Thánh nhạc và đời sống đức tin của Dân Chúa tại Việt Nam 50 năm qua (3)

Thánh nhạc và đời sống đức tin của Dân Chúa tại Việt Nam 50 năm qua (3)

Thánh nhạc và đời sống đức tin của Dân Chúa tại Việt Nam 50 năm qua (3)


 


6. CA ĐOÀN
Ca đoàn là một danh từ mới dùng trong những năm gần đây. Ngày trước, (trước CĐ Vat.II), tiếng La-tinh là ngôn ngữ cầu nguyện chung cho toàn thể Giáo hội Công giáo. Nên chỉ có một số người (thường toàn nam giới) biết hát tiếng La-tinh được quy tụ lại để hát lễ, hoặc hát chầu. Những người hát trong nhà thờ này được gọi là hội hát hay ban ca vịnh.
Sau CĐ Vat.II (1965), ngoài tiếng La-tinh, tiếng bản xứ được dùng trong các cử hành phụng vụ. Cuộc canh tân phụng vụ này vừa thúc đẩy các nhạc sĩ sáng tác thánh ca bằng ngôn ngữ của mình, vừa thúc giục việc hình thành các ca đoàn hầu đáp ứng nhu cầu phụng vụ của cộng đoàn, cũng như thi hành những quyết định của Công Đồng (x. HCPV, 112-121).
Ca đoàn có một vai trò đặc biệt trong cử hành phụng vụ, nhất là mỗi khi cử hành thánh lễ. Những cộng đoàn giáo xứ hay dòng tu nào chăm sóc ca đoàn một cách chu đáo thường gặt hái được nhiều hiệu quả thiêng liêng. Vì như có ai đó đã nói: Trong thánh lễ có 2 phần được cộng đoàn tham dự lưu tâm hơn cả là: bài giảng và các bài hát.
Biết rằng hát cộng đồng là ưu tiên trong Phụng vụ, nhưng ca đoàn bao gồm những người được chọn ra từ cộng đoàn; họ là những người có khả năng âm nhạc cần thiết giúp cộng đoàn tập hát và nâng đỡ cộng đoàn trong khi ca hát trong những phần mà khả năng cộng đoàn chưa vươn tới được.
Người ta không thể thống kê 50 năm qua có bao nhiêu ca đoàn, ngay cả hiện nay cũng không thể thống kê một cách chính xác được. Thông thường số lượng ca đoàn tùy thuộc số giáo dân và nhu cầu phục vụ. Có những giáo xứ chỉ có 1 hay 2 ca đoàn; nhưng cũng có những cộng đoàn giáo xứ có đến 8 hay 9 ca đoàn. Thành phần ca viên rất đa dạng: người lớn tuổi, người trẻ và các thiếu nhi, có cả nam lẫn nữ. Các anh chị em tham gia ca đoàn ở Việt Nam (và ngay ở hải ngoại) đều là những con người thiện chí, hy sinh và can đảm, vì họ đều là những người tự nguyện “ăn cơm nhà vác tù và hàng tổng”, là những cộng sự viên nhiệt thành của các cha chính xứ hay của ban mục vụ giáo xứ (ở những nơi không có linh mục quản xứ).
Một số ca đoàn nổi tiếng vì tính nghệ thuật cao, ít nhiều tác động tốt đến sinh hoạt của các ca đoàn khác, như ca đoàn Chim Việt (do cha Ngô Duy Linh sáng lập), Tinh Thần, ca đoàn Quê Hương (giáo xứ Phanxicô Đakao), ca đoànCung Chiều (cộng đoàn Dòng Tên, Đắc-lộ, đường Lý Chính Thắng, quận 3, Tp. HCM),v..v..Nổi bật nhất là ca đoàn HỒN NƯỚC.
Ca Đoàn HỒN NƯỚC:
Năm 1956 trở về Việt Nam, nhạc sĩ Hải Linh cùng linh mục Vũ Đình Trác hoạch định đường lối mới cho Nhạc Đoàn Sao Mai. Một trong 3 công việc được hoạch định là thành lập 1 ca đoàn, để trình tấu hợp ca. Mùa Noel 1957, ca đoàn Hồn Nước ra mắt bà con Sàigòn một cách long trọng tại rạp Olympic. Sau đó tại Thảo Cầm Viên Sàigòn, ca đoàn đã biểu diễn hợp xướng với Ban Nhạc Hòa Tấu New York của Nhạc trưởng Sherman dưới sự điều khiển của chính nhạc sư Hải Linh.
Năm 1958, Ca đoàn Hồn Nước lại chủ động trong Đại hội Thánh Mẫu Toàn quốc, do Trung Tâm Công Giáo Tiến Hành tổ chức. Khắp nơi nhiệt liệt hoan nghênh ca đoàn Hồn Nước như một công trình nghệ thuật hợp ca, đóng góp cho nền âm nhạc của dân tộc. Đặc biệt là những bài Trường Ca theo hệ thống ngũ cung đầy màu sắc dân ca. Năm 1970, dưới sự dẫn dắt của nhạc trưởng Hải Linh (trở về Sàigòn sau những năm tháng khảo cứu về âm nhạc giáo dục tại Hoa Kỳ) , Ca đoàn Hồn Nước đã đạt tới một trình độ nghệ thuật tinh vi. Năm 1972, trong dịp Đại Hội Thánh nhạc toàn quốc, do linh mục Tiến Dũng và linh mục nhạc sĩ Nguyễn Văn Minh tổ chức, ca đoàn Hồn Nước lại một lần nữa sáng chói trong đại hội.
Ca đoàn Hồn Nước là một trong những ca đoàn đã góp phần rất lớn trong việc “tôn vinh Thiên Chúa”, giới thiệu một phong cách hát thánh ca thật có “hồn” và góp phần thúc đẩy các ca đoàn thánh nhạc không ngừng luyện tập để “hát hay chính là cầu nguyện hai lần”.
Các ca đoàn ở Việt Nam đã góp phần không nhỏ trong đời sống đức tin của Dân Chúa tại Việt Nam. Theo những giáo dân địa phương kể lại, những năm tháng khó khăn ở miền Bắc (từ 1954-1975), có một số ca đoàn đã phải tìm cách tập hát hay tập dâng hoa ở trong các hang động (Tam Cốc, Phong Nha,v..v..) nhờ lúc nước lên và xuống, để tránh những phiền toái về mặt xã hội. Nhờ đó tiếng hát và lời Chúa được truyền tải đến mọi người. Trong việc truyền tải này, còn phải kể đến việc phổ biến các sách thánh ca của các nhạc sĩ, và các băng đĩa thánh nhạc do các ca sĩ và các trung tâm phát hành băng đĩa âm nhạc công giáo, mà phần đóng góp không nhỏ chính là giới ca sĩ công giáo. Trong số các anh chị em ca sĩ công giáo hoạt động âm nhạc, có nhiều ca sĩ xuất thân từ ca đoàn, như:
Cũng cần nhắc đến môi trường ca đoàn trong việc cung cấp các  
Đó là những đóng góp quý báu của các nhà xuất bản, của anh chị em ca sĩ và các nhà hoạt động âm nhạc khi đưa những tác phẩm thánh nhạc đến với cộng đồng dân Chúa.
7. ẤN PHẨM THÁNH NHẠC: 
Không thể liệt kê hết các đầu sách thánh ca đã được thực hiện, cũng như không thể lên danh sách đầy đủ các băng đĩa (audio, video, VCD, DVD). Một cách vô tình hay hữu ý, các băng đĩa này là một phương tiện truyền giáo hiệu nghiệm khi các bài thánh ca được vang lên dưới các mái ấm gia đình, trong các hàng quán, hay trên các phương tiện di chuyển. Nhiều người đã đến với Kitô giáo chỉ vì tình cờ rồi đến yêu thích nghe tiếng hát của ca đoàn, tiếng ca, tiếng đàn được ghi lại trong những băng đĩa nhà đạo.
8. HUẤN LUYỆN THÁNH NHẠC
Ủy ban Thánh nhạc HĐGM, cũng như Ban Thánh nhạc các giáo phận và các dòng tu luôn quan tâm đến việc đào tạo và huấn luyện nhân sự về thánh nhạc.
Một mặt các linh mục, tu sĩ, giáo dân có khả năng chuyên môn cao được gửi đi học ở nước ngoài (Ý, Pháp, Đức, Hoa Kỳ, v..v.), một mặt thụ huấn tại các trường lớp quy mô trong nước, như Đại học Thánh Nhân, Trường Suối Nhạc (do linh mục nhạc sư Tiến Dũng sáng lập và điều khiển). Trường SUỐI NHẠC đào tạo được nhiều thế hệ nhạc sĩ, ca trưởng, nhạc công tên tuổi, như: Thy Yên, P. Kim, v..v..
Những tên tuổi lớn trong nền thánh nhạc Việt Nam đã được đào tạo về âm nhạc và thánh nhạc tại ngoại quốc:
– Linh mục Ngô Duy Linh: Du học âm nhạc tại Paris, Pháp năm 1953. Ngài chọn học các môn Bình ca, Hòa âm, sáng tác và ca trưởng là những môn thực dụng cho ngành Thánh Nhạc Việt Nam đang trong giai đoạn phôi thai. Bộ môn Ca Trưởng và Hòa Âm.
– Hải Linh: 1950 du học ở nhạc viện Rôma chuyên về Thánh ca, tốt nghiệp Bình ca; và sau khi học ở Pháp, Hải Linh tốt nghiệp Sáng tác và Ca trưởng; 1956, tốt nghiệp ưu hạng  tại nhạc viện César Franck với luận án: “La Couleur Vietnamienne dans le Chant Grégorien – Màu sắc Việt Nam trong Bình Ca”; năm 1956 trở về Việt Nam và sau đó Hải Linh còn du học Mỹ.
– Linh mục Đinh Quang Tịnh tốt nghiệp khoa sáng tác tại nhạc viện (L’institut catholique) Césaz Franz.
– Linh mục nhạc sư Tiến Dũng (Antôn Nguyễn Tiến Dũng) du học Rôma và được công nhận là Magistero về Sáng tác nhạc tại Viện Giáo hoàng về Thánh Nhạc.
– Linh mục Hoàng Kim đỗ cử nhân ngành Hòa Âm tại Nhạc viện Paris (khoảng năm 1955-1958).
– Linh mục Kim Long tốt nghiệp Magistero ngành Bình Ca và cử nhân Thánh nhạc tại Viện Giáo hoàng về Thánh Nhạc (năm 1972).
– Linh mục Mi Trầm học nhạc tại Pháp.
– Linh mục Xuân Thảo du học Mỹ nhiều năm và đã hoàn thành xuất sắc luận án tiến sĩ với đề tài “HỘI NHẬP VĂN HÓA THÁNH CA PHỤNG VỤ TẠI VIỆT NAM”. Theo giáo sư tiến sĩ Trần Văn Khê, “Luận án này rất xuất sắc về đề tài tác giả đã nêu lên và là một công trình khoa học có một giá trị rất lớn về việc “Tìm hiểu, phân tích Dân ca và Thánh ca Việt Nam.
Song song với những vị du học thánh nhạc ở nước ngoài là những tên tuổi khác tự học, hay được đào tạo và huấn luyện ở trong nước, cũng đã đóng góp không ít cho kho tàng thánh nhạc Việt Nam, chẳng hạn: nhạc sĩ Viết Chung, Thy Yên, P. Kim, Tiến Linh, Cát Minh, Cung Chiều, Nguyễn Duy, Phanxicô, v..v..
Bên cạnh đó còn có các lớp riêng do các cá nhân tổ chức như các lớp nhạc, thánh nhạc, ca trưởng của Cha Kim Long, Cha Xuân Thảo, nhạc sĩ Đinh Thiện Bản (tại Dòng Chúa Cứu Thế, Kỳ Đồng), nhạc sĩ Phạm Đức Huyến, thầy Hải Linh,…Những lớp đào tạo và huấn luyện âm nhạc, thánh nhạc này đã đóng góp nhiều nhân sự cho nền thánh nhạc Việt Nam.
Sau phiên họp ngày 22-08-2006 tại Hoa viên Hiệp Nhất Dòng Chúa Cứu Thế, Ủy ban Thánh nhạc đã liên kết với Trung tâm Mục vụ Giáo phận Tp. HCM mở các lớp đào tạo về Thánh nhạc cho đến nay (5 học kỳ, mỗi học kỳ kéo dài 4 tháng):
- Nhạc lý, ký xướng âm: gồm 2 cấp
- Thanh nhạc (Luyện tiếng): gồm 2 cấp
- Phân tích hoà âm
- Hoà âm 1, 2
- Điều khiển ca đoàn:
1- Đánh các nhịp căn bản;
2- Phác hoạ tiết tấu;
3- Chỉ huy hợp xướng.
- Thánh nhạc trong Phụng vụ
- Đàn sơ cấp
- Đệm đàn trong Phụng vụ.
Tổng số người tham dự trong 9 khóa học (không kể 2 khóa Hè – trọn tháng 7 năm 2007 và 2008) gần 4000 lượt học viên .
Từ năm 1986, các đại chủng viện được mở lại để đào tạo các ứng sinh linh mục, nhu cầu giảng dạy môn thánh nhạc đã được đáp ứng. Linh mục Kim Long là người có công đầu trong việc hình thành một giáo trình có hệ thống về Thánh nhạc trong Phụng Vụ. Với giáo trình này, các ca đoàn sẽ biết phải hát những gì, hát cách nào cho đúng ý Hội Thánh, đúng với những quy định mà các văn kiện Hội Thánh đã đề ra. Giáo trình này không chỉ được giảng dạy trong các đại chủng viện, trong các đợt bồi dưỡng tại các giáo phận, mà còn được phổ biến trong các hội dòng và trong các lớp thánh nhạc tại các trung tâm mục vụ. Ở đây cũng không quên nỗ lực đào tạo tại một vài chủng viện, như chủng viện Thánh Giuse Tp. Hồ Chí Minh, Thánh Quý Cần Thơ.
Việc huấn luyện thánh nhạc trong Đại chủng viện thánh Phêrô Đoàn Công Quý, giáo phận Cần Thơ được quan tâm với chương trình dạy nhạc và thánh nhạc khá đầy đủ; trong đó các giáo huấn của Hội thánh về Thánh nhạc được trình bày cặn kẽ.
Khoàng trên dưới 30 năm qua (từ 1980), Các giáo phận và các Hội Dòng cũng liên tục mở các khóa Huấn luyện về Thánh nhạc (ngắn hạn hoặc dài hạn) cho các ca trưởng, ca viên, các tu sĩ. Các giáo phận: Hà Nội, Bùi Chu, Thái Bình, Huế, Qui Nhơn, Đà Lạt, Xuân Lộc, Phú Cường, Mỹ Tho, Vĩnh Long, v..v.. Tại Huế, Đức Tổng giám mục cho phép các tham dự viên là linh mục, chủng sinh, các đan tu Cát-Minh, các nữ tu cùng học chung với nhau. Các Hội Dòng: Thánh Phaolô thành Chartres (Tp. HCM và Đà Nẵng), Mến Thánh Giá Hà Nội, Tân Lập, Tân Việt, Khiết Tâm, Thái Bình, Chợ Quán và Đa-minh Thái Bình (Hố Nai), Đa-minh Bùi Chu (Tam Hiệp), v..v..
Trung bình mỗi khóa học kéo dài cả tháng và thường xuyên tổ chức mỗi năm. Các tham dự viên tham dự cách thích thú và hiệu quả. Nhờ đó hoạt động thánh nhạc từng bước được chấn chỉnh do anh chị em học viên ý thức và yêu mến, để lại những dấu ấn đức tin trong đời thường cho xứ đạo và cộng đoàn mà ai cũng nhận thấy.
B. NHẬN ĐỊNH
Mặc dầu, sau biến cố 1975, nhiều thay đổi về nhân sự, các ban thánh nhạc lúng túng trong việc phải tổ chức sinh hoạt như thế nào trong giai đoạn mới, thêm vào đó giai đoạn này các ban thánh nhạc giáo phận không được quan tâm sâu sát khiến trong các hoạt động thánh đã xảy ra nhiều biểu hiện không mấy lạc quan trong hoạt động thánh nhạc (sáng tác và sử dụng).
Tuy nhiên, qua cái nhìn rất tổng quát trên đây, ta thấy rõ sự đóng góp liên tục và thật nhiệt tâm của các nhạc sĩ, nghệ sĩ qua hơn nửa thế kỷ cho nền Thánh nhạc Việt Nam. Những đóng góp này thật đáng ghi nhớ và trân trọng. Mỗi người, theo tài năng và sự hiểu biết của mình đã góp rất nhiều công sức để giáo dân Việt Nam có được một phương tiện đặc biệt trong việc ca tụng Chúa, nhờ đó, với tác động của ân sủng, đức tin mỗi ngày một thêm sâu sắc.
Thánh nhạc có một vai trò rất quan trọng trong đời sống phượng tự và cầu nguyện của người công giáo Việt Nam. Vì tự bản chất, ngôn ngữ Việt Nam giàu nhạc điệu, khi đọc kinh hay khi đọc sách, âm thanh được phát ra lên xuống trầm bổng như là hát. Thế nên việc ca hát đã trở thành một thói quen không thể thiếu trong các cử hành phụng vụ. Đa phần người công giáo đều thuộc và có thể hát nhiều bài bình ca, như Tantum ergo, Salve Regina, Bộ lễ De Angelis, và hát nhuần nhuyễn nhiều bài thánh ca phổ thông Việt Nam, chẳng hạn như: Kinh Hòa Bình (lm Kim Long), Hang Belem (Hải Linh), Dâng Mẹ (Lm Hoài Đức), Bên Sông Babylon (Lm Tiến Dũng), Trăm Triệu Lời Ca (Đức cha Nguyễn Văn Hòa),Lắng Nghe Lời Chúa (Lm Nguyễn Duy), Cầu Cho Cha Mẹ (Phanxicô), Ca Khúc Trầm Hương (Lm Dao Kim), Bài Ca Dâng Hiến (Sr Trầm Hương),v..v.. Nhu cầu ca hát mỗi ngày mỗi tăng lên, nhất là từ sau khi Công đồng Chung Vaticanô II canh tân phụng vụ, cho phép sử dụng ngôn ngữ bản địa thay thế cho La ngữ. Đứng trước nhu cầu lớn của cộng đồng dân Chúa, các ban Thánh nhạc các giáo phận đã kêu gọi các nhạc sĩ sáng tác các bài Thánh ca mới với lời ca được khơi nguồn từ Thánh Kinh, từ bản văn Phụng vụ, cũng như từ các suy tư Thần học hoặc Giáo lý.
Hưởng ứng lời kêu gọi sáng tác, đã có rất nhiều bài Thánh ca mới được giới thiệu cho các cộng đoàn Phụng vụ. Bên cạnh đó, các cộng đoàn Phụng vụ, nhất là các giáo xứ, đã luôn có và phát triển thêm các ca đoàn Phụng vụ để giúp cộng đoàn cùng hát trong các cử hành Phụng vụ chính thức của Giáo hội.
Vì thế, cùng với Ủy ban Phụng tự, Ủy ban Thánh nhạc Hội đồng Giám mục Việt Nam luôn quan tâm đến những vấn đề Thánh nhạc trong Phụng vụ, để giúp các nhạc sĩ và các cộng đoàn (cách riêng là ca đoàn) biết phải hát những gì,hát cách nào cho đúng ý Hội thánh, đúng với những quy định mà các văn kiện của Hội thánh liên quan đến Thánh nhạc đã đề ra.
Nói chung:
1/ Thánh nhạc đã góp phần tích cực cho đời sống đạo của giáo dân Việt Nam: không những giáo dục đức tin mà còn hâm nóng đức tin của họ.
2/ Đáp ứng nhu cầu cầu nguyện của cộng đồng dân Chúa phù hợp với nhiều hoàn cảnh khác nhau.
3/ Nhiều khi có hiệu quả truyền giáo rất lớn: thánh nhạc được ghi băng dĩa, được nghe mọi nơi mọi lúc; thêm vào đó các ca đoàn của các giáo xứ cũng đem lời ca tiếng hát đến với mọi người, gây sự thu hút cho những anh em ngoài Ki-tô giáo,v..v..
4/ Những bài Thánh ca Giáng sinh, cầu cho cha mẹ, cho gia đình,v..v.. được nhiều người yêu thích, và để lại nhiều hiệu quả tốt đẹp trong đời sống của họ.
5/ Về lời ca: đã có những bước tiến trong tư tưởng và ý nghĩa: bản văn Thánh kinh được dệt nhạc nhiều hơn, nhiều bài Thánh ca mang chất Thần học và Phụng vụ hơn, nhất là từ sau Công đồng Vaticanô II.
6/ Đội ngũ sáng tác Thánh ca ở Việt Nam có thể nói là một trong những đội ngũ đông nhạc sĩ nhất, với số lượng sáng tác các bài Thánh ca mới nhiều nhất so với nhiều Giáo hội địa phương khác.
7/ Tuy nhiên còn nhiều vấn đề cần phải được gạn đục khơi trong ở cả hai lĩnh vực: sáng tác và sử dụng, sao cho đúng tinh thần phụng vụ của Giáo hội.
Cũng cần ghi nhận sự có mặt của Thánh ca, theo những người viết về Nhạc-Sử Việt Nam, đã góp phần không nhỏ vào việc hình thành nền Tân Nhạc Việt Nam. Thêm nữa, nhiều nhạc sĩ Công giáo, đã giới thiệu những sáng tác rất có giá trị và được phổ biến rộng rãi, như Nguyễn Xuân Khoát, Hùng Lân, Hải Linh…. nhất là ở thập niên 60, hai nhạc sĩ Ngô Duy Linh và Hải Linh đã làm nở rộ và thăng tiến nhạc hợp xướng trong Đạo cũng như ngoài đời.
C. NHÌN ĐẾN TƯƠNG LAI
Không ai phủ nhận sự cần thiết của Thánh nhạc trong Phụng vụ, nên những thao thức để có được một nền Thánh Nhạc thực sự thánh thiện và có tính nghệ thuật cao luôn tiềm ẩn trong lòng mọi người, đặc biệt là Hội Đồng Giám Mục. Vì thế, Ủy Ban Thánh nhạc luôn nhắm tới tương lai với những ước nguyện cụ thể:
– Đào tạo nhân sự: Ngoài việc vận động Giáo quyền các địa phương gửi người đi du học (đặc biệt tại viện Thánh Nhạc Rôma), Ủy Ban phối hiệp với TRUNG TÂM MỤC VỤ giáo phận Tp. Hồ Chí Minh mở các lớp nhạc ngắn hạn và dài hạn, nâng cao trình độ cho các Ca Trưởng, Ca viên… phổ biến  những qui định của Giáo Hội về Thánh Nhạc, phát động và cổ võ những sinh hoạt chuyên sâu…
– Tuyển chọn và giới thiệu các Tuyển tập Thánh ca từ khởi đầu cho tới nay để các nơi có sẵn trong tay những bài hát nên sử dụng trong Phụng Vụ.
– Dự thảo một Tài liệu Hướng dẫn Mục vụ về Thánh Nhạc và Nhạc Phụng Vụ chung cho các giáo phận tại Việt Nam và đệ trình HĐGM phê chuẩn.
– Tuyển chọn một bài “Đệm đàn” mẫu (không lời hoặc có lời ca).
– Qui tụ các Nhạc sĩ để học hỏi thêm và sáng tác những bài Thánh ca mới, đáp ứng nhu cầu Phụng vụ trong mỗi giai đoạn cụ thể…
– Thúc đẩy và hỗ trợ sinh hoạt Thánh Nhạc các giáo phận…
– Hoàn thiện thư viện thánh nhạc toàn quốc. (Về căn bản là Thư viện hiện nay – toạ lạc tại quận Tân Phú, Tp. HCM -  của linh mục nhạc sĩ Phêrô Kim Long và Ngài sẽ giao lại ngôi nhà và tài sản thánh nhạc cho UBTN. HĐGMVN để toàn quyền sử dụng.
Mọi cố gắng của những người phục vụ Chúa và Hội Thánh qua lời ca tiếng hát qua dọc dài lịch sử Hội Thánh Việt Nam, trong quá khứ cũng như hiện nay, thực sự giúp cộng đoàn Dân Chúa trên quê hương này cầu nguyện cách sống động và trang trọng hơn, phát triển đức tin sâu sắc hơn, tôn vinh Thiên Chúa cách cụ thể hơn và làm cho nhiều người sống đạo bền vững hơn.
Và để cụ thể hóa mục đích Thánh nhạc là: Tôn vinh Thiên Chúa và thánh hóa các tâm hồn”, Ủy ban Thánh nhạcđã cùng nhau lập kế hoạch hoạt động trong 5 năm tới, như sau:
– Xác định nhiệm vụ: Hướng dẫn và cổ vũ mọi thành phần Dân Chúa, nhất là các Ủy ban Thánh nhạc giáo phận, góp phần làm cho nền Thánh nhạc Việt Nam tiến triển hòa nhịp với nền mục vụ về Phụng vụ (x. Huấn thị Âm Nhạc Trong Phụng Vụ – ANTPV- số 68; HCPV số 44-46): sáng tác và ca hát theo đúng tinh thần Phụng vụ và phù hợp với tinh thần Phụng vụ (x. HCPV số 114 và 121; nghiên cứu và phát triển các bài Thánh ca phù hợp với ngôn ngữ và âm nhạc truyền thống dân tộc (HCPV số 37, 119; ANTPV số 61).
– Phổ biến các văn kiện về Thánh nhạc: tài liệu Tòa Thánh, các chỉ dẫn của Giáo quyền đặc biệt là 3 thông báo mà trước đây Ban Thánh nhạc toàn quốc đã phổ biến (Xin xem tài liệu đính kèm). Việc phổ biến này sẽ lần lượt được đăng tải trong Nội san Hương Trầm (dự định phát hành 4 tháng 1 lần, đã thực hiện được 9 số báo).
– Quan tâm hơn nữa đến công tác đào tạo nhân sự cho Thánh nhạc toàn quốc và hỗ trợ đào tạo nhân sự cho các Giáo phận; tăng cường huấn luyện về Phụng vụ và về chất “thánh” trong Thánh nhạc cho các nhạc sĩ để sáng tác đúng các tiêu chuẩn của Thánh nhạc, cũng như cho các ca trưởng để thể hiện đúng giáo huấn của Giáo hội về Thánh nhạc.
– Tìm ra một hướng đi riêng biệt cho việc HỘI NHẬP VĂN HÓA trong Thánh nhạc Việt Nam, giúp phúc âm hóa văn hóa Việt Nam. Sưu tầm và phổ biến di sản hội nhập văn hóa dân gian Công giáo trong các cung Kinh, Sách, Ca Vãn, Ngắm nguyện, Dâng Hoa,v..v..
– Kêu gọi mọi người quan tâm đến nền Thánh nhạc Việt Nam suy tư và đóng góp để có thể hình thành được một nền Thần học Thánh nhạc Việt Nam.
– Tuyển chọn các bài Thánh ca từ đầu cho đến nay để làm thành TUYỂN TẬP THÁNH CA VIỆT NAM, gồm 3 cuốn:
1/ Tuyển tập MỘT: gồm những bài từ khi hình thành nền thánh nhạc Việt Nam cho đến năm 1975.
2/ Tuyển tập HAI: gồm những bài từ 1975 cho đến nay của các tác giả đã có tác phẩm xuất bản thành sách.
3/ Tuyển tập BA: gồm những bài của các tác giả không có sách xuất bản riêng, cùng một số bài hợp xướng quen thuộc với các ca đoàn.
 D. HƯỚNG VỀ NĂM THÁNH 2010:
Toàn thể dân Chúa tại Việt Nam (và hải ngoại) đang hướng về Năm Thánh 2010, kỷ niệm 50 năm thành lập Hàng Giáo phẩm Việt Nam. Ủy ban Thánh nhạc cùng hòa chung niềm vui tạ ơn trong giòng chảy của Giáo Hội nên sẽ thực hiện những công trình về mặt tinh thần và đạo đức để chào mừng và cảm tạ, bao gồm:
1. Nội san “HƯƠNG TRẦM SỐ ĐẶC BIỆT” (với nhiều bài viết và nghiên cứu có tính  học thuật cao), như: Tính Nghệ Thuật của Lời trong Thánh Ca (Khổng Thành Ngọc), Đệm Đàn Trong Phụng Vụ (Tiến Linh), Những nhạc sĩ tiên phong trong nền Thánh Nhạc Việt Nam (Lê Ngọc Bích) v.v..
2. TUYỂN TẬP I THÁNH CA CHUNG VIỆT NAM hơn 1000 trang khổ A 5, với 500 bài thánh ca phổ thông và những Bộ Lễ quen dùng.
3. SÁCH và CD THÁNH CA mừng Năm Thánh:. các nhạc sĩ công giáo sáng tác các bài thánh ca (dành trong phụng vụ), bài ca sinh hoạt, bài ca giáo lý (dành cho các buổi hội thảo, học hỏi hay chia sẻ,v..v..)
4. Sưu tầm và ghi chép lại trên giấy hoặc băng dĩa các cung kinh, sách, ca vãn, ngắm nguyện, dâng hoa…của địa phương mình và Ban thánh nhạc toàn quốc thực hiện Bộ sưu tầm kho tàng hội nhập văn hóa trong thánh nhạc Việt Nam.
5. Bổ sung tư liệu về nhạc đoàn Lê Bảo Tịnh
6. Sưu tầm ca vãn và cung kinh sách cổ truyền:
7. Tổ chức Hội diễn Thánh ca mừng Năm Thánh.
8. Sưu tầm, san định và sáng tác các bài cho kèn đồng.
9. Nghiên cứu và giảng dạy kỹ thuật đệm đàn trong phụng vụ.
E. KẾT LUẬN
Trải qua 50 năm, thánh nhạc Việt Nam đã cùng đồng hành với dân Chúa, đã góp phần không nhỏ trong đời sống đức tin của họ. Đức tin trong âm nhạc nâng cá nhân và cộng đoàn lên cao khỏi chính mình và giúp vươn tới người khác. Bởi vì mỗi bài thánh ca được hát lên (lời ca từ Thánh Kinh, từ Phụng vụ, từ suy tư thần học, hay trải nghiệm của tác giả) cũng là lúc người tín hữu ca hát những thăng trầm của cuộc đời, biến cuộc đời thành bài ca tôn vinh Thiên Chúa và mưu ích cho các tâm hồn.
Âm nhạc dành cho mọi người nói chung (cả người có niềm tin, người không có niềm tin lẫn người đang chao đảo vì niềm tin nữa), còn thánh nhạc dành cho các kitô hữu nói riêng. Nhưng hiệu quả là “muôn người thuộc mọi chi tộc và ngôn ngữ, thuộc mọi nước mọi dân (Kh 5, 9)” đều bị lôi cuốn vào âm nhạc. Một hình thức nghệ thuật mà hầu như ai cũng biết cảm nhận. Thánh nhạc là con đường có thể dẫn ta tới gặp Thiên Chúa hay mở cửa lòng ta biết trân quý cuộc sống, biết trân quý người khác và biết trân quý thế giới kỳ diệu mà ai cũng có trách nhiệm phải chăm sóc.
Vì thế, có thể nói được rằng hoạt động thánh nhạc chỉ là một nối dài thừa tác vụ mà Thiên Chúa đã kêu gọi người tín hữu từ khi họ lãnh nhận bí tích Thánh Tẩy.
Ước mong mọi người tín hữu ý thức sự cao quý của hoạt động thánh nhạc, vì đó là một hoạt động thuộc đức thờ phượng, một công tác tông đồ, một việc làm bác ái và một sinh hoạt nghệ thuật. Thánh nhạc vừa làm đẹp cho buổi cử hành Phụng vụ, vừa nuôi dưỡng và làm tăng triển đời sống đạo đức của tín hữu.
(Hết)

bài liên quan mới nhất

bài liên quan đọc nhiều

Top