Suy niệm Tin Mừng Chúa nhật Tuần thứ 4 Mùa Chay năm B
4th Sunday of Lent
Reading I: 2 Chronicles 36:14-16.19-23 II: Ephesians 2:4-10
Chúa Nhật 4 Mùa Chay
Bài Đọc I: 2Sb 36,14-16.19-23 II: Ep 2,4-10
-----o0o----
Gospel
John 3:14-21
14 And just as Moses lifted up the serpent in the desert, so must the Son of Man be lifted up,
15 so that everyone who believes in him may have eternal life."
16 For God so loved the world that he gave his only Son, so that everyone who believes in him might not perish but might have eternal life.
17 For God did not send his Son into the world to condemn the world, but that the world might be saved through him.
18 Whoever believes in him will not be condemned, but whoever does not believe has already been condemned, because he has not believed in the name of the only Son of God.
19 And this is the verdict, that the light came into the world, but people preferred darkness to light, because their works were evil.
20 For everyone who does wicked things hates the light and does not come toward the light, so that his works might not be exposed.
21 But whoever lives the truth comes to the light, so that his works may be clearly seen as done in God.
Phúc Âm
Gioan 3:14-21
14 Như ông Mô-sê đã giương cao con rắn trong sa mạc, Con Người cũng sẽ phải được giương cao như vậy, 15 để ai tin vào Người thì được sống muôn đời.
16 Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một, để ai tin vào Con của Người thì khỏi phải chết, nhưng được sống muôn đời.
17 Quả vậy, Thiên Chúa sai Con của Người đến thế gian, không phải để lên án thế gian, nhưng là để thế gian, nhờ Con của Người, mà được cứu độ.
18 Ai tin vào Con của Người, thì không bị lên án; nhưng kẻ không tin, thì bị lên án rồi, vì đã không tin vào danh của Con Một Thiên Chúa.
19 Và đây là bản án: ánh sáng đã đến thế gian, nhưng người ta đã chuộng bóng tối hơn ánh sáng, vì các việc họ làm đều xấu xa.
20 Quả thật, ai làm điều ác, thì ghét ánh sáng và không đến cùng ánh sáng, để các việc họ làm khỏi bị chê trách.
21 Nhưng kẻ sống theo sự thật, thì đến cùng ánh sáng, để thiên hạ thấy rõ: các việc của người ấy đã được thực hiện trong Thiên Chúa."
-------o0o-------
CHÚA NHẬT 4 MÙA CHAY B
Lời Chúa: 2Sb 36,14-16.19-23; Ep 2,4-10; Ga 3,14-21
MỤC LỤC
1. Tình yêu của Thiên Chúa
2. Thiên Chúa yêu thương
3. Nhìn lên ánh sáng – ĐTGM. Ngô Quang Kiệt
4. Chuộng tối hơn sáng
5. Sự thật đổi mới chúng ta
6. Đức tin hôm nay của tôi cứu tôi
7. Tình yêu lớn nhất
8. Người thợ săn trên trời – ĐGM. Arthur Tone
9. Thiên Chúa cứu chuộc thế gian bằng tình yêu
10. Tình yêu cứu độ của Thiên Chúa – Lm Trần Ngà
11. Yêu cho roi cho vọt – Lm Trần Bình Trọng
12. Người thợ săn
13. Yêu Chúa
14. Con rắn
15. Thiên Chúa yêu
16. Tiến vào ánh sáng
17. Nhìn lên Thập giá
18. Suy Niệm của Lm. Nguyễn Minh Hùng
19. Đức Giêsu nói chuyện với ông Nicôđêmô – JKN
20. Chú giải mục vụ của Alain Marchabour
21. Chú giải của Noel Quesson
22. Chú giải của Fiches Dominicales
23. Gợi ý bài giảng của Giáo Hoàng Học Viện Đà Lạt
----------------------------------
Trong sinh hoạt thường ngày, chúng ta thường phân chia thành hai lãnh vực, đạo và đời. Thiêng liêng và trần tục. Phàm những gì thuộc về thế gian, thuộc về trần tục, nếu chưa phải là tội lỗi, thì tự bản chất vốn dĩ đã là thấp kém. Từ đó chúng ta dễ đi tới một quan niệm đồng hoá thế gian với tất cả những gì là xấu xa và tội lỗi. Cuối cùng thì thế gian bị coi là một trong ba kẻ thù chính của con người. Trong ba kẻ thù ấy, thì ma quỷ đứng hàng đầu, nhưng có lẽ không trực diện bằng chính kẻ nội thù là xác thịt của chúng ta và kẻ thù gần cận nữa là thế gian.
Với một quan niệm như thế, hẳn người ta sẽ ngạc nhiên nếu không phải là lúng túng trước lời khẳng định của Chúa Giêsu: Thiên Chúa yêu thương thế gian đến nỗi đã ban Con Một Ngài, để những ai tin vào Con của Ngài thì khỏi phải chết nhưng được sống đời đời. Phúc âm không nói: Thiên Chúa yêu thương dân Ngài, yêu thương Hội Thánh của Ngài hay yêu thương những người Ngài đã tuyển chọn, nhưng lại nói: Ngài yêu thương thế gian. Tại sao lại như thế?
Tôi xin thưa: Sở dĩ Thiên Chúa yêu thương thế gian là bởi vì chính Ngài đã tạo dựng nên nó chứ không phải là một ai khác. Thực ra nếu có cái thế gian nào tội lỗi thì phải hiểu đó là một giới nào đó, một người nào đó, một loại người nào đó sống trong thế giới loài người hay trong chính Giáo Hội mà thôi. Ngôn ngữ thông thường vốn chia xã hội thành những giới khác nhau, chẳng hạn giới thanh niên, giới nghệ sĩ, giới tu sĩ. Đồng thời người ta cũng nói đến những giới bê bối như giới xỉ ke, giới đầu trộm đuôi cướp. Nhưng ngay cả những giới tội lỗi này cũng chưa hẳn đã bị kết án hay bị loại trừ bởi vì Đức Kitô đã đến chỉ vì họ và cho họ: Thiên Chúa đã sai Con Một Ngài xuống thế gian không phải để kết án, nhưng để nhờ Ngài mà thế gian được cứu độ.
Như vậy thì xét cho cùng chỉ có ma quỷ mới thực sự và vĩnh viễn bị lên án là kẻ thù, còn tất cả vẫn là đối tượng yêu thương của Thiên Chúa và có được niềm hy vọng cứu độ. Đức Kitô là ánh sáng và ánh sáng thì không bao giờ kỳ thị, phân biệt người lành kẻ dữ, chỗ cao ráo sạch sẽ, ánh sáng soi vào và làm cho vẻ cao đẹp thêm rực rỡ hơn. Nhưng ánh sáng cũng rọi vào chỗ sình lầy nhơ bẩn ấy để mà dọn dẹp, để mà tẩy uế. Chỉ có những ai từ chối ánh sáng, khép kín lòng mình, trốn tránh ánh sáng, che đậy sự thật mới không được cứu độ.
Noi gương Chúa Giêsu chúng ta cũng phải trở nên ánh sáng cho trần gian, hay nói một cách khác, chúng ta cũng phải yêu mến thế gian bằng một tình thương cứu độ, nghĩa là yêu thương và sẵn sàng dâng hiến đời mình để làm cho thế gian được sáng hơn, được đẹp hơn, nhờ đó mà được tham dự vào vinh quang phục sinh của Đức Kitô.
2. Thiên Chúa yêu thương
Qua đoạn Tin Mừng vừa nghe chúng ta cùng nhau chia sẻ về tình thương mà Thiên Chúa đã dành cho nhân loại. Các du khách có dịp viếng thăm nhà thờ chính tòa Gengiba bên Phi Châu, sẽ nhìn thấy lời chào đón này được viết ngay trên tường ngôi thánh đường: Bạn đang đứng trong nhà thờ của Đức Kitô.
Ngôi nhà thờ này đã được xây dựng ngay trên phần đất trước kia được dùng để tập trung buôn bán, trao đổi những nô lệ da đen như những súc vật. Đặc biệt là bàn thờ được đặt trên một tảng đá nơi những nô lệ bị đánh đòn. Lý do bị đánh đòn trước khi đem bán là để kiểm tra sức khỏe của họ.
Cây thánh giá bằng vàng được treo trên một chiếc cột trụ có khắc tên bác sĩ Livdy Stone, một người Anh đã từng mạnh mẽ và can đảm lên tiếng chống lại tệ nạn buôn bán nô lệ. Cột trụ này là nơi bác sĩ vẫn thường đứng để thuyết trình, để hô hào cổ vũ cho việc giải phóng nô lệ. Mãi đến ngày 16.6.1873 việc buôn bán nô lệ tại Phi châu mới bị ngăn cấm bởi một đạo luật được ban hành. Kể từ đó, phẩm giá đích thực của người da đen mới được nhìn nhận.
Chiếc cột trụ đã trở nên như một dấu chỉ, gợi nhớ đến những hy sinh gian khổ và ngay cả cái chết để giải phóng cho những nô lệ da đen và xây dựng một cuộc sống tốt đẹp hơn. Đối lại với thù hận là yêu thương chân thật, đối lại với bóc lột là tự do và công bằng, đối lại với chiến tranh là hòa giải và tha thứ.
Câu chuyện trên gợi lên cho chúng ta những ý nghĩ về tình thương của Thiên Chúa. Thực vậy, trong Cựu ước, Thiên Chúa đã truyền cho Maisen đúc một con rắn đồng, treo lên nơi hoang địa, để những ai bị rắn độc cắn cứ việc nhìn lên con rắn đồng ấy là được chữa lành. Và như thế, dân Do Thái đã được cứu khỏi hiểm họa rắn độc trong cuộc xuất hành tìm về miền đất hứa. Sự việc trên cũng chỉ là một biểu tượng, một hình ảnh tượng trưng cho những gì Chúa Giêsu đã làm để cứu chuộc chúng ta.
Đúng thế, để cứu chuộc chúng ta, Ngài chỉ cần phán một lời, nhưng Ngài đã không làm thế, trái lại, Ngài đã đi cho tới tận cùng những nỗi khổ đau của thân phận con người. Ngài đã chấp nhận mọi hy sinh, mọi đắng cay và sau cùng đã chấp nhận chính cái chết ê chề trên thập giá, để giải thoát chúng ta khỏi ách nô lệ của tội lỗi, để cứu chúng ta khỏi nọc độc của thế gian.
Đây là điều mà Chúa Giêsu đã nhắc đi nhắc lại rất nhiều lần trong Phúc âm. Chẳng hạn qua đoạn Tin Mừng sáng hôm nay, Ngài đã nói với Nicôđêmô: Thiên Chúa yêu thương thế gian đến nỗi đã trao ban chính Con Một của mình để những ai tin vào Người Con ấy thì không phải chết nhưng sẽ được sống muôn đời. Nơi khác Ngài bảo: Con Người đến hầu hạ và hiến mạng sống mình làm giá cứu chuộc cho nhiều người. Trong bữa Tiệc Ly, Ngài phán với các môn đệ: Này là mình Ta sẽ bị nộp vì các con, này là máu Ta sẽ đổ ra cho nhiều người được tha tội. Rồi thì Ngài cũng đã xác quyết: Ngày nào Ta bị treo lên khỏi đất, Ta sẽ kéo mọi sự lên cùng Ta…
Tất cả phải chăng để chứng tỏ một tình yêu bao la mà Ngài đã dành cho chúng ta, bởi vì không ai yêu hơn người hiến mạng sống mình vì bạn hữu.
Bởi đó, trong Mùa Chay này chúng ta hãy dành lấy một vài phút để suy nghĩ và cảm tạ tình thương của Chúa, đồng thời chúng ta hãy tự vấn lương tâm xem, chúng ta đã làm được những gì để đáp trả tình yêu thương ấy.
3. Nhìn lên ánh sáng – ĐTGM. Ngô Quang Kiệt
Trong sa mạc, dân Israel kêu trách Thiên Chúa và ông Môsê. Thiên Chúa cho rắn độc ra cắn họ, khiến nhiều người phải chết. Dân chúng xin ông Môsê khẩn cầu Thiên Chúa. Thiên Chúa truyền cho ông làm một con rắn bằng đồng và treo lên để ai bị rắn cắn mà nhìn lên con rắn đồng, thì được sống (Ds 21, 4b-9).
Hôm nay, khi nói Người sẽ bị treo lên như con rắn đồng của Môsê, Đức Giêsu mời gọi ta cũng hãy biết nhìn lên Thánh giá để được sống. Việc nhìn lên Đức Giêsu bị treo trên Thánh giá mở ra cho ta những nhận thức sau:
1) Nhận thức về tội lỗi của ta. Dân Do thái phản nghịch với Chúa, nên họ đã bị rắn lửa cắn chết. Chính tội lỗi làm người ta phải đau khổ. Chính tội lỗi đã gây ra tai hoạ cho toàn dân. Chính tội lỗi đã gây ra chết chóc. Nhìn lên con rắn đồng là nhận biết mình tội lỗi. Cũng vậy, vì tội lỗi của ta mà Đức Giêsu đã chịu treo trên Thánh giá. Người nào có tội tình gì mà phải chết đau đớn, tủi nhục như thế. Không một mảnh vải che thân. Chết lúc tuổi thanh xuân. Chết như một tội nhân. Chết như một người nô lệ. Trước khi chết đã bị sỉ nhục, bị hành hạ đến tan nát hình hài, đến chẳng còn hình tượng con người. Tất cả chỉ vì tội lỗi của ta. Tội lỗi đã làm ta phải chết. Tội lỗi làm linh hồn ta bị biến dạng, méo mó, xấu xa. Tội lỗi khiến ta tủi nhục chẳng dám ngẩng mặt nhìn lên. Đức Giêsu đã gánh lấy tất cả tội lỗi của ta. Người chịu nhục nhã cho ta được vinh quang. Người chịu thương tích để chữa lành vết thương của ta. Người chịu chết như nô lệ để ta được tự do. Người chịu chết cho ta được sống. Người chịu treo lên để kéo ta khỏi vũng bùn nhơ tội lỗi. Nhìn ngắm Người chính là nhìn ngắm tội lỗi của ta. Hiểu được cái chết đau đớn tủi nhục của Người là ý thức được tội lỗi nặng nề của ta.
2) Nhận thức về tình yêu thương của Chúa. Nhận thức về tội lỗi đưa ta đến nhận thức về tình yêu thương của Chúa. Ta tội lỗi đáng phải chết. Nhưng Chúa thương yêu không bỏ rơi ta. Người tìm hết cách cứu ta. Tình yêu Chúa dành cho ta thật bao la tha thiết. Tình yêu đã khiến Chúa ra như điên dại. Còn ai điên dại hơn người dám hy sinh con một mình để cứu người khác. Thế mà Chúa Cha đã “yêu ta đến nỗi đã ban Con Một” của Người cho ta. Còn ai điên dại hơn kẻ dám liều mạng chết vì người yêu. Thế mà Đức Giêsu đã tự nguyện chết cho ta. Người đã dậy ta: “Không có tình yêu nào lớn lao hơn tình yêu của người dám hy sinh mạng sống cho bạn hữu” (Ga 15,13). Chính Người đã hy sinh mạng sống để làm chứng tình yêu Người dành cho ta. Ta có xứng đáng gì đâu? Ta chỉ là một hạt bụi. Ta ngập trong yếu đuối tội lỗi. Thế mà Người yêu thương đến điên dại, đến chết vì ta. Càng nhìn lên Thánh giá, ta càng thấy mình tội lỗi. Càng thấy mình tội lỗi, ta lại càng thấy tình yêu thương của Chúa dành cho ta thật là bao la, tha thiết, mênh mông khôn tả.
3) Nhận thức về ơn cứu độ của Chúa. Trong sa mạc họ chẳng tìm ra người có thể cứu chữa họ. Chẳng có thuốc nào cứu họ khỏi chết. Chỉ mình Thiên Chúa có thể cứu họ. Thế nên họ phải nhìn lên con rắn đồng để được Chúa cứu. Ta cũng thế. Biết thân phận mình tội lỗi yếu hèn, ta càng cảm nghiệm được ơn cứu độ của Chúa. Ta ngập chìm trong tội lỗi, chẳng thể nào vươn lên được nếu không có ơn cứu độ của Chúa. Ta yếu đuối, chẳng thể nào tự sức mình đứng lên nếu không có ơn Chúa nâng đỡ. Ta bị giam cầm trong ngục tù sự chết, chỉ có Chúa mới có thể tháo bỏ xiềng xích, đưa ta tới miền sự sống. Linh hồn ta ngập ngụa nhơ uế, chỉ có Chúa mới có thể rửa sạch tội tình. Linh hồn ta bị bóng tối tội lỗi phủ vây, chỉ có ánh sáng của Chúa mới soi chiếu cho ta biết đường ngay lẽ phải.
Nhìn lên Thánh giá chính là từ nơi tối tăm nhìn lên ánh sáng. Ánh sáng tình yêu thương từ Thánh giá chiếu toả sẽ giúp ta an tâm trở về với Chúa là Cha, người Cha nhân hiền lúc nào cũng chờ đón đứa con hoang đàng trở về, lúc nào cũng sẵn sàng tha thứ tội lỗi cho ta. Ánh sáng cứu độ từ Thánh giá chiếu toả sẽ giải thoát ta khỏi bóng tối tội lỗi, đưa ta trở về làm con cái Thiên Chúa Sự Sáng. Ánh sáng tình yêu và ánh sáng cứu độ sẽ nâng ta lên, để từ nay ta vượt thoát lên khỏi bóng tối tội lỗi, sống thanh sạch công chính, luôn mơ ước những điều cao thượng, xứng đáng là con cái sự sáng. Trong mùa Chay, đặc biệt trong những ngày Tuần Thánh, ta hãy năng chiêm ngắm Thánh giá, để Chúa nâng tâm hồn ta lên với Chúa.
Lạy Chúa, xưa Chúa đã phán: “Khi nào Ta được đưa lên khỏi đất, Ta sẽ kéo mọi người lên với Ta” (Ga 12,32), xin hãy lôi kéo hồn con lên với Chúa.
KIỂM ĐIỂM ĐỜI SỐNG
1. Bạn có cảm thấy mình được Chúa yêu thương không? Hãy kể lại một kinh nghiệm trong đó bạn cảm nhận được tình yêu thương của Chúa.
2. Bạn có thấy mình yếu đuối, cần ơn Chúa cứu độ không?
3. Bạn đã chiêm ngắm Thánh giá lâu giờ chưa? Bạn có muốn chiêm ngắm Thánh giá trong mùa Chay này không?
4. Chuộng tối hơn sáng (Trích trong ‘Manna’)
Suy Niệm
Cúp điện bất ngờ là điều gây khó chịu.
Trong bóng tối, người ta đi tìm hộp quẹt, tìm ánh sáng để thắp lên một ngọn nến, một cái đèn dầu. Nói chung chẳng ai thích bóng tối, vì bóng tối là dấu hiệu của lạc hậu, thiếu văn minh.
Ấy thế mà cũng có những người mê bóng tối. Bóng tối của quán bia ôm, của Karaokê, của sàn nhảy... Phải bỏ tiền ra để mua được bóng tối. Bóng tối đồng lõa, che đậy, lấp liếm, làm mặt nạ. Bóng tối trong tâm hồn cần có bóng tối ở ngoài. Nó sợ ánh sáng làm lộ chân tướng.
"Ánh sáng đã đến thế gian, nhưng người ta đã chuộng bóng tối hơn ánh sáng, vì các việc họ làm đều xấu xa."
Ghét ánh sáng, chuộng bóng tối: đó là thảm kịch nơi lòng con người, bởi lẽ con người được sinh ra để sống cho ánh sáng.
Lắm khi người ta từ chối tin vào Đức Kitô, từ chối đến với ánh sáng và sự thật, chỉ vì đời họ chìm trong bóng tối và giả trá. Những lý do biện minh cho sự từ chối này thường đến sau khi đã chọn lựa.
Cần thay đổi cuộc sống để tin hơn vào Thiên Chúa, nhưng cũng cần can đảm đến với ánh sáng dù biết mình đang chìm trong bóng tối; hay đúng hơn, vì biết mình nô lệ cho bóng tối mà ta khao khát vươn tới ánh sáng.
Đừng trốn chạy ánh sáng như Ađam, Evà. Hãy để cho ánh sáng vén mở chính mình, bắt ta đối diện với sự thật trần trụi về mình, để rồi ta được rực rỡ trong niềm vui.
Chỉ có một cách ra khỏi bóng tối đó là trở lại với ánh sáng, bằng cách ngước nhìn lên...
Dân Do Thái xưa trong sa mạc đã được chữa lành nhờ tin tưởng nhìn lên con rắn đồng treo trên cây gỗ.
Ngày nay, chúng ta được cứu độ, được sự sống đời đời nhờ tin tưởng nhìn lên Đức Giêsu bị treo trên thập giá.
Thập giá là tột cùng của nhục nhã đớn đau, nhưng cũng là biểu hiện tuyệt vời của một tình yêu.
Kitô hữu không phải là người tôn thờ đau khổ, nhưng là người say mê tình yêu: tình yêu của Cha khi trao ban người Con yêu dấu, tình yêu của Con khi hiến tặng mạng sống mình.
Nhiều nơi đã đặt tượng Chúa phục sinh trên thập giá, nhờ đó bầu khí nhà thờ tươi vui hơn. Nhưng ta vẫn không được quên nhìn lên thân xác bầm tím nát tan của Đức Giêsu trên Núi Sọ.
Ước gì tôi biết nhìn lên tình yêu bị treo và trở lại với ánh sáng để ánh sáng đưa tôi vào sâu hơn trong tình yêu.
Gợi Ý Chia Sẻ
• Trong tôi có ánh sáng và bóng tối; ngoài ra còn có nhiều bóng mờ, nơi không sáng hẳn hay tối hẳn. Bóng mờ dễ chuyển thành bóng tối. Bạn có thấy một số bóng mờ trong đời bạn không? Chúng nguy hiểm đến mức nào?
• Thế giới hôm nay tràn ngập ánh sáng của đèn điện. Nhưng vẫn có nhiều bóng tối đang rình rập các bạn trẻ. Bạn có gặp bóng tối nào không?
Cầu Nguyện
Lạy Chúa Giêsu,
Tạ ơn Chúa đã cho chúng con ánh sáng mặt trời, mặt trăng, và ánh sáng từ những nguồn năng lượng trên mặt đất.
Tạ ơn Chúa vì Chúa đã gọi chúng con là ánh sáng. Đó là vinh dự và cũng là một trách nhiệm nặng nề.
Xin cho chúng con có khả năng đẩy lui bóng tối của hận thù và bất công, của buồn phiền và thất vọng.
Xin cho chúng con biết giữ gìn ngọn lửa mà Chúa đã thắp lên trong lòng chúng con, và biết vâng theo những soi sáng của Chúa qua từng giây phút của cuộc sống.
Lạy Chúa Giêsu, cuộc chiến giữa ánh sáng và bóng tối vẫn còn tiếp diễn trên thế giới và trong lòng chúng con.
Ước gì chúng con đừng chỉ lo nguyền rủa bóng tối, nhưng can đảm thắp lên những ngọn lửa, để cả trái đất ngập tràn ánh sáng Chúa.
5. Sự thật đổi mới chúng ta
Trong cái tranh tối tranh sáng của cuộc đời. Thiên Chúa đổi mới chúng ta. Ngài ban Con Một Ngài cho chúng ta để mặc khải chân lý cho chúng ta và mở đường cho chúng ta đi vào cuộc sống vĩnh cửu. Bài Tin Mừng hôm nay khó hiểu. Nó không kể lại một giai đoạn trong đời Chúa Giêsu hoặc một dụ ngôn. Đây là một suy tư về đời sống vĩnh cửu và về việc Thiên Chúa sai Con Một Ngài đến với chúng ta để cứu độ chúng ta, để đổi mới chúng ta.
Ánh sáng về con người của chúng ta.
Thật khó nói về đời sống vĩnh cửu: Chúng ta biết rất ít về cuộc sống này. Tuy nhiên một số kinh nghiệm trong cuộc đời trần gian có thể giúp chúng ta tưởng tượng ra cuộc sống ấy như thế nào.
Có những lúc trong đời chúng ta có cảm giác như đã khám phá ra một điều gì quan trọng làm cho mọi sự được sáng tỏ trước mắt chúng ta. “Đúng rồi, tôi là như vậy, và tôi muốn trở thành như vậy đó”. Lúc ấy chúng ta có cảm tưởng đã tìm thấy được sự thật về con người của mình như các triết gia hoặc như các nhà tâm lý học nói. Có lẽ đây là một kinh nghiệm hiếm có, nên khi điều này xảy ra, khi chúng ta được nối kết vào con người sâu thẳm của chúng ta, chúng ta có cảm tưởng như tìm được con đường mà ta phải đi. Lúc đó ta dễ hoạt động hơn bởi vì ta đã khám phá được mình là ai. Lúc đó ta có thể hành động theo sự thật mà ta có về mình. Nếu điều này xảy ra, và thường là trong một giai đoạn u tối của cuộc đời khi chúng ta không còn biết “bám víu” vào đâu nữa, hoặc chúng ta không còn biết cuộc đời mình có giá trị gì, thì chúng ta lại được cứu. “Mà thật, đúng thế, trước đây tôi đã không thấy điều này. Ô, nhưng mà nó làm thay đổi mọi sự!”. Lúc đó ta cảm thấy mình được đổi mới, đầy sức lực, đầy những khả năng mới, sẵn sàng sống theo sự thật mà ta vừa khám phá ra.
Cũng gần giống như vậy về sự sống vĩnh cửu là ánh sáng và sự thật. Sự sống ấy đến với chúng ta như một ân huệ của Thiên Chúa, Đấng muốn chúng ta sống thực sự. Nhưng chúng ta biết rằng sự thật đôi khi quấy rầy những thói quen sống của chúng ta và chúng ta từ chối ánh sáng và những thách thức của nó. Vì thế mà Tin Mừng khắt khe với những kẻ từ chối Chúa Giêsu Kitô. Cũng như những sự thật mà đôi khi chúng ta phát hiện được trong cuộc đời chúng ta, sự sống vĩnh cửu không tự áp đặt cho ai cả. Nó chỉ tự giới thiệu mình để chúng ta lựa chọn mà thôi. Đây vừa là một lời mời gọi vừa là một hồng ân.
Một lời mời gọi sống.
Vậy Thiên Chúa đã ban cho chúng ta Con Một Ngài để giúp chúng ta sống sự thật nơi con người chúng ta và chính vì thế mà Chúa Giêsu mặc khải cho chúng ta sự thật về con người chúng ta và về mối quan hệ giữa chúng ta với tha nhân và với Thiên Chúa. Tin vào Chúa Giêsu là tin vào đời sống vĩnh cửu và mời gọi chúng ta sống theo sự thật này: Thiên Chúa là Cha, và chúng ta là anh em với nhau.
Có lẽ thường thường chúng ta sống trong sự mập mờ của cuộc đời và những kinh nghiệm của chúng ta về sự thật sâu xa vẫn là điều hiếm có. Nhưng kẻ đã tìm được sự thật của Chúa Giêsu Kitô, kẻ tin vào Chúa Giêsu vì đã thực sự khám phá ra Ngài vào một ngày nào đó trong đời mình, người ấy đã tìm thấy được ánh sáng trong thâm cung của lòng mình. Ánh sáng này đôi khi có thể leo lét, nhưng kỷ niệm về việc tìm thấy nó vẫn tiếp tục soi sáng cuộc đời của họ, cho cuộc đời ấy một ý nghĩa, và dẫn đưa họ đến với tha nhân để sống theo sự thật.
Tin Mừng nói với chúng ta rằng Thiên Chúa đã sai Chúa Giêsu đến không phải để kết án nhưng để cứu độ chúng ta, để cho cuộc đời chúng ta được đổi mới nhờ sự thật. Và chúng ta được đổi mới khi chúng ta nhìn thấy rõ hơn, khi chúng ta cảm thấy mình sống động hơn, khi những năng lực mới giúp chúng ta vạch ra những dự án mới hoặc cho chúng ta can đảm và sức mạnh để tiếp tục những gì mình đã bắt đầu. Chính nhờ thế, mà cuộc sống vĩnh cửu đã mở ra cho chúng ta: một con đường mới để sống với bản thân, với Thiên Chúa và với tha nhân, nhờ ánh sáng mà Chúa Giêsu mang đến cho thế giới và cho cuộc đời chúng ta.
Sống vĩnh cửu là chiêm ngắm mầu nhiệm lớn lao nơi thâm tâm chúng ta và trong lòng kẻ khác, chiêm ngắm Thiên Chúa mà Chúa Giêsu đã đến mặc khải cho chúng ta. Sống vĩnh cửu là hành động theo sự thật. Vậy nên như Tin Mừng nói, công việc của chúng ta “sẽ được nhìn nhận như là công việc của Thiên Chúa”, công việc của những con người được tháp vào sự thật và không sợ ánh sáng bởi vì họ biết rằng ánh sáng của Chúa Giêsu Kitô nhằm cứu độ mọi người chúng ta và cả thế giới.
6. Đức tin hôm nay của tôi cứu tôi
(Trích trong ‘Lương Thực Ngày Chúa Nhật’ – Achille Degeest)
Thánh sử Gioan viết cuốn Phúc âm của Người vào quãng 60 năm sau khi Chúa về trời. Trí nhớ của bậc cao niên nhiều khi rất chính xác để gợi lên những kỷ niệm lúc thiếu thời, đã làm cho Người nhớ lại cảnh tượng ngoạn mục trong cuộc đời Chúa Giêsu những giáo huấn đặc biệt mà Thày Chí Thánh đã ban bố. Đoạn Phúc Âm đọc hôm nay tiếp nối vào câu chuyện ông Nicôđêmô đến đàm đạo cùng Chúa Giêsu ban đêm. Cuộc đàm đạo nhắm chủ đề đức tin và sự tái sinh trong Chúa Thánh Thần. Sau khi thuật lại câu chuyện trên, thánh sử quy tụ vào sự suy tư cá nhân, một tổng hợp các giáo huấn mà Chúa Giêsu đã ban bố hoặc gợi ý. Sau khi đã nhận lấy và nghiền ngẫm các giáo huấn đó, thánh Gioan trao nó lại cho chúng ta dưới ánh sáng của “Chúa Giêsu đã về trời”, trong một văn thể mà sự suy gẫm riêng tư của Người đã mang lại. Điều này xứng đáng dành cho chúng ta nhiều phản ảnh tuyệt vời của một đức tin được trực tiếp cấp dưỡng từ nguồn gốc vì chưng thánh Gioan đã từng được biết Đức Giêsu phản ảnh của một đức tin sâu xa nghiền ngẫm bởi chưng thánh Gioan đã sống Phúc Âm đó như một môn đệ say sưa trung thành.
Ở đây, thánh Gioan đưa ra ánh sáng điều mà thánh Phaolô đã không ngừng nhắc nhở trong các thơ của Người, đó là “mầu nhiệm” ơn cứu độ mà Thiên Chúa đã ban cho đức tin của chúng ta: Chúa Giêsu là Con Thiên Chúa đã đến trong thế gian để cứu chuộc loài người. Được thừa hưởng ơn cứu độ ấy là những kẻ khi gặp Chúa Kitô, nhờ ân sủng đã tin vào Người.
1) Kiểu nói “Con của Người” xuất phát từ tiên tri Đanien (Đn 7,13).
Cách tổng quát, Phúc Âm đã áp dụng danh hiệu đó cho Chúa Giêsu để định nghĩa cho nhiệm vụ Cứu thế qua việc nhập thể, cuộc Khổ nạn và sự Phục Sinh của Người. Chúng ta được phép hiểu câu “Con Thiên Chúa làm người”. Từ đó, chúng ta hiểu rằng Chúa Giêsu thực hiện mẫu người trọn hảo đã hoàn thành, bởi vì Người vượt mình trong Thiên Chúa. Thánh sử Gioan kể lại: “Con Người phải được nâng lên cao”. Đây là ý nói đến việc Chúa bị treo lên thập giá. Sự liên tưởng đến con rắn đồng treo lên cao của ông Môsê, xuất xứ từ một đoạn trích trong sách Dân số (Ds 21,6-9). Đoạn sách ấy thuật lại rằng: Khi dân Do Thái đi qua sa mạc, trong một miền đầy rắn, khi bị rắn cắn, họ được cứu nguy cách kỳ diệu là hễ nhìn lên con rắn đồng –một thứ đồ mã- mà Môsê đã dựng lên cho dân thấy thì dầu có bị rắn cắn cũng không sao. Giai thoại ấy được thánh sử gợi lại ở đây để tiêu biểu cho một thực tại siêu nhiên là ơn Cứu độ dành cho hết thảy những ai nhìn lên Thánh giá Đức Kitô với lòng tin.
2) Ai tin vào Người không bị kết án.
Ai không tin vào Người, thì bị luận phạt rồi. Kiểu nói trên đây báo hiệu là đức tin vào Chúa Giêsu Kitô bao gồm sự dấn thân dứt khoát, có hiệu lực chung quyết. Đức tin hôm nay của tôi (dĩ nhiên với điều kiện là tôi không chối bỏ đức tin ấy) đã cứu tôi, ngày tôi từ giã cõi đời và cũng là ngày tận thế. Từ nay cho đến ngày cuối hết đó, dĩ nhiên còn có thể xảy đến biết bao thăng trầm. Nhưng đức tin hiện tại của tôi đã đặt tôi về phía đối nghịch của sự kết án, nghĩa là trong lượng thứ tha của Thiên Chúa, trong sự tiếp đón, và tình nghĩa thiết của Người. Điều này biện giải tại sao đức tin nồng nhiệt của tôi hôm nay có tầm mức rất quan trọng đến cuộc hội ngộ mai ngày của tôi cùng Thiên Chúa. Mỗi ngày hiện tại chuẩn bị trong tôi ngày sau hết của tôi, nhưng nhờ đức tin của tôi nơi Chúa Giêsu, ơn nghĩa phi thường của Thiên Chúa không phải là chuyện sẽ tới nhưng thực sự ơn nghĩa ấy đã hiện hữu nơi tôi và đang biến đổi tôi. Đức tin đó đòi hỏi tôi dấn thân sống trong ánh sáng, nghĩa là trong sự thẳng thắn thực tiễn của lòng trung thành với Phúc Âm. Ai hành động trong chân lý tức là đến cùng Ánh sáng.
7. Tình yêu lớn nhất (Trích trong ‘Niềm Vui Chia Sẻ’)
Có rất nhiều giai thoại kể về những tượng thánh giá cổ xưa… Tại một nhà thờ bên Tây Ban Nha, có một tượng thánh giá cổ rất đặc biệt. Cánh tay trái của Chúa Giêsu vẫn còn đóng vào gỗ giá, nhưng cánh tay mặt thì rời ra và đưa lên phía trước trong tư thế ban phép lành.
Người Tây Ban Nha kể về nguồn gốc của tượng thánh giá này như sau: Một hôm có một hôm có một tội nhân đến xưng tội với vị linh mục chính xứ ngay dưới cây thánh giá này. Như thường lệ, mỗi khi giải tội cho một tội nhân có quá nhiều tội nặng, vị linh mục này thường tỏ ra rất nghiêm khắc. Ngài ra việc đền tội thật nặng cũng như ngăm đe nhiều điều. Tội nhân ra về lòng cảm thấy nhẹ nhàng. Nhưng tính nào tật nấy, không bao lâu, người đó lại sa ngã. Lần này, sau khi tội nhân xưng thú tội lỗi, vị linh mục lại đe doạ: “Đây là lần cuối cùng tôi giải tội cho anh!”
Nhiều tháng trôi qua, tội nhân lại đến quỳ dưới chân linh mục cũng bên cây thánh giá và lại xin ơn tha thứ một lần nữa. Nhưng lần này, vị linh mục đã dứt khoát. Ngài lên giọng: “Anh đừng có đùa với Chúa. Tôi không thể ban phép giải tội cho anh nữa!”. Nhưng lạ lùng thay, khi vị linh mục vừa khước từ tội nhân sám hối, thì Ngài bỗng nghe một tiếng thì thầm từ bên thánh giá. Bàn tay phải của Chúa Giêsu bỗng được rút ra khỏi thánh giá và ban phép lành cho hối nhân. Và vị linh mục nghe được tiếng thì thầm ấy nói: “Chính Ta là người đã đổ máu ra cho người này chứ không phải ngươi”.
Từ đó, bàn tay của Chúa Giêsu cứ ở mãi trong tư thế ban phép lành, như không ngừng mời gọi con người đến để ban ơn tha thứ. Du khách đến viếng, nhìn lên thánh giá đều có cảm tưởng như ánh mắt của Chúa Giêsu nhìn mình và nghe như có tiếng thì thầm: “Ta không hề kết án con”.
Anh chị em thân mến, Tin Mừng hôm nay mời gọi chúng ta nhìn lên thập giá của Đức Kitô. Nhìn lên thập giá để thấy được tình yêu bao la của Chúa. Ngài luôn tha thứ chứ không kết án. “Ta không muốn tội nhân phải chết, nhưng muốn nó bỏ đường tội lỗi, quay trở lại để được sống” (Ed 33,11). “Quả vậy, Thiên Chúa sai Con của Ngài đến thế gian không phải để lên án thế gian, nhưng để thế gian nhờ Con của Ngài mà được cứu độ”. “Cũng như Môsê treo con rắn đồng trong sa mạc thế nào, thì Con Người cũng bị treo lên như vậy, để tất cả những ai tin ở Ngài sẽkhông phải chết, nhưng được sống đời đời”. Thập giá đã trở thành dấu chỉ ơn cứu độ cho những ai tin vào Ngài, tương tự như con rắn đồng đã được Môsê giương cao trong sa mạc thuở xưa, để những ai bị rắn lửa cắn, nhìn lên con rắn đồng ấy đều được cứu sống.
Thánh Gioan còn nói tiếp: “Thiên Chúa yêu thương thế gian đến nỗi đã ban Con Một, để ai tin vào Con của Ngài thì khỏi phải chết, nhưng được sống muôn đời”. Thiên Chúa một lần nữa lại biểu lộ tất cả tình thương của Ngài đối với chúng ta trong Con Một của Ngài là Đức Giêsu Kitô. Tất cả bắt nguồn từ Thiên Chúa Tình Yêu. Tình yêu của Ngài không ở trên mây trên gió, nhưng được thể hiện qua hành vi “trao ban”. Điều quí nhất của Người Cha là Người Con. Thế mà Thiên Chúa đã muốn trao ban cho nhân loại chính Con Một dâú yêu của Ngài. Ngài đã cho chúng ta tất cả. Đức Giêsu chính là quà tặng lớn nhất Thiên Chúa Cha đã trao ban cho nhân loại. Việc trao ban này trước tiên được biểu lộ qua việc Ngài sai Con Người và cuối cùng qua việc nộp Con Một cho loài người treo lên thập giá. Đó là lúc Thiên Chúa trao ban Con Một của Ngài cho loài người một cách trọn vẹn nhất, dứt khoát nhất. Bởi vậy, chính lúc đó là lúc Thiên Chúa đã đặt Con của Ngài làm Đấng ban sự sống cho loài người,đểai tin vào Người Con ấy thì được sống đời đời. Vì con của Ngài đến không phải để kết án luận phạt, nhưng để cứu loài người khỏi chết và cho thông phần vào cuộc Phục Sinh vinh quang của Ngài.
Thưa anh chị em, đứng trước thập giá Đức Kitô, chúng ta phải có thái độ nào? Tin vào tình yêu Thiên Chúa hay chối từ tình yêu của Ngài? Chính thái độ đó sẽ định đoạt số phận của chúng ta. Vì thế, tin hay không tin là một chọn lựa sống chết. Mỗi người có đủ tự do tiếp nhận hay từ chối ánh sáng. Ai tin là đón nhận ánh sáng, là bước vào cõi sống. Ai không tin là từ chối ánh sáng và tự đầy đọa mình trong tăm tối, trong cõi chết. Thiên Chúa không cần kết án luận phạt nữa.
“Thiên Chúa yêu thương thế gian đến nỗi đã ban Con Một của Ngài”, đó là chân lý cơ bản nhất của Kitô giáo. Tất cả cuộc đời cuả Chúa Giêsu, cái chết của Ngài trên thập giá, là ngôn ngữ Chúa muốn sử dụng để nói với chúng ta rằng Ngài yêu thương chúng ta, yêu thương đến nỗi sẵn sàng để cho Ngươì Con Một yêu quí của Ngài chết thay cho chúng ta.
Hãy nhìn lên thập giá để thấy được tình yêu bao la của Chúa. Phải, bên kia sự ác độc của tội lỗi, Chúa Giêsu chỉ muốn chúng ta nhìn thấy được tình yêu của Thiên Chúa: một tình yêu không ngừng tha thứ, một tình yêu vượt lên trên mọi tư tưởng, mọi tiêu chuẩn phán đoán, mọi khát vọng của chúng ta.
Nhìn lên thập giá Chúa Kitô không phải để thất vọng vì gánh nặng của tội lỗi, trái lại để cảm nghiệm được hồng ân bao la của Chúa, để cho tâm hồn được phấn khởi, tin yêu hơn.
Nhìn lên thập giá Chúa Kitô để cảm nghiệm được ơn tha thứ của Ngài, để chúng ta cũng biết cảm thông và tha thứ cho anh em chúng ta. Càng nhận ra được tình yêu tha thứ của Chúa, chúng ta càng được mời gọi yêu thương tha thứ cho anh em nhiều hơn. Thiên Chúa không kết án luận phạt chúng ta, sao ta lại kết án luận phạt anh em mình? “Hãy tha thứ để được Chúa tha thứ. Đừng xét đoán để khỏi bị Chúa xét đoán” (Lc 6, 36-37). Hãy yêu thương như Chúa đã yêu thương ta.
Một lần nữa, hãy ngước nhìn lên thập giá Chúa Kitô:
Hãy xem đó thì biết phép công thẳng của Chúa là thế nào! Hãy xem đó thì biết tội nặng nề gớm ghiếc là chừng nào! Hãy xem đó thì rõ biết lòng Chúa quá yêu thương ta là dường nào! (Đàng Thánh Giá, chặng 13).
8. Người thợ săn trên trời – ĐGM. Arthur Tone
Một trong những bài thơ tôn giáo nổi tiếng nhất bằng Anh ngữ tựa đề: “Người Thợ Săn Trên Trời”, sáng tác của Francis Thompson, ông cố chạy trốn Chúa. Ông so sánh Chúa với một thợ săn, vâng một con chó săn theo đuổi linh hồn. Đây là câu chuyện đời tư của Thompson.
Khi còn là cậu con trai, ông có ý định làm linh mục. Nhưng vì ông lười biếng. Cha ông phải ghi tên gởi ông vào trường thuốc. Ông làm quen với thói hút ma túy, nó hủy hoại tinh thần và thể xác ông. Ông đi ăn xin, chui rúc trong xóm ổ chuột, kiếm sống qua ngày bằng đánh giày, bán quạt và giữ ngựa. Nhờ lòng tốt của cô gái nghèo, Thompson gặp ông bà Wilfred Meynell. Họ thấy ông có tài, có lòng tốt thầm kín, họ giúp ông bắt gặp tình thương của Chúa.
Bằng chứng hiển nhiên của tình thương Chúa cho chúng ta được diễn tả trong bài Tin Mừng hôm nay: “Thiên Chúa yêu thương thế gian, đến nỗi ban tặng Người Con Một, để những ai tin vào Ngài sẽ không bị diệt vong, nhưng được sống đời đời”. Cha trên trời chứng tỏ tình thương cho mỗi người chúng ta bằng cách sai Người Con yêu quý của Người để đổi lại chúng ta. Như ông Thompson linh hồn chạy trốn Chúa. Như người thợ săn rượt theo con thỏ. Thiên Chúa tìm kiếm từng linh hồn. Khác với người thợ săn, Chúa muốn cứu linh hồn đó chứ không hủy bỏ.
Làm sao chúng ta có thể có một quan niệm về mức độ vô biên của người thợ săn trên trời thương chúng ta? Trong bức thơ gởi cho Giáo đoàn Êphêsô, Thánh Phaolô gợi ý chúng ta nghĩ đến “Chiều rộng, chiều dài, chiều cao và chiều sâu của tình yêu Chúa” đối với chúng ta.
Tình yêu Thiên Chúa đối với chúng ta thì rộng rãi: nó trải rộng tới mọi người; tới dân ngoại, tới người tội lỗi, tới cả những người chống đối Người. Thiên Chúa muốn mọi người được chia sẻ sự tốt lành của Người.
Tình yêu Thiên Chúa đối với chúng ta thì dài: “Ta yêu ngươi bằng tình yêu vĩnh cửu (Jer 21.3)”. Trước khi có thế giới, Thiên Chúa đã yêu bạn. Tình yêu Thiên Chúa trải qua đời này tới đời kia.
Tình yêu Thiên Chúa đối với chúng ta thì cao: Nó từ ngai tòa Đấng Tối cao trên trời cao thẳm mà tới. Chiều cao của tình yêu Thiên Chúa được bày tỏ trong tặng vật của Người cho chúng ta. Có gì cao siêu hơn được chia sẻ chính sự sống của Chúa qua các bí tích. Tình yêu nào cao hơn việc ban Người Con tốt lành, thánh thiện của Người cho chúng ta khi rước lễ.
Tình yêu Thiên Chúa thì thẳm sâu: Thiên Chúa tự hạ mình từ Thiên đàng cao vời xuống chuồng bò thấp hèn ở Bethlem, tới căn nhà tồi tàn và rừng hoang, tới con người rất hèn, tới sự xỉ nhục của thập giá và chiều sâu của nấm mồ.
Một lần nữa, như Francis Thompson, như các vị thánh, chúng ta nhận thấy rằng: Thiên Chúa săn tìm linh hồn chúng ta cùng khắp thế giới. Vậy chúng ta hãy trở về với tình yêu đó. Chúng ta hãy cố gắng “tiến triển trong tình yêu” như chúng ta cầu nguyện trong kinh nguyện Thánh Thể II.
Trong mùa chay, chúng ta hãy nhớ Đấng Tình Thương đã ban cho chúng ta sự sống. Ước chi người thợ săn trên trời bắt được mỗi chúng ta.
Xin Chúa chúc lành bạn.
9. Thiên Chúa cứu chuộc thế gian bằng tình yêu. (Suy niệm của Noel Quesson)
“Thiên Chúa đã yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một”
Huyền thoại của một nước vùng Ấn Độ có câu chuyện này: Thời xưa, đất nước còn hoang sơ, có một con thỏ tên là Pôlixa. Thỏ Pôlixa rất thương người, ai xin gì cũng cho, không từ chối bao giờ. Một hôm có một cụ già lom khom chống gậy đi tới và nói:
- Già đói lắm, suốt mùa nước lũ già không có gì ăn. Chắc già sắp chết rồi, giờ đây già chỉ thèm một miếng thịt thỏ, Pôlixa có cho già được không?
Thỏ Pôlixa nhìn ông già hom hem yếu đuối, tội nghiệp quá. Thỏ Pôlixa bảo ông:
- Được rồi, ông chờ một lát.
Pôlixa đi kiếm củi xếp thành đống rồi nổi lửa, và nói:
- Ông chờ thịt cháu chín, ông lấy mà ăn.
Rồi thỏ chụm chân nhảy vào lửa. Bỗng nhiên lửa tắt, ông già biến mất. Thì ra đó là một vị thần được Thượng đế cho phép tới thử lòng thỏ. Về sau để thưởng công, Thượng đế đã cho thỏ Pôlixa về vui đùa mãi mãi bên mặt trăng.
Đó chỉ là một chuyện huyền thoại, nhưng có ý nói tới điểm cao nhất của lòng bác ái, là sẵn sàng chết vì người khác. Đó cũng chính là ý tưởng của Đức Giêsu mà thánh Gioan đã ghi lại: “Không có tình yêu nào lớn bằng chết vì bạn hữu”.
Chúa Giêsu đã nói và Ngài đã thực hiện như thế. Chúa chết trên thập giá vì yêu ta. Chính cái chết của Chúa, hay nói khác đi, chính Tình yêu của Chúa đã đem sự sống tới cho chúng ta. Thiên Chúa yêu thương trần gian đến mức trao ban Con Một của Người. Người Con Một đó chính là Tình yêu của Thiên Chúa, đã dùng cái chết để biểu lộ tình yêu tột đỉnh đối với gian trần. Và Tình yêu đó đã đem đến cho trần gian nguồn sống.
Nhiều người thời nay tỏ ra rất bi quan: “Thế trần hư hỏng, vô phương cứu chữa…” thiếu gì lý do để buồn rầu chán nản. Một lương tâm tương đối sáng suốt nào cũng thấy vô số tệ đoan đang diễn ra khắp nơi khắp chốn: bạo lực, bất công, ích kỷ tập thể hay cá nhân, đê tiện đủ thứ, sa đọa, mất lương tâm nghề nghiệp… Người ta lợi dụng nhau, hành hạ nhau, dối trá công khai trên diễn đàn, trong ý thức hệ v,v… Chắc chắn Thiên Chúa thấy rõ những điều này. Tuy nhiên Người vẫn yêu thương trần gian. Người không chịu nổi sự tồi tệ của trần gian. Người muốn cứu vớt trần gian. Thiên Chúa tới chung sống với nhân trần. Người vẫn thấy những gì Người dựng nên là tốt đẹp.
Thiên Chúa muốn con người được sống vĩnh cửu… đó là cuộc sống từ trên ban xuống (Ga 3,3). Thiên Chúa không kết tội trần gian. Nếu trần gian bị kết tội là do tự mình mà ra. Thiên Chúa muốn giải thoát nhân loại, muốn mọi người được cứu rỗi (1Tm 2,4). Khi con người cương quyết chối từ Thiên Chúa, họ vẫn bó buộc phải sống gần kề Thiên Chúa mà họ chối từ, đó chính là “hỏa ngục”. Và Thiên Chúa luôn tôn trọng tự do của con người. “Thiên Chúa sai Con Người giáng trần không phải để luận phạt thế gian, nhưng để thế gian nhờ Ngài mà được Cứu độ. Ai tin vào Ngài thì không bị luận phạt. Còn ai không tin thì đã bị luận phạt rồi”. (Ga 3,17-19).
Lạy Chúa, xin giúp chúng con thêm lòng yêu mến Chúa bằng cách thương mến phục vụ mọi người như Chúa đã yêu thương phục vụ và hy sinh Cứu chuộc chúng con.
10. Tình yêu cứu độ của Thiên Chúa – Lm Trần Ngà. (Trích trong ‘Cùng Đọc Tin Mừng’)
Xưa kia có một vị hoàng đế rất giàu sang và cũng rất đại lượng. Vua rộng ban vàng bạc châu báu cho tất cả những ai làm đẹp lòng vua. Thế là nịnh thần mọc lên như nấm khắp triều đình.
Các hoàng tử thì xu nịnh để được vua cha ban cho ngai vàng. Các quan trong triều đình thì xu nịnh để được thăng quan tiến chức. Ai cũng huênh hoang cho rằng mình hết lòng trung nghĩa với vua, sẵn sàng hiến mạng mình để bảo vệ nhà vua, để chết thay cho vua.
Nhà vua rất đơn sơ nên dễ tin vào những lời nịnh hót của họ và ban phát cho họ ân lộc dư dầy khiến ngân khố của triều đình cạn kiệt.
Cả triều đình chỉ có quan ngự y là người trung thành. Ông đã nhiều lần can gián vua, thuyết phục vua đừng tin bè lũ xu nịnh, nhưng vua chẳng chịu nghe.
Ngày nọ, vua lâm trọng bệnh thập tử nhất sinh, tính mạng nhà vua chỉ còn được đếm từng giờ. Quan ngự y trình với vua là bệnh vua chỉ có thể chữa lành nếu một vị hoàng tử nào đó hiến tặng trái tim mình làm thuốc cho vua.
Nghe tin nầy loan ra, các hoàng tử trong cung trốn biệt!
Khi không thể tìm được trái tim của hoàng tử làm thuốc, nhà vua hỏi quan ngự y xem có thể sử dụng tim của một người khác làm thuốc được không. Quan ngự y trả lời nếu không có trái tim của hoàng tử thì ít ra phải dùng trái tim của các vị quan lớn trong triều.
Nghe tin đó, các quan lớn rồi các quan nhỏ trong triều đều trốn biệt tăm. Túng quá, thôi thì dùng tạm trái tim của lính hầu, của công chúa cũng được. Nghe tin đó, cả công chúa, cả lính hầu, cả hàng trăm thê thiếp cũng không còn ai lai vãng trong cung điện nữa. Cung điện thường ngày huyên náo, giờ nầy vắng lặng như bãi tha ma!
Bấy giờ vua chỗi dậy, tỉnh ngộ rồi cười ra nước mắt cho nhân tình thế thái. Duyên do là quan ngự y và cũng là người trung nghĩa với vua, đã khéo dựng lên kịch bản nầy, đề nghị với vua giả vờ đau nặng, bỏ cơm bỏ cháo, để thử thách lòng người!
Cuộc đời là thế! Ai có đủ yêu thương để dám hy sinh tính mạng, dám chết thay cho người thân thiết của mình, nói chi đến việc chết thay cho kẻ thù nghịch? Vậy mà có một Đấng đã hy sinh tính mạng cho kẻ phản bội mình. Để hiểu Đấng ấy đã hy sinh như thế nào, chúng ta hãy trở lại với câu chuyện rắn đồng thời Mô-sê.
Thời ấy, trong hành trình bốn mươi năm trong hoang địa, có lần dân Do-Thái phải lâm cảnh đói khát dày vò nên kêu trách Thiên Chúa và Mô-sê. Thế rồi dân chúng bị rắn lửa bò ra cắn chết nhiều người. Người ta lại chạy đến kêu cứu Mô-sê. Bấy giờ Thiên Chúa truyền cho ông Mô-sê đúc con rắn đồng, treo lên trụ cờ cao, để làm phương thuốc chữa rắn cắn. Ai bị rắn cắn mà nhìn lên rắn đồng thì được cứu sống.
Ngày nay, để cứu nhân loại tội lỗi lâm cảnh điêu linh và phải chết, Thiên Chúa không thể dùng rắn đồng làm phương trị liệu mà phải dùng đến một phương thuốc khác, đó là bằng chính Thân Thể Chúa Giêsu chết treo trên thập giá. "Như ông Mô-sê đã giương cao con rắn trong sa mạc, Con Người cũng sẽ phải được giương cao như vậy, để ai tin vào Người thì được sống muôn đời." Thiên Chúa Cha đã lấy mạng đổi mạng. Lấy sinh mạng vô cùng cao quý của Người Con Một yêu quý để đổi lấy sinh mạng khốn hèn của loài người tội lỗi. Thật là điều không thể tưởng tượng được.
Nhưng tình yêu của Thiên Chúa chưa dừng lại ở đó. Tình yêu cứu độ của Ngài còn vươn lên cao hơn. Không những chỉ trao ban Con Một chết thay cho chúng ta mà thôi, không những chỉ ban cho chúng ta được cùng sống lại với Chúa Giêsu mà thôi, Thiên Chúa Cha còn thương cho chúng ta được cùng lên trời, cùng ngự trị với Đức Giêsu trên cõi trời. Bài đọc thứ hai, bài thư thánh Phao-lô gửi tín hữu Ê-phê-sô hôm nay nhắc chúng ta điều đó: "Thiên Chúa giàu lòng thương xót và rất mực yêu mến chúng ta, nên dầu chúng ta đã chết vì sa ngã, Người cũng đã cho chúng ta được cùng sống với Đức Ki-tô. Người đã cho chúng ta được cùng sống lại và cùng ngự trị với Đức Ki-tô Giêsu trên cõi trời." (Ephêsô 2, 4-6)
Thế là từ thân phận của tên tử tội đáng phải chết đời đời vì tội lỗi của mình, chúng ta được Chúa Giêsu lấy mạng Ngài đổi mạng cho chúng ta, thứ tha cho chúng ta muôn vàn tội lỗi, ban cho chúng ta được sống lại trong đời sống mới, rồi lại được đưa lên trời để "cùng ngự trị với Đức Giêsu trên cõi trời".
Thật là một tình yêu không còn biên giới.
Nguyện xin Chúa Thánh Thần giúp chúng ta cảm nhận thật sâu sắc tình yêu cao vời và sâu thẳm của Thiên Chúa, để sống xứng đáng hơn với tình yêu đó và đừng để công trình cứu chuộc của Ngài hoá ra vô hiệu nơi chúng ta.
11. Yêu cho roi cho vọt – Lm Trần Bình Trọng
Đọc Thánh kinh Cựu ước, người ta có cảm tưởng Thiên Chúa có vẻ dữ tợn và hay trách phạt. Chẳng hạn khi dân chúng trở mặt chống lại Người, Chúa cho nước lụt tràn ngập đất đai, ruộng vườn của họ. Khi họ khô! ng tuân giữ giới răn Chúa, Người cho hạn hán tiêu hủy mùa gặt, và những sản phẩm ruộng vườn của họ. Khi dân Chúa bất trung phản nghịch cùng Người, Chúa gửi dịch tả đến miền đất của họ. Khi họ toan bỏ Chúa đi thờ các thần ngoại lai, Chúa ra tay sát phạt họ, và dùng dân ngoại thi hành hình phạt của Chúa.
Tuy nhiên vừa khi họ bị sát phạt, thì hàng ngôn sứ của Chúa liền xuống giọng. Các ngôn sứ bảo họ: đó là hình phạt của Thiên Chúa yêu thương và nhân hậu. Vừa khi dân chúng thay đổi cách sống và ăn năn hối tội, thì họ lại được tha thứ và đưa về đất hứa. Lòng nhân từ hay thương xót của Chúa là một thực tại được thể hiện bằng những việc Người làm trong Thánh kinh. Bài trích sách Biên Niên quyển hai hôm nay là một ví dụ điển hình về lòng xót thương của Chúa. Bài Sách này được viết vào khoảng ba trăm năm trước Chúa giáng sinh, khi tác giả đã có thể nhìn về lịch sử quá vãng, mà dân chúng chồng chất bất trung này lên bất trung khác. Từ lần nọ qua lần kia, họ mần ngơ trước sự hiện diện của các sứ giả của Chúa. Và họ còn bách hại các ngôn sứ và các tổ phụ của Người.
Cho tới lúc mà Thiên Chúa không còn dung thứ được nữa, Người liền cho phép quân thù đến tấn công họ. Quân Ba-by-lon đến xâm chiếm đất nước của họ, giết chết hàng ngàn, hàng vạn người. Quân thù phá huỷ thành phố, thiêu đốt Đền thờ và cưỡng ép dân còn sống sót đi lưu đầy bên Babylon.
Tuy vậy Chúa không nỡ bỏ rơi dân Người. Chúa dùng ông vua ngoại đạo là Ky-rô, vua xứ Ba Tư, để cứu thoát dân Người và đưa họ trở về đất hứa. Như vậy ta thấy những hình phạt của Chúa, không phải nhằm báo thù, mà là cách thế để luyện lọc, thanh tẩy và chữa trị họ, khiến họ trở nên tuỳ thuộc vào Chúa.
Phúc âm hôm nay nhắc nhở cho ta về một tai hoạ xẩy ra cho dân Người trong sa mạc trên đường tìm về đất hứa. Khi dân riêng của Chúa chối bỏ Người, đi thờ thần ngoại lai và còn đúc bò vàng để thờ, Chúa phạt họ bằng cách cho rắn độc đến giữa họ. Rồi với lòng thương xót, Chúa truyền cho Môsê làm con rắn đồng, treo trên cây gậy để cứu chữa họ. Bất cứ khi nào ai bị rắn độc cắn mà nhìn lên con rắn đồng, với niềm tin vào Chúa, thì được chữa khỏi. Đức Giêsu coi việc treo con rắn đồng lên cây gậy như là dấu chỉ Người sẽ bị treo trên thập giá để ai tin vào Con của Người, thì khỏi phải chết, nhưng được sống đời đời (Ga 3:16). Thánh Phaolô, người am hiểu lịch sử ơn cứu độ trong Thánh kinh Cựu ước đã thốt lên trong thư gửi tín hữu Ê-phê-sô hôm nay: Thiên Chúa là Đấng giàu lòng thương xót, và rất mực yêu mến chúng ta, nên dầu chúng ta đã chết vì sa ngã, Người cũng đã cho chúng ta được cùng sống với Đức Kitô (Ep 2:4-5).
Người ta có thể nói Thánh kinh Cựu ước gắn liền với lịch sử của dân Do thái. Nói cách khác, cổ sử của họ là Thánh kinh và họ luôn ghi nhớ lời Thánh kinh. Đi tản mát khắp thế giới sau khi Đền thờ bị phá hủy mà họ vẫn ghi nhớ lịch sử của họ, nhất là nhớ ngày lễ Vượt qua. Những chi họ bị thất lạc cả hai ngàn năm bên xứ Ê-thi-óp cận đại (xứ Cút cổ xưa) hay bên Ấn độ mà vẫn nhớ cội rễ của họ, mặc dầu có những người da ngăm ngăm đen mà họ vẫn nhận có máu Do thái và có những người vẫn muốn trở về đất hứa. Vào thập niên cuối cùng của thế kỉ 20, chính phủ Do thái giàn xếp với chính phủ của quốc gia mà họ đang sinh sống, gửi những chuyến bay bí mật chở họ về tái định cư tại Do thái.
Tại sao bị sát phạt như vậy mà họ vẫn tưởng nhớ đến Chúa? Một ví dụ trong đời sống hằng ngày có thể giúp ta hiểu phần nào tại sao bị phạt mà người ta vẫn nhớ đến người ra hình phạt mà không uẫn ức. Có những học sinh đã trải qua chương trình giáo dục nghiêm khắc. Họ vẫn nhắc lại những mẩu chuyện như xưa bị thầy giáo nọ dùng thước kẻ đánh vào bàn tay, bà sơ kia bắt quì mà họ vẫn có thể cười được vì bây giờ họ thành công trên đường đời, có địa vị trong xã hội, có việc làm tốt, có thể kiếm được việc mới và tái tạo cuộc sống mới ở nơi khác.
Không phải chỉ có dân Chúa trong Cựu ước mới phản nghịch lỗi nghĩa cùng Chúa. Lịch sử dân Chúa thời Tân ước cũng không hơn gì, có khi còn tệ hơn nữa. Dân mới được chọn cũng chồng chất từ tội này đến tội khác, lại còn phạm thêm những tội mới như tội phá thai, hoặc những tội mà người ta phạm qua phương tiện truyền thông như phim ảnh, báo chí, truyền hình và ngay cả mạng tin. Có những tội mà người ta còn công khai phạm, không còn phải giấu giếm vì người ta coi là một lối sống của thời đại. Còn cá nhân mỗi người tín hữu, chính ta cũng có tội: tội phạm đến Chúa, tội phạm đến tha nhân, tội trong tư tưởng, lời nói và việc làm. Thiên Chúa là Đấng nhân từ hay thương xót, nhưng ta phải nhìn nhận tội lỗi mình, thành tâm sám hối và quyết tâm dốc lòng chừa, rồi xin Chúa xót thương tha thứ thì ơn cứu độ mới đến với ta được. Không nhận tội là tội, người ta sẽ không tìm đến thầy thuốc thiêng liêng và như vậy sẽ hết thuốc chữa.
Lời cầu nguyện xin cho được biết chấp nhận việc sửa lỗi:
Lạy Thiên Chúa, Đấng công minh và khoan hậu.
Chúa trách phạt không phải vì muốn trả thù báo oán
nhưng vì yêu thương với mục đích giáo huấn
hầu cho loài được sống.
Xin cho con biết nhìn nhận tội lỗi mình
chấp nhận việc sửa lỗi và làm việc đền tội
với quyết tâm cải thiện đời sống
hầu trở về sống trong ơn nghĩa với Chúa. Amen.
12. Người thợ săn
Có một thi sĩ, khi còn là một cậu con trai, đã ước mơ làm linh mục, nhưng rồi vì lười biếng, ước mơ ấy đã không bao giờ trở thành sự thật. Lớn lên, ông làm quen với ma túy, và chính ma túy đã hủy hoại tinh thần và thể xác ông. Ông kiếm sống bằng nghề đánh giày, bán diêm quẹt và giữ ngựa. Sau cùng đã phải ngửa tay đi xin ăn và chui rúc ở gầm cầu xó chợ.
Giữa lúc ấy, nhờ lòng tốt của một cô gái nghèo, ông gặp được ông bà chủ. Họ thấy ông có tài, nên giúp ông gặp được tình thương của Chúa. Và ông đã diễn tả kinh nghiệm đời mình trong một bài thơ mang tựa đề là “Người thợ săn trên trời”.
Ông cho biết ông đã trốn chạy Chúa thế nào và Chúa đã chộp bắt được ông ra làm sao? Ông so sánh mình là như một con thỏ nhỏ, còn Chúa là như người thợ săn. Khác với người thợ săn, Chúa chộp bắt từng linh hồn, không phải để giết chết, mà là để cứu sống.
Từ mẩu chuyện trên, chúng ta đi vào đoạn Tin Mừng hôm nay, trong đó thánh Gioan đã xác quyết:
- Thiên Chúa đã yêu thương thế gian, đến nỗi đã ban tặng Con Một Ngài, để những ai tin vào Ngài thì sẽ không bị tiêu diệt, nhưng sẽ được sống đời đời.
Làm sao chúng ta hiểu được tình thương bao la mà Thiên Chúa đã dành cho chúng ta. Thánh Phaolô đã gợi ý cho chúng ta nghĩ đến chiều rộng, chiều dài, chiều cao và chiều sâu của tình yêu ấy trong bức thư gửi tín hữu Rôma.
Tình yêu Thiên Chúa dành cho chúng ta thì bao la như đại dương không bờ không bến. Thực vậy, tình yêu ấy đã được trải rộng trên mọi người, không kỳ thị, không phân biệt màu da và tiếng nói. Tình yêu ấy cũng trải rộng trên cả những kẻ tội lỗi và phản bội Ngài, bởi vì Thiên Chúa muốn chia sẻ sự tốt lành của Ngài cho tất cả chúng ta.
Tình yêu Thiên Chúa dành cho chúng ta thì dài lâu như chính bản tính của Ngài, bởi vì Ngài đã yêu thương chúng ta bằng một tình yêu vĩnh cửu. Thực vậy, trước khi có thế gian, Ngài đã yêu thương chúng ta và Ngài sẽ còn yêu thương chúng ta mãi mãi, từ đời này sang đời kia.
Hơn nữa, tình yêu Thiên Chúa dánh cho chúng ta còn thật cao vời. Đặc tính cao vời này được biểu lộ qua những tặng vật mà Ngài đã trao ban cho chúng ta. Còn gì cao vời hơn khi được chia sẻ chính sự sống của Ngài qua các bí tích. Còn gì tuyệt diệu hơn cho bằng việc Ngài ban chính Con Một Ngài cho chúng ta, để cứu độ chúng ta và ngày nay việc trao ban ấy vẫn còn được tiếp nối qua việc chúng ta lên rước lễ.
Và sau cùng tình yêu Thiên Chúa dành cho chúng ta thật là thẳm sâu, bởi vì là một Thiên Chúa quyền năng, Ngài đã hạ mình xuống mang thân phận con người. Sinh ra là một hài nhi bé bỏng nơi máng cỏ Bêlem. Chết đi như một tội nhân bị bêu xấu trên thập giá.
Từ tình yêu ấy chúng ta thấy được rằng: Thiên Chúa luôn săn đuổi chúng ta để rồi dẫn chúng ta vào trong tình yêu của Ngài. Bổn phận của chúng ta trong Mùa Chay này đó là hãy đáp trả tiếng gọi của tình yêu bằng cách chổi dậy, lên đường và trở về với Ngài.
Chúa Giêsu dùng hình ảnh con rắn đồng để ám chỉ về cái chết cứu chuộc của Ngài. Con rắn đồng là gì? Đây là một câu chuyện thời xưa được Chúa nhắc lại, khi dân Do Thái lang thang trong sa mạc trên đường về Đất Hứa, họ đã nhiều lần kêu trách Chúa, họ nói rằng: tại sao lại đưa họ vào sa mạc để họ phải khổ như thế này? Số người Do Thái lúc đầu ra khỏi Ai Cập khoảng hơn hai triệu người, con số không phải nhỏ bé, họ được Chúa ban manna ăn mỗi ngày, nhưng rồi họ cũng chán ngán, họ phàn nàn: chẳng có gì vui, chẳng có gì ngon, chỉ có mỗi manna chán ngắt. Khi họ kêu trách Chúa như vậy tức là họ bày tỏ một tấm lòng hết tin tưởng, họ muốn quay trở về với kiếp nô lệ để được ăn củ hành củ tỏi, họ đã mất niềm tin vào Chúa. Có lần Chúa đã cho rắn lửa xuất hiện khắp nơi và cắn chết nhiều người, khi đó họ mới nhớ ra tội mình bội tín, bất trung với Chúa, họ ăn năn và cầu cứu với ông Môsê xin Chúa tha thứ. Chúa động lòng thương bảo ông Môsê làm một con rắn bằng đồng treo lên cây cao, để bất cứ ai bị rắn lửa cắn, nhìn lên con rắn đồng này thì được cứu sống.
Thật ra con rắn đồng kia chỉ là một thứ kim loại vô tri vô giác, tự nó không có khả năng hay quyền hành gì để cứu giúp người ta lúc ấy, yếu tố cứu giúp người ta chính là đức tin. Việc nhìn vào con rắn đồng kia là biểu hiệu một lòng tin vào Thiên Chúa, niềm tin từ bên trong phát ra bên ngoài bằng cái nhìn, nhờ đức tin mà Chúa đã cứu họ. Và đó là ý nghĩa của câu Chúa Giêsu nói với ông Nicôđêmô: “Ngày xưa, Môsê treo con rắn đồng thế nào thì Con Người sẽ bị treo lên như thế, để nhờ đó những ai tin nhận sẽ được cứu rỗi”. Nói vậy là Chúa có ý ám chỉ cái chết của Ngài, Ngài sẽ chết cách nào, Ngài sẽ bị treo lên thập giá để chuộc tội cho nhân loại.
Nói rõ hơn, ngày xưa, dân Do Thái muốn được khỏi bệnh rắn cắn thì nhìn lên rắn đồng, còn ngày nay, chúng ta muốn khỏi bị trầm luân, hư mất đời đời thì chúng ta cần tin vào Chúa Giêsu, nhận cái chết chuộc tội của Ngài, để Ngài đem hạnh phúc trường sinh cho. Nói như vậy là để chúng ta ý thức tình trạng tội lỗi của mình, nếu chúng ta không biết mình là người có tội, là người phải cần tới Chúa, thì cái chết của Chúa cũng giống như bao nhiêu cái chết khác, không liên quan gì đến mình, hay cùng lắm chúng ta coi cái chết của Ngài cũng như cái chết của một vị anh hùng, nếu như vậy thì cái chết của Chúa sẽ chẳng ảnh hưởng gì đến chúng ta, thái độ đó cũng chẳng khác gì thái độ của những người Do Thái xưa kia nhìn lên rắn đồng với cặp mắt nghệ thuật, nên vẫn bị chết. Chúng ta phải ý thức rằng tất cả chúng ta đều là những tội nhân, bị rớt xuống vực thẳm, không thể tự cứu nổi mình, chứ đừng nói cứu người khác, vậy cần phải có một người ở trên, ở ngoài cứu vớt chúng ta, đó là Chúa Giêsu, Chúa cứu chúng ta bằng cách chết thay cho chúng ta, nếu chúng ta tin nhận như thế là chúng ta đã bắt đầu đi vào con đường cứu độ của Chúa.
Như vậy bài học Chúa Giêsu dạy đã quá rõ ràng, đó là chúng ta phải tin vào Chúa thì mới được cứu rỗi. Nói tới niềm tin chúng ta thấy sống trên trần gian này bất cứ ai cũng có niềm tin, lòng tin hay đức tin. Con người ta sống không thể nào thiếu vắng điều này, chúng ta không tin điều này thì tin điều khác, không tin người này thì tin người khác, chúng ta tin nhau, cha mẹ tin con cái, con cái tin cha mẹ, vợ chồng, bạn bè, trường học, trao đổi xã hội… đều lấy lòng tin làm căn bản. Từ một em bé đến trường, em có tin cô giáo dạy học được, em mới đi học, cuộc sống chúng ta trao đổi hàng quà, đồng tiền, công thợ… đều đặt vào lòng tin tưởng nhau, nếu không tin tưởng nhau chúng ta không thể nào gặp gỡ và nói chuyện với nhau được. Nói khác đi, chúng ta có gần gũi nhau hay không, thương yêu nhau hay không, điều đó cũng tùy thuộc vào lòng tin, chính lòng tin tạo nên hy vọng, tình yêu, một gia đình cùng một lòng tin “tát bể đông cũng cạn”. Như vậy, tin là chuyện bình thường trong cuộc sống, từ đó chúng ta dễ hiểu lòng tin trong lãnh vực tôn giáo, đối với chúng ta, đó là đức tin.
Cũng thế và hơn thế, Thiên Chúa chỉ đòi hỏi chúng ta phải có một đức tin sắt son vào Ngài, có bấy nhiêu thôi, nếu chúng ta không tin Ngài thì tin ai? Tin vào mình chăng? Tin vào tài trí, hy vọng vào chính mình, vào đời mình chăng? Làm như vậy là gánh vàng đem đổ sông Ngô, là xây nhà trên cát. Chúng ta tin Chúa, chắc chắn rồi, chúng ta tin lời Chúa, cũng chắc chắn rồi, nhưng trước hết và trên hết, chúng ta phải tin Chúa thương yêu chúng ta. Chúng ta tin Chúa là Cha rất gần gũi con cái, đùm bọc, che chở, quan phòng, rất toàn năng, đó là bấy nhiêu của lòng tin. Từ lòng tin đó chúng ta bắt đầu yêu Chúa. Chúng ta tin nên chúng ta yêu, hay yêu rồi tin cũng thế, chỉ biết rằng lòng tin nâng đỡ tình yêu, và tình yêu nâng đỡ lòng tin, có tin mới yêu, cũng như có yêu mới tin.
Chúng ta đang sống trong Mùa Chay, chúng ta đã đi được một nửa đường của Mùa Chay. Mùa Chay kêu gọi chúng ta ăn năn sám hối, sửa đổi đời sống. Chúng ta là những người tội lỗi, chúng ta tin Chúa yêu chúng ta hơn những người trần gian yêu chúng ta nhất, nên chắc chắn Ngài sẽ tha thứ cho chúng ta khi chúng ta xin lỗi Ngài. Vậy để biểu lộ lòng chúng ta tin yêu Chúa, chúng ta hãy ăn năn sám hối.
Khi đi ngang qua các tiệm thuốc tây hay nhà thương, chúng ta thấy vẽ hình một con rắn, quấn quanh cây cột. Đó là biểu tượng của ngành y, một nghề cứu nhân độ thế. Biểu tượng này bắt nguồn từ một biến cố xảy ra cho dân Do thái trên đường về miền đất hứa.
Bấy giờ họ phàn nàn kêu trách Chúa và Môsê vì đã không cho họ bánh ăn và nước uống như hồi ở bên Ai Cập. Họ đã quá chán ngán thứ manna này rồi. Và thế là Chúa đã trừng phạt họ bằng cách cho rắn độc bò ra cắn chết nhiều người.
Tuy nhiên, khi họ biết ăn năn hối cải, Ngài đã ra lệnh cho Maisen đúc một con rắn đồng, treo nó lên một cây cột và hễ ai bị rắn độc cắn, chỉ cần nhìn lên rắn đồng là được bảo đảm an toàn tính mạng.
Qua đoạn Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu đã nhìn thấy nơi con rắn đồng một hình ảnh về bản thân mình. Thực vậy, như con rắn ngày xưa, Ngài cũng bị treo lên để những ai nhìn lên Ngài với ánh mắt tin tưởng và sám hối, thì sẽ được tha thứ và được sống đời đời.
Trong Phúc Âm, thánh Gioan đã nói đến ba lần việc Con Người phải được giương cao, ám chỉ cái chết của Ngài trên thập giá, nhưng đồng thời cũng mang ý nghĩa về sự Phục sinh và lên trời của Ngài. Trong cái nhìn của thánh Gioan, thập giá chính là đỉnh cao trong tiến trình trở về với Chúa Cha. Đây là một tiến trình đi lên, trái ngược với tiến trình đi xuống của Ngôi Lời lúc nhập thể:
- Khi nào các ngươi giương cao Con Người lên, các ngươi sẽ biết rằng Ta là ai… Khi nào Ta được giương cao lên khỏi đất, Ta sẽ kéo mọi người đến cùng Ta.
Đức Kitô, Đấng đã chịu treo trên thập giá, đã được Phục sinh và lên trời. Chính Ngài không ngừng cuốn hút vũ trụ này về với Ngài, để dâng lại cho Chúa Cha.
Chúng ta đang ở trong Mùa chay, đây là thời gian thích hợp để chúng ta nhìn lên Đức Kitô trên thập giá. Những người bị rắn độc cắn nơi hoang địa đã nhìn lên rắn đồng như biểu tượng của lòng thương xót và tha thứ của Thiên Chúa. Họ nhìn lên với thái độ tin tưởng và đã được thoát chết.
Chúa Giêsu không cứu chúng ta khỏi cái chết phần xác, nhưng Ngài còn làm một điều lớn lao hơn nhiều, đó là cho cả hồn lẫn xác của chúng ta được sống đời đời. Chúng ta quen hiểu sự sống đời đời là sự sống vĩnh cửu vào ngày tận thế. Tuy nhiên, theo thánh Gioan thì sự sống đời đời đã được bắt đầu ngay từ bây giờ, ngay từ lúc chúng ta còn sống trên trần gian.
• Chỉ cần tin vào Đức Kitô là nguồn mạch ơn cứu độ, là quà tặng cao cả nhất của Thiên Chúa, chúng ta sẽ cảm thấy sự sống của Ngài tràn vào cuộc đời chúng ta.
• Chỉ cần nhìn lên những dấu đinh và trái tim bị đâm thâu qua của Ngài là chúng ta sẽ nhận ra dấu chỉ của một tình yêu và chúng ta được mời gọi để sống một cuộc đời hoàn toàn khác, như thánh Phaolô đã viết: Tôi sống nhưng không phải là tôi sống mà là chính Đức Kitô sống trong tôi. Tôi sống cuộc sống hiện tại của tôi trong niềm tin vào Con Thiên Chúa, Đấng đã yêu thương tôi và đã nộp mình chịu chết vì tôi.
Hãy nhìn lên thập giá với tâm tình sám hối, để nhờ đó chúng ta được Chúa tha thứ và được chữa lành khỏi nọc độc của tội lỗi.
Thiên Chúa quá yêu thế gian, đến nỗi đã ban Con một của Người, để ai tin vào Con của Người thì không phải chết, nhưng được sống muôn đời.
Chúng ta được nghe những lời tuyệt vời này trong bài Phúc âm hôm nay. Đây là một bản tóm tắt thật hay của Tin Mừng.
Điều đầu tiên chúng ta cần ghi nhận, đó là chính Thiên Chúa đi bước đầu trong việc cứu độ.
Đôi khi, chúng ta có cảm giác rằng: trước hết Thiên Chúa phải nguôi cơn giận, sau đó Ngài mới tha thứ cho chúng ta. Chúng ta đã mường tượng ra hình ảnh Thiên Chúa như là một Đấng nghiêm khắc, nóng giận, và không biết tha thứ.
Nhưng trái lại, Đức Giêsu lại giới thiệu Thiên Chúa như là một Đấng đầy khoan dung, giàu lòng và luôn tha thứ. Nhờ sự chết của mình, Đức Giêsu đã thay đổi thái độ của Thiên Chúa đối với chúng ta.
Nhưng Tin Mừng hôm nay còn cho thấy chính Thiên Chúa đã sai Con của Ngài đến với chúng ta. Chính Thiên Chúa là Đấng đi bước trước.
Thiên Chúa chọn phương pháp của tình yêu, chứ không phải của sức mạnh. Thiên Chúa hành động không vì mục đích của riêng Người, nhưng vì chúng ta. Thiên Chúa không phải là nhà độc tài tuyệt đối, một người không cảm thấy hài lòng, cho đến khi bắt buộc các tạo vật của Người phải vâng phục một cách hèn hạ. Nói đúng hơn, Thiên Chúa là một người Cha, Người không cảm thấy hài lòng, cho đến khi tất cả những con cái đang tản mác của Người được trở về.
Đoạn này cũng cho thấy rằng tình yêu của Thiên Chúa bao hàm tất cả như thế nào. Tình yêu của Người không chỉ hướng đến một quốc gia duy nhất, mà cũng không chỉ dành riêng cho người tốt. Tình yêu của Người hướng đến tất cả các quốc gia, dành cho những con cái của ánh sáng, và cả những con cái của bóng tối nữa.
Nhưng đoạn này cũng nói về sự phán xét và kết án. Nếu Thiên Chúa chọn phương pháp đầy yêu thương, thì làm thế nào mà phương pháp đó lại có thể bao hàm cả việc phán xét và kết án? Làm thế nào mà việc kết án lại có thể hòa giải với tình yêu được? Hành động của Thiên Chúa không lôi kéo theo sự kết án ai cả. Con người đã tự kết án chính mình, bằng cách sống theo thái độ tiêu cực. Thiên Chúa đã gửi cho chúng ta một nguồn sáng. Nếu con người bị hư mất, chính bởi vì họ đã không chấp nhận ánh sáng. Lỗi không phải do Thiên Chúa, nhưng là lỗi của chúng ta.
Lần kia, một khách tham quan được hướng dẫn đi khắp chung quanh một phòng trưng bày nghệ thuật. Phòng trưng bày đó chứa đựng một số bức tranh đẹp, đã được thừa nhận là những kiệt tác thế giới. Sau khi tham quan một vòng, người du khách nói “Tôi không cho là những bức tranh cũ kỹ này có nhiều giá trị”. Hướng dẫn viên trả lời “Thưa ông, không cần phải xem xét về những bức tranh này nữa. Nhưng cần phải xét lại về những người nhìn vào chúng”.
Phản ứng của người đàn ông không phải là một lời phê phán đối với bức tranh, mà là cách đánh giá thấp kém của ông ta về nghệ thuật. Tương tự như vậy, những ai ưa thích bóng tối hơn là ánh sáng, thì đã tự kết án chính mình.
Những người xấu ghét ánh sáng bộc lộ cho họ nhìn thấy bản thân họ. Họ ghét lòng tốt, bởi vì lòng tốt bộc lộ tâm địa xấu xa của họ. Họ sẽ phá hủy ánh sáng, lòng tốt, tình yêu, để tránh bị nỗi đau của sự tự phát hiện ra bản thân mình.
Thật khủng khiếp khi người ta khước từ ánh sáng, khước từ sự ban tặng tình yêu của Thiên Chúa. Nhưng thật ngọt ngào khi được bước đi trong ánh sáng tình yêu của Người. Trong quá trình cứu độ, phần đóng góp của chúng ta chính là biết chấp nhận quà tặng của Thiên Chúa, trong tất cả bản tính nhân loại của mình, và cố gắng đáp trả lại bằng sự tận tụy. Chúng ta có khả năng yêu mến Thiên Chúa, bởi vì Thiên Chúa yêu thương chúng ta trước.
Thánh Phaolô nói “Bất cứ ai làm những điều đúng đắn (tốt đẹp), đều tiến vào ánh sáng”. Đến với ánh sáng là điều kiện để làm theo lẽ phải. Không phải người nào suy xét về chân lý mới đến được với ánh sáng, mà là những người làm theo lẽ phải. Hành trình ngắn nhất để đến được với ánh sáng là làm việc thiện. Nhưng trong thực hành, không phải lúc nào chúng ta cũng hành động như vậy.
Thông thường, điều mà chúng ta phải làm, đó là cố gắng được trạng thái an bình nội tâm, và rồi sau đó, mới tiến đến làm những hành động đem lại sư an bình. Chúng ta phải cố gắng đạt được trạng thái vui vẻ và biết ơn, và rồi sau đó mới đến làm những việc mang tính cách vui vẻ và biết ơn. Nhưng chúng ta thường làm ngược lại. Chúng ta thực hiện một hành vi đem lại sự an bình, để đạt được sự an bình nội tâm. Chúng ta làm những việc mang tính cách vui vẻ và biết ơn, để cảm nghiệm được niềm vui và sự biết ơn trong tâm hồn. Cũng theo cách đó, nếu chúng ta đang sống trong tối tăm, và làm những hành động tốt đẹp, thì rồi ánh sáng sẽ chiếu tỏa trên chúng ta. Câu chuyện có thật sau đây minh họa điều này thật rõ ràng.
Trong thành phố Látvi của Kovno, có một giáo sư sống tại đó. Mặc dù trong suốt cả cuộc đời, ông đều sống theo học thuyết bất khả tri, nhưng vị giáo sư này càng ngày càng bắt đầu cảm thấy bất an hơn, vì tình trạng bị bỏ bê, u buồn của nghĩa trang dành cho người Do thái trong thành phố. Bởi vì những người theo chủ nghĩa Phátxít đã hủy diệt người Do thái, và những người Xô-viết gây phiền hà cho họ, nên không một ai quan tâm chăm sóc các nấm mộ của họ. Vì thế, phát xuất từ tấm lòng tốt của mình, vị giáo sư này đã quyết định làm công việc đó.
Chúng ta không biết ông có ý thức rằng việc chăm sóc các ngôi mộ là một mitzvah, nghĩa là một nghĩa cử tốt đẹp hay không. Dù sao đi nữa, người đàn ông tốt bụng này cũng kiếm cho bằng được một cái xẻng, một cái liềm, và một cái kéo lớn, rồi bắt đầu công việc làm cho nghĩa trang xứng đáng với những người chôn cất tại đó. Lúc đầu, ông làm một mình, nhưng sau vài tuần, có những người Do thái khác tham gia vào công việc này với ông. Hầu hết những người này đều đã từng là người Do thái rất tuân thủ theo nguyên tắc, nhưng rồi họ trở thành những người sống theo học thuyết bất khả tri, giống như vị giáo sư đó. Cuối cùng, họ có đến 200 người, tất cả đều đang làm một công việc đúng đắn. Trong quá trình họ làm việc, một sự kiện đẹp đẽ đã xảy ra. Niềm tin Do thái của họ soi sáng trong tâm hồn họ. Về mặt thực hành, một lần nữa, tất cả những người này đều đã trở thành những người Do thái tuân thủ theo nguyên tắc đạo đức.
Bất cứ kẻ nào làm điều sai trái, thì đều căm ghét và tránh né ánh sáng. Nhưng những ai làm điều đúng đắn, thì yêu mến và đến với ánh sáng. Có bao nhiêu hành động của chúng ta được thực hiện trong ánh sáng? Có bao nhiêu hành động của chúng ta bộc lộ sự quan sát kỹ lưỡng đối với ánh sáng?
Chúng ta phải chấp nhận rằng có cảnh tối tăm trong cuộc sống và thế giới của chúng ta. Chúng ta phải nhận ra cảnh tối tăm đó, và học hỏi được cách sống trong tương quan với nó.Thật vô ích khi chúng ta chờ đợi cho cảnh tối tăm đó biến mất. Chúng ta vẫn mong muốn điều đó. Nhưng chúng ta phải chấp nhận rằng nó đang tồn tại ở đây, và sẽ luôn luôn ở đây.
Chúng ta không được gọi bóng tối là ánh sáng. Khi làm như vậy, chúng ta sẽ bị bóng tối đánh bẫy. Nhưng khi gọi nó là bóng tối, chúng ta có thể học hỏi được cách sống sao cho bóng tối không chế ngự được chúng ta. khi chấp nhận tất cả mọi sự, thì chúng ta sẽ không thể phân biệt được giữa ánh sáng và bóng tối.
Người nào nhận biết niềm vui và tình yêu của Thiên Chúa, thì không từ chối bóng tối, nhưng họ chọn lựa không sống trong bóng tối. Họ tin tưởng vào ánh sáng chiếu tỏa trong bóng tối, và nhận biết rằng chỉ một tia sáng nhỏ nhoi thôi, cũng đủ xua tan nhiều bóng tối. Và ánh sáng của Đức Kitô quá đỗi mạnh mẽ, đến nỗi không một bóng tối nào có thể áp đảo được. Nếu chúng ta làm việc thiện, thì ánh sáng sẽ chiếu tỏa trên chúng ta.
Bất cứ ai đã đọc sách Xuất hành trong Cựu ước, kể lại cuộc hành trình về đất hứa của dân Do thái, đều nhớ câu chuyện con rắn đồng. Đó là khi gần đến đất hứa, dân Do thái lại kêu trách Chúa và trách ông Môsê. Chúa liền cho rắn lửa bò ra khắp nơi cắn chết nhiều người. Thấy vậy, dân chúng lại ăn năn hối hận, chạy đến kêu ông Môsê cứu giúp. Ông Môsê cầu xin Chúa. Chúa bảo ông hãy làm một con rắn bằng đồng treo lên cao, để hễ ai bị rắn lửa cắn, nhìn lên rắn đồng thì được khỏi. Rắn đồng đó, như bài Tin Mừng kể lại, Chúa Giêsu dùng làm hình ảnh để chỉ về Ngài: cũng như xưa, rắn đồng bị treo lên, Ngài cũng phải bị treo lên như vậy. Và cũng thế, rắn đồng chữa cho bất cứ ai nhìn lên nó, thì Chúa cũng chữa bất cứ ai tin cậy ở Ngài. Vì thế, sau khi dùng hình ảnh để so sánh, Chúa quả quyết: “Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một, để ai tin vào Con của Người thì khỏi phải chết, nhưng được sống đời đời”.
Quả thật, thập giá của Chúa đem lại sự sống đích thực, sự sống đời đời cho những ai tin tưởng, cậy trông vào Chúa. Bằng chứng cụ thể để bảo đảm điều này là người trộm lành trong Tin Mừng: khi Chúa Giêsu bị đóng đinh vào thập giá trên núi Sọ, thì có hai phạm nhân khác là hai tên trộm cướp, cũng bị đóng đinh như thế ở hai bên Chúa: Đích-ma bên phải và Ghét-ta bên trái. Khi ba thập giá được dựng lên, treo ba thân xác chơ vơ giữa nền trời, người ta nghe tiếng tên trộm Ghét-ta chửi bới, nguyền rủa, nói những lời xúc phạm và đòi xuống khỏi thập giá. Trái lại, tên trộm Đích-ma, như được ánh sáng từ thập giá ở giữa chiếu soi, anh buồn rầu, hối hận tội lỗi tầy trời của mình và quay sang Chúa Giêsu, anh tha thiết thưa: “Ông Giêsu ơi, khi ông vào nước của ông, xin nhớ đến tôi”. Trước lời khẩn nài đầy tin tưởng ấy, Chúa nói: “Tôi bảo thật anh, hôm nay, anh sẽ được ở với tôi trên thiên đàng”.
Trước khi thưa với Chúa Giêsu như trên, người trộm này đã nhìn nhận tội lỗi của mình khi anh đối chất với người bạn tù cùng bị đóng đinh với anh. Anh nói: “Mày đáng chịu chung một hình phạt, vậy mà cả Thiên Chúa, mày cũng không biết sợ ! Chúng ta chịu như thế này là đích đáng, vì xứng với việc đã làm”. Như vậy, dầu sao trong tâm hồn người đạo chích này cũng đã dậy lên những tâm tình thống hối nồng nàn. Dĩ vãng của anh thật tồi tệ, có lẽ tệ hơn cả Baraba, vì Baraba thì được tha, còn anh lại bị đóng đinh. Đời anh xấu xa quá. Anh biết và thành thật cảm nhận điều đó; đồng thời anh cũng tin nhận Đấng cùng chịu án với anh thật vô tội và qua cung cách của Ngài, anh tin phải là Đấng Thánh. Nên chỉ một tia sáng từ thập giá Chúa chiếu ra đã làm rực sáng đức tin của anh. Anh đã thấy thập giá, anh đã tin vào giá trị của thập giá, và biết Đấng bị đóng đinh là ai, nên anh mới xin Ngài nhớ đến anh khi Ngài về nơi vương quốc của Ngài.
Như vậy, trên núi Sọ, đám đông dân chúng đòi Chúa xuống khỏi thập giá, thì người trộm lại đòi được đưa lên. Quần chúng cầu mong Chúa thuyết giảng một thứ tôn giáo không thập giá, còn người trộm lại tìm được niềm tin khi bị treo trên thập giá. Phải chăng sự hối cải của người trộm là chìa khóa, là gương mẫu cho sự hối cải của chúng ta ngày nay?
Kể từ khi thập hình của người Rôma được áp đặt cho Chúa Giêsu, thì thập giá đã trở thành thánh giá và bóng thánh giá của Ngài đã bao trùm cả trái đất. Không ai có thể đứng ngoài bóng mát của thánh giá. Không ai có thể ở ngoài vòng lôi kéo của Chúa Giêsu. Không bao giờ con người có thể loại bỏ Chúa ra khỏi lịch sử của mình nữa.
Thánh giá không chỉ được dựng lên trước nóc nhà thờ, trong cung thánh hay trong nhà của người tín hữu mà còn phải được tôn vinh giữa phố chợ, ở khắp mọi nơi. Chúa Giêsu đã không bị đóng đinh trong một thánh đường, giữa hai hàng nến cháy, nhưng trên thập giá giữa hai người trộm cướp. Ngài đã bị treo lên giữa ngã ba đường để cho mọi người qua lại đều nhìn thấy. Ngài đã chết trước sự chứng kiến của mọi người. Ngài đã chết cho mọi người. Ngài đã chết cho từng người trong nhân loại. Ngài đã chết nhân danh chúng ta để chúng ta được qui tụ vào gia đình con cái của Thiên Chúa.
Khi chiêm ngắm thập giá của Đấng Phục sinh, chúng ta không ngừng nghe vang dội từ thập giá ấy lời nhắc nhở về một tình yêu thương cao cả dành cho tất cả chúng ta, cũng như nhắc nhở về những tội lỗi chúng ta đã phạm để thúc giục chúng ta ăn năn sám hối. Do đó, sự hối cải của người trộm lành là gương mẫu cho sự hối cải của chúng ta.
Đúng thế, ở trần gian chỉ có một điều xấu xa hơn tội lỗi, đó là không nhìn nhận tình trạng tội lỗi của mình. Không có bệnh, chẳng ai tìm đến bác sĩ. Cũng vậy, không nhận mình tội lỗi, chẳng ai đi tìm Chúa Cứu thế. Chỉ khi nào cho mình là dại dột hay chỉ khi nào bắt đầu công nhận mình là người tội lỗi, đó là lúc khởi sự bước vào con đường của người trộm lành đưa đến hối cải. Biết mình tội lỗi, đó là điều kiện để hối cải, cũng như biết mình bệnh hoạn là điều kiện để chữa trị.
Trong Mùa chay này, chúng ta hãy đến với Chúa và hạ mình xuống như người trộm lành, nhìn nhận mình là người tội lỗi và tin tưởng vào lòng khoan dung của Chúa, thì kể cả trong tình trạng xấu xa nhất, chúng ta vẫn được Chúa thương yêu tha thứ.
18. Suy Niệm của Lm. Nguyễn Minh Hùng
Lòng yêu thương tha thứ của Thiên Chúa
Tại một nhà thờ bên Tây Ban Nha có một tượng thánh giá rất đặc biệt: Chúa Giêsu chỉ chịu đóng đinh có một tay trái và hai chân, tay phải rời khỏi lỗ đinh và đưa ra phía trước trong tư thế như đang ban phép lành.
Chuyện kể rằng, một lần, tại nhà thờ này có một tội nhân đến xưng tội. Đối với một tội nhân có quá nhiều tội nặng như anh ta, vị linh mục rất nghiêm khắc và ngăm đe nhiều điều. Nhưng chứng nào vẫn tật đó, ra khỏi tòa giải tội ít lâu, hối nhân lại tiếp tục sa ngã. Rất nhiều lần như thế. Cuối cùng, vị linh mục đành răn đe: "Tôi không muốn anh vấp lại những tội như thế nữa. Đây là lần cuối cùng tôi tha tội cho anh. Hối nhân ra khỏi tòa giải tội mà lòng trĩu nặng và đau khổ. Được vài tháng sau, anh ta lại đến xưng tội, và xưng cũng cùng những tội nặng y như những lần trước. Vị linh mục dứt khoát: "Anh đừng có đùa với Chúa. Tôi không tha!". Thật lạ lùng. Ngay lập tức, vị linh mục cùng hối nhân đều nghe có tiếng thì thầm phía bên trên. Từ cây thánh giá, bàn tay phải của Chúa Giêsu được rút ra khỏi lổ đinh và ban phép lành cho hối nhân. Vị linh mục nghe được tiếng thì thầm ấy nói với chính mình: "Ta là người đổ máu ra cho người này chứ không phải con".
Kể từ đó, bàn tay phải của Chúa Giêsu không gắn vào thánh giá nữa, nhưng vẫn giữ tư thế đang ban phép lành, như không ngừng mời gọi: "Hãy trở về với Ta, các ngươi sẽ được tha thứ".
Lòng yêu thương tha thứ của Thiên Chúa lớn lắm, mạnh lắm. Có lẽ, nếu có so sánh với trời cao biển rộng vẫn cứ còn khập khiển. Lòng tha thứ của Thiên Chúa lớn cho đến mức, tội lỗi đã quá sức chịu đựng của lòng người, Thiên Chúa vẫn một lòng tha thứ. Dẫu cho mọi người rất kinh nghiệm về nỗi yếu đuối của bản thân mình, nhưng vẫn khó tha thứ cho anh chị em, thì Thiên Chúa không mảy may vướng một lỗi lầm nào, lại rất dễ dàng thứ tha.
Đọc bài Tin Mừng Chúa nhật thứ IV mùa Chay, ngay câu đầu tiên, câu nói của Chúa Giêsu: "Như Môsê đã giương cao con rắn ở sa mạc thế nào, con người cũng sẽ giương cao như vậy", tôi bỗng nhớ tới câu chuyện cảm động bên trên, để càng cảm nhận rất nhiều lần rằng: Thiên Chúa là Chúa của tình yêu. Tha thứ là gương mặt chói ngời của tình yêu Thiên Chúa. Bởi tôi nhận ra trong câu nói của Chúa Giêsu bộc lộ cả một nỗi lòng khoan dung tha thứ của Thiên Chúa.
Vậy câu nói của Chúa Giêsu: "Như Môsê đã giương cao con rắn ở sa mạc thế nào, con người cũng sẽ giương cao như vậy", có liên quan thế nào với tình yêu tha thứ của Thiên Chúa?
Chắc anh chị em còn nhớ câu chuyện con rắn đồng trong sa mạc? Sau khi xuất Ai Cập, bốn mươi năm ròng rã trong hoang địa, dân Israel gặp mọi thử thách. Họ oán trách Chúa đã để họ lầm than. Một lần cơn thịnh nộ của Chúa đã để cho rắn độc cắn chết nhiều người. Dân Chúa quá sức khiếp sợ. Họ nhìn nhận tội lỗi của mình, và Chúa đã đoái thương nỗi khốn khổ của họ. Ngài dạy ông Môsê hãy làm một con rắn bằng đồng, treo lên cây để bất cứ ai bị rắn cắn, nếu nhìn lên con rắn đồng, sẽ được cứu. Như vậy, khi con rắn đồng được giương lên, thì ngay chính lúc đó, lòng tha thứ của Thiên Chúa lại tỏa sáng và trao ban. Từ nay Thiên Chúa sẽ cứu sống dân, những kẻ đã từng oán trách Ngài.
Hình ảnh con rắn đồng đó, là biểu trưng của Đấng Cứu Chuộc. Cũng như con rắn đồng được giương cao, Chúa Kitô sẽ giương cao như vậy. Nếu con rắn đồng nói lên lòng tha thứ, thì Chúa Kitô được giương cao, chính là lòng tha thứ của Thiên Chúa đạt đến tuyệt đối, chiếu sáng ngời ngời và lan tỏa đến bất cứ người nào đã từng được sinh làm người trong cuộc trần. Chúa giương cao, nghĩa là lòng tha thứ của Thiên Chúa được gương cao cho cả nhân loại nhìn vào mà học lấy, mà tha thứ cho nhau.
Lòng tha thứ của Thiên Chúa mạnh lắm, mạnh đến nỗi, Thiên Chúa như ném chính Người Con duy nhất và yêu quí nhất của mình cho trần gian để thực hiện hiện lòng tha thứ đối với chính trần gian vô vàn lần xúc phạm Thiên Chúa.
Trong mạch văn của bài Tin Mừng, thánh Gioan còn ghi thêm chính lời Chúa Giêsu: "Thiên Chúa không sai Con của Ngài đến luận phạt trần gian, nhưng để trần gian nhờ Con của Ngài mà được cứu độ". Thiên Chúa luôn ở về phía chúng ta để ra tay cứu chứ không phải phạt.
Mùa Chay là mùa của lòng yêu thương tha thứ. Bởi thế, việc ăn chay trong mùa Chay, trước hết phải là xóa bỏ hận thù và tha thứ. Nhưng để có tha thứ, cần đến sự hòa giải. Anh chị em mất lòng nhau, anh chị em có hố sâu ngăn cách bởi hận thù, tinh thần chay tịnh đòi anh chị em phải lấy lại lòng nhau, phải lấp đầy những ngăn cách để những gì thuộc về thù hận bị chôn xuống, những gì là trao ban, là yêu thương sẽ bùng lên, vương mạnh. Anh chị em và tôi hãy nhớ rõ một điều: Làm sao có thể tha thứ nếu không bao giờ muốn hòa giải; làm sao có thể nhận được ơn tha thứ nếu không biết tha thứ.
Không biết câu chuyện về cánh tay Chúa Giêsu trên thánh giá ban phép lành để tuôn đổ ơn tha thứ cho tội nhân, thực hư thế nào, nhưng lòng yêu thương tha thứ của Thiên Chúa đời đời vẫn thế: bền vững và cao ngất. Câu chuyện có thể không có thật, nhưng lòng tha thứ của Thiên Chúa mãi mãi vẫn thật. Vì thế dẫu cho không có thật, nó vẫn đáng quí, vì nó phản ánh một sự thật rất thật: Lòng Thiên Chúa yêu thương tha thứ. Câu chuyện càng đáng quí khi nó giúp ta ghi lòng để học lấy lòng tha thứ của Thiên Chúa mà tha thứ cho anh chị em.
Thiên Chúa đã không dạy bài học tha thứ suông, nhưng đã dạy bài học tha thứ bằng chính mạng sống của Chúa Giêsu. Nếu ngày xưa, con rắn đồng trong sa mạc được giương lên, thì hôm nay chính Chúa Giêsu được giương lên. Mãi mãi chúng ta biết ơn Chúa Giêsu và khắc sâu lời Người: "Như Môsê đã giương cao con rắn ở sa mạc thế nào, con người cũng sẽ giương cao như vậy".
19. Đức Giêsu nói chuyện với ông Nicôđêmô – JKN
Câu hỏi gợi ý:
1. Con người tội lỗi và rất yếu đuối, nhưng Thiên Chúa có hy vọng biến đổi con người trở nên tốt, nên thánh thiện hơn không? Ngài kết án hay tìm cách giáo hóa con người? Ngài đã làm gì để giáo hóa?
2. Những nỗ lực của các nhà giáo dục có khả năng hữu hiệu biến người thụ giáo nên tốt lành thánh thiện không? Các nhà giáo dục có ban được sức mạnh cho những người thụ giáo với mình không? Còn Đức Giêsu, Ngài có làm được điều đó không? Với điều kiện gì về phía ta?
3. Chúng ta vẫn tự hào rằng mình tin vào Đức Giêsu, nhưng tại sao chúng ta xem ra vẫn còn rất là yếu đuối trước tội lỗi? Có điều gì không ổn trong đức tin của ta không?
Chia sẻ
1. Con người có thể thay đổi: người xấu thành người tốt
Sống trên đời, ta thấy ở bất cứ môi trường nào (đạo, đời), trong bất kỳ lãnh vực nào (chính trị, văn hóa, kinh tế, xã hội), trong bất kỳ cấp độ địa vị nào (cao, thấp), tuổi tác nào (già, trẻ)... cũng đều có người tốt kẻ xấu, người nhiều thiện chí kẻ lắm ác ý, người trung kẻ nịnh, v.v... Tình trạng khác biệt đó không luôn luôn cố định mà có thể biến đổi: người tốt có thể biến thành người xấu, hay ngược lại. Thật vậy, có người rất ác rất xấu, nhưng sau một biến cố nào đó, gặp một ai đó, đọc một cuốn sách nào đó, hoặc sống trong một môi trường mới nào đó, người đó thay đổi hoàn toàn, trở thành một người rất hiền rất tốt. Chẳng hạn, trong Kinh Thánh có những người như Maria Mađalêna (x. Mt 26,6-13), người trộm lành (Lc 23,39-43); trong lịch sử Giáo Hội có những người như Augustinô...
2. Vai trò của giáo dục
Chúng ta cần phải nắm lấy chân lý này: con người có thể biến đổi, từ xấu thành tốt, cũng như từ tốt thành xấu. Chính vì thế, vấn đề giáo dục rất quan trọng và cần thiết, nó đem lại hy vọng cho Giáo Hội và xã hội. Con người - mà tự do đã bị tội lỗi làm tổn thương - nếu không được giáo dục, sẽ rất yếu đuối, dễ bị lôi cuốn vào vòng tội lỗi: điều thiện mình muốn làm thì lại không làm, mà điều ác mình không muốn làm thì lại cứ làm (x. Rm 7,15-20). Được giáo dục, con người có thêm sức mạnh để làm điều thiện và tránh điều ác hơn. Tuy nhiên, khả năng này rất giới hạn.
Chính dựa trên khả năng thay đổi này mà có những nỗ lực giáo dục, chuyển hóa con người: nhiều nỗ lực đã thành công vẻ vang, nhưng cũng có nhiều nỗ lực không đi đến kết quả. Để giáo hóa, các nhà giáo dục thường dùng những phương tiện tự nhiên của con người: dạy lý thuyết, khích lệ, dỗ dành, đe dọa, thưởng phạt...
3. Đức Giêsu đến để cải hóa, cứu độ con người bằng đức tin
Thiên Chúa cũng quan niệm con người có thể thay đổi và nhờ đó được cứu rỗi. Khi thế gian bị tội lỗi làm hư hỏng, Thiên Chúa đã không lên án và hủy diệt thế gian, nhưng đã “sai Con của Người đến thế gian, không phải để lên án thế gian, nhưng là để thế gian, nhờ Con của Người, mà được cứu độ”. Thiên Chúa vẫn hy vọng và chờ đợi con người thay đổi. Vì cho dù tự do của con người đã bị tội lỗi hủy hoại phần nào, khiến con người sẵn sàng làm nô lệ cho điều ác, nhưng con người vẫn còn phần nào tự do. Con người vẫn có thể chọn lựa giữa điều thiện và điều ác, giữa Thiên Chúa và những gì khác với Ngài. Ngài đã đi bước trước để làm cho hy vọng biến đổi con người thành hiện thực, bằng cách sai Đức Giêsu, Con của Ngài, đến trần gian. Sứ mạng của Đức Giêsu cũng là giáo hóa con người: Ngài đến để cải hóa người tội lỗi (x. Mt 9,13; Lc 5,32), biến họ nên thánh thiện (x. Rm 6,22), và hơn thế nữa, giải thoát con người khỏi ách thống trị của tội lỗi (x. Mt 1,21; Mc 2,17; Rm 6,6.18; Dt 9,26b; 1Ga 1,7b). Ngài còn có quyền tha tội (Mt 9,5-6; Mt 26,28; Cv 10,43; Cl 1,14), và ban ơn cứu rỗi (x. Lc 19,9; Ga 4,42; Cv 4,12; 13,23). Nhưng Ngài cải hóa và cứu độ con người bằng đức tin: “Ai tin thì sẽ được cứu độ” (Mc 16,16; x. Cv 16,31).
Đức Giêsu đến không phải để đem đến một lý thuyết giáo dục, một triết lý mới để con người theo. Ngài đến để cứu con người khỏi xiềng xích của tội lỗi, khỏi ách thống trị của tội lỗi và sự chết, là những thứ khiến con người đâm ra bạc nhược, ý chí yếu đuối. Ngài đến để đem lại sức mạnh cho con người, nhờ đó con người có thể đủ sức mạnh để thực hiện những điều thiện mình muốn làm, và nói “không” với những điều ác mình không muốn làm (x. Rm 7,15-20). Để có được sức mạnh đó, con người không cần phải học hỏi lý này thuyết nọ. Điều duy nhất và hết sức quan trọng con người phải làm để có được sức mạnh ấy là hoàn toàn tin tưởng vào Ngài, như bài Tin Mừng hôm nay xác quyết: “Ai tin vào Người thì được sống muôn đời”, “Ai tin vào Con của Người thì không bị lên án”. Như vậy, sức mạnh đến từ đức tin, tin vào Đức Giêsu Kitô.
4. Giới hạn của giáo dục
Bất kỳ nhà giáo dục nào trên thế giới cũng đều nhận thấy khả năng giáo hóa của giáo dục rất giới hạn. Giáo dục có thể rất thành công trong việc dạy cho con người biết tất cả điều nào tốt, điều nào xấu, điều nào phải làm, điều nào nên tránh. Nhưng có thể một người biết rất rõ những điều ấy, và thành thật mong muốn làm theo sự hiểu biết ấy, vẫn cảm thấy không đủ năng lực để thực hiện. Người ấy vẫn cảm thấy có một lực nào đó ở ngay bên trong mình khiến mình làm ngược lại. Nghĩa là lực ấy cản trở mình làm điều tốt, và thúc đẩy mình làm điều xấu. Khốn thay, cái lực xấu ác ấy nhiều khi lại thắng và làm tê liệt được sức mạnh của ý chí. Đó chính là điều mà thánh Phaolô cảm nghiệm rất rõ nơi bản thân ông, và ông gọi cái lực xấu ác ấy là “tội”: “Điều tôi muốn, thì tôi không làm, nhưng điều tôi ghét, thì tôi lại cứ làm. Nếu tôi cứ làm điều tôi không muốn, thì (...) không còn phải là chính tôi làm điều đó, nhưng là tội vẫn ở trong tôi. (...) Muốn sự thiện thì tôi có thể muốn, nhưng làm thì không. Sự thiện tôi muốn thì tôi không làm, nhưng sự ác tôi không muốn, tôi lại cứ làm. Nếu tôi cứ làm điều tôi không muốn, thì không còn phải là chính tôi làm điều đó, nhưng là tội vẫn ở trong tôi” (Rm 7,15-20). Đây chính là nguyên nhân của mọi bi thảm trên trái đất: kẻ tội lỗi nhất thế giới vẫn luôn luôn phân biệt điều tốt điều xấu, vẫn luôn ao ước làm điều tốt, vẫn mong trở nên trở nên người tốt, nhưng không làm nổi. Vì lực xấu ác kia quá mạnh, đã lôi kéo, thúc đẩy người ấy làm những điều hắn không muốn. Lực ấy mạnh đến nỗi hắn dường như chỉ biết tuân theo, ý chí yếu đuối của hắn không cưỡng lại được.
5. Sức mạnh và sự cứu rỗi đến từ đức tin vào Đức Giêsu
Trước tình trạng bi thảm ấy, thánh Phaolô đã phải kêu cứu: “Tôi thật là một người khốn nạn! Ai sẽ giải thoát tôi khỏi thân xác phải chết này?” (Rm 7,24). Và may mắn thay, ông đã nhận ra người có khả năng cứu ông: “Tạ ơn Thiên Chúa, nhờ Đức Giêsu Ki-tô, Chúa chúng ta!” (7,25). Điều này đã được Đức Giêsu xác định với Nicôđêmô trong bài Tin Mừng hôm nay: “Ai tin vào Con Người thì được sống muôn đời”, “Ai tin vào Con của Người thì không bị lên án”. Trong bài đọc hai, thánh Phaolô cũng xác nhận điều ấy: “Chính do ân sủng và nhờ lòng tin mà anh em được cứu độ: đây không phải bởi sức anh em, mà là một ân huệ của Thiên Chúa”. Như vậy, muốn được cứu khỏi tình trạng yếu đuối, nô lệ tội lỗi, điều quan trọng là tin vào Đức Giêsu Kitô.
Đức tin tạo nên sức mạnh: “Mọi sự đều có thể đối với người tin” (Mc 9,23), vì “nếu anh em có lòng tin lớn bằng hạt cải, thì dù anh em có bảo cây dâu này: "Hãy bật rễ lên, xuống dưới biển kia mà mọc", nó cũng sẽ vâng lời anh em” (Lc 17,6). Khả năng làm được tất cả mọi sự ấy không phải là khả năng của bản thân ta, vì như Đức Giêsu nói: “Không có Thầy, anh em chẳng làm gì được” (Ga 15,5), mà là quyền năng của Thiên Chúa, “vì đối với Thiên Chúa, không có gì là không thể làm được” (Lc 1,27). Vì thế, khi tin thật sự vào Đức Giêsu, Đấng ban sức mạnh, ta có thể nói như thánh Phaolô: “Với Đấng ban sức mạnh cho tôi, tôi có thể làm được tất cả mọi sự” (Pl 4,13).
Tin vững vàng vào Đức Giêsu, ta sẽ thật sự trở nên mạnh mẽ. Nhưng hãy xem, biết bao người mang danh là tin Đức Giêsu, vẫn cảm thấy mình còn yếu đuối, còn nô lệ cho tội lỗi. Vậy, vấn đề mà ta cần phải nghiêm túc đặt lại, là ta đã thật sự tin vào Đức Giêsu chưa, hay ta chỉ mang danh là tin Ngài thôi? Đức tin của ta vào Ngài là thứ đức tin nào: đức tin rẻ tiền (tin hờ, tin ngoài miệng) hay đức tin đắt giá (tin thật, bằng hành động, bằng đời sống dấn thân thật sự)? Rất nhiều Kitô hữu cảm thấy an tâm vì tưởng rằng khi tuyên xưng ngoài miệng rằng mình tin thì có nghĩa là mình đã tin. Thật ra, tin là một việc quan trọng, nhưng tin thế nào còn quan trọng hơn rất nhiều. Tin mà vẫn nghi nan trong lòng thì chẳng có tác dụng. Hãy xem gương của Phêrô, khi thấy Đức Giêsu đi trên mặt nước đến với thuyền của mình, nhờ tin vững chắc vào Thầy mình, ông đi được trên mặt nước đến với Ngài. Nhưng khi thấy gió thổi, ông đâm sợ và nghi nan trong lòng. Lập tức ông bị chìm xuống (x. Mt 14,25-31).
Cầu Nguyện
Lạy Cha, con đã mang danh là tin vào Cha, vào Đức Giêsu biết bao nhiêu năm nay. Nhưng thử hỏi đức tin của con đã biến đổi con thế nào? Con đã thật sự tốt hơn, mạnh mẽ hơn những người không tin chưa? Đáng lẽ có đức tin, con phải vượt hơn họ xa lắm! Phải chăng, con mới chỉ mang danh là tin, chứ chưa thật sự tin? Xin Cha hãy ban cho con đức tin đích thật, một đức tin được minh chứng bằng hành động thật sự.
20. Chú giải mục vụ của Alain Marchabour
NỘI DUNG MẶC KHẢI CỦA CHÚA GIÊSU (c.14-17)
Để tạo uy tín cho lời nói của mình, trước hết Chúa Giêsu đặt nó vào trong lịch sử Israel. Sự mới mẻ mà Người mang đến, cần phải là sự hoàn tất mọi điều Kinh Thánh. Con rắn được giương cao trong sa mạc, theo sách Dân số 21,4-9, đã giải thoát các người Do Thái bất trung khỏi phải chết. Từ giai thoại bí nhiệm này, chúng ta nên lưu ý những điểm có thể làm sáng tỏ điều mặc khải tiếp theo sau:
a) Con rắn được giương cao, giống như con người sẽ được treo lên thập giá. Có sự giống nhau từng chữ.
b) Sự chết đe dọa dân tộc là do sự cứng lòng tin. Dân Do Thái được cứu độ không phải bằng một nghi thức phù phép, mà bằng một nghi thức đầy ý nghĩa tượng trưng, đó là đức tin vào Thiên Chúa. Tác giả sách Khôn ngoan đã hiểu rất rõ điều đó: “Ai nhìn lên (con rắn) sẽ được thoát, không phải nhờ xem điềm lạ đó mà được khỏi, nhưng tại nhờ vào Ngài là Cứu Chúa muôn loài” (16,7). Quả thật, ơn cứu độ do Thiên Chúa mà có.
c) Hiểu rộng hơn, việc tham chiếu với đoạn nói về con rắn bằng đồng kết nối sự giáng thế của Chúa Giêsu với những biến cố Xuất hành. Chúa Giêsu là một Môsê mới, và chắc chắn đối với Thánh sử Người còn hơn thế nữa.
Con Người sẽ phải được giương cao để ai tin vào Người thì được sống muôn đời. Quả thật Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một để ai tin vào Con của Người
thì khỏi phải chết nhưng được sống muôn đời.
Câu này tóm gọn mặc khải: ở đây chúng ta đang đứng trước những “chuyện trên trời” được nói đến ở câu 12. Nên lưu ý đến kết cấu Do Thái song song: cách phân chia câu cú có thể giúp nhận ra những thành phần của câu tương ứng với nhau: “Con Người cũng sẽ phải được giương cao như vậy”: hoàn cảnh và các tác nhân cụ thể gây nên cái chết của Chúa Giêsu không được phơi bày ở đây. Thánh sử chỉ giữ lại sự “nhất thiết” (phải) ăn rễ sâu trong ý định của Thiên Chúa. Việc dùng thụ động tiếp sau đó có thể là một cách hành văn để tránh phải dùng đến từ “Thiên Chúa”. Kết cấu bản văn chứng tỏ sự song song giữa Thiên Chúa yêu thương và Người được giương cao. Từ câu này chúng ta nhận ra bản tóm lược sự mặc khải, chúng ta thử dẫn ra những điểm sau đây:
a) Trong Tin Mừng Gioan, sự nâng lên tương ứng với việc treo lên thập giá (x 2,28’ 12,31-34). Tại sao việc bị treo lên thập giá, “điều ô nhục đối với người Do Thái, sự điên rồ đối với dân ngoại” (1Cl 1,23) lại là tuyệt đỉnh mặc khải nơi Gioan (x. 19,31-37)?
b) Điều đó bởi vì thập giá là nơi phơi bày tình yêu của Thiên Chúa. Từ này xuất hiện ở đây lần đầu tiên trong Tin Mừng Gioan. Đặc biệt nó sẽ được lặp lại trong phần thứ hai của Tin Mừng. “Thiên Chúa đã yêu đến nỗi đã ban Con mình”: cả hai động từ đều được dùng ở thì quá khứ vô định, một sắc thái của thì động từ không dùng trong tiếng Pháp, chỉ định một thời điểm rõ ràng và chính xác (hội nhập vào bước đường lịch sử của Chúa Giêsu và kết thúc trên thập giá). Chính nhờ ân huệ này của Thiên Chúa mà Gioan có thể nói đến tình yêu. Đó là tình yêu hiển thị (1Ga 4,10). Việc nhập thể chính là sự biểu lộ tình yêu mà đỉnh cao là thập giá.
c) Thập giá không phải là nguồn ơn cứu độ ở khía cạnh một của lễ đền tội đẫm máu. Chính bởi vì nó là cách diễn tả cao cả nhất của tình yêu Thiên Chúa, cho nên nó là nguồn sự sống cho các tín hữu. Chúng ta không nên nhìn thập giá như nơi Thiên Chúa trút cơn thịnh nộ, nơi Chúa Con bị Chúa Cha từ bỏ để cứu độ chuộc tội lỗi loài người. Nơi đây Chúa Con và Chúa Cha thông hiệp cùng một tình yêu dành cho nhân loại. Prométhée chịu hình phạt của chúa tể trên chính tảng đá mà chúa tể đã sử phạt mình vì đã mang lừa cho loài người. Và ca đoàn lý giải các nguyên do hình phạt bằng những lời lẽ này: “Đó là kẻ thù của Zeus, kẻ đã chấp nhận sự căm hờn của mọi thần linh vì đã quá yêu loài người”. Trong Tin Mừng Gioan, tình yêu loài người được Thiên Chúa Cha và Con cùng chia sẻ.
d) Cho dù ông Nicôđêmô đã biến mất cách lạ lùng, thì cũng một chủ đề đó kết nối phần thứ hai của bài trần thuật với phần bài mà ông có mặt: ông này, ngờ vực, đã không muốn tin rằng một người già có thể sinh ra lần thứ hai. Ở đây chúng ta biết rằng Con Thiên Chúa trên thập giá có năng lực làm cho những ai tin vào Người được sống muôn đời.
TIN VÀ KHÔNG TIN (cc. 18-21)
Nếu tình yêu của Thiên Chúa nơi Chúa Giêsu là vô điều kiện, thì nó mời gọi lời đáp trả của con người. Sự hiện diện của Chúa Giêsu đòi hỏi mỗi người bây giờ phải lựa chọn: chính bây giờ mà việc xét xử được thực hiện. Tính cách quyết liệt và lập tức của việc xét xử là hiệu quả sự hiện diện của Đấng mặc khải: Người hiện diện, con người bắt buộc phải lựa chọn và từ sự lựa chọn này phát sinh ngay từ bây giờ hoặc ơn cứu độ hoặc án phạt. Sự đối nghịch bóng tối/ánh sáng nhắc đến những đoạn văn rất quen thuộc với cộng đoàn Cumran. Thế nhưng Gioan tránh né khía cạnh định mệnh những người Etxênô: chính sự tự do của mỗi người kéo theo sự chia cách và từ đó sự xét xử. Đoạn kết phần thứ nhất của Tin Mừng (12,46-48) lặp lại những chủ đề đó cùng với một loại từ ngữ, đến nỗi có vài nhà chú giải đã nghĩ rằng Ga 3,16-19 và 12, 46-50 có thể là hai bản dịch của cùng một bài giảng của cộng đoàn Gioan. Giả thuyết này (không thể xác định được) có cái lợi là chứng tỏ thánh sử đã soạn thảo Tin Mừng như thế nào: ông có sẵn nhiều nguồn và ông đã lựa chọn. Một vài mảng văn đã có thể được thêm vào trong những lần in ấn khác nhau. Chỉ có tác giả là người hoàn tất việc soạn thảo Tin Mừng, chịu trách nhiệm toàn tập.
Cuộc đối thoại với ông Nicôđêmô và sự mặc khải tiếp theo, tạo thành một đỉnh cao về Chúa Kitô trong Tin Mừng Gioan. Cộng đoàn, đối mặt với Do Thái giáo, được mời gọi xác định căn tính của Chúa Giêsu và tách mình ra khỏi trào lưu Do Thái, cho dù nó có gần gũi với cộng đoàn (như trường hợp ông Nicôđêmô), bởi vì những người Do Thái đã không sẵn sàng tuyên xưng Chúa Giêsu là Đấng mặc khải của Thiên Chúa, là Chúa Con nhờ người Thiên Chúa nói lời cuối cùng với nhân loại.
Như ông Môsê đã gương cao con rắn trong sa mạc
Tin Mừng hôm nay bắt đầu bằng một lời mời gọi ta “nhìn ngắm", "đưa mắt" hướng lên một hình ảnh. Thánh Gioan sử dụng một hồi tưởng Kinh thánh trong suốt "bốn mươi" năm hành trình trong sa mạc, ngời Do Thái đã bị một kẻ thù đáng sợ tấn công, đó là loài rắn lửa (Ds 21,6-9). Môsê đã phải làm "một dấu hiệu chữa trị", một con rắn đồng cứu chữa được treo lên một cây gậy. Đó là hình ảnh có tính thần thoại mà các y sĩ ngày nay vẫn tiếp tục sử dụng như là biểu tượng. Kẻ nào quay lại nhìn thì được cứu không phải nhờ điều nó thấy nương nhờ Người, là Đấng cứu chữa mọi người" (Kn 16,7).
Qua sự giải thích trên của sách khôn ngoan, ta đã có thể ghi nhận rằng, đó không phải là một cử chỉ ma thuật, có tính tụ động. Cái "nhìn" tự nó không chữa. lành được ai, như một thứ bùa hộ mạng, một vật mang lại may mắn, một cử chỉ dị đoan. Nhưng đó là dấu chỉ "Đức tin", nghĩa là nhờ một cử chỉ bên ngoài, nó cho ta thấy rõ rằng, con người đang "quay về" với Thiên Chúa.
Con người cũng sẽ phải được gương cao như vậy để ai tin vào Người, thì được sống muôn đời.
Vâng, thánh Gioan đang mời gọi ta nhìn lên thập giá.
Cần phải dám ngắm nhìn "Đấng chịu đóng đinh" đó, Đấng được "giương cao" trước mắt chúng ta, Gioan đã sử dụng từ được giường cao" ("upsothènai" trong tiếng Hy Lạp) để nói lên, Đức Giêsu vừa được "giương cao) trên thập giá, vừa được "đưa lên" ngự bên hữu Chúa Cha nhờ cuộc phục sinh và lên trời (Ga 3,14; 8,28; 12,32-34).
Vâng, thánh Gioan không bao giờ có thể quên được ngày đó, cũng như cảnh tượng đó, mà chúng ta như đã quá quen thuộc. Vả lại, Gioan là người duy nhất trong số mười hai Tông đồ đã hiện diện tại đó, vào chiều thứ sáu, dưới chân thập giá. Kể từ lúc đó, trong suốt hơn 70 năm, ông đã suy gẫm "hình ảnh” này, và đây là kết quả của cuộc suy tư lâu dài và sâu sắc mà ông cống hiến cho ta. Đối với Gioan, "Thập giá" và "Phục sinh" thuộc cùng một mầu nhiệm mà ông đã diễn tả bằng một từ mang hai ý nghĩa: "Đức Giêsu được đưa lên cao khỏi đất". Bị đóng kinh: Cũng có nghĩa là được tôn dương. Đối với Gioan, Thăng thiên đã bắt đầu ngay từ ngày thứ sáu tuần thánh. Còn chúng ta, chúng ta vẫn tiếp tục mong chờ Thiên Chúa biểu lộ "vinh quang" của Người cho ta trong cử chỉ hiển thắng rạng ngời nào đó. Còn Gioan, ông đã chứng kiến cảnh tượng, thì thập giá chính là Vinh quang Thiên Chúa
Ngay khi Giu-đa vừa ra khỏi phòng tiệc ly, Đức Giêsu đã nói: "Giờ đây, Con Người được tôn vinh" (Ga 13,31). Bốn ngày trước đó, vào buổi chiều ngày dân chúng rước lá tôn vinh Người, Đức Giêsu đã nói: "'Đã đến giờ Con Người được tôn vinh... Nếu hạt lúa gieo vào lòng đất chết đi, nó mới sinh được nhiều hạt khác... phần tôi, một khi được giương cao lên khỏi mặt đất, tôi sẽ kéo mọi người lên với tôi" (Ga 12,23-32).
Vậy khi đến lượt mình, chúng ta cũng phải nhìn lên Đấng đã được "gương cao" giữa trời và đất, để cầu nguyện. Cái chết tự nguyện này sẽ mãi mãi là "đỉnh cao của tình yêu”: Đỉnh cao của tình yêu Người Con đối với Người Cha và đỉnh cao của tình yêu của Người Anh hoàn vũ đối với những đứa em tội lỗi. Cây thập giá to lớn bằng gỗ đó, đang đeo mang một thân xác con người bị tra tấn đến ứa máu, chính là một "chóp đỉnh của đau đớn" và chết chóc", nhưng cũng là một đỉnh cao của mạc khải Thiên Chúa. Về chưng diện thể lý, ta cần phải mở to đôi mắt để chiêm ngắm hình ảnh này. Nhưng cũng cần phải nhắm mắt lại để "thấy" những gì chưa có thể thấy được, mà cảnh tượng trên mới chỉ là "dấu chỉ": Tình yêu tuyệt đối đang thiêu đốt tâm hồn con người đó, Đức Giêsu "không ai có tình thương lên hơn tình thương của người hy sinh mạng sống mình cho hạn hữu (Ga 15,13). Nhưng tình yêu tuyệt đối đã thiêu đốt con người Giêsu, cũng chính là "dấu chỉ” của một tình yêu tuyệt đối khác, tình yêu của Chúa Cha: "Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một Người" (Ga 3,16).
Vì thế, các nghệ sĩ thường muốn trình bày Đức Giêsu trên thập giá với một thứ "vinh quang" nào đó. Hai cánh tay và thân xác của Người, thay vì bị co quắp trong đau đớn khổ hình, lại được trình bày trong tư thế hết sức mềm mại và thoải mái: Tư thế của người cầu nguyện, tư thế của linh mục cầu nguyện và dâng lễ vật nới bàn thờ, tư thế của đôi bàn tay nâng lên để đọc kinh "Lạy Cha".
Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi ban Con Một mình.
Thời đại chúng ta, nhiều người bị thử thách trước một nhận xét đầy bi quan: ‘Thế gian thật là thối nát, không thể làm gì để cứu vãn được’ chúng ta cũng dễ hiểu sự chán nản, vẻ khó chịu của những người thức thời đứng trước bao cảnh trớ trêu: Bạo lực, bắt cóc các con tin, ích kỷ có tính tập thể và cá nhân, đê tiện đủ loại, cảnh người bóc lột người, sa đọa luân lý, mất lương tâm nghề nghiệp, lạm đụng việc dối trá trong việc phổ biến ý thức hệ hay quảng cáo, đàn áp dư luận quần chúng, tình trạng vỡ mộng... Chính Thiên Chúa cũng biết tất cả những sự việc đó? Tuy thế, Người vẫn yêu mến thế gian này. Người không chịu để sự xấu ác của nó lộng hành. Người muốn cứu độ nó. Thiên Chúa thương đi ngược lại chúng ta. Đối với chúng ta, thế gian này xem ra rất tồi tệ và xấu ác, thế mà Thiên Chúa vẫn yêu thương nó. Thiên Chúa như say mê trước công cuộc tạo dựng chưa hoàn tất của mình, mà Người đang hướng đến nó sự hoàn hảo. Thế gian không thể phi lý. Nếu chúng ta chấp nhận cách nhìn của Thiên Chúa, một ‘cái nhìn yêu thương’, thì lúc đó, thay vì tiếp tục rên rỉ kêu than, chúng ta sẽ hiến mạng sống cho anh em.
Người đã ban cho Con Một mình
Hai động từ diễn tả thái độ của Thiên Chúa: "Yêu và cho"! Ta hãy cầu nguyện dựa vào những tác động mà hai từ đó gợi lên.
Ta cũng nên lưu ý tĩnh từ được áp dụng cho Đức Giêsu: “Một" hay "độc nhất" (tiếng Hy Lạp là ‘Monogénes’). Từ này chỉ có thánh Gioan sử dụng. Nó được đưa vào trong kinh Tin kính: "Tôi tin Chúa Giêsu Kitô, con một Thiên Chúa". Tiếng này làm cho chúng ta vượt qua khỏi những vẻ bề ngoài tràng giang, tiến sâu vào các thế giới bên kia: Đức Giêsu là đối tượng tử hệ tuyệt đối độc nhất của Thiên Chúa. Đàng khác, tiếng này cũng nhắc lại một hồi tưởng Kinh thánh. Trong ký ức của Israel người ta luôn nhớ đến một người con độc nhất khác, được cha hết sức yêu quý thế mà người cha đầy tình yêu thương này lại chấp nhận một cách kỳ diệu ‘hy sinh’, ‘ban tặng’ đứa con đó: thánh Gioan nhớ rất rõ câu chuyện Abraham và đứa con trai của ông Isaac (St 22,2-16).
Tình yêu của Thiên Chúa đối với thế gian, khiến Người ban tặng "Con Một" Người, Gioan sẽ diễn tả tình yêu đó bằng năm kiểu nói, để không ai còn có thể nghĩ ngược lại được: “Thiên Chúa không muốn con người phải hư mất", Người đã tạo dựng mọi sự để tất cả được tồn tại (Kn 1,13).
- Thiên Chúa muốn cho con người được sống đời đời: đó là một "sự sống từ trời" được ban tặng (Ga 3,3).
- Thiên Chúa không muốn kết án thế gian: nghĩa là toàn thể nhân loại.
- Thiên Chúa muốn cứu độ thế gian; thánh ý của Thiên Chúa là mọi người đều được cứu độ.
- Công trình của Con Người cũng là "công trình của Thiên Chúa" (1Tm 2,4).
Ai tin vào con của Người thì khỏi phải chết, nhưng được sống muôn đời.
Thiên Chúa là "Đấng hằng sống" tuyệt vời, sự sống là của quý giá nhất mà con người có thể chiếm hữu. Thiên Chúa đã quyết định thông truyền sự sống của Người, cho người con sự sống thần thiêng và vĩnh cửu ý định "cứu độ phổ quát" của Thiên Chúa thật rõ ràng: Nhưng để công cuộc cứu độ được thành tựu, con người còn phải chấp nhận "ân huệ" đó. Hiển nhiên không thể tương tượng được rằng, một người nhất định khước từ Thiên Chúa, lại bị cưỡng chế và áp lực phải sống bên cạnh Người, bất chấp ý muốn của họ. Làm như thế, thì thật sự là tạo một thứ "hỏa ngục". Thiên Chúa luôn luôn tôn trọng tự do của con người: Kẻ nào không muốn "sự sống" mà Thiên Chúa tặng ban cho mọi người, kẻ đó sẽ ở trong sự chết? Liệu có một người nào đó khăng khăng chối từ như thế? Đó là bí mật đáng sợ của cái chết, vào giây phút mà con người được giải thoát khỏi cảnh u tối trần gian, thực sự "đối diện với Thiên Chúa".
Vì Thiên Chúa sai Con của Người đến thế gian, không phải để lên án thế gian. Nhưng là để thế gian nhờ Con của Người mà được cứu độ. Ai tin vào Con của Người thì không bị lên án; những kẻ không tin, thì bị lên án rồi, vì đã không tin vào Danh của Con Một Thiên Chúa. Và đây là bản án: ánh sáng đã đến thế gian, nhưng người ta đã chuộng bóng tối hơn ánh sáng, vì các việc họ làm đều xấu xa.
Trích đoạn trên làm cho chúng ta khá choáng váng.
Đoạn văn quả quyết hai điều:
- Một là: Thiên Chúa không lên án ai. Người muốn cứu độ tất cả vì Người yêu thương hết mọi người.
- Hai là: Chính con người tự xét xử và lên án mình, khi nó cố chấp khước từ Thiên Chúa.
Như thế, việc "lên án" không phải là một hành vi ở bên ngoài con người. Nhưng trớ trêu thay, nó lại là sự việc của chính con người đó, khi họ có thái độ khước từ tình yêu Thiên Chúa, được biểu lộ trong việc "Con Một của Người hiến thân" cho đến hy sinh thập giá. Chính Thiên Chúa làm mọi sự. Người đã đi đến cùng sự cứu độ. Mọi sự diễn tiến như thể việc "lên án" không thuộc về thế giới Thiên Chúa, nhưng đó là một thực tại ở bên ngoài Vương Quốc: Những kẻ khước từ ánh sáng "diện kiến" tự kết án mình trở thành một thế giới "ở bên ngoài" Thiên Chúa; một thế giới chết chóc, một thế giới không có sự sống đời đời.
Chúng ta cần ghi nhận rằng, "bi kịch của thái độ vô tín" không chỉ là một vấn đề hiện tại. Nó xuất hiện ngay giữa Tin Mừng. Nếu ta muốn kéo dài sứ vụ của Đức Giêsu, thì chúng ta không được phép lên án ai, mà phải ước muốn cứu giúp mọi anh em mình, phải làm tất cả để đạt được điều đó. Ai xét xử anh em mình, thì làm điều trái ngược Thiên Chúa; kẻ đó tự đặt mình ra ngoài thế giới của Thiên Chúa "Đấng không đến để xét xử".
Nhưng kẻ sống theo sự thật, thì đến cùng ánh sáng, để thiên hạ thấy rõ: "Mọi việc họ làm đều hợp ý Thiên Chúa"
Sau hết, niềm vui của tín hữu là hưởng trước những gì sẽ là niềm vui vĩnh cửu được diện kiến với Thiên Chúa. Đối với họ, sự sống đời đời đã khởi sự. Họ đã nhận biết tình yêu Thiên Chúa đối với mọi người. Họ sống tình yêu đó mỗi ngày. Họ không ngừng tạ ơn tình yêu đó và ‘sự sống vĩnh cửu’ này đã khởi sự, đó là một sự sống đầy sinh động. Các Kitô hữu từ lâu đã thường nói đến sự sống vĩnh cửu nhờ một thứ ngôn ngữ và những hình ảnh gần với Niết bàn (nirvầna) của Phật giáo hơn là quan niệm của thánh Gioan: Đó là một ’sự nghỉ ngơi đời đời’. Đối với Tin Mừng thứ tư, đó là một ‘sự sống vĩnh cửu’, tràn đầy sinh động và niềm vui, chớ không phải là một sự nghỉ ngơi tẻ nhạt. Ở đấy, theo văn bản Hy Lạp, Gioan đã nói: "Kẻ nào hành động theo sự thật, thì đến cùng ánh sáng" . Sống là “hành động"! Đó là những "hành động", những "việc làm"; những "công trình". Và đây là điều làm ta ngỡ ngàng: lúc đó, những "việc làm của con người" cũng được công nhận như những "việc làm của Thiên Chúa”. Đó là cuộc sống vĩnh cửu.
22. Chú giải của Fiches Dominicales
THIÊN CHÚA ĐÃ YÊU THẾ GIAN ĐẾN NỖI ĐÃ BAN
CON MỘT, ĐỂ AI TIN VÀO CON CỦA NGƯỜI…(Ga 3,14-21)
VÀI ĐIỂM CHÚ GIẢI
1. Tình yêu nhưng không của Thiên Chúa
Trong khi bầu khí căng thẳng do việc Chúa đuổi quân buôn bán ra khỏi đền thờ gây ra chưa lắng dịu, thì ông Nicôđêmô, một kỳ mục trong dân tìm gặp Đức Giêsu. Ông đến vào lúc đêm tối, nhằm giữ kín sự việc, nhưng dưới ngòi bút của Gioan nó mang một ý nghĩa tượng trưng: phải chăng Nicôđêmô đang ở trong bóng tối tìm đến ánh sáng?
Cuộc đối thoại mở đầu với đề tài phải tái sinh. Đức Giêsu tuyên bố: "Không ai có thể vào Nước Thiên Chúa, nếu không sinh ra bới nước và Thần Khí" (3, 5) .
Rồi từ câu 11 trở đi, cuộc đối thoại biến thành độc thoại. Đức Giêsu bắt đầu giảng dạy bằng cách kể lại những biến cố trong lịch sử dân Israel. Người nhắc đến biến cố bí ẩn trong sách Xuất Hành: con rắn đồng được treo lên làm dấu hiệu, chẳng những được hoàn tất, mà còn bị vượt lên trên trong biến cố khổ nạn, cái chết, phục sinh và lên trời ngự bên hữu Thiên Chúa của Người.
- Ngày xưa, thời xuất hành trong hoang địa, con cái Israel vì kêu trách và thiếu tin tưởng vào Thiên Chúa, nên đã bị rắn độc tràn ra cắn chết nhiều người. Sách Dân Số thuật lại (21,4-9): bấy giờ ông Môsê treo một con rắn đồng lên cao; hễ ai nhìn lên con rắn đồng với lòng tin thi được thoát chết. Sách Khôn Ngoan giải thích (để tránh lối giải thích ma thuật): "Hễ ai nhìn lên thì được cứu vớt cứu không phải do vật được nhìn, mà do Chúa, Đấng Cứu Độ của mọi người" (Kn 1, 6-7).
- Dấu chỉ giờ đây nhường chỗ cho thực tại mà nó ám chỉ, đó là sự hiện diện của Đức Giêsu, Môsê mới, là Lời hằng sống, ban sự sống của Thiên Chúa. “Bị treo lên", Đức Giêsu cũng sẽ bị treo lên bởi những kẻ đóng đinh Người vào thập giá; Người sẽ được nâng lên bởi Chúa Cha, Đấng đón nhận Người vào hưởng vinh quang với Thiên Chúa (8,28-30). Và cũng như xưa, hễ ai nhìn lên con rắn đồng thì được sống, ngày nay hễ ai nhìn lên "Con Người bị đóng đinh và phục sinh” thì được Người ban cho sự sống đời đời.
- Nguồn gốc của hành vi cứu độ này không cần tìm đâu xa, nó ở ngay trong tình thương điên dại của Thiên Chúa, của Đức Giêsu Kitô đối với thế gian. X. Léon-Dufour diễn tả: “Ở trọng tâm của tất cả mọi sự và đặc biệt của vai trò Con Người và của con đường đi đến thập giá, ta thấy Thiên Chúa yêu thương thế gian. Lời xác quyết nêu bật Thiên Chúa và tình thương của Người như thực tại tuyệt đối. Tình thương đi trước mọi sự, cũng như trong Lời Mở Đầu, ánh sáng thần linh của Ngôi Lời soi chiếu mọi người trong bóng tối. Thiên Chúa thương yêu chỉ có một ý định là ban ơn cứu độ và sự sống (Lecture de L'evangile selon Jean, cuốn 1, Seuil, trang 305-306).
Như thế, ở đây, thập giá được trình bày như địa điểm mạc khải tình thương của Thiên Chúa, một biểu lộ tối hậu là nguồn mạch sự sống.
2. Mời gọi ta đáp trả
Đến đây coi như Nicôđêmô biến mất. Đức Giêsu xem như đối thoại với một nhóm thính giả, chính là chúng ta ngày nay:
Tình yêu vô điều kiện của Thiên Chúa tỏ bày qua Đức Giêsu Con Ngài, luôn kêu mời sự đáp lại của con người có tự do. Và nó đòi một lời đáp ngay lúc này, đối diện với Đức Giêsu, Đấng Chúa Cha sai đến, Đấng mặc khải tình yêu của Thiên Chúa Cha. Bởi vì ngay bây giờ, cuộc xét xử đang được thực hiện:
Hoặc từ khước Thiên Chúa, đóng cửa không đón tiếp, mù quáng không muốn nhận ánh sáng, chìm đắm trong tối tăm và bị luận phạt. Hoặc cởi mở đón nhận ánh sáng, đón nhận sự cứu độ của Thiên Chúa, và như thế tất cả đều thay đổi, vì mọi hoạt động của ta sẽ được nhìn nhận như những hoạt động của Thiên Chúa, và trở nên dấu chỉ sự hiện diện của Người.
X. Léon-Dufour giải thích thêm: "trong những câu chúng ta vừa đọc, thái độ lựa chọn hay từ chối đều thể hiện trong lời đáp trả của con người trước Đấng Thiên Chúa sai đến. Một đặc điểm quan trọng khác là: sự sống vĩnh cửu và luận phạt đời đời không chỉ được thi hành vào ngày thế mạt, nó được thực hiện ngay trong giây phút hiện tại, ngay khi gặp gỡ Đức Giêsu. Tin vào Đức Giêsu, lập tức được sống, trái lại, từ khước tin Chúa, con người tự ý chọn lựa cái chết (vĩnh viễn), mà Thánh Kinh thường ám chỉ bằng câu "bị xét xử”. (Sđd, trang 308-309).
BÀI ĐỌC THÊM
1) "Cái nhìn cứu sống" (G.Bessière, trong "Dieu si proche" năm B, DDB, trang 42-43).
Đem câu chuyện con rắn đồng so sánh với Đức Giêsu, kể cũng hơi lạ thường! Câu chuyện lạ thường này có ý nghĩa gì đây? Truyền thống Thánh Kinh có thuật rằng, trong cuộc Xuất hành, khi dân Do thái bị đói, bị khát đã kêu trách Thiên Chúa và ông Môsê. Họ đã phải chịu hình phạt: những con rắn lửa bò ra gieo chết chóc cho dân. Nhưng rồi Thiên Chúa đã xót thương, Người truyền cho ông Môsê treo con rắn bằng đồng lên cột cao: "Ai nhìn lên con rắn đồng sẽ được cứu sống" (Ds 21, 8) Ở đây sự so sánh nằm ở từ "treo lên”, Đức Giêsu bị treo lên cây thập giá, cũng như con rắn đồng bị treo lên trước toàn dân. Và ở từ "sống”. Ai bị rắn độc cắn trong hoang địa, nếu nhìn lên con rắn đồng sẽ được cứu sống; những ai tìm kiến sự sống vĩnh cửu, sẽ tìm thấy trong Đức Giêsu, nếu kẻ ấy "tin". Đức Giêsu ban sự sống, và Ngài ban cách sung mãn. Không phải sự sống nhân tính, mà “sự sống vĩnh cửu”. Bởi đâu có ân huệ vô biên thoả mãn mọi ước muốn như vậy? - "Thiên Chúa yêu thương thế gian đến nỗi Người đã ban chính Con duy nhất của Người”. Nguồn gốc không thể diễn tả đó, chính là tình thương phát xuất từ mầu nhiệm cao siêu mãnh liệt đối với muôn loài muôn vật.
Viễn tượng thật hết sức lạc quan. Có người chủ trương rằng Đấng Thiên Sai sẽ đến tiêu diệt những kẻ ô nhơ, tội lỗi. Đức Giêsu lại bày tỏ thái độ chống lại chủ trương tàn bạo này. Thiên Chúa không sai Con của Người đến để phán xét, nhưng "để nhờ Người mà thế gian được cứu sống".
Nếu có ai cố tình giam hãm mình trong sự dữ, hay trong bóng tối, thì không phải Chúa luận phạt, mà chính họ đã chọn bóng tối cho mình. Phải chăng, như vậy là nói rằng những người ngoài Kitô giáo, nghĩa là không gắn bó với Đức Giêsu, đều bị mất phần rỗi? Thánh Gioan nhìn nhận rằng sự gặp gỡ Thiên Chúa còn sâu xa hơn; nó được thể hiện trong sự thành tâm, trong giá trị của các hành động và trong sự mở rộng tâm hồn ra với người khác. Thánh sử đề cập cuộc tranh luận này khi viết: "Phàm ai thực thi chân lý, thì đến với ánh sáng...”
2) Một cuộc sống được nâng niu và bao bọc bằng một tình thương vô điều kiện.
(Thư mục vụ của Hội Đồng Giám Mục Pháp "Thư gởi những người công giáo Pháp", Cerf, trang 55-56)
Sau hết, tin vào ơn cứu độ của Thiên Chúa làm thay đổi cách thế hoạch định cả cuộc sống trần thế, và khiến ta hiểu khác đi lịch sử của ta trong thế giới này, và cả cách hoàn tất lịch sử đó nữa. Bởi vì "cho dầu sự chết hay sự sống, thiên thần hay ma vương quỷ lực, hiện tại hay tương lai, hoặc bất cứ sức mạnh nào, trời cao hay vực thẳm hay bất cứ một loài thọ tạo nào khác, không có gì tách được chúng ta ra khỏi tình yêu của Thiên Chúa thể hiện nơi Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta" (Rm 8,38-39).
Mặc dầu chúng ta chia sẻ những ưu tư của thế giới này, chúng ta vẫn tin rằng cuộc sống con người như được nâng niu và bao bọc bằng một tình thương vô điều kiện, mà không gì làm thay đổi được và rằng ân sủng của Thiên Chúa hằng theo dõi và sẽ còn theo dõi trong mọi hoàn cảnh của lịch sử chúng ta. Và chúng ta cũng hy vọng rằng cái chết, đôi khi là cái chết tàn bạo, không chấm dứt số phận chúng ta, bởi vì Chúa hứa cho ta sống lại và sống vĩnh cửu.
Đứng trước những nỗi sợ hãi của thời đại chúng ta, chúng ta không thể im lặng về kết cục của số phận con người, dưới ánh sáng của Tình Thương. Giao ước của Thiên Chúa sẽ được thực hiện trong thế giới mới, thế giới đã được biến đổi, mà chúng ta mong đợi. Niềm hy vọng này luôn nâng đỡ những người (nam cũng như nữ) đang đấu tranh chống lại sự chết và những quyền lực của sự chết, những người dám hiến dâng sự sống mình vì tình yêu Đức Giêsu Kitô.
23. Gợi ý bài giảng của Giáo Hoàng Học Viện Đà Lạt
ĐÀM THOẠI VỚI NICÔĐÊMÔ (Ga 3,14-21)
Ý HƯỚNG BÀI GIẢNG
1. Thánh Gioan viết cuốn Tin mừng của ông khoảng 60 năm sau khi Chúa Giêsu về trời. Trí nhớ của tuổi già, thường rất chính xác khi gợi lại những kỷ niệm thời thanh xuân, đã giúp ông nhớ lại một vài cảnh đặc sắc trong đời Chúa Giêsu và nhiều giáo huấn đặc biệt của Thầy. Đoạn Tin Mừng hôm nay tiếp tục câu chuyện Nicôđêmô đến đàm thoại với Chúa Giêsu về đề tài đức tin và sự tái sinh thiêng liêng. Sau khi tường thuật, vị thánh sử gộp lại trong suy tư riêng một lô giáo huấn Chúa Giêsu đã ban hay đã gợi ý mà ông đã thâu thập và đào sâu. Ông trình bày chúng dưới ánh sáng của Chúa Giêsu phục sinh cùng trong lối văn riêng của mình, là nhớ thế đã cho chúng ta một vài phản ảnh sống động về một đức tin được trực tiếp nuôi dưỡng tận nguồn (Gioan dã biết Chúa Giêsu) cùng được suy niệm cách sâu xa (Gioan đã sống đức tin với tư cách môn đồ hết mực trung tín).
2. Ở đây thánh Gioan đưa ra ánh sáng điều mà thánh Phaolô vẫn luôn gói trong các thư của ông là "mầu nhiệm" cứu rỗi do Thiên Chúa đem đến để ta tin: Chúa Giêsu là Con Thiên Chúa xuống trần để cứu rỗi thế gian. Những ai được hưởng ơn rỗi là kẻ, khi gặp Chúa Kitô, đã tin vào Người.
3. Từ ngữ "Con Người" xuất phát từ ngôn sứ Đanien (7,13). Một cách chung chung, tước hiệu được Tin mừng Gioan áp dụng cho Chúa Giêsu để biểu thị vai trò cứu thế của Người qua việc Nhập thể, Tử nạn và Phục sinh, nên có thể hiểu như là "Con Thiên Chúa làm người". Như vậy ta thấy Chúa Giêsu là Đấng thể hiện được kiểu mẫu hoàn hảo của con người tự hoàn thành lấy mình vì đã tự vượt thắng mình trong Thiên Chúa. Thánh Gioan còn ghi lại: "Con Người đã bị giương cao". Đây là việc treo lên thập giá. Lời này ám chỉ đến câu chuyện Môsê treo con rắn đồng được sách Dân số kể lại (Ds 21,6-8) Sách kể rằng: khi đang ở trong một vùng nầy rắn rít lúc đi qua sa mạc, người Hy bá đã được kháng nhiễm một cách lạ lùng khỏl nọc độc của chúng bằng cách nhìn lên một con rắn đồng Môsê treo lên nơi cao. Câu chuyện này được thánh sử gợi lại như biểu tượng cho thực tại thiêng liêng của ơn cứu độ được ban cho hết những ai nhìn về thập giá Chúa Kitô vui lòng tin.
4. "Ai tin vào Người thì không bị án xử, kẻ không tin vào Người thì đã bị án xử rồi". Cách nói này cho thấy niềm tin vào Chúa Giêsu Kitô bao hàm sự dấn thân dứt khoát và sau cùng sẽ đem lại công hiệu. Nghĩa là đức tin của tôi hôm nay (mà tôi luôn giữ vững) sẽ cứu tôi trong ngày tôi chết và trong ngày cánh chung. Giữa cái hôm nay và ngày sau hết của đời tôi, có thể xảy ra nhiều thăng trầm. Nhưng đức tin hiện tại của tôi đã đặt tôi vào vị thế khỏi bị kết án, nghĩa là đặt tôi trong ơn tha thứ của Thiên Chúa, trong sự tiếp đón và trong tình bằng hữu của Ngài. Điều này giải thích cho thấy sự nồng nhiệt của đức tin tôi hôm nay có một tầm quan trọng rất lên đối với cuộc gặp gỡ sau cùng của tôi với Thiên Chúa; mỗi ngày hiện tại chuẩn bị ngày cuối cùng đời tôi. Song nhờ niềm tin vào Chúa Giêsu, hồng ân lạ lùng là tình bằng hữu của Thiên Chúa cũng đến ngay bây giờ trong tôi và biến đổi tôi rồi. Niềm tin này lôi kéo tôi sống trong ánh sáng, nghĩa là trong sự thẳng thắn trung thành với Tin mừng. "Ai hành động trong sự thật thì đến cùng ánh sáng".
5. Sự tự do hành động mà Nicôđêmô được hướng cũng là một dấu chỉ của tình yêu Thiên Chúa, Đấng để con người bước đi theo ý họ, ngay cả trên đường nẻo gian tà, thù hận và chết chóc. Thiên Chúa chỉ muốn làm một điều là ban Con Một, sai Người đến giữa nhân loại để chịu đau khổ và chết chóc hầu cứu rỗi họ. Cả Chúa Cha lẫn chúa Con đều không muốn ép con người yêu, nhưng chỉ kêu mời họ yêu từ đỉnh thập giá. Hai Đấng cũng tránh không phán xét hay kết án con người ngay ở đời này. Chính con người và chỉ mình họ tự làm quan tòa cho mình, tùy như họ cởi mở đón nhận hay từ chối ánh sáng.
6. Như thế con người của Chúa Kitô, qua hành động và lời nói, tỏ hiện ra như là nơi gặp gỡ hay chia rẽ của nhân loại. Theo Tin mừng Gioan, mọi người đều phải đối chất với Chúa Kitô, dù chỉ là một cách mặc nhiên, khi họ thông đồng với sự ác, hay khi họ khát vọng chân lý, sự thiện. Từ khi Ađam ẩn núp khỏi mặt Thiên Chúa, con người luôn luôn có khuynh hướng trốn tránh Thiên Chúa, tha nhân và chính mình, để khỏi lộ tẩy các hành vi xấu xa của mình, nhất là những hành vi bên ngoài có vẻ tốt hảo. Ai cố ý quay lưng lại với chân lý dầu chân lý ra sao - thì liều mình chết trong sự mù quáng tội lỗi. Ngược lại, ai tỏ ra trung thành trong thực tế với chân tý mà mình đã thoáng thấy - dầu chân lý đó hạn hẹp mặc lòng – thì cũng được Chúa Kitô hứa cho sống và dược thông hiệp với Thiên Chúa Cha.
bài liên quan mới nhất
- Ngày 25 Tháng 12 – Đại lễ Giáng sinh
-
Bài hát cộng đồng Lễ Các Thánh Tử Đạo Việt Nam năm 2024 -
Ủy ban Phụng tự giải thích về “Lễ Cầu Cho Các Tín Hữu Đã Qua Đời” năm 2024 -
Ủy ban Phụng tự giải thích về “Lễ Cầu Cho Các Tín Hữu Đã Qua Đời” năm 2024 -
Cử hành Thánh Thể: Bài 52 - Lời giải tán -
Cử hành Thánh Thể: Bài 51 - Lời chào và phép lành cuối lễ -
Cử hành Thánh Thể: Bài 48 - Lời nguyện hiệp lễ -
Cử hành Thánh Thể: Bài 47 - Ca hiệp lễ và bài ca sau hiệp lễ -
Giúp hối nhân vượt qua lạm dụng phim ảnh khiêu dâm trong Bí tích Sám hối -
Ủy ban Phụng tự trả lời về sách lễ Rôma
bài liên quan đọc nhiều
- Kinh Rước lễ thiêng liêng
-
Ủy ban Phụng Tự: những lưu ý về trực tuyến Thánh Lễ -
Chính xác, Chúa Giêsu chết vào ngày giờ nào? -
Lời Chúa trên 14 chặng đàng Thánh Giá -
Giải đáp phụng vụ lễ Giáng sinh năm nay (2023) -
Phụng vụ Tuần Thánh: Cơ Cấu và Ý nghĩa các Nghi Thức -
Đào tạo phụng vụ cho Dân Chúa: Bài 1 - Cử hành Thánh lễ -
Ủy ban Phụng tự - Hướng dẫn cử hành phụng vụ tết Nguyên đán Giáp Thìn 2024 -
Ý nghĩa của thứ Tư Lễ Tro -
Lời thông báo long trọng về lễ Phục sinh và những ngày lễ chính trong năm phụng vụ 2024