Vai trò của người giáo dân trong Giáo Hội Việt Nam 50 năm qua (2)

Vai trò của người giáo dân trong Giáo Hội Việt Nam 50 năm qua (2)

II. Nhận định
Đức Giáo hoàng Gioan Phaolô II, trong Huấn từ về tông đồ giáo dân dịp Năm thánh 2000, đã phát biểu tại Quảng trường Thánh Phêrô:
Giờ giáo dân đã điểm. Làm một Kitô hữu, chưa bao giờ là một việc dễ dàng, ngày xưa cũng vậy mà ngày nay cũng thế. Muốn theo Chúa Kitô cần phải can đảm chọn lựa dứt khoát, thường thường là phải lội ngược dòng…[31]
Thích ứng nhiều hơn với tinh thần Công đồng Vaticanô II, người giáo dân Việt Nam hôm nay nói chung rất tích cực trong việc tham gia vào các hội đồng, hội đoàn của giáo phận, giáo xứ, thực hiện các hoạt động tông đồ với nhiều sáng kiến trong ý thức vâng phục “các chủ chăn có nhiệm vụ thánh đại diện Chúa Kitô”.[32]
Như mọi tín hữu khác, với tinh thần vâng lời của người Kitô hữu, giáo dân cũng hãy mau mắn chấp nhận những điều mà các chủ chăn có nhiệm vụ thánh đại diện Chúa Kitô, đã quyết định với tư cách là những thầy dạy và những nhà lãnh đạo trong Giáo hội; làm như thế, họ đã theo gương Chúa Kitô, Đấng đã vâng lời cho đến chết, để mở đường hạnh phúc của sự tự do con cái Thiên Chúa cho tất cả mọi người. Giáo dân đừng quên dùng lời cầu nguyện phó dâng cho Thiên Chúa các vị lãnh đạo của mình, để các ngài hoan hỉ mà không than vãn thi hành nhiệm vụ chăm sóc linh hồn chúng ta, nhiệm vụ mà các ngài sẽ phải trả lẽ (x. Dt 13,17). Phần các chủ chăn có chức thánh, các ngài phải nhìn nhận và nâng cao phẩm giá và trách nhiệm của giáo dân trong Giáo hội, các ngài nên sẵn sàng chấp nhận những ý kiến khôn ngoan của họ, tín cẩn giao cho họ những công tác để họ phục vụ Giáo hội, cho họ tự do và quyền hạn để hành động; hơn nữa, các ngài cũng nên khuyến khích họ tự đảm lấy trách nhiệm theo sáng kiến của họ. Với tình cha con, các ngài hãy cẩn thận xem xét, trong Chúa Kitô, những kế hoạch, thỉnh cầu, và khát vọng của họ (x. 1 Tx 5,19 và 1 Ga 4,1). Đàng khác, các chủ chăn phải nhìn nhận và tôn trọng sự tự do chính đáng của mọi người trong lãnh vực trần thế.[33]
Về phương diện hình thức, Giáo hội Công giáo Việt Nam hiện cũng đang có dáng vẻ chuyển mình khá rõ rệt. Sự trợ giúp quảng đại của kiều bào, các giáo hội chị em từ nước ngoài và các tổ chức quốc tế cùng với những đóng góp chắt chiu của dân chúng trong nước, nhiều công trình xây dựng của Giáo hội đã và đang được trùng tu, tôn tạo, hoặc xây dựng mới: nhà xứ, nhà sinh hoạt, trung tâm mục vụ, chủng viện, tòa giám mục….
Từ một số thực tế trong phần được “Nhìn lại”, chúng ta có thể đi đến những nhận định khái quát về việc thực thi vai trò của giáo dân trong Giáo hội và trong xã hội Việt Nam 50 năm qua.
1/ Kiên cường trong khó khăn thử thách
Tuy hoàn cảnh sống xem ra không mấy thuận lợi cho sinh hoạt bình thường của Giáo hội, nhưng thực tế đó lại đã tạo cơ hội để người giáo dân tại nhiều nơi thực hiện một cách tích cực hơn các vai trò của mình như được nhìn nhận và cổ vũ trong Giáo hội. Người giáo dân ở đây đã nối tiếp truyền thống của tầng lớp giáo dân trong buổi đầu và trong suốt quá trình phát triển của Giáo hội tại Việt Nam. Những người giáo dân này đã thực thi vai trò của mình cách dũng cảm vì Giáo hội và trong lòng tin ở Chúa, bất chấp các hiểm nguy đối với cuộc sống, thậm chí mạng sống của mình, của gia đình và người thân.
Lịch sử Giáo hội Công giáo Việt Nam ghi nhận tên tuổi vẻ vang của những người giáo dân đã bị cầm tù, bị kỳ thị… vì hoạt động tôn giáo của mình. Sự gắn bó của những người giáo dân này với niềm tin nơi Đức Kitô và Giáo hội của Người quả rất đáng trân trọng. Họ cũng có thể được sánh ví với những người giáo dân thuở xưa, những người được Giáo hội chính thức nhìn nhận công đức qua việc phong thánh năm 1988. Trong những hoàn cảnh đặc biệt như được nêu lên trên đây, khó có thể đòi hỏi gì hơn nơi anh chị em giáo dân ngoài sự gắn bó với lòng tin Kitô giáo, với Giáo hội và với cộng đoàn, dù qua những hình thức giữ đạo và cử hành đạo có thể họ có lúc đã bị đánh giá là quá nặng về mặt đạo đức tình cảm.
Tuy nhiên, cũng phải nhìn nhận rằng đây là một hoàn cảnh bất thường: người giáo dân đã thực hiện vai trò của mình một cách đơn độc trong sự thiếu vắng giáo sĩ. Con số ít ỏi các giáo sĩ ở nhiều nơi xem ra không đủ để “ban thánh lễ” mỗi tuần một lần cho các cộng đoàn; nói gì đến việc giáo dục đức tin, giảng dạy, tạo cơ hội để người giáo dân sống đầy đủ cuộc sống bí tích, để càng ngày càng thấm nhập tinh thần Tin mừng và để từ đó làm thấm nhập tinh thần Đức Kitô vào đời thường của xã hội. Vai trò sống Tin mừng của người giáo dân gần như chỉ còn gói ghém vào việc “thuần túy” gắn bó với Giáo hội và duy trì niềm tin Kitô giáo. Trong khi đó, sự phục vụ đầy đủ nhất phải là một sự phục vụ của toàn thể các thành phần trong Giáo hội “do sự thiết lập của Thiên Chúa” gồm giáo sĩ và giáo dân để:
… theo điều kiện của mỗi người, họ được kêu gọi thực hành sứ mệnh mà Thiên Chúa đã giao phó cho Giáo hội chu toàn trong thế giới.[34]
Ở một số nơi và trong một số hoàn cảnh, khi việc đào tạo giáo sĩ không gặp khó khăn và ơn gọi linh mục tương đối dồi dào, hiện tượng ngược lại đã diễn ra trong Giáo hội: giáo sĩ đảm nhận hầu như mọi công việc trong Giáo hội với tính cách là người lãnh đạo và người giáo dân chỉ biết vâng phục, đóng vai người phụ thuộc, thừa hành.[35]
Đành rằng, tại một số nơi, chúng ta đã chứng kiến sự xuất hiện của những người giáo dân có ý thức về trách nhiệm của người có niềm tin Kitô giáo đối với xã hội và thế giới; họ đã có những hành động cụ thể để thực thi trách nhiệm này. Và gần đây, được xem như một tín hiệu vui, sự xuất hiện những nỗ lực càng ngày càng lớn của nhiều giới trong việc thực hiện một sự kết hợp hài hòa, bình đẳng trên cơ sở tôn trọng ơn gọi riêng của giáo sĩ và của giáo dân, trong các hoạt động mục vụ khác nhau, như mục vụ gia đình, mục vụ giới trẻ….
Cũng vậy, tại một số nơi khác, nhiều phần việc thuộc phạm vi quản lý giáo xứ đã được giao phó cách tín nhiệm cho hội đồng giáo xứ gồm chủ yếu là những người giáo dân. Việc đào tạo các linh hoạt viên cho mục vụ giới trẻ, giáo lý viên để hợp tác với linh mục và tu sĩ lo việc dạy giáo lý cho trẻ em… đã phát triển thành phong trào. Tuy nhiên, luồng gió đổi mới này vẫn chưa đến được quảng đại quần chúng giáo dân.
Thực ra, theo giáo luật thì người đứng đầu giáo xứ vẫn là linh mục chính xứ.[36] Với sự hợp tác lãnh đạo của các giáo sĩ khác, các tu sĩ và giáo dân, linh mục chính xứ là người anh em với anh chị em đồng loại, nhưng cũng là người mục tử cho anh chị em của mình, và vì anh chị em đồng loại của mình. Tất cả các tín hữu Kitô trong một giáo xứ đều được mời gọi, mỗi người ở vào vị trí của mình trong gia đình giáo xứ, để cùng tham gia tích cực vào công việc chăm sóc và điều hành giáo xứ.[37]
Giám mục giáo phận ủy thác giáo xứ cho mục tử (pastor, parochus). Với những quyền hạn và trách vụ được giáo luật… và qui chế của giáo phận ban cho, mục tử thực sự lãnh đạo giáo xứ, không phải như một tổ chức, nhưng như một cơ thể nhỏ bé. “Chức linh mục được thụ phong của ngài tuyệt đối không thể thay thế.”[38]
2/ Để kiện toàn trật tự trần thế với tinh thần Phúc âm
Một trong những nguyên nhân dẫn đến tình trạng trên, chính là việc đào tạo giáo dân trong Giáo hội cho tới gần đây xem ra đặt nặng vào việc giữ đạo hơn là sống đạo; lẽ ra việc giáo dục Kitô giáo phải làm cho người giáo dân “thấm nhập tinh thần của Đức Kitô” để họ “kiện toàn trật tự trần thế với tinh thần Phúc âm”. Thật vậy, về phương diện giữ đạo và tạo được tình cảm đạo đức nơi các tín đồ, chúng ta có thể bằng lòng với thành quả đạt được. Nhưng đối với nhiệm vụ “thấm nhập và kiện toàn trật tự trần thế với tinh thần Tin mừng” thì còn cần phải có nhiều nỗ lực hơn nữa từ mọi phía.
Cuộc sống đạo, việc thực thi ơn gọi riêng của giáo dân trong xã hội trần thế nơi một số không nhỏ những Kitô hữu Việt Nam chưa được tổ chức một cách có hệ thống, có phương pháp để công việc bác ái từ thiện và đời sống chứng nhân của người Kitô hữu, hay nói một cách chính xác hơn, tình yêu thương cứu độ của Đức Kitô, được thể hiện một cách liên tục và hữu hiệu, tích cực góp phần đẩy lui tận căn cái xấu và góp phần thiết yếu vào việc xây dựng một trời mới, đất mới.
Thao thức về một “trời mới, đất mới” cho thế hệ trẻ hôm nay, có vị giám mục giáo phận đã từng đưa ra những nhận xét thật xác đáng, đề cập đến chính nỗi lo âu tự nhiên của người lớn trong tư cách là bậc cha mẹ. Do đó, lời phát biểu của ngài cũng tiềm ẩn sự đề cập đến nỗi sợ hãi của người giáo dân trẻ trước cuộc sống với những khó khăn họ phải trực diện. Bởi lẽ,
… những gì họ tiếp nhận được từ gia đình, học đường, giáo xứ không đủ khả năng giúp họ đương đầu với những phức tạp và khó khăn trong cuộc sống ngày một gia tăng.[39]
Từ đó, những người giáo dân trẻ có thể hoặc theo truyền thống văn hóa của gia đình, của Giáo hội: đi theo bước đường ngay thẳng của cha ông; hoặc đi lệch hướng: có hướng đi tự chọn trong cuộc sống, nhưng lại là hướng đi sai lạc vì lẫn lộn giữa phương thế và mục đích, tuyệt đối và tương đối; hoặc thậm chí hoàn toàn lạc hướng, sống buông thả, sống cho qua ngày.
Lời mời gọi từ Thư mục vụ năm 2003 của Hội đồng Giám mục Việt Nam thật đáng lưu tâm:
Có thể đó là những môi trường địa lý chưa bao giờ được nghe rao giảng Tin mừng, những vùng đất chưa in sâu dấu chân nhà truyền giáo. Đó là những môi trường văn hóa, chính trị, kinh tế, khoa học, kỹ thuật…. Đó là những lãnh vực cần có sự hiện diện của Chúa Kitô, chứng tá của Giáo hội và ánh sáng của Tin mừng. Hãy đến với những con người chưa được nghe rao giảng Tin mừng, hoặc đã nghe mà chưa sống Tin mừng. Hãy hiện diện trong mọi môi trường của nhân loại, vì không có gì của con người mà xa lạ với Giáo hội.[40]
Thực vậy, Thiên Chúa lúc nào cũng muốn con người, từ Đông sang Tây, từ Nam chí Bắc, được vào dự tiệc trong nước Người.[41] Lệnh truyền trang trọng của Chúa Giêsu đã được ghi lại rõ ràng trong Phúc âm theo Thánh Mátthêu:
Vì vậy các con hãy đi thâu nạp môn đồ khắp muôn dân, thánh tẩy họ nhân danh Cha và Con và Thánh Thần, dạy họ vâng giữ hết mọi điều Thầy đã truyền cho các con.[42]
3/ Đào tạo, huấn luyện giáo dân
Sự đồng thuận trong lãnh đạo, điều hành luôn luôn là việc rất cần thiết; không chỉ là điều cần thiết đối với mối quan hệ giữa các nhà lãnh đạo các cấp đối với nhau, mà cũng còn rất cần thiết đối với mối tương quan “mục tử-con chiên” giữa giáo sĩ và giáo dân. Người giáo dân mong ước—với ý thức đây cũng là ước mong của chính Giáo hội—được thấy vai trò tích cực của mình trong các hoạt động mục vụ, các hoạt động tông đồ… trong đời sống Giáo hội Công giáo tại Việt Nam. Giáo dân mong ước mình được huấn luyện thành những Kitô hữu trưởng thành, có đủ năng lực để phục vụ Giáo hội trong cương vị của mình.
Người giáo dân chưa thực hiện đúng vai trò của mình trong Giáo hội và trong xã hội vì những khó khăn khách quan, nhưng cũng vì sự mất cân bằng giữa việc đào tạo dành cho hàng giáo sĩ, tu sĩ và việc đào tạo dành cho giáo dân về nhiều mặt: (1) cơ sở huấn luyện, (2) nhân sự huấn luyện và được huấn luyện (formateurs et formation des formateurs), (3) tài liệu huấn luyện.
Nghĩa là, có sự mất cân bằng trong việc chăm sóc và huấn luyện giáo dân ở thành phố cũng như giáo dân ở nông thôn; có sự mất cân bằng trong đời sống thiêng liêng của người giáo dân: giữa việc đọc kinh, việc đạo đức bình dân, đời sống nội tâm và việc cố gắng sống niềm tin tôn giáo của mình trong xã hội.
Do vậy, người giáo dân rất cần một nền linh đạo thực sự thích hợp cho mình. Những người hữu trách nói chung, cần tránh áp dụng “nguyên xi” những nền linh đạo giáo sĩ, tu sĩ—dù rất hữu hiệu với các bậc sống tu trì—lên đời sống người giáo dân. Bởi sứ vụ của người giáo dân là thực hiện những công việc trần thế theo tinh thần Tin mừng, sống ơn gọi Kitô hữu của mình ngay giữa trần thế.
Sự thiếu sót trong đào tạo này chắc chắn sẽ dẫn đến việc người giáo dân, đặc biệt là người trẻ thiếu khả năng trực diện với những vấn đề cuộc sống xã hội không ngừng đặt ra. Trước những vấn đề này, thay vì tìm cách giải quyết theo tinh thần Kitô giáo, không ít người giáo dân đã lui về tìm nơi an toàn dưới tháp chuông nhà thờ, giữa những người đồng đạo, và cũng không ít người lại tìm giải pháp buông thả.
Ngoài ra, do hoàn cảnh đặc biệt của đất nước trong 50 năm qua, giữa các cộng đoàn giáo hội địa phương xem ra chưa có sự đồng thuận cao trong việc chọn hướng đi cụ thể cho Giáo hội. Sự đồng thuận cao đặt nền tảng trên ích lợi chung của Giáo hội, của quê hương Việt Nam cần sớm được thực hiện; những khoảng cách cần phải được rút ngắn. Giáo hội sẽ khó có sự phát triển mạnh và đồng đều, trong một nước Việt Nam đã thống nhất, nếu tinh thần “thống nhất trong điều chính, tương nhượng trong điều phụ, bác ái trong mọi sự”[43] không được đề cao tối đa.
III. Đề xuất
Từ những nhận định trên đây về vai trò người giáo dân Việt Nam đã thể hiện trong năm mươi năm qua, trong những hoàn cảnh và môi trường khác nhau, và cũng là để việc thể hiện vai trò của mình mỗi ngày một tốt hơn trong ý định của Thiên Chúa, Ủy ban Giáo dân xin trình bày một số đề xuất.
1/ Đổi mới nhận thức
Bản đề cương Giáo hội tại Việt Nam: Mầu nhiệp – Hiệp thông – Sứ vụ của Ban tổ chức năm thánh 2010, khẳng định “Năm thánh 2010… là kairos qua đó Thiên Chúa muốn làm bừng dậy cuộc canh tân Giáo Hội của Ngài tại Việt Nam.”[44] Canh tân trong Giáo hội luôn được xem là biểu hiện công cuộc hoạt động của Chúa Thánh Thần, Đấng đổi mới mọi sự trong ngoài. Một trong những canh tân, đổi mới chúng ta chờ mong ở đây là sự đổi mới cách nhìn về Giáo hội của Thiên Chúa ở ViệtNam. Sự đổi mới này, như Công đồng chung Vaticanô II đã khẳng định, lại cũng có nghĩa là trở về nguồn. Nguồn ở đây là mạc khải của Thiên Chúa chứa đựng trong Thánh kinh và giáo huấn của Giáo hội, là những thôi thúc của Chúa Thánh Thần nơi mỗi cộng đoàn, ở bất cứ nơi nào có những người họp lại vì danh Đức Kitô.
Do đó, đề xuất tiên quyết là Giáo hội cần xúc tiến việc giảng dạy, giới thiệu nhiều hơn nữa, trong các chương trình học tập cho mọi thành phần của Giáo hội, về mô hình một giáo hội lý tưởng—vốn chính là hình ảnh nguyên vẹn về Giáo hội của Đức Giêsu Kitô—một giáo hội hiệp thông, trong đó có sự tham gia tích cực của mọi thành phần dân Chúa, nhất là những tín hữu giáo dân của thiên niên kỷ thứ ba này. Bởi lẽ, một trong những mục tiêu rõ rệt khi Đức Giêsu Kitô thiết lập Giáo hội là: để tất cả mọi người tin theo Chúa có thể cùng nhau tiếp tục sứ mạng rao giảng Tin mừng cho đến tận cùng các bờ cõi trái đất. Nghĩa là, để người tín hữu Việt Nam có thể chu toàn sứ mạng Người trao trong thế giới và trong nước Việt Nam hôm nay.
Một ý thức đúng đắn về Giáo hội sẽ góp phần xây dựng nền tảng cho các hành động thực thi vai trò của người giáo dân trong Giáo hội và trong xã hội. Hành động hữu hiệu và đầy đủ ý nghĩa nhất của Giáo hội phải được thực thi trong sự kết hợp hài hòa giữa giáo dân và giáo sĩ; nghĩa là trong sự tôn trọng vai trò, chức năng riêng biệt của nhau “do sự thiết lập của Thiên Chúa”.
Vì tầm quan trọng của dân Chúa trong Giáo hội nói chung, và trong việc Giáo hội có bổn phận chu toàn sứ mệnh Thiên Chúa đã trao cho mình nói riêng, Giáo hội Công giáo Việt Nam, đặc biệt là Hội đồng Giám mục Việt Nam, cần quan tâm đặc biệt hơn nữa đến thành phần giáo dân. Bởi lẽ, thời gian qua, Giáo hội xem ra đã chú trọng nhiều đến việc đào tạo giáo sĩ, tu sĩ, nhưng chưa đồng bộ trong việc đưa ra chương trình cũng như kế hoạch cụ thể để đào tạo hàng ngũ giáo dân trưởng thành, mà công việc này lại thường chỉ trao cho các linh mục chính xứ.
Hy vọng trong tương lai, việc huấn luyện giáo dân trưởng thành sẽ được mọi cấp bậc trong Giáo hội lưu tâm chăm sóc chu đáo và tích cực hơn. Việc xây dựng tầng lớp giáo dân trưởng thành “bằng tinh thần Phúc âm” để làm “thấm nhập và kiện toàn trật tự thế giới với tinh thần Phúc âm” nhất thiết cần được đặt lên hàng đầu trong số các ưu tiên phát triển Giáo hội hiện nay.
Nội dung của việc đào tạo giáo dân bao gồm, dĩ nhiên, việc giúp giáo dân có được những kiến thức căn bản, hiểu rõ và chính xác các khái niệm liên quan đến đức tin Kitô giáo, đời sống bí tích. Nội dung này cũng phải bao hàm việc giúp giáo dân, và cùng với giáo dân, nhận ra đòi hỏi của Tin mừng trong các tình huống khác nhau của cuộc sống. Điều cần thiết của chương trình đào tạo người giáo dân trưởng thành chính là giúp giáo dân tìm được câu trả lời của lòng tin, cho các vấn đề mà họ phải đương đầu và phải tìm ra câu giải đáp từ Tin mừng của Đức Kitô, Đấng là “… đường, là sự thật và là sự sống”.[45] Bởi nội dung của việc đào tạo phải giúp người giáo dân sống có ích cho đời và cho chính hạnh phúc vĩnh cửu của họ—con đường sự thật và sự sống không miễn chước những gian nan thử thách cho người đi đường—qua việc diễn tả niềm tin kiên vững vào chính Đức Kitô, Đấng duy nhất là Chúa của muôn dân, là Thầy của cả giáo sĩ lẫn giáo dân.
Nội dung đào tạo này sẽ chỉ thiết thực, đem lại nhiều ích lợi thực sự và lâu bền khi được thiết lập bởi sự hợp tác giữa giáo sĩ và giáo dân. Người giáo dân, với những hiểu biết của họ về các khoa học “trần thế”, với những kinh nghiệm phong phú, đa dạng họ thu thập được trong cuộc sống lăn lộn với xã hội, chắc chắn sẽ có những đóng góp cụ thể và thiết yếu cho nội dung của việc đào tạo này. Cho tới nay, dường như Giáo hội vẫn chưa thực sự tận dụng hết và trân trọng đủ những khả năng đóng góp to lớn mà sự hiểu biết và kinh nghiệm của người giáo dân, trong lĩnh vực trần thế, có thể đem lại cho sự phát triển của lòng tin Kitô giáo tại Việt Nam.
Điều 225: §1. Vì các giáo dân cũng như mọi tín hữu Kitô, do bí tích thánh tẩy và thêm sức, được Thiên Chúa sai đi làm việc tông đồ, nên, hoặc đứng riêng rẽ từng người hoặc tập họp trong các đoàn thể, họ có nghĩa vụ chung và quyền lợi phải ra sức làm cho mọi người trên khắp hoàn cầu hiểu biết và đón nhận Tin mừng cứu độ của Thiên Chúa; nghĩa vụ này còn cấp bách hơn trong những trường hợp mà chỉ nhờ họ người ta mới có thể nghe Tin mừng và nhận biết Đức Kitô.
§2. Mỗi người, theo địa vị riêng, còn có nhiệm vụ đặc biệt làm cho trật tự các thực tại trần thế thấm nhuần tinh thần Phúc âm và trở nên hoàn hảo, và như thế, họ làm chứng cho Đức Kitô cách đặc biệt trong việc điều hành những thực tại trên và trong việc thi hành những nghĩa vụ trần thế.
Cụ thể, Ủy ban Giáo dân kính đề nghị Hội đồng Giám mục Việt Nam nên thiết lập cách quy mô hơn (đầu tư thật nhiều, đồng bộ và dài hạn) một nhóm nghiên cứu gồm linh mục, tu sĩ, giáo dân chuyên tìm hiểu về nhu cầu của giáo dân hiện nay để đưa ra một kế sách đào tạo giáo dân cho hiện tại và tương lai, trước mắt là kế hoạch cho 10 và 20 năm sắp tới.
2/ Củng cố các ủy ban giáo dân  
Rất nên tăng cường thêm sức làm việc cho Ủy ban Giáo dân của Hội đồng Giám mục Việt Nam, giúp củng cố các ủy ban giáo dân cấp giáo phận, giáo hạt, giáo xứ.
Trong bối cảnh thực tế hiện nay, để góp phần cụ thể hóa sự canh tân trong ý thức và thực hành này, nên củng cố Ủy ban Giáo dân của Hội đồng Giám mục Việt Nam bằng cách giúp ủy ban có thêm điều kiện và nhân sự làm việc tích cực hơn, hiệu quả hơn, nhất là mau chóng trở thành một bộ phận điển hình của sự kết hợp hài hòa giữa giáo sĩ và giáo dân trong việc thúc đẩy việc thực thi vai trò của giáo dân.
Ủy ban Giáo dân thuộc các cấp phải trở thành nơi trao đổi, thúc đẩy, thu tập và nhân lên các kinh nghiệm của sự hợp tác hài hòa và bình đẳng trong đó có sự tôn trọng những khác biệt khả dĩ. Cũng cần thường xuyên tổ chức những khóa học hỏi nhằm giúp giáo dân thực hiện nhiệm vụ làm thấm nhập và kiện toàn trật tự trần thế với tinh thần Phúc âm; giúp chính họ sống tinh thần Phúc âm và vâng phục quyền giáo huấn của Giáo hội cách trưởng thành.
Cho tới nay, cơ cấu tổ chức Ban điều hành của Ủy ban Giáo dân thuộc Hội đồng Giám mục Việt Nam bao gồm một vị giám mục trong Hội đồng Giám mục làm chủ tịch và một linh mục làm tổng thư ký. Liệu có nên hay chăng: có thêm một số giáo sĩ, tu sĩ, giáo dân làm phụ tá tổng thư ký. Ủy ban Giáo dân thuộc Hội đồng Giám mục Việt Nam sẽ bao gồm, ngoài ban điều hành, các linh mục đứng đầu các ủy ban giáo dân giáo phận và cả các vị đại diện giáo dân—cộng sự viên của các ngài trong các ủy ban này—làm thành viên.
Ủy ban Giáo dân cũng cần lưu tâm đặc biệt tới sự đóng góp công sức vào sinh hoạt Giáo hội và xã hội của các giáo dân cựu chủng sinh, cựu tu sĩ, vốn là những người cũng đã được hấp thụ một nền giáo dục đào tạo về tôn giáo, tu đức tại các chủng viện, tu viện, và thường là những người hoạt động rất tích cực trong Giáo hội và xã hội hiện nay.
Ủy ban Giáo dân phải được tổ chức cách khoa học, có hệ thống, ở cấp giáo hội toàn quốc, giáo tỉnh, giáo phận và giáo xứ. Giáo hội nói chung, Giáo hội Việt Nam nói riêng, và đặc biệt Ủy ban Giáo dân nên tạo nhiều cơ hội, nhất là trong thời kỳ toàn cầu hóa hiện nay, để các thành viên có thể trao đổi những kinh nghiệm, những hiểu biết với gần một triệu anh chị em giáo dân Việt Nam đang sinh sống tại hải ngoại, đặc biệt tại các quốc gia có truyền thống Kitô giáo lâu đời. Những chuẩn bị chu đáo từ xa như thế có thể sẽ giúp người giáo dân thích ứng cách hiệu quả hơn với những vấn đề sẽ đặt ra cho lòng tin Kitô giáo của một Giáo hội Việt Nam, vẫn từng ngày không ngừng mạnh tiến trong một đất nước đang dần phát triển.
Đối với các ủy ban giáo dân, những người hữu trách cần phải thực sự ý thức rằng bổn phận chủ yếu của mình là chăm sóc và quan tâm đến các sinh hoạt của chính giáo dân: chăm sóc các thành viên hội đồng, hội đoàn giáo xứ chẳng hạn, và quan tâm đến những sinh hoạt của các hội đồng, hội đoàn này.[46]
3/ Chính thức tái lập các hội đoàn Công giáo tiến hành  
Biết rằng, có ít là 17 hội đoàn Công giáo tiến hành—liệt kê trong Giáo hội Công giáo Việt Nam: Niên giám 2005—đã được Nhà nước nhìn nhận cách này hay cách khác,[47] Ủy ban Giáo dân kính đề nghị Hội đồng Giám mục Việt Nam vẫn nên có chương trình làm việc với các nhà cầm quyền lãnh đạo đất nước nhằm giúp cho tất cả các hội đoàn Công giáo tiến hành, chuyên biệt và không chuyên biệt, có thể được chấp nhận chính thức bằng văn bản cụ thể.
Một khi được chấp nhận bằng văn bản cụ thể, các hội đoàn Công giáo tiến hành sẽ có thêm những điều kiện thuận lợi hơn trong hoạt động: (1) để công việc đào tạo người giáo dân của Giáo hội diễn ra cách tự nhiên bình thường; qua đó Giáo hội có thể góp phần tích cực vào việc xây dựng một xã hội lành mạnh và phát triển; và (2) để các sinh hoạt phục vụ của các hội đoàn có thể dễ dàng giúp Giáo hội thực hiện sứ vụ của mình (Church mission) trong đường lối riêng của chính các hội đoàn và trong các điều kiện cụ thể của giáo xứ, giáo phận….
Kết
Đức Giáo hoàng Gioan Phaolô II, trong Bài giảng lễ bế mạc Thượng Hội đồng Giám mục VII ngày 30 tháng 10 năm 1987, đã nói về những đóng góp quý giá của các vị đại diện giáo dân nam nữ:
Chúng ta cảm ơn Chúa vì suốt khóa họp Thượng hội đồng này không những chúng ta đã vui mừng đón nhận sự tham dự của giáo dân (dự thính viên nam nữ), mà hơn nữa trong lúc bàn luận còn được nghe tiếng của những đại diện giáo dân khắp nơi trên thế giới tới từ các quốc gia khác nhau. Nhờ đó, chúng ta có dịp lắng nghe những kinh nghiệm, ý kiến và đề nghị của họ phát xuất từ lòng tha thiết với quyền lợi chung.[48]
Vậy, để hướng vọng tới một tương lai tốt đẹp hơn, Giáo hội Việt Nam rất cần đào tạo hàng ngũ những giáo dân trưởng thành:
Hiến chế tín lý về Giáo hội (Lumen gentium) và Sắc lệnh về tông đồ giáo dân (Apostolicam actuositatem) của Công đồng Vaticanô II đã mạnh mẽ nêu lên vấn đề giáo dân và đòi hỏi phải có sự đào tạo giáo dân trưởng thành. Vì thế, sau Công đồng, việc đào tạo giáo dân trở thành chủ đề rất được quan tâm của nhiều văn kiện và tổ chức của Giáo hội.[49]
Việc xây dựng sức sống hiệp nhất trong Giáo hội cũng đòi hỏi sự cấp thiết của vấn đề phải đào tạo một hàng ngũ giáo dân trưởng thành với chương trình thần học và mục vụ dành cho giáo dân. Người có nhiệm vụ đào tạo là mọi thành phần dân Chúa, cách riêng là Hội đồng Giám mục Việt Nam, Ủy ban Giáo dân, các giáo sĩ chuyên trách công việc đào tạo giáo dân, các tu sĩ và đặc biệt, chính giáo dân cũng phải tích cực tham gia vào công việc đào tạo giáo dân.
Mô hình Giáo Hội như là hiệp thông được coi là mô hình lý tưởng trong việc xây dựng Giáo Hội. Mô hình này đã được các giám mục tại Á Châu nồng nhiệt đón nhận và tìm cách khai triển trong đời sống của từng giáo phận như chính Đức Gioan Phaolô II đã viết trong tông huấn Giáo Hội tại Á Châu…[50]
Những tiếng chuông cảnh tỉnh liên tục vang lên, những nỗ lực phải được thực hiện để Kitô hữu dấn thân xây dựng nền văn minh tình thương. Thư mục vụ năm 2005 của Hội đồng Giám mục Việt Nam viết:
… trong một xã hội còn thiếu tôn trọng sự thật, Kitô hữu phải tập và nêu gương sống ngay thẳng. Trong một xã hội còn thiếu tôn trọng sự sống con người, Kitô hữu quyết tâm cổ võ và bảo vệ nền văn hóa sự sống. Trong một xã hội chạy theo lợi nhuận, thiếu tôn trọng phẩm giá con người, gạt người nghèo sang bên lề cuộc sống… Kitô hữu được mời gọi dấn thân xây dựng nền văn minh tình thương. [51]
Ủy ban Giáo dân tin rằng: Năm thánh kỷ niệm 50 năm thành lập Hàng Giáo phẩm Việt Nam sẽ là điểm khởi đầu cho một nỗ lực mới, một lễ Ngũ Tuần mới để người giáo dân, dưới sự thúc đẩy của cùng một Thánh Thần, sẽ hòa với các thành phần khác của dân Chúa, tạo thêm được những bước tiến mới trong việc thể hiện sự hiện diện của Đức Kitô và Tin mừng cứu độ của Người, trên nền tảng những gì tốt đẹp nhất mà Giáo hội đã thu thập được trong suốt chiều dài lịch sử rất vẻ vang của mình tại Việt Nam.
 
–––––––––––––––––––––––––––
[31] Gioan Phaolô II, Huấn từ về tông đồ giáo dân (26-11-2000).
[32] X. Hoang H. Ta, A Training Program to Promote Collaborative Leadership in a Parish Pastoral Council of Vietnamese People ( Washington, DC: The Catholic University of America, 2005), 95.
[33] LG 37.
[34] Đ. 207.
[35] Thành ngữ Anh-Mỹ ở trời Tây có thể cũng đã đúng cho hoàn cảnh này của trời Ta: Bổn phận của người giáo dân là “vâng phục, cầu nguyện và chi trả” (obeying, praying, and paying).
[36] X. đđ. 519; 532.
[37] X. Thánh bộ giáo sĩ, “Huấn thị về một số vấn đề liên quan đến sự hợp tác của các tín hữu không có chức thánh vào tác vụ của các linh mục” trong The Sacrament of Orders and the Clerical State (Bí tích truyền chức và địa vị giáo sĩ), ed. Woestman, 289-94.
[38] X. Tạ Huy Hoàng, Lãnh đạo hợp tác, Tập I (TP. Hồ Chí Minh, Đại chủng viện Thánh Giuse, 2007), 27.
[39] Trích trong bài chia sẻ của Đức hồng y Gioan Baotixita Phạm Minh Mẫn tại Nhà thờ chánh tòa Sài Gòn, nhân Ngày giới trẻ thế giới lần thứ 13.
[40] Hội đồng Giám mục Việt Nam, Thư mục vụ năm 2003.
[41] X. Mt 8,11; 22,9; Lc 13,29; 14,23.
[42] Mt 28,19-20.
[43] Cụm từ La Tinh nổi tiếng này “In necessariis unitas, in dubiis libertas, in omnibus caritas” được gán cho Thánh Âutinh là tác giả. Đức Giáo hoàng Gioan XXIII đã sử dụng cụm từ này trong Thông điệp Ad Petri cathedram (về chân lý, hiệp nhất, bình an trong tinh thần bác ái), ban hành ngày 29 tháng 6 năm 1959.
[44] X. Hội đồng Giám mục Việt Nam, Đề cương Giáo hội tại Việt Nam: Mầu nhiệm – Hiệp thông – Sứ vụ (TP. Hồ Chí Minh: Ban tổ chức Năm thánh 2010, 2008), 4.
[45] Ga 14,6.
[46] Một trong những công việc hiện nay của Ủy ban giáo dân trực thuộc Hội đồng Giám mục Việt Nam là tiếp tục soạn thảo và hoàn chỉnh bản đề cương chung về quy chế hội đồng mục vụ giáo xứ. Quy chế hội đồng mục vụ giáo xứ này phải là phương tiện giúp các thành viên dấn thân tận tụy hơn với công việc giáo xứ. Trong thực tế tại nhiều nơi, quý chức hội đồng mục vụ thường rất quảng đại trong việc hy sinh thời gian, công sức và tiền của cho công việc chung của giáo xứ.
[47] X. Văn phòng Tổng Thư ký Hội đồng Giám mục Việt Nam, Giáo hội Công giáo Việt Nam: Niên giám 2005 (Hà Nội: Nxb. Tôn Giáo, 2005), 425.
[48] CL 2.
[49] Tạ, Quản trị mục vụ, 51.
[50] Nhiều tác giả, Như Thầy yêu thương (Hà Nội: Nxb. Tôn Giáo, 2008), 329.
[51] Hội đồng Giám mục Việt Nam, Thư mục vụ năm 2005.

bài liên quan mới nhất

bài liên quan đọc nhiều

Top