hiện ra một lượt, rồi với ông Giacôbê và với tất cả các Tông Đồ[56].
Số 643. Trước những lời chứng đó, không thể giải thích rằng sự phục sinh của Đức Kitô nằm bên ngoài trật tự thể lý, và không thể không công nhận sự phục sinh đó có tính cách là một sự kiện lịch sử. Qua các sự kiện, người ta thấy rõ là đức tin của các môn đệ đã bị lung lay tận gốc do cuộc khổ nạn và cái Chết trên thập giá của Thầy họ, mà chính Người đã báo trước[57]. Sự chấn động tâm hồn do cuộc khổ nạn gây nên là mạnh mẽ đến nỗi các môn đệ (hoặc ít nhất một số người trong họ) không tin ngay lời loan báo về việc Sống Lại. Các sách Tin Mừng không hề trình bày cho chúng ta thấy một cộng đoàn đầy hứng khởi thần bí; nhưng cho chúng ta thấy những môn đệ mất tinh thần (“buồn rầu”: Lc 24,17) và hoảng sợ[58]. Vì vậy họ đã không tin các phụ nữ thánh thiện từ ngôi mộ trở về, và những lời của các bà, họ “cho là chuyện vớ vẩn” (Lc 24,11)[59]. Khi Chúa Giêsu hiện ra với Nhóm Mười Một chiều ngày Vượt Qua, “Người khiển trách các ông không tin và cứng lòng, bởi lẽ các ông không chịu tin những kẻ đã được thấy Người, sau khi Người sống lại” (Mc 16,14).
Số 644. Các môn đệ, cả khi đứng trước thực tại Chúa Giêsu phục sinh, vẫn còn nghi ngờ[60]; đối với các ông, coi như không thể nào có việc ấy: họ tưởng là thấy ma[61], “các ông còn chưa tin vì mừng quá, và còn đang ngỡ ngàng” (Lc 24,41). Ông Tôma cũng đã nghi ngờ như vậy[62], và trong dịp hiện ra lần cuối cùng mà sách Matthêu thuật lại, “có mấy ông lại hoài nghi” (Mt 28,17). Vì vậy, giả thuyết cho rằng sự Phục Sinh là “sản phẩm” của lòng tin (hay sự dễ tin) của các Tông Đồ, không có cơ sở. Hoàn toàn trái lại, đức tin của các ông vào sự Phục Sinh phát xuất từ kinh nghiệm trực tiếp về thực tại Chúa Giêsu sống lại, dưới tác động của ân sủng của Thiên Chúa.
Bài giảng Đức Thánh Cha - Chúa nhật 5 Thường Niên năm C
Đây là những bài giảng và huấn dụ của Đức Thánh Cha trong các thánh lễ và các buổi đọc kinh Truyền tin với các tín hữu vào Chúa nhật 5 Thường Niên năm C.
NỘI DUNG CHÍNH Đức Phanxicô, Huấn dụ Chúa nhật 5 Thường Niên năm C (07/02/2016) - Đừng sợ Đức Bênêđictô XVI, Huấn dụ Chúa nhật 5 Thường Niên năm C (07/02/2010) - Chúa gọi |
1. Suy niệm (TGM Giuse Nguyễn Năng)
Suy niệm: “Lạy Chúa, xin hãy tránh xa con vì con là kẻ tội lỗi”.
Lời Phêrô đã thốt lên khi thấy phép lạ Ðức Giêsu thực hiện quá nhiệm mầu. Phêrô và mọi người vừa sung sướng vừa kinh ngạc trước sự kiện lớn lao ấy. Ông thấy con người mình thật thấp hèn và giới hạn, không thể xứng với tình thương của vị Thiên Chúa quyền phép.
Nhưng Ðức Giêsu đã hiền từ: “Ðừng sợ, từ nay con sẽ trở thành kẻ đánh cá người”. Thiên Chúa không chê bỏ sự thấp hèn của con người. Ngài luôn tin dùng, kêu mời con người cộng tác với Ngài.
Cầu nguyện: Lạy Chúa Giêsu, ngày nay, đâu đâu người ta cũng cổ võ, nêu cao tinh thần sống thông cảm, trao đổi và cộng tác với nhau trong mọi công việc. Chúng con đã nhận ra nét đẹp ấy bắt nguồn từ nơi Chúa.
Xin cho chúng con không chỉ cộng tác với nhau mà phải cộng tác với ơn Thánh Chúa, để những công việc chúng con làm trở nên hữu ích cho chúng con và cho mọi người. Amen.
Ghi nhớ: “Các ông đã từ bỏ mọi sự mà đi theo Người”.
2. Suy niệm (Lm. Carôlô Hồ Bạc Xái)
Suy niệm:
Bài Tin Mừng hôm nay tường thuật về mẻ cá lạ lùng mà Phêrô và các bạn được chứng kiến. Đây khám phá chỉ đơn thuần là một phép lạ lớn lao cho ta ngưỡng phục quyền năng của Thiên Chúa. Nhưng qua dấu lạ này, Chúa Giêsu còn muốn mời gọi ta ra khơi truyền giáo. Và qua tiến trình của phép lạ, Chúa Giêsu đã áp dụng một chương trình đào tạo các môn đệ, đặc biệt là Phêrô, người đứng đầu các môn đệ. Chương trình đào tạo này gồm 4 điểm:
Điểm thứ nhất: Cảm nghiệm về sự nghèo nàn của bản thân.
Phêrô và các bạn đang giặt lưới. Các ông mệt mỏi sau một đêm thức trắng vật lộn với biển khơi. Tâm trạng các ông chán nản sau thất bại chua cay não nề. Thế mà giờ đây, Chúa Giêsu lại bảo các ông ra khơi. Ra tận chỗ nước sâu. Nước sâu là chỗ nguy hiểm. Nước sâu là chỗ Phêrô gặp thất bại. Chúa Giêsu muốn Phêrô trở lại chỗ nước sâu để nhận thức rõ sự vô tài bất lực của bản thân. Chúa Giêsu muốn Phêrô nhìn rõ những thất bại để ông biết khiêm nhường. Khiêm nhường là bài học đầu tiên Chúa Giêsu muốn gửi đến các môn đệ của Người.
Điểm thứ hai: Cảm nghiệm về sự cao cả của Thiên Chúa.
Người tông đồ phải làm chứng về Thiên Chúa. Muốn làm chứng phải có kinh nghiệm. Ai chưa từng gặp được Thiên Chúa, chưa từng tiếp xúc với Người thì không thể làm chứng về Người. Trong những trường hợp đặc biệt, Thiên Chúa thường chủ động tỏ mình ra. Chúa tỏ mình cho Môsê trong bụi gai cháy đỏ. Chúa tỏ mình ra cho thánh Phaolô qua làn ánh sáng chói lọi trên đường đi Đamát. Hôm nay Chúa tỏ mình ra cho Phêrô qua mẻ lưới lạ lùng. Lập tức Phêrô nhận biết sự cao cả, sự thánh thiện của Chúa. Sợ hãi vì thấy mình tội lỗi, Phêrô vội quỳ xuống xin Chúa rời xa. Phêrô đã sống bên cạnh Chúa. Ông đã được tiếp xúc với Chúa. Ông đã cảm nghiệm được sự thánh thiện cao cả của Chúa. Sau này ông đi rao giảng chỉ là để kể lại những gì ông đã mắt thấy tai nghe.
Điểm thứ ba trong chương trình đào tạo môn đệ của Chúa đó là sự vâng lời tuyệt đối.
Phêrô hẳn là rất ngạc nhiên khi Chúa Giêsu bảo ông ra khơi đánh cá, lại còn chỉ rõ nơi thả lưới. Không ngạc nhiên sao được khi Phêrô là người miền biển trong khi Chúa Giêsu là người miền núi. Phêrô làm nghề chài lưới lâu năm kinh nghiệm trong khi Chúa Giêsu chỉ làm nghề thợ mộc. Thế mà khi Chúa Giêsu bảo ông thả lưới bên phải thuyền, ông đã tăm tắp làm theo. Phêrô đã vâng lời tuyệt đối. Phêrô đã học được thái độ vâng lời của người môn đệ. Ông đã thành công. Ông đã thấy kết quả rõ ràng. Và Chúa đã đặt ông làm Tông đồ Trưởng.
Điểm sau cùng mà Chúa muốn người môn đệ phải có đó là sẵn sàng ra đi. Ra đi là một thái độ liều lĩnh. Vì vượt qua những khoảng không gian vật lý cheo leo. Ra khơi là chấp nhận đối đầu với phong ba bão táp. Vượt qua những khoảng không gian vật lý đã khó. Vượt qua những khoảng không gian tâm lý còn khó hơn. Ra đi là bỏ nơi an toàn để đến nơi bấp bênh. Ra đi là bỏ nơi quen biết để đến nơi xa lạ. Lên đường truyền giáo là bỏ lại tất cả: gia đình, thuyền bè, chài lưới. Bỏ cả nghề nghiệp cũ đã thành thạo để bắt tay vào nghề mới còn chập chững. Bỏ lưới cá để chài người. Nhưng khó nhất chính là ra khỏi chính mình. Dù có đi xa ngàn dặm nhưng vẫn giữ được những thói tật xưa cũ thì người ta vẫn còn ở khởi điểm. Muốn lên đường người môn đệ phải ra khỏi tính tự ái tự mãn của mình. Ra khỏi những quan niệm xưa cũ hẹp hòi. Ra khỏi những ảo tưởng viễn vông. Ra khỏi những ích kỷ chỉ nghĩ đến bản thân.
Khi đã từ bỏ tất cả, người môn đệ sẽ trở nên hoàn toàn nghèo nàn. Gia tài chỉ có niềm cậy tin phó thác hoàn toàn vào Đấng kêu gọi ta. Vũ khí chỉ có lòng vâng phục tuyệt đối vào Đấng sai ta.
Mỗi người được Chúa huấn luyện. Bao lâu ta chưa cảm nghiệm được sự hèn kém của bản thân, chưa cảm nghiệm được sự thánh thiện cao cả cũng như tình yêu của Thiên Chúa, chưa có niềm vâng phục tuyệt đối, chưa ra đi trong tự do và khó nghèo, ta vẫn chưa thực sự trở thành môn đệ của Chúa. Chưa được đào tạo kỹ lưỡng mà đã làm việc thì phần thành công chắc chắn sẽ ít hơn phần thất bại.
Cầu nguyện:
Lạy Chúa, chúng con xin Chúa ban ơn trợ giúp cách đặc biệt cho những người Chúa đã chọn, đã và đang khiêm tốn chịu khó làm việc của Chúa trên khắp mọi cánh đồng và vườn nho của Chúa, nhất là cho Đức Thánh Cha, cho các vị Giám mục và các linh mục, cùng tất cả những người cộng tác chặt chẽ với các ngài.
Chúng con cũng tha thiết xin Chúa kêu gọi thêm những người đang ước muốn vào làm việc tông đồ của Hội Thánh, đặc biệt trong những nơi đang xảy ra tình trạng “lúa chín thì nhiều mà thợ gặt thì ít.”
Xin Chúa cho chúng con biết lắng nghe tiếng Chúa chỉ bảo làm việc nầy hay việc khác trong hoàn cảnh Giáo Hội hiện nay trên quê hương đất nước chúng con. Trước hết là giữ vững niềm tin vào Đức Giêsu Kitô Chúa. Đó chính là ơn gọi đưa chúng con vào Nước Trời bây giờ và sau này. Đó cũng là ơn gọi làm tông đồ giáo dân bằng chính cuộc sống đức tin của mình trong môi trường xã hội.
3. Suy niệm (Lm. Giuse Đinh Lập Liễm)
THIÊN CHÚA KÊU GỌI CON NGƯỜI
+++
A. DẪN NHẬP
Có thể nói chủ đề của Phụng vụ Lời Chúa hôm nay là “Ơn gọi”. Thiên Chúa muốn con người tham gia vào công cuộc cứu chuộc của Ngài. Vì thế, mỗi người đều có ơn gọi làm tông đồ, hay nói cách khác, mỗi người có ơn gọi làm chứng nhân.
Thiên Chúa không phải là một Thiên Chúa xa cách mà gần gũi với con người, Ngài muốn cho con người gặp Ngài khi Ngài muốn để cho kẻ ấy có kinh nghiệm đặc biệt về Ngài và chọn kẻ ấy làm chứng nhân. Chuyện đã xảy ra như thế cho Isaia, cho Phêrô và các bạn, cho Phaolô. Chuyện đã xảy ra cho họ ngày xưa chính là chuyện đời của mỗi người chúng ta, chuyện ơn gọi của cá nhân chúng ta hôm nay.
Dựa trên phép Rửa tội và Thêm sức, mỗi Kitô hữu có nhiệm vụ phải làm chứng cho Chúa trong đời sống thường ngày. Ngày xưa, các Tông đồ đã lãnh nhận sứ mạng đi truyền giáo, ngày nay Giáo hội và mỗi người chúng ta cũng phải tiếp tục công việc của các ngài. Với tư cách là một Kitô giáo dân, mỗi người có trách nhiệm tham gia vào việc tông đồ giáo dân như công đồng Vatican II đã dạy. Việc tông đồ giáo dân phải được thực hiện trong môi trường sống hằng ngày của mỗi người.
B. TÌM HIỂU LỜI CHÚA
+ Bài đọc 1: Is 6,1-2a.3-8
Ngày nay Thiên Chúa không còn tỏ mình ra nơi sa mạc hay trên núi nữa. Ngày nay Thiên Chúa ba lần chí thánh tỏ vinh quang của Ngài ra cho tiên tri Isaia trong đền thờ. Trong một thị kiến, Isaia thấy mình đang ở trong đền thờ, qua những cảnh huy hoàng và ngoạn mục ông trông thấy, Thiên Chúa vô cùng thánh thiện, ông cảm thấy mình tội lỗi quá, vô cùng bất xứng nên đã kêu lên: “Khốn thân tôi, chết tôi rồi, vì tôi là một người môi miệng ô uế…” Nhưng khi Thiên Chúa sai thiên thần thanh tẩy miệng lưỡi ông, tha thứ tội cho ông và sau đó gọi ông làm tiên tri, thì ông đầy lòng tin tưởng và mạnh dạn đáp lời: “Có con đây, xin Chúa sai con đi” (Is 6,8). Và Isaia đã trung thành làm chứng về lòng tin của mình.
+ Bài đọc 2: 1Cr 15,1-11
Tại Corintô, nhiều người chống đối Phaolô, cho rằng ông không đủ tư cách làm Tông đồ. Ngài cũng ý thức về điều đó. Ngài tự coi mình là tông đồ nhỏ nhất như đứa con sinh sau đẻ muộn, nhưng dù sao, ông cũng được Chúa chọn làm tông đồ để đi rao giảng Đấng Phục sinh cho dân ngoại. Ngài đã truyền đạt cho họ những điều chính yếu mà Ngài đã nhận được, đó là mầu nhiệm Phục sinh và lời chứng về Đấng Phục sinh của những người có thẩm quyền.
Ngày nay Giáo hội vẫn rao giảng mầu nhiệm đó, và cũng vẫn trung thành rao giảng vì niềm tin này chính là nền tảng cho đời sống Kitô hữu chúng ta.
+ Bài Tin mừng: Lc 5,1-11
Không phải vô cớ mà thánh Luca nối kết ơn gọi của Tông đồ với một mẻ cá đặc biệt dồi dào. Theo Ngài, rao giảng Tin mừng là một việc cứu nạn, kéo nhân loại ra khỏi chỗ đắm chìm. Tông đồ là kẻ thu phục người ta. Nói cách khác, một người giải phóng.
Bài Tin mừng hôm nay thuật lại câu chuyện về mẻ cá lạ lùng. Phép lạ này gợi lên cho ta mấy ý tưởng:
- Sở dĩ có phép lạ này vì Phêrô không tin vào sự thành công của mình, nhưng vì nể lời Chúa ông mới thả lưới.
- Thuyền đầy cá là hình ảnh báo trước là hình ảnh nhân loại sẽ tin theo Chúa, gia nhập vào Giáo hội và Giáo hội sẽ được lan truyền khắp nơi.
- Mẻ cá lạ lùng khiến các ông nhận ra uy quyền của Đức Giêsu và đồng thời nhận ra sự yếu đuối bất lực và thân phận tội lỗi của mình: “Lạy Thầy, xin tránh xa con, vì con là kẻ tội lỗi”.
- Các môn đệ cứ đi rao giảng Tin mừng, còn việc có nhiều người ăn năn trở lại, vâng theo Tin mừng hay không, là việc của Chúa.
- Qua biến cố này, các ông đã bỏ mọi sự mà đi theo Chúa. Các ông đã mau mắn đi theo tiếng Chúa gọi để đi truyền giáo.
C. THỰC HÀNH LỜI CHÚA: Sống ơn gọi làm Tông đồ
I. CHÚA KÊU GỌI CON NGƯỜI
Qua các bài đọc trong Thánh lễ hôm nay, Giáo hội muốn cho chúng ta nhận ra ý nghĩa của việc tông đồ trong Giáo hội, để nhờ đó, chúng ta đáp lại tiếng Chúa gọi bằng cách quảng đại dâng hiến cuộc đời cho Chúa và sẵn sàng theo Chúa làm việc tông đồ.
Truyện: Tổng thống Abraham Lincoln
Một ngày nọ, Tổng thống Abraham Lincoln đi đến thành phố Charleston, tiểu bang South Carolina. Khi đi ngang qua trung tâm thành phố, ông trông thấy người ta đang tổ chức một cuộc đấu giá buôn bán nô lệ. Chứng kiến cảnh buôn bán người, tận đáy linh hồn ông cảm thấy bị khuấy động lên cơn giận dữ của Thiên Chúa, và một nỗ lực phải làm để cứu những người nô lệ. Do đó ông đã làm một điều độc đáo và bất thường nhất. Ông bước vào trong đám đông, khi cuộc trả giá bắt đầu, trước tiên là một em gái nô lệ rất nghèo, ông đã bước ra trả giá trước. Cuộc đấu giá càng lúc càng sôi động, ông tham gia rất tích cực, và sau cùng đã trúng giá, đánh hạ tất cả mọi người. Ông trao tiền để lấy người nô lệ. Cô bé gái được đem đến cho ông. Con bé sợ hãi hỏi ông sẽ làm gì đối với nó. Abraham Lincoln trả lời: “Tôi sẽ để cho cô được tự do”. “Tự do? Tự do để làm gì?” Cô bé kinh ngạc hỏi. Ông trả lời: “Tự do để làm bất cứ cái gì cô muốn”. Cô bé thắc mắc có phải mình được tự do đi đến bất cứ chỗ nào cô muốn, làm bất cứ điều gì cô thích, nói bất cứ điều gì cô nghĩ, và làm bất cứ nghề nào cô ước muốn. Sau cùng cô bé mỉm cười và nói: “Cháu sẽ đi theo ông”.
Abraham Lincoln đã chứng tỏ cho chúng ta thấy, ông là một con người gương mẫu và biết cách “kêu gọi” dân chúng “theo ông”. Ông đã gọi họ bằng chính gương sáng của mình. Trong bài Tin mừng hôm nay, Đức Giêsu kêu gọi Phêrô, rồi Giacôbê, Gioan và Anrê cũng đi theo Ngài. Đức Giêsu đã cho họ biết Ngài là ai qua việc giảng dạy, chữa lành, và bằng các đức tính tốt lành, nhân từ và tha thứ của Ngài.
1. Ơn gọi của các Tông đồ
Hồ nước lớn danh tiếng tại Galilê được gọi bằng 3 tên: biển Galilê, biển Tibêriat và hồ Giênêxaret. Hồ này dài 20,8 km, rộng 12,8 km. Hồ ở vào chỗ trũng của mặt đất, nơi sâu nhất là 225 mét dưới mặt biển, vì thế nó có khí hậu giống khí hậu nhiệt đới. Ngày nay cư dân không đông đúc lắm, nhưng vào thời Đức Giêsu, có 9 thị trấn chung quanh bờ hồ, không thị trấn nào dưới 15.000 người.
Đức Giêsu rao giảng Tin mừng ở đây, dân chúng chen nhau lại gần để nghe Ngài giảng. Việc đó diễn tả hiệu quả hấp dẫn do lời giảng dạy của Ngài. Vì dân chúng quá đông nên Đức Giêsu phải xuống thuyền của ông Simon đang đậu gần bờ, ra xa bờ một chút để có thể dễ dàng giảng dạy… Giảng dạy xong, Đức Giêsu bảo ông Simon đưa thuyền ra chỗ nước sâu mà bắt cá. Simon, một ngư dân dày kinh nghiệm trong nghề chài lưới, đã cho Chúa biết kết quả thảm bại: sau một đêm cực nhọc vất vả mà chả bắt được con cá nào. Ông nói đúng, nhưng không biết nghĩ ngợi thế nào, ông đã thưa với Chúa: “Vâng lời Thầy, con sẽ thả lưới”. Kết quả thật bất ngờ, cá nhiều vô kể đến nỗi lưới muốn rách.
Đây là một phép lạ? Hồ Giênêsaret có nhiều cá. Nhưng suốt đêm các ông không bắt được gì mà bây giờ bắt được nhiều như thế là một phép lạ. Biết được chỗ có nhiều cá, để bảo Simon thả lưới phải do sự hiểu biết của Thiên Chúa. Thường thì ban ngày ít đánh được cá hơn ban đêm, đây ban đêm không được gì mà ngày thì lại được cá nhiều quá sức tưởng tượng thì phải coi là cái gì khác thường. Chính những người bắt cá xác nhận là phép lạ.
Trước mẻ cá lạ lùng này, ông Simon sụp lạy dưới chân Ngài và thưa: “Lạy Chúa, xin hãy tránh xa con, vì con là người tội lỗi”. Cả ông Giacôbê và Gioan cũng kinh ngạc như ông. Nhưng Đức Giêsu phán bảo ông Simon: “Đừng sợ! từ nay con sẽ là kẻ chinh phục người ta”. Bấy giờ các ông đưa thuyền vào bờ, và đã từ bỏ mọi sự mà đi theo Ngài.
Đây là những môn đệ đầu tiên đi theo Ngài. Họ đi theo Ngài từ đây. “Đi theo” theo nghĩa thần học, động từ này ám chỉ sự dâng hiến chính mình, thoát khỏi mọi sự ràng buộc. Vì thế ở đây ta liên tưởng đến ý nghĩa từ bỏ của cải vật chất (Mc 10,21), từ bỏ cha mẹ, bạn bè và tất cả (Lc 5,11).
2. Ơn gọi của tiên tri Isaia
Tiên tri Isaia, trong bài đọc 1, được chiêm ngưỡng vinh quang Thiên Chúa và nghe tiếng các Thiên Thần Sốt mến luân phiên tung hô: “Thánh, thánh, thánh, Chúa là Thiên Chúa các đạo binh, trời đất đầy vinh quang Chúa”. Điều đó khiến ông run sợ và cảm thấy mình bất xứng, nên đã thốt lên lời: “Vô phúc cho tôi, tôi chết mất, vì lưỡi tôi nhơ bẩn”. Trước sự khiêm tốn ấy, Chúa sai sứ thần đến thanh tẩy ông bằng than lửa hồng, ông trở nên thanh sạch và được Chúa tuyển chọn, ông đã can đảm đáp lại: “Này con đây, xin hãy sai con”.
3. Ơn gọi của tông đồ Phaolô
Thánh Phaolô, trong bài đọc 2, sau khi được Chúa kêu gọi và cải hoá từ tay bắt bớ Đạo Chúa, nay trở nên một vị Tông đồ nhiệt thành truyền bá giáo lý của Chúa, là thầy dạy dân ngoại. Ngài đã khiêm tốn thú nhận mình hèn mọn nhất trong các Tông đồ, nhưng nay được như thế này là nhờ ơn Chúa ban. Bởi ngài đã can đảm đáp lại tiếng Chúa gọi khi thưa với Chúa: “Lạy Chúa, Chúa muốn con làm gì?”
Phaolô là con người đầy nhiệt huyết, đã đi vòng quanh đế quốc La mã 4 lần, đã đưa dân ngoại vào Đạo. Làm sao cắt nghĩa được nội tâm của con người đầy lửa ấy? Thưa vì người đã gặp gỡ Chúa Kitô. Cuộc gặp gỡ đó đã đảo lộn cuộc đời Phaolô, từ một kẻ bắt bớ tín hữu trở nên một Tông đồ nhiệt thành. Tất cả là ơn của Chúa và Ngài vui mừng vì được trả giá rất cao để “Ơn Chúa không ra vô ích”: 5 lần bị đánh đòn 39 trượng, 3 lần bị tra tấn, một lần bị ném đá, 3 lần bị đắm tàu một ngày một đêm chơi vơi trong lòng biển (2Cr 12,24-25).
4. Ơn gọi của chúng ta
Chúa vẫn còn kêu gọi mọi người chúng ta, và ngày nay nhu cầu ấy càng to lớn. Và vẫn còn có những người đáp lại lời Ngài. Một số người (như các Tông đồ) được kêu gọi để tận hiến mình, đi theo Đức Kitô bằng một phương thế “chuyên nghiệp”. Nhưng không phải mọi Kitô hữu đều được kêu gọi theo Đức Kitô bằng cách ấy.
Bằng phép Rửa tội, chúng ta cũng được kêu gọi đi theo Đức Kitô. Nhưng đối với một người bình thường, đi theo Đức Kitô có nghĩa là gì? Là sống xứng danh một Kitô hữu trong ngành nghề của mình ở bất cứ nơi nào mình có mặt. Còn có nhiều cách phục vụ Đức Kitô và Tin mừng của Ngài hơn nữa.
Một số người Kitô hữu khi ý thức về tội lỗi mình thì tự ý miễn trừ cho mình những việc hoạt tông đồ hay những việc phục vụ dân Chúa. Họ nghĩ rằng Chúa không gọi họ làm việc tông đồ. Họ cho rằng việc tông đồ là thuộc phạm vi linh mục và tu sĩ nam nữ. Đọc lịch sử Giáo hội, ta thấy khi Chúa muốn để lại một ấn tượng sâu xa về quyền năng của Ngài, Chúa không ngừng dùng những phương thế khác thường, nghĩa là dùng quyền năng Chúa biến đổi họ tức thời, như Chúa đã biến đổi Phaolô, người bách hại Đạo trở thành người hăng say rao giảng Tin mừng, như Augustinô, một thanh niên trụy lạc trác táng, thành một giám mục thánh.
II. SỐNG THEO ƠN GỌI
1. Ơn gọi là hồng ân của Thiên Chúa
Mọi người đều có ơn gọi. Ơn gọi phải phát xuất từ Thiên Chúa, con người chỉ biết đón nhận với lòng thành thực và biết ơn. Con người không chọn Chúa, mà chính Chúa chọn con người: Isaia tin có Chúa đang hiện diện trong Đền thờ, nhưng ông không dám nghĩ tới việc được “thấy” Chúa và được Ngài “gọi” (bài đọc 1). Phaolô đang trên đường lùng bắt các môn đệ Đức Kitô thì được ơn gọi (bài đọc 2). Còn Phêrô và các bạn chài thì đang lo đánh lưới bắt cá nhưng lại được gọi làm những kẻ quăng lưới bắt người (bài Tin mừng). Đúng như lời Đức Giêsu nói: “Không phải các con chọn Thầy, nhưng chính Thầy đã chọn các con”.
Chúa có thể gọi ta trong những hoàn cảnh đặc biệt, nhưng ngày nay, Chúa thường gọi con người trong những hoàn cảnh rất thông thường và qua trung gian. Dù được gọi trong hoàn cảnh đặc biệt hoặc trong cuộc sống bình thường thì tất cả là hồng ân Thiên Chúa. Con người phải đáp lại tình thương yêu của Chúa.
2. Con người bất xứng trước ơn gọi
Thiên Chúa đã kêu gọi mỗi người và mỗi người đều cảm thấy mình bất xứng, tội lỗi. Chúng ta có 3 ví dụ về ơn gọi:
- Isaia thốt lên: “Khốn thân tôi, tôi chết mất, vì tôi là một người môi miệng ô uế, tôi ở giữa một dân môi miệng ô uế” (bài đọc 1).
- Phaolô tự nhận “Tôi là người hèn mọn nhất trong số các Tông đồ, tôi không đáng được gọi là tông đô, vì đã ngược đãi Hội thánh của Thiên Chúa”.
- Phêrô, sau mẻ cá lạ lùng, sấp mình dưới chân Chúa mà thưa: “Lạy Chúa, xin tránh xa con vì con là kẻ tội lỗi”.
Tuy thấy mình bất xứng nhưng vẫn được Thiên Chúa tín nhiệm. Đáp lại hồng ân của Chúa, các ông cố gắng chu toàn nhiệm vụ Chúa trao:
- Isaia mạnh dạn thưa lại với Chúa: “Dạ, có con đây, xin sai con đi”.
- Phaolô dám khoe: “Tôi đã làm việc hơn tất cả các vị khác, nhưng không phải tôi, mà là Thiên Chúa ở cùng tôi”.
- Còn Phêrô thì “đưa thuyền vào bờ và đi theo Ngài”.
3. Cần có ơn Chúa trợ lực
Ông Simon thưa với Đức Giêsu: “Thưa Thầy, chúng con đã vất vả suốt đêm mà không bắt được gì cả”. Đúng vậy, ông đã mất công toi cả một đêm với kinh nghiệm đánh cá. Nhưng Đức Giêsu thuyết phục ông thử thêm một lần nữa mà ông đã thành công rực rỡ giữa thất bại.
Câu chuyện này nhắc cho các ông và cho chúng ta một bài học: Khi Đức Giêsu bắt đầu tham dự vào sự việc, thì lập tức sự việc ấy sẽ đổi thay. Những lần buông lưới trước đó – có lẽ từ 20 đến 30 lần suốt đêm ấy – các môn đệ làm một mình. Nhưng lần cuối cùng, Đức Giêsu bắt đầu can dự vào, thì sự tình quay hẳn 180 độ. Việc diệu kỳ xảy ra đã vượt quá ước mơ của họ.
Trên mảnh đất chuyên môn của mình, Simon tưởng mình có khả năng, nhưng Đức Giêsu đã đánh trúng ông, đã chỉ cho ông thấy những giới hạn của mình: ông không là gì cả nếu không có Ngài. Chúng ta cũng thế, trong chiếc thuyền của chúng ta, chúng ta thường phải nhường chỗ cho một “Đấng khác”, để thả lưới ở nơi mà chúng ta không tự mình làm được.
Nhà bác học Archimède đã khẳng định: “Hãy cho tôi một điểm tựa, tôi sẽ nhấc bổng trái đất lên”. Nếu Archimède dám khẳng định như vậy thì tại sao ta lại không dám xác tín rằng: Dựa vào Đức Giêsu, Đấng đã hiến mạng vì tình yêu, tôi có thể chinh phục mọi tâm hồn? Như Simon đã dựa vào Lời Chúa mà thả lưới và bắt được mẻ cá lớn, thì chúng ta cũng có thể trở thành người chinh phục các tâm hồn cho Chúa một khi chúng ta biết dựa vào quyền năng của Chúa hơn là vào sức riêng mình.
Truyện: Thánh Gioan Vianney
Thánh Gioan Vianney, lúc còn là chủng sinh, học rất chậm. Ngày kia, một giáo sư thần học, thừa lệnh Đức Giám mục đến khảo sát Vianney xem có đủ khả năng học vấn để tiến tới chức linh mục chăng?
Tuy đã cố hết sức học hành, Vianney vẫn không thể trả lời được câu nào cho trôi chảy.
Nổi nóng, vị giáo sư đập bàn nói:
- Vianney, anh dốt đặc như con lừa! Với một con lừa như anh, Giáo hội hy vọng làm nên trò trống gì?
Vianney khiêm tốn bình tĩnh trả lời:
- Thưa cha, ngày xưa Samson chỉ dùng một cái xương hàm con lừa mà đánh bại 3000 quân Philitinh. Vậy với cả con lừa này, Thiên Chúa không làm được việc gì sao?
4. Thực hành ơn gọi tông đồ
a) Về phần các Tông đồ
Sau khi Đức Giêsu về trời, các Tông đồ chia nhau ra đi truyền giáo. Các ông đã hăng say hoạt động, hy sinh rất nhiều vì danh Chúa và sau cùng đã nhận lấy cái chết để tỏ lòng trung thành với Chúa…
Trong bài đọc 2, chúng ta được nghe thánh Phaolô bộc bạch tâm tư của mình. Phaolô là một con người đầy nhiệt huyết, đã vòng quanh đế quốc La mã 4 lần, đã đưa dân ngoại vào Đạo. Làm sao cắt nghĩa được nội tâm của con người đầy lửa ấy? Thưa vì ngài đã gặp gỡ Chúa: “Rồi sau cùng Ngài đã hiện ra với tôi như một đứa con sinh non” (1Cr 15,8). Phải, cuộc gặp gỡ đã đảo lộn cuộc đời Phaolô, từ một kẻ bắt bớ tín hữu trở nên một Tông đồ nhiệt thành. Tất cả là ơn của Chúa và ngài được vui mừng trả giá rất cao để “Ơn Chúa không ra vô ích”: 5 lần bị đánh đòn 39 trượng, 3 lần bị tra tấn, 1 lần bị ném đá, 3 lần bị đắm tàu, 1 ngày 1 đêm chơi vơi trong lòng biển (2Cr 12,24-25).
b) Về phía Giáo hội
Trước khi về trời, Đức Giêsu trao sứ mạng truyền giáo cho các Tông đồ: “Các con hãy đi khắp nơi giảng dạy cho muôn dân”. Các ngài đã ra đi rao giảng và cũng đã chu toàn sứ mạng Chúa trao phó. Nối tiếp các Tông đồ, Giáo hội tiếp tục sứ mạng đó như Công đồng Vatican II đã dạy:
“Vốn phát sinh từ ơn gọi làm Kitô hữu, việc tông đồ giáo dân không bao giờ có thể khiếm khuyết trong Giáo hội. Trong những buổi đầu Giáo hội, việc tông đồ này thật là hăng say và kết quả biết bao! Chính Thánh kinh chứng minh cách phong phú điều đó (Cv 11,19-21; 18,26; Rm 16,1-16). Càng ngày dân số càng gia tăng, khoa học và kỹ thuật càng tiến triển, những mối tương quan mật thiết hơn giữa con người không những mở rộng môi trường hoạt động tông đồ giáo dân đến bao la, môi trường mà phần lớn chỉ dành riêng cho họ, và còn tạo nên nhiều vấn đề mới đòi hỏi họ phải đặc biệt lưu tâm học hỏi” (Apostolicam Actuositatem, đoạn 1).
Theo giáo huấn của công đồng, ta thấy người giáo dân thực hành việc tông đô có hiệu quả hơn các linh mục và tu sĩ. Bởi vì các linh mục đâu có đến các gia đình hay gặp gỡ được những người không có đạo, và họ cũng đâu có đến nhà thờ để nghe các linh mục giảng. Chính các giáo dân là những tông đồ cụ thể, trực tiếp và hữu hiệu nhất.
Lời Chúa hôm nay, cùng với lời kêu gọi của công đồng Vatican II đối với mỗi Kitô hữu trong việc phục vụ Giáo hội, nhắc nhở cho chúng ta về sứ vụ truyền giáo. Sự thường chúng ta hay tìm đủ mọi lý do để từ chối hay không tích cực đáp lại lời mời gọi này. Chúng ta thường viện lý do cho rằng mình không đủ phẩm chất để theo Chúa, thiếu kiến thức, thiếu lòng đạo đức, không xứng đáng được mời gọi đến phục vụ.
Tuy nhiên, Thiên Chúa không mời gọi chúng ta theo sự xứng đáng, phẩm chất hay kiến thức. Ngài gọi chúng ta theo ân sủng và tình yêu của Ngài. Khi Thiên Chúa mời gọi, nếu chúng ta đón nhận ơn gọi của Ngài, Ngài sẽ biến đổi cuộc đời chúng ta, làm cho chúng ta trở nên giống như Ngài, và ban cho ta những ơn cần thiết để thi hành điều Ngài muốn chúng ta làm (Lc 1,38).
Thiên Chúa không bao giờ khước từ thiện chí của chúng ta. Bất kể chúng ta là ai, có khả năng gì, yếu đuối thế nào, Ngài luôn cần chúng ta trong công việc phục vụ Giáo hội của Ngài. Ngài luôn mời gọi chúng ta đi theo Ngài và trở thành những tông đồ đồng hành với Ngài trong công cuộc cứu rỗi nhân loại.
Chúng ta hãy cầu xin Chúa ban cho mọi người chúng ta biết tin theo Chúa, tham gia vào công việc tông đồ giáo dân một cách tích cực, quảng đại để đem về cho Chúa nhiều linh hồn, theo kinh của thánh Inhaxiô Loyola:“Lạy Chúa, xin dạy con biết sống quảng đại,
Biết phụng sự Chúa cho xứng đáng,
Biết cho đi mà không cần tính toán,
Biết chiến đấu mà không sợ thương tích,
Biết làm việc mà không tìm an nghỉ,
Biết xả thân mà không tìm một phần thưởng nào khác
Ngoài việc biết mình đang thi hành thánh ý Chúa”.
4. Suy niệm (Lm. Antôn Nguyễn Cao Siêu, S.J.)
CHÈO RA CHỖ NƯỚC SÂU
Tôi xin tự giới thiệu tôi là Si-môn.
Cuộc sống tôi coi như đã ổn định,
vì tôi có nhà, có thuyền, có vợ, có nghề.
Tôi nghĩ cuộc sống của tôi có nhiều người mơ ước.
Như một sự tình cờ, Thầy Giêsu giảng cho đám đông
gần chỗ đậu hai chiếc thuyền của tôi và các bạn.
Dân chúng chen lấn nhau dữ quá,
vì ai cũng muốn lại gần Thầy để nghe cho rõ hơn.
Thầy nghĩ ra cách giải quyết là lên thuyền của tôi,
và xin tôi chèo thuyền xa bờ một chút,
rồi từ thuyền, Thầy giảng vọng vào cho dân.
Giảng xong, Thầy bảo tôi:
“Anh chèo ra chỗ nước sâu, và các anh hãy thả lưới bắt cá.”
Thú thật, tôi có nhiều lý do để từ chối,
dù tôi đã chứng kiến sức mạnh quyền uy nơi lời của Thầy.
Chỉ cần nói một lời, Thầy đã đuổi quỷ ô uế ở hội đường
và đã chữa cho bà mẹ vợ của tôi bị sốt (Lc 4,31-41).
Nhưng tôi ngần ngại chưa muốn vâng lời Thầy
vì ngư phủ chúng tôi đều biết: ban đêm mà không có cá
thì đánh cá ban ngày là hoàn toàn vô ích.
Hơn nữa, chúng tôi cần nghỉ ngơi sau một đêm vất vả,
lưới đã được giặt và đem phơi cho khô…
“Nhưng vâng lời Thầy, con sẽ thả lưới.”
Tôi quyết định cứ vâng lời Thầy, cứ tin vào lời Thầy,
vượt lên trên kinh nghiệm và sự mệt mỏi của thân xác.
Chúng tôi đã ra xa bờ, đến chỗ nước sâu, và thả lưới.
Không dám hy vọng nhiều về một mẻ cá giữa ban ngày.
Nhưng thật bất ngờ và dễ dàng,
chúng tôi có được mẻ cá trong mơ.
Hai thuyền đầy ắp cá, gần chìm, mà lưới không rách.
Tôi không hiểu tại sao tôi lại không vui sướng vì mẻ cá,
dù mẻ cá này có thể giúp chúng tôi sống một thời gian.
Tôi chỉ thấy bàng hoàng, ngây ngất về chuyện xảy ra.
Một mẻ cá kinh khủng khi cả đêm không được con nào.
Bỗng nhiên tôi nghĩ đến người đã bảo chúng tôi đánh cá.
Người ấy là ai? Lời của Người ấy đã đem lại mẻ cá này.
Đây không phải là người thường.
Tôi thấy nơi Thầy Giêsu có quyền uy của Thiên Chúa.
Điều đó khiến tôi sụp lạy Thầy và kêu lên: “Lạy Chúa!”
Tôi cảm thấy sự linh thánh bừng sáng nơi Thầy,
và sự yếu đuối tội lỗi nơi chính con người mình.
Chính khi tôi xin Thầy tránh xa tôi, thì thầy kéo tôi lại.
Thầy bảo tôi đừng sợ, và mời gọi tôi cộng tác:
“Từ nay trở đi, anh sẽ đi đánh bắt con người.”
Như thế là cuộc đời tôi, vốn đang ổn định,
bây giờ được lật sang một trang mới.
Từ đánh bắt cá thành đánh bắt người.
Mối bận tâm của tôi là làm cho con người được sống.
Nhiều người nghĩ bỏ mọi sự để theo Thầy Giêsu là dễ.
Thật ra theo Thầy là bước vào sự chông chênh, bấp bênh.
Những chỗ dựa tinh thần như gia đình, họ hàng bị sụp đổ.
Chẳng còn chỗ dựa vật chất như nghề nghiệp, ruộng nương.
Cũng chẳng còn thú vui khi cùng nhau ra khơi đánh cá.
Bù lại, chúng tôi biết mình đang đi theo Đấng nào,
Đấng có lời ban sự sống vĩnh cửu.
Tôi là Si-môn, một người tội lỗi, sau này còn chối Chúa,
Nhưng Chúa vẫn chọn tôi và cho tôi đi theo Ngài.
Tôi không hối hận khi đã đồng ý đi theo mãi.
Chắc các bạn cũng được gọi như tôi để làm môn đệ Ngài.
Không nhất thiết phải bỏ gia đình, nghề nghiệp như tôi,
nhưng chắc chắn phải bỏ những gì chống lại ý Chúa.
LỜI NGUYỆN
Lạy Chúa, con cám ơn Chúa
về tất cả những điều Chúa đòi hỏi nơi con trong suốt cuộc đời.
Chúc tụng Chúa về thời đại con đang sống.
Chúc tụng Chúa về những giờ phút sướng vui
và những ngày tủi thân buồn bã.
Chúc tụng Chúa về cả những gì
Chúa đã không cho con được hưởng.
Lạy Chúa, xin đừng sa thải
người tôi tớ bất xứng và lười biếng của Chúa đây.
Ôi lạy Chúa khôn ngoan, nhân hậu và yêu thương,
xin đừng đuổi con xa Chúa.
Xin giữ con để con luôn phụng sự Chúa trong suốt đời con.
Xin giữ con để con phục vụ bất cứ điều gì Chúa muốn.
Dù khi mỏi mệt, dù khi chán chường,
con xin Chúa vẫn luôn kiên nhẫn,
để không bao giờ mỏi mệt về con,
và giữ con luôn luôn phụng sự Chúa.
Xin Chúa đến giúp con,
ban cho con ơn bắt đầu và lại bắt đầu,
cho con biết cậy trông
cả những khi cùng đường tuyệt vọng,
cho con tin chắc rằng Chúa sẽ thắng,
một chiến thắng huy hoàng nơi con.
Karl Rahner
bài liên quan mới nhất
![](/Images/Articles/MainImages/16012020_115950.jpg)
- Thứ Bảy tuần 4 Thường niên năm I (Mc 6,30-34)
-
Thứ Sáu tuần 4 Thường niên năm II (Mc 6,14-29) -
Thứ Năm tuần 4 Thường niên năm I (Mc 6,7-13) -
Thứ Tư tuần 4 Thường niên năm I (Mc 6,1-6) -
Thứ Ba tuần 4 Thường niên năm I (Mc 5,21-43) -
Thứ Hai tuần 4 Thường niên năm I (Mc 5,1-20) -
Ngày 02/02: Dâng Chúa Giêsu trong Đền Thánh (Lc 2,22-40) -
Thứ Bảy tuần 3 Thường niên năm I (Mc 4,35-41) -
Mùng 3 Tết: Thánh hóa việc làm (Mt 25,14-30) -
Mùng 2 Tết: Kính nhớ tổ tiên và ông bà cha mẹ (Mt 15,1-6)
bài liên quan đọc nhiều
![](/Images/Articles/MainImages/26012021_192612.jpg)
- Mùng 2 Tết: Kính nhớ tổ tiên và ông bà cha mẹ (Mt 15,1-6)
-
Ngày 25 tháng 12: Chúa Giáng sinh (Lễ Đêm, Rạng Đông, Ban Ngày) -
Mùng 1 Tết: Cầu bình an trong năm mới (Mt 6,25-34) -
Ngày 08/09: Sinh nhật Đức Trinh Nữ Maria (Mt 1,1-16.18-23) -
Lễ thánh nữ Têrêsa hài đồng Giêsu -
Chúa nhật 22 Thường niên năm A (Mt 16,21-27) -
Mùng 3 Tết: Thánh hóa việc làm (Mt 25,14-30) -
Chúa nhật Lễ Chúa Hiển Linh (Mt 2,1-12) -
Ngày 29/09: Các Tổng lãnh Thiên thần (Ga 1,47-51) -
Ngày 01/11: Lễ Các Thánh Nam Nữ - Phúc thật (Mt 5,1-12a)