Suy niệm Chúa nhật VI Thường niên năm B
6th Sunday in Ordinary Time
Reading I: Leviticus 13:1-2,44-46 II: 1Cor 10:31-11:1
Chúa Nhật 6 Thường Niên
Bài Đọc I: Lêvi 13:1-2,44-46 II: 1Cr 10:31-11:1
-----o0o-----
Gospel
Mark 1:40-45
40 And a leper came to him beseeching him, and kneeling said to him, "If you will, you can make me clean."
41 Moved with pity, he stretched out his hand and touched him, and said to him, "I will; be clean."
42 And immediately the leprosy left him, and he was made clean.
43 And he sternly charged him, and sent him away at once,
44 and said to him, "See that you say nothing to any one; but go, show yourself to the priest, and offer for your cleansing what Moses commanded, for a proof to the people."
45 But he went out and began to talk freely about it, and to spread the news, so that Jesus could no longer openly enter a town, but was out in the country; and people came to him from every quarter.
Phúc Âm
Maccô 1:40-45
40 Có người bị phong hủi đến gặp Người, anh ta quỳ xuống van xin rằng: "Nếu Ngày muốn, Ngài có thể làm cho tôi được sạch.
41 Người chạnh lòng thương giơ tay đụng vào anh và bảo: "Tôi muốn, anh sạch đi !"
42 Lập tức, chứng phong hủi biến khỏi anh, và anh được sạch.
43 Nhưng Người nghiêm giọng đuổi anh đi ngay,
44 và bảo anh: "Coi chừng, đừng nói gì với ai cả, nhưng hãy đi trình diện tư tế, và vì anh đã được làm sạch, thì hãy dâng những gì ông Môsê đã truyền, để làm chứng cho người ta biết."
45 Nhưng vừa ra khỏi đó, anh đã bắt đầu rao truyền và tung tin ấy khắp nơi, đến nỗi Người không thể công khai vào thành nào được, mà phải ở lại những nơi hoang vắng ngoài thành. Và dân chúng từ khắp nơi kéo đến với Người.
Interesting Details
• (v.40) Biblical leprosy, described in Lev 13, covered a wide range of skin diseases and is not the present-day leprosy. It was the ultimate impurity because it cut the patients from the community and turned the patients into sources of contamination to others. Whenever they go out, they have to make noise so that people can stay away from them.
• (vv.41-42) The Law cannot clean leprosy. It can only protect others by segregating lepers. Jesus, in contrast, was not afraid to touch the leper to heal him.
• (v.44) Only the priest (not doctor!) can certify that the patient is free of the disease and allow him/her back into the community after a ritual cleansing process. Jesus was higher than the Law, but He did not contradict the Law. Instead, He ordered the healed man to comply with the law. This point is important here because for the next three Sundays we will hear legal scholars accuse Jesus for violating the Law in five different ways.
• (v.45) Jesus was “out in the country,” much like the quiet place where he went to pray. This time, he drew people there, too.
Chi Tiết Hay
• (c.40) Trong Kinh thánh, bệnh phong hủi (Lêvi 13) bao gồm nhiều chứng bệnh ngoài da khác nhau, không nhất thiết phải là bệnh cùi. Người mắc bệnh phong huỉ bị coi là ô uế nghiêm trọng. Vì sợ lây bệnh, họ bị buộc phải sống cách ly khỏi gia đình và cộng đoàn. Khi đi đâu họ phải đánh trống gõ mõ để người khác biết mà tránh xa họ.
• (cc.41-42) Đối với người bệnh, Lề luật không giúp được gì cho họ, mà chỉ cách ly họ với người chung quanh. Ngược lại, Đức Giêsu không ngaị ô uế, chạm vào người bệnh để chữa lành cho họ.
• (c.44) Chỉ có các thầy tư tế (chứ không phải y sĩ!) mới có quyền chứng cho họ đã khỏi bệnh và được về với gia đình, sau khi đã làm nghi thức thanh tẩy. Mặc dù Đức Giêsu cao trọng hơn Lề luật nhưng không vì thế mà Ngài tự ý sửa luật. Ngài dặn ngươi lành bệnh phải đi trình với tư tế theo như Luật đòi. Đây là điểm quan trọng vì trong các bài đọc của ba Chúa Nhật tới, các luật sĩ cáo buộc Đức Giêsu vi phạm Luật dưới nhiều hình thức.
• (c.45) Đức Giêsu ở lại ngoài đồng vắng nơi Ngài thường cầu nguyện chứ không vào thành thị. Nhưng dù Ngài ở đâu, dân chúng vẫn tuôn đến với Ngài.
One Main Point
Jesus heals me and restores me to the community.
Một Điểm Chính
Đức Giêsu chữa tôi và đem tôi về lại với gia đình và cộng đoàn.
Reflections
1. How does my sin, my uncleanness, cut me off from the human community?
2. How does Jesus restore sinners like me to the community? How do I experience the joy of rejoining the community?
3. Do I follow Jesus to His quiet place of prayer? What do I experience there?
Suy Niệm
1. Tội lỗi của tôi, sự ô uế của tôi, đã cắt lìa tôi khỏi cộng đoàn nhân loại như thế nào?
2. Đức Giêsu đã tái nhập người tội lỗi như tôi vào với cộng đoàn ra sao? Tôi cảm nhận được niềm vui được tái nhập vào đời sống cộng đoàn thế nào?
3. Tôi có theo Đức Giêsu vào nơi thanh vắng để cầu nguyện không? Tôi cảm nghiệm được gì ở đó?
CHÚA NHẬT 6 THƯỜNG NIÊN B
Lời Chúa: Lv 13,1-2.44-46; 1Cr 10,31 – 11,1; Mc 1,40-45
MỤC LỤC
1. Phong cùi
2. Tội lỗi còn hơn phong cùi nữa – Yvon Daigneau
3. Ai là người đồng thời với người phong cùi?
4. Bệnh phong tâm hồn – ĐTGM. Ngô Quang Kiệt
5. Muốn và có thể
6. Người bị loại trừ
7. Đối với Thiên Chúa, không ai là người bị bỏ rơi
8. Cứu chữa khỏi bệnh phong hủi trong tâm hồn
9. Loan báo Tin Mừng
10. "Vì loài người chúng tôi"
11. Nếu Thầy muốn, Thầy có thể chữa tôi
12. Hãy loan báo tin vui – ĐGM. Arthur Tonne
13. Cử chỉ
14. Lạc quan
15. Lòng từ ái
16. Phong cùi
17. Phong cùi
18. Sự chấp nhận
19. Đức Giêsu chữa người bị phong cùi - JKN
20. Chú giải mục vụ của Jacques Hervieux
21. Chú giải của Noel Quesson
------o0o------
Bệnh cùi là một chứng bệnh hay lây, và theo quan niệm của người Do Thái, dưới cái nhìn tôn giáo, thì bệnh cùi là do tác động của một thứ thần ô uế. Người mắc bệnh cùi bị liệt vào hàng những kẻ dưới quyền lực của ma quỷ và lẽ đương nhiên họ không được quyền chung đụng với người trong sạch. Theo lề luật Do Thái, có cả những khoản quy định tình trạng xã hội của những kẻ mắc phải chứng bệnh hiểm nghèo này. Họ bị tách biệt khỏi cộng đồng loài người, cả về phương diện xã hội lẫn tôn giáo.
Đoạn Tin Mừng tuy ngắn ngủi nhưng đầy chi tiết giúp chúng ta hiểu được tầm mức và ý nghĩa hành động của Chúa Giêsu. Thực vậy chính người mắc bệnh phong cùi đã đi bước trước. Anh đến với Chúa và van xin Ngài cho anh được lành sạch. Lời van xin bao gồm nhiều ý nghĩa. Anh muốn Chúa Giêsu cho anh được lành và qua đó, cho anh trở thành người sạch và được gia nhập cộng đồng xã hội.
Hành động của người mắc bệnh quả là táo bạo. Anh đã liều lĩnh vượt ra khỏi những điều luật lệ quy định là phái xa tránh người khác, thậm chí còn phải la to để người khác biết mà tránh. Anh đến với Chúa Giêsu, để trình bày tình trạng của mình, cũng như ý muốn được chữa lành. Hành động liều lĩnh này hẳn phải xuất phát từ lòng tin tưởng không những ở quyền năng của Chúa Giêsu có thể chữa lành bệnh, mà nhất là ở lòng nhân từ thương yêu của Ngài, muốn giải thoát người ta khỏi bệnh tật. Chắc là anh đã từng được nghe thiên hạ nói về Ngài. Diễn tiến của sự việc cho thấy anh đã không tin tưởng hão huyền. Chúa Giêsu đã chạnh lòng thương trước thái độ và lòng tin của anh. Và Ngài đã làm phép lạ để cứu chữa anh.
Nhìn vào hành động của Chúa Giêsu, chúng ta thấy Ngài cũng đã không ngần ngại vi phạm điều lề luật quy định vì Ngài đã giơ tay đặt trên người bệnh. Dĩ nhiên, không thể coi đoạn Tin Mừng này như là một sự khuyến khích cho việc vi phạm lề luật, nhưng cách xử sự của Chúa Giêsu cho chúng ta thấy còn có những cái quan trọng hơn cả việc tuân giữ lề luật, hay nói cách khác, lề luật vì con người chứ không phải con người vì lề luật. Bằng chứng là tiếp đó chúng ta lại thấy Chúa Giêsu căn dặn người được lành hãy đi trình diện cùng trưởng tế, dâng của lễ theo luật Maisen. Một nghi thức mà tất cả những người được khỏi bệnh cùi, vì lý do nào đều phải làm để được công khai và chính thức tuyên bố là mình được khỏi, được sạch và do đó được quyền vào lại trong cộng đồng xã hội.
Người mắc bệnh phong cùi là hình ảnh tượng trưng cho tâm hồn tội lỗi, vì tội lỗi cũng chính là thứ phong cùi thiêng liêng, làm cho tâm hồn chúng ta trở nên hôi thối và chết dần chết mòn. Bời đó, với một lòng tin tưởng, chúng ta hãy chạy đến với Chúa Giêsu, để được chữa lành, để được tha thứ, nhờ đó, chúng ta được liên kết với Thiên Chúa và với anh em, sợi dây liên kết này vốn đã đứt đoạn do tội lỗi của chúng ta.
2. Tội lỗi còn hơn phong cùi nữa – Yvon Daigneau
Mở đầu
Sứ vụ của Chúa Giêsu nơi loài người đã được khẳng định trong các trường hợp đơn giản và thông thường mà mọi người đều hiểu được. Chúa Giêsu là Đấng cứu độ. Ngài không đến mang giải pháp cho vô số vấn đề hàng ngày, nhưng để giải phóng loài người khỏi quyền lực của tội lỗi và sự chết đang thống trị họ. Giai đoạn đời sống Chúa Giêsu mà chúng ta đọc trong Tin Mừng Chúa nhật hôm nay mời gọi chúng ta suy nghĩ cách mới mẻ và thời sự về sứ vụ của Ngài đối với chúng ta.
Bệnh tật
Chúng ta thất vọng và chua xót khi thuốc của chúng ta uống không đạt hiệu quả. Ai mà không tìm cách chống lại một cơn nhức đầu sổ mũi bằng những liều thuốc thần được quảng cáo khắp nơi, và cuối cùng cũng phải nhượng bộ trước sức tấn công của bệnh cúm. Vào thời Chúa Giêsu, người ta hầu như không có cách nào chống lại bệnh tật cả và nó cũng hoành hành như ngày nay. Nơi người ngoại giáo, người ta thường mặc nhiên gán cho bệnh tật sự thù ghét của những quyền lực của thần dữ, cho sự trừng phạt của Thiên Chúa vì tội lỗi, ngay cả những tội lỗi mà người ta không hề biết tới. Tại Israel, bệnh tồi tệ nhất trong các bệnh là bệnh phong cùi. Đôi khi người ta có thể lành được nhưng điều ấy có nghĩa là Chúa đã tha tội. Thường thường, phải để cho cơn bệnh tăng dần theo diễn tiến ghê rợn của nó thôi.
Người phong cùi đến với Chúa Giêsu xin được tẩy sạch. Anh ta xin một điều lớn hơn là được hồi phục trong thân xác. Anh ta khẩn nài Chúa Giêsu tẩy sạch tâm hồn anh khỏi những tội lỗi đã gây cho anh nỗi khốn khổ này. Một khi được tẩy sạch trong lòng, thân xác anh sẽ được tái sinh.
Thái độ của Chúa Giêsu.
Không ai sẽ ngạc nhiên về thái độ của Chúa Giêsu cả. Trái lại người ta ngạc nhiên về những lời cảnh cáo nghiêm khắc của Ngài. Chữa lành người bệnh chẳng đủ rồi ư? Tại sao còn bắt anh phải giữ thinh lặng, một việc khó khăn như thế, trong lúc mọi người chung quanh đều nhận thấy anh ta được chữa lành? Tại sao bắt anh ta phải làm một công việc phiền toái, là đến cho một công chức của đền thờ kiểm tra việc chữa lành đã quá hiển nhiên như thế.
Chúa Giêsu yêu cầu kẻ Ngài tẩy sạch khỏi bệnh phong cùi làm một việc hoán cải nghiêm túc và rõ rệt. Sự thinh lặng mà anh ta phải giữ về biến cố anh được chữa lành sẽ ngăn cản anh khỏi gán cho mình công trạng của việc thanh tẩy này, hoặc dùng nó để thu hút sự chú ý đến mình. Sự thinh lặng sẽ gìn giữ anh khỏi chơi trò anh hùng, điều này sẽ gây ra kiêu ngạo và sinh tội nữa.
Còn việc anh ta phải làm tại đền thờ sẽ ghi dấu sự kiện anh được tái nhập vào cộng đoàn, mà chỉ có thể thực hiện một cách công khai thôi. Việc này cũng sẽ cho phép anh bắt đầu lại cuộc sống trung thành với Chúa. Tuyên dương những kỳ công của Thiên Chúa mà thôi thì chưa đủ, còn phải sống ngày này qua ngày nọ trong sự khiêm tốn trung thành với ý Chúa nữa. Việc trình diện nơi đền thờ sẽ khai mào cho sự trung thành mới mẻ này.
Người phong cùi
Theo Tin Mừng, người phong cùi không có vẻ hiểu rõ ý định của Chúa Giêsu về mình. Anh ta không thể giữ miệng được, anh nói oang oang ra và mọi người đi tìm Chúa Giêsu, mỗi người đều hy vọng sẽ nhận được phép lạ cho mình hoặc, ít nhất, là được chứng kiến những phép lạ mà mình sẽ kể cho bà con lối xóm.
Anh chị em hãy ghi nhận rằng Chúa Giêsu không gọi người ấy tới để nói với anh ta rằng Ngài rút lại việc chữa lành và anh sẽ bị phong cùi như trước. Ngài để cho anh hưởng niềm vui và cuộc sống mới, cho dù nó bắt đầu một cách mỏng dòn. Lòng thương xót của Chúa như thế đó, Ngài vẫn trung thành bất chấp những sự vụng về, chậm tin và thất tín của những kẻ đã được thương xót.
Kết luận
Trong lòng mỗi người chúng ta có một nguồn ô nhiễm lan đến sự sống mà phép rửa đã ban cho chúng ta. Đó là một sự gắn bó keo sơn với tội lỗi, những tội mà chúng ta tái phạm hoài một cách vô ý thức. Chúng ta cần được thanh tẩy triệt để, đó là công trình của lòng thương xót. Chúng ta hãy đến xin Chúa Giêsu, Đấng thanh tẩy chúng ta.
3. Ai là người đồng thời với người phong cùi? (Trích trong ‘Mở Ra Những Kho Tàng’)
Căn bệnh cùi đã lây nhiễm rất nhiều trong xã hội thời bấy giờ. Vào thời Chúa Giêsu căn bệnh này thì đáng sợ nhất trong mọi thứ bệnh tật. Những khuôn mặt bị tàn phá của nạn nhân đã cưỡng bách họ phải sống trong vùng hoang mạc xa cách gia đình và bạn bè, họ không còn xứng đáng thờ lạy một cách công khai nữa.
Khi người phong cùi tiến đến gặp Chúa Giêsu để tìm sự chữa lành, ông ta đã ra ngoài giới hạn của mình. Ông không được phép rời khỏi chỗ lưu đày của mình để đến nơi dân chúng tụ họp lại. Ông là một người đã bị xã hội ruồng bỏ. Đúng hơn khi yêu cầu sự giúp đỡ của Chúa Giêsu, ông ta đã kêu lên: “Tôi bị ô uế, tôi bị ô uế” và như vậy là không ai dám đến gần ông ta.
Đoạn Phúc Âm ngày hôm nay thì rất đặc biệt, không những Chúa Giêsu tiếp đón người đàn ông đó; mà thật sự Ngài còn đưa tay ra và đụng đến ông. Ngài không xua đuổi, khinh bỉ người đàn ông biến dạng khốn khổ này. Và hơn thế nữa, Chúa Giêsu đã kêu xin một quyền lực cao hơn của luật Lêvi là bất cứ ai đụng đến người hủi là người không thanh sạch và như thế có nghĩa là người không xứng đáng làm việc thờ lạy. Chúa Giêsu đã ngấm ngầm loại bỏ điều luật như vậy và Ngài tuyên bố đức Ái cao hơn tất cả các việc khác. Ngài nói với người hủi hãy đi trình diện với tư tế ở đền thờ để vị tư tế tuyên bố ông đã được sạch bệnh hủi và chấp nhận cho ông trở lại việc thờ phượng công khai.
Ngài muốn thay đổi thái độ của chúng ta hướng đến những người hủi và những người bị loại bỏ trong xã hội. Chúng ta cần phải chấp nhận một thách đố từ Chúa Giêsu, không nhìn những người hủi như là chưa bao giờ nhìn thấy, nhưng hãy nhìn những người đó với tất cả sự quan tâm bởi họ đã bị những người cùng thời khinh miệt.
Căn bệnh đáng sợ nhất trong thời đại của chúng ta là bệnh Siđa, một cách nào đó như là bệnh hủi trong thời đại chúng ta bây giờ. Một số người nhanh chóng kết án bất cứ người nào lây nhiễm HIV, làm như đó là một sự xuống cấp của luân lý, đi xa hơn nữa có thể nói Thiên Chúa đã phạt họ, rằng họ phải chịu như vậy thì đáng lắm, Chúa Giêsu không hỏi người cùi về đạo đức của ông. Người không làm một xét đoán nào về ông ta ngay cả khi Ngài đọc được nỗi lòng của ông. Chúa Giêsu biết Cha của Người là Thiên Chúa nhân từ và hay tha thứ và Chúa Giêsu đã đến để trợ giúp người phong hủi này. Điều đó nói với chúng ta thái độ mà chúng ta phải trở thành.
Một số người bạn của chúng ta muốn người ngoại quốc ra khỏi đất nước của mình. Thái độ đó của họ chính đáng khi xem những người dân nhập cư như tội nhân, bởi vì họ hay xem thường và hay phá luật. Giáo Hội không bào chữa cho bất kỳ hành động bất công hay thô bạo nào, nhưng Giáo Hội vẫn lấy Chúa Giêsu làm gương mẫu đức ái thì cao hơn bất cứ luật nào khác.
Một số người nhìn vẻ khinh miệt trên những người lãnh tiền trợ cấp, họ là những bà mẹ không kết hôn, họ rất nhanh chóng dè bỉu các phần từ khác trong nòi giống hoặc quốc gia có điều gì hơn bản thân họ. Có ai lắng nghe Phúc Âm rồi lại khinh bỉ người khác không? Có người nào theo Chúa Giêsu trong hành trình nhân từ và thương xót của Người để rồi đối xử với người khác cách khinh bỉ không? Có người nào cầu nguyện bằng kinh Lạy Cha: “Xin tha tội cho chúng con như chúng con cũng tha kẻ có nợ chúng con”, mà lại kết án người khác không?
Ngày nay ít người mắc bệnh hủi nhưng lan tràn giữa chúng ta là căn bệnh oán ghét, tự cho mình là công chính và loại bỏ những người bạn của mình, những người có lương tâm không thể có những tinh thần đó, nó xa lạ với những người theo Chúa Giêsu.
4. Bệnh phong tâm hồn – ĐTGM. Ngô Quang Kiệt
Thời xưa, bệnh phong là một bệnh nan y, bị mọi người kinh tởm xa lánh. Trong đạo Do thái, người mắc bệnh phong bị gạt ra ngoài lề xã hội. Họ không được sống chung với thân nhân trong xóm làng, nhưng bị xua đuổi ra ngoài đồng ruộng, vào trong rừng núi hay trong sa mạc. Họ phải ăn mặc rách rưới. Đi đến đâu cũng phải kêu to lên: “Ô uế, ô uế”, cho mọi người biết mà xa tránh. Ai tiếp xúc với người bệnh phong đều bị coi là ô uế. Ai đụng chạm vào người bệnh phong bị con như mắc tội rất nặng. Chẳng ai dám đến gần người bệnh phong. Người bệnh như thế, không những bị những vết thương trên thân xác hành hạ đau đớn mà còn bị những nỗi đau, nỗi nhục trong tâm hồn dằn vặt khổ sở. Họ bị xã hội khinh khi loại trừ. Họ bị một mặc cảm chua chát dày vò. Nhân phẩm không được tôn trọng, họ sống mà bị con như đã chết. Nhưng chưa chết được, họ vẫn phải tiếp tục sống để chịu những nỗi đau đớn còn hơn cả cái chết gặm nhấm, thiêu đốt.
Một lần nữa, Đức Giêsu lại vượt qua những biên giới cấm kỵ khi dám đến gần người bệnh phong. Không những Người đến gần mà còn đưa tay chạm vào thân mình bệnh nhân. Lòng thương yêu đã khiến Đức Giêsu dám làm tất cả. Vì thương người bệnh, Đức Giêsu đã bất chấp nguy hiểm bị lây nhiễm, đã bất chấp những điều bị coi là cấm kỵ của đạo Do Thái.
Khi chữa khỏi bệnh phong, Người đã giải thoát người bệnh khỏi những đau đớn phần xác. Từ nay anh không còn bị những vết thương hành hạ. Thân thể anh trở nên lành lặn. Da dẻ anh trở lại hồng hào tươi tắn. Khuôn mặt anh rạng rỡ. Giọng nói anh thanh tao. Anh cũng là một người như bao người khác.
Nhưng điều quan trọng hơn, đó là khi chữa anh khỏi chứng bệnh nan y, Đức Giêsu đồng thời cũng giải phóng anh khỏi những mặc cảm đè nặng tâm hồn anh bao năm tháng qua. Khi Đức Giêsu vuốt ve thân thể bệnh tật của anh. Người đã vuốt ve tâm hồn anh. Trước kia anh cảm thấy bị mọi người xa lánh. Nay anh cảm thấy qua Đức Giêsu mọi người gần gũi anh hơn bao giờ. Trước kia anh cảm thấy bị khinh miệt. Nay anh cảm thấy được trân trọng. Trước kia anh cảm thấy bị bỏ rơi. Nay, dưới bàn tay dịu hiền của Đức Giêsu, anh cảm thấy được yêu thương vỗ về. Những vết thương sâu thẳm trong trái tim anh đã liền da lành lặn. Đức Giêsu đã hồi sinh tâm hồn lạnh giá của anh.
Muốn cho mọi người chấp nhận anh tái hội nhập vào đời sống xã hội. Đức Giêsu bảo anh đi trình diện với thày cả theo như luật định. Trước kia anh bị loại trừ, bị gạt ra ngoài lề xã hội. Nay anh được bàn tay âu yếm ân cần của Đức Giêsu đón nhận anh trở lại xã hội loài người. Qua vị thượng tế, anh được công khai đón nhận. Nhân phẩm anh được phục hồi. Danh dự anh được tôn cao. Giờ đây anh có thể tự tin, vui sống giữa mọi người, như mọi người.
Chúng ta ai cũng có những mặc cảm đè nặng tâm hồn, những vết thương sâu kín, những niềm đau khôn nguôi, những nỗi buồn hầu như không ai thông cảm được. Hãy noi gương người bệnh phong chạy đến với Đức Giêsu. Người sẽ xóa đi những mặc cảm đè nặng hồn ta. Người sẽ chữa lành những vết thương bao năm gặm nhấm trái tim ta. Người sẽ xoa dịu những nỗi đau vò xé tâm tư. Người sẽ an ủi những nỗi buồn phủ kín hồn ta.
Phần ta, hãy biết noi gương bắt chước Đức Giêsu, đừng loại trừ anh em mình ra khỏi đời sống xã hội. Hãy biết đến với những anh em bị bỏ rơi. Hãy biết an ủi những anh em đang buồn khổ. Hãy biết tránh cho anh em những mặc cảm nặng nề. Hãy hàn gắn những vết thương trong tâm hồn anh em. Hãy tôn trọng danh dự và nhân phẩm của anh em. Hãy giúp cho anh em mình được hòa nhập vào đời sống cộng đoàn, đời sống xã hội. Nước ta đang quyết tâm thanh toán bệnh phong vào cuối năm nay. Xứ đạo ta cũng hãy quyết tâm thanh toán bệnh phong trong tâm hồn. Hãy diệt trừ bệnh phong chia rẽ. Hãy tẩy chay bệnh phong loại trừ. Hãy xóa đi bệnh phong phân biệt. Hãy phá tan bệnh phong nghi kỵ. Hãy bài trừ bệnh phong kết án. Nếu ta thanh toán được bệnh phong tâm hồn, thân thể xứ đạo ta sẽ liền da liền thịt, khuôn mặt xứ đạo ta sẽ hồng hào, rạng rỡ vui tươi phản ảnh được khuôn mặt đích thực của Đức Kitô.
Lạy Đức Giêsu, xin cứu độ chúng con. Amen.
CÂU HỎI GỢI Ý ĐỂ CHIA SẺ
1- Cha Đa-miêng và Đức cha Cát-xe đã sống với người phong và lây bệnh của họ. Có lần nào bạn đã tiếp xúc với người bị bệnh hay bị bỏ rơi chưa? Bạn có phải trả giá về hành động này không?
2- Có bao giờ bạn đã là nạn nhân bị người khác loại trừ chưa? Bạn cảm thấy thế nào? Bạn rút ra được bài học gì từ kinh nghiệm đó?
3- Bạn đã có kinh nghiệm về sự được Chúa an ủi, được Chúa cứu chữa, được Chúa tha thứ bao giờ chưa?
4- Bệnh phong tâm hồn là gì?
5. Muốn và có thể (Trích trong ‘Manna’ – Lm Nguyễn Cao Siêu)
• Mẹ Têrêxa lập quỹ giúp người phong ở Calcutta. Những thùng quyên tiền của Mẹ mang dòng chữ: "Hãy chạm đến một người phong bằng lòng trắc ẩn của bạn".
• Chạm đến người phong là điều xưa nay ai cũng sợ. Theo luật Cựu Ước, người phong phải mặc rách, xõa tóc, che râu. Đi đâu người ấy cũng phải la to: "Ô uế! ô uế!" (Lv 13,45-46). Bị cách ly với mọi người, bị coi như mắc trọng tội, đau đớn cả xác lẫn hồn, người phong sống mà như chết.
• Người phong trong bài Tin Mừng hôm nay khá đặc biệt. Anh tự ý đến gặp Đức Giêsu và quỳ xuống trước mặt Ngài. Lời van xin của anh thật là một lời xin mẫu mực. "Nếu Ngài muốn, Ngài có thể làm cho tôi được sạch".
Nếu Ngài muốn: anh mời gọi lòng thương xót của Ngài. Anh để cho Ngài tự do chữa hay không tùy ý. Dù rất muốn khỏi bệnh, nhưng anh lại phó thác số phận mình cho ý Ngài muốn. Ngài có thể: anh tin tưởng vào quyền năng của Ngài. Anh không nói như người cha của đứa con bị động kinh: "Nếu Thầy có thể làm được gì..." (Mc 9,22).
Đối với anh, chắc chắn Ngài có thể chữa anh lành bệnh. Chỉ cần Ngài muốn là đủ rồi. Chính thái độ tin tưởng, đơn sơ, phó thác của anh đã đụng rất mạnh đến chỗ sâu nhất trong lòng Đức Giêsu.
Không cưỡng lại được sự tin cậy đó, Ngài nói: "Tôi muốn." Phép lạ phát sinh từ lòng tin của người phong và từ ý muốn đầy quyền năng của Đức Giêsu.
Nhưng Ngài không chỉ muốn, mà còn đụng vào anh. Ngài không kinh tởm, không sợ lây, không sợ bị ô uế. Bàn tay Ngài đụng vào da thịt anh với các vết thương. Ngài không bị ô uế, nhưng Ngài làm cho anh hết ô uế. Chính lòng thương đã khiến Ngài mạnh dạn đụng vào anh, như chính anh đã mạnh dạn đến với Ngài bằng lòng tin.
Đức Giêsu vừa tự do với Lề Luật, vừa lệ thuộc Lề Luật. Ngài bảo anh đi trình diện với tư tế và dâng của lễ.
Chúng ta cần nếm niềm vui của người phong được lành.
Anh hạnh phúc vì được sạch, được làm người bình thường, được chung sống với cộng đoàn, được hiệp thông với Thiên Chúa. Anh lấy lại phẩm giá, ra khỏi những mặc cảm. Niềm vui quá lớn khiến anh đi loan báo khắp nơi. Người phong sau khi được khỏi đã có thể vào thành. Còn Đức Giêsu lại phải ở ngoài thành, nơi hoang vắng.
Từ khi ông Hansen tìm ra vi trùng bệnh phong năm 1871, người phong đã có được niềm hy vọng chữa lành. Họ không còn bị trục xuất ra đảo xa hay bị bách hại. Nhưng để cho họ được sống như mọi người vẫn là điều khó.
Cũng có những người bị ta xa tránh như người phong: những cô gái lỡ lầm, những người mắc bệnh sida hay nghiện ngập, những người có tiền án hay thuộc giai cấp cùng đinh... Hãy đến gần họ và để họ đến gần mình, vì nói cho cùng, ít nhiều chúng ta đều là người phong.
Gợi Ý Chia Sẻ
• Khi cầu nguyện để xin ơn, thường chúng ta ít để cho Chúa được tự do. Chúng ta như muốn bắt Chúa phải làm theo ý mình. Lời cầu xin của người phong có nhắc nhở bạn điều gì đó không?
• Cha Đamiêng, Đức Cha Cassaigne đã sống với người phong và lây bệnh của họ. Bạn có lần nào đụng chạm hay tiếp xúc với một người bị bỏ rơi, bị coi là ô uế không? Bạn có phải trả giá về hành động này không?
Cầu Nguyện
Lạy Chúa là Thiên Chúa của con, có những ngày đón nhận những người khác là điều vượt quá sức con, vì con kiêu hãnh, tự hào và yếu đuối.
Lạy Chúa là Thiên Chúa của con, có những ngày con không thể nào kính trọng kẻ khác được, vì ý kiến, vì màu da, vì cái nhìn của người ấy.
Lạy Chúa là Thiên Chúa của con có những ngày mà yêu mến người khác làm cho tim con đau nhói, vì nỗi sợ hãi, nỗi khổ đau và những giới hạn của bản thân con.
Lạy Chúa là Thiên Chúa của con trong những ngày khó khăn đó, xin hãy nhắc cho con nhớ rằng tất cả chúng con đều là con cái Chúa và đừng để con quên Lời Chúa nói: “Điều gì chúng con làm cho người bé nhỏ nhất là làm cho chính Ta”
6. Người bị loại trừ (Trích trong ‘Niềm Vui Chia Sẻ’)
Đối với tâm lý người xưa nói chung và người Do Thái nói riêng, bệnh tật nếu không phải do tội lỗi thì cũng là trò ma chước quỷ bày ra. Xét theo diện nào, thì bệnh tật cũng đều đáng sợ. Và bệnh càng nặng, càng ghê tởm, người ta càng phải cẩn thận, đề phòng.
Ở đất Do Thái thời bấy giờ có lẽ không bệnh nào nan trị bằng bệnh phong cùi. Nó vừa ghê tởm vừa dễ lây. Xã hội lập tức đã phải có biện pháp đối với những người mắc bệnh phong cùi. Luật pháp Do Thái trục xuất người phong cùi ra khỏi đời sống cộng đồng xã hội. Người phong cùi phải ra khỏi nhà, đến ở những nơi hoang vu hẻo lánh, không được tiếp xúc với ai và cũng không được để cho ai đến gần mình. Gặp ai qua đường, bệnh nhân phải lên tiếng làm hiệu trước để cho mọi người tránh xa, kẻo bị ô nhiễm theo luật. Vô phúc cho ai bị ô nhiễm như vậy, vì sẽ bị tuyệt thông, không được tham dự các nghi lễ nữa, trước khi làm lễ thanh tẩy theo luật dạy. Còn chính người phong cùi, khi thấy thân xác lành sạch phải đến trình diện các Thầy Tư Tế để xin khám nghiệm. Nếu đúng đã lành bệnh thật, họ còn phải dâng lễ đền tội và thanh tẩy trước khi được cấp giấy chứng nhận phục hồi quyền hiệp thông với cộng đồng xã hội.
Anh chị em thân mến,
Có hiểu số phận thảm thương của người phong cùi trong xã hội Do Thái thời xưa, chúng ta mới hiểu được ý nghĩa đoạn Tin Mừng hôm nay: Một người phong cùi dám đến gần Chúa Giêsu, bất chấp pháp luật ngăn cấm. Anh đến quỳ xuống van lạy Chúa Giêsu. Thái độ đó chứng tỏ một lòng tin thật mạnh mẽ. Chúa Giêsu động lòng thương, Ngài cũng bất chấp pháp luật, Ngài giơ tay ra đụng đến người phong cùi và phán: “Ta muốn anh được sạch”, tức thì bệnh phong cùi biến mất, người phong cùi được lành sạch.
Ngày nay, quan niệm khắt khe đối với bệnh phong cùi đã chuyển biến. Nhiều người và nhiều tổ chức từ thiện đã và đang xả thân chăm sóc, giúp đỡ, điều trị những người phong cùi trên thế giới. Với đà tiến bộ của y khoa, người ta đã hy vọng sẽ một ngày không xa, sẽ bài trừ được hết bệnh phong cùi.
Tuy nhiên, có một thứ bệnh phong cùi mà khoa học không bao giờ chữa được, đó là bệnh phong cùi của tâm hồn, đó là tội lỗi: hận thù, kỳ thị chủng tộc, ý thức hệ, bạo lực. Chính bệnh phong cùi này mới đáng sợ, vì nó cô lập con người xa cách Thiên Chúa và cộng đoàn dân Chúa. Bệnh phong cùi này chỉ có Máu Thánh Chúa Kitô mới thanh tẩy được. Chúa Giêsu đã đến để giao hòa vạn vật với nhau, nhờ được giao hòa với Thiên Chúa. Vì Ngài đến để xóa bỏ tội lỗi và làm cho tất cả nhân loại được nên trong sạch, được đến gần Thiên Chúa, được nên dân Chúa. Chúa Giêsu đã chết và và sống lại để cho chúng ta được lành sạch, cho chúng ta được làm con Thiên Chúa và làm anh em hết mọi người. Không loại trừ ai và không bị ai loại trừ. Ngài đã giao hòa vạn vật trên trời dưới đất, không còn loài vật sạch hay dơ, không còn biên giới ngăn cách chúng ta với Chúa và với mọi người. Nhưng Chúa Giêsu cũng đã để lại trong Giáo Hội các Nhiệm Tích, nhất là Nhiệm Tích Hòa Giải là phương thế Chúa dùng để tẩy sạch bệnh phong cùi của chúng ta và giao hòa nối kết chúng ta lại với Chúa và với mọi người, để củng cố mối dây liên kết ấy ngày càng bền chặt hơn.
Thưa anh chị em,
Chúng ta đã biết, theo luật pháp Do Thái, người mắc bệnh phong cùi phải ở riêng ngoài trại, cách ly mọi người, không được đến gần ai và cũng không ai được đến gần họ. Nhưng ở đây, với lòng tin mãnh liệt, người cùi đón đường và tiến đến bên Chúa Giêsu. Còn Chúa Giêsu, thay vì xa lánh bệnh nhân như luật buộc, “Ngài đưa tay ra đụng đến người phong cùi”. Đối với Chúa, không có vấn đề kỳ thị, cấm kỵ, loại trừ. Chúa là tất cả cho mọi người, không kỳ thị chủng tộc, văn hóa, giàu nghèo, bệnh tật…
Thái độ tin tưởng của người phong cùi và hành động nhân hậu của Chúa Giêsu cho chúng ta một bài học: chúng ta đừng bao giờ tự biến thành người mắc bệnh phong cùi nghĩa là đừng tự cô lập mình với anh em, đừng tự giam mình trong pháo đài ích kỷ, thù hận nhưng hãy biết quảng đại yêu thương bằng việc sẵn sàng quên mình vì mọi người.
Noi gương Chúa Giêsu, mỗi người chúng ta hãy biết nhìn người anh em đồng loại như một “cái mình khác” của chính mình. Một khi nhìn nhận như thế, chúng ta phải trở nên anh em của bất cứ người nào, không trừ một ai, và phải đi đến với mọi người để phục vụ trong tình yêu thương. Người già cả, người nghèo khó, người bệnh tật, người cô đơn hay hèn kém… Tất cả đều kêu gọi lương tâm Kitô giáo của chúng ta, và chúng ta hãy nhớ lại Lời Chúa: “Tất cả những gì anh em làm cho một người bé nhỏ nhất trong các anh em Ta, là anh em đã làm cho chính Ta” (Mt 25,40). Chúng ta hãy nhìn nhận trong mọi người sự có mặt của Chúa Kitô. Mọi người đều là anh em mà chúng ta phải yêu mến một cách thật tình. Bằng chính lời nói, hành động yêu thương mà chúng ta làm chứng cho tình yêu của Chúa Kitô và thông hiệp với những người khác trong mầu nhiệm tình yêu của Cha trên trời.
Có lẽ ông bà anh chị em đã được nghe nói đến Đức Cha Jean Cassaigne, nguyên Giám Mục Giáo phận Sài Gòn của chúng ta trước đây. Sau 15 năm làm Giám Mục Sài Gòn, Đức Cha Jean Cassaigne đã tình nguyện về sống giữa những bệnh nhân phong cùi thân yêu của ngài ở trại phong cùi Di Linh (Lâm Đồng), trong một ngôi nhà gỗ nhỏ hẹp. Tuy không giữ một địa vị nào trước mặt xã hội, nhưng ngài thật là một người bạn của người phong cùi, một chứng nhân của tình yêu Thiên Chúa, một con người hy sinh phục vụ người phong cùi, chấp nhận mang lấy bệnh phong cùi của họ và chết đi ở giữa họ.
Mười tám năm trời, ngài sống trong thinh lặng giữa rừng núi thâm u, với những bệnh nhân phong cùi, không mấy ai biết đến. Nhưng khi ngài mất đi vào năm 1973, mọi người hay biết đều cảm phục tấm gương hy sinh anh dũng của ngài, ngài đáng được gọi là : “Cha của người phong cùi”.
Tấm gương bác ái cao cả đó, không phải ai cũng có thể noi theo được, nhưng trước mắt chúng ta, còn có những người, những tập thể mà chúng ta xa lánh kiểu dân Do Thái thời Cựu Ước xa lánh người phong cùi. Có khi chúng ta đã gán cho họ những nhãn hiệu thù nghịch, để rồi không bao giờ muốn tiếp xúc với họ, sợ mình trở thành “cùi” như họ. Có khi chúng ta đã từ chối tiếp xúc, hợp tác với cá nhân này hay tập thể nọ, chỉ vì họ không cùng tôn giáo hay lập trường với chúng ta. Nếu chúng ta làm như vậy là chúng ta khinh thường, làm nhục sứ mạng giao hòa mọi người mọi vật, sứ mạng mà Chúa Giêsu đã nhận lãnh từ Chúa Cha, đã thi hành bằng cách hiến mạng sống mình, đổ đến giọt máu cuối cùng trong trái tim của Ngài.
Trong Thánh Lễ hôm nay, khi chúng ta tưởng niệm Mầu nhiệm Tử Nạn và Phục Sinh của Chúa Giêsu, mầu nhiệm là cho chúng ta được giao hòa với Chúa và với nhau, chúng ta hãy xin Chúa giúp chúng ta luôn xa lánh tội lỗi để được hiệp thông với Chúa và với anh em, biết sống quảng đại mối giao hòa với hết mọi người mà Chúa Giêsu Kitô đã đem đến cho chúng ta.
7. Đối với Thiên Chúa, không ai là người bị bỏ rơi (Trích trong ‘Lương Thực Ngày Chúa Nhật’ – Achille Degeest.)
Khi mới đọc qua, đoạn Phúc âm này làm chúng ta ngạc nhiên vì một sự tương phản: Chúa Giêsu có hai thái độ trái ngược nhau. Chúa Giêsu vừa cảm động, xót thương người cùi, vừa xua đuổi anh, và ngược đãi anh. Đoạn này khiến ta phải suy nghĩ về lòng nhân hậu của Chúa Giêsu, lòng nhân hậu vừa nhạy cảm lại vừa cương quyết.
1) Chúa Giêsu dễ cảm xúc, ‘Động lòng thương, Chúa Giêsu giơ tay sờ đến người ấy mà phán bảo: Ta muốn, ngươi hãy lành bịnh’. Chúa Giêsu đã xúc cảm cách rất nhân loại. Lòng từ bi vô biên của Chúa ‘Giêsu-làm-người’ không phải chỉ là một sự hảo tâm, tuy hiệu nghiệm nhưng xa vời. Trong sự mầu nhiệm Nhập thể, Thiên Chúa đã truyền thông lòng từ bi vô biên của Người bằng sự rung cảm của một con tim thật sự nhân loại, trái tim của Chúa Giêsu. Lòng từ bi đó trở thành một sự cảm xúc rất nhân loại, nó biến thành lòng xót thương khi đứng trước sự đau khổ, nghĩa là thành khả năng có thể ‘cùng đau khổ’. Chúa Giêsu đau khổ trước sự đau khổ của người phung cùi khi anh này đến với Người. Hơn nữa, vì Người thương con bịnh, nên nỗi đau khổ của y làm cho Người khó chịu hơn chính sự đau khổ của Người. Khi người ta yêu ai thực sự, nếu người này đau khổ, người ta muốn mang lấy sự đau khổ cho kẻ ấy để giải thoát cho y. Chúa Giêsu không chữa cho người phung cùi bằng một hiệu quả của quyền-lực-toàn-năng Người. Người cúi xuống sát con bịnh đang quỳ dưới chân Người. Người đáp ứng lời van xin của y bằng một cử chỉ từ bi nhân hậu đi xa đến độ vi phạm cả một giới răn Lề Luật. Người chạm đến bịnh nhân cùi bằng tay Người. Chỉ một cử chỉ đó cũng đủ gây bối rối cho bịnh nhân mà một trong những đau khổ lớn lao nhất trong đời họ là cảm thấy bị loại ra khỏi xã hội loài người, những đồng loại không còn muốn tới gần họ nữa chứ đừng nói chi đến sự chìa tay ra cho họ. Vì họ là người không ai muốn sờ mó, đụng chạm tới. Như vậy là lòng từ bi của Chúa không những đã hữu ích cho họ bằng cách chữa họ lành đã, mà còn nâng họ lên hàng cao, bằng cách phục hồi danh dự địa vị cho họ, bằng cách trả lại cho họ danh dự con người. Chúng ta ghi nhớ điểm Chúa Giêsu đụng đến người cùi trước khi y lành đã, và cử chỉ ấy đã chữa y khỏi căn bịnh. Lòng từ nhân của chúng ta có thực sự động lòng xót thương, gần gũi sự đau khổ, chấp nhận hoặc phục hồi cho tha nhân nhân phẩm của họ chăng? Một lòng từ nhân như vậy lắm khi mang trong bản chất nó quyền lực chữa lành một số bịnh tật.
2) Chúa Giêsu cương quyết. Nhưng rồi ngược đãi y, Chúa Giêsu liền xua đuổi y mà bảo: Coi chừng đừng nói gì với ai. Chúa Giêsu không muốn ai tiếp nối những cử chỉ từ bi của mình bằng những tình cảm giả vờ hoặc thái quá. Trái lại là khác. Người không bao giờ rời mắt khỏi những lợi ích cao cả của sứ mạng Người. Không bao giờ Người chấp nhận cho một quyền lợi riêng tư đi ngược lại với quyền lợi tổng quát. Trong trường hợp hiện tại, sự lợi ích của sứ mạng Người đòi hỏi 1 hành động tiến dần đến mục đích tối hậu là: mọi người nhận ra Người, Chúa Giêsu, là Con Thiên Chúa, là Đấng Cứu thế. Trước các phép lạ Người làm, khi Người khởi đầu ra đi thi hành sứ mạng, những người tốt có thể coi Người như một nhân vật được thiên phú một quyền năng phi thường, không hơn không kém. Nhưng Chúa Giêsu cương quyết muốn rằng các phép lạ Người làm tiên vàn phải là chữ ký của Lời Người. Trước hết, Người muốn ban Lời Người. Đối với Người, điều quan hệ, không phải là sự nổi tiếng về quyền năng chữa bệnh của Người, nhưng là sức mạnh cứu độ của Lời Người. Vậy Lời ấy là nguồn gốc ơn cứu độ ở chỗ nào? Ở chỗ là Lời ấy kêu gọi con người hãy có lấy một sự tuyên xưng đức tin. Lòng tin vào Lời và Con Người của Chúa Giêsu mở cửa cho ơn cứu độ. Khi hắt hủi người cùi được chữa lành vì lòng từ nhân của Người, Chúa Giêsu không muốn bịnh nhân làm phương hại đến sứ mạng của Người bằng một niềm hân hoan thiếu kín đáo. Người không muốn sự chữa lành phần xác bao vây trí óc kẻ đương thời thu hẹp khả năng chữa lành bệnh của quyền năng Người. Người đã đến để loan báo Nước Thiên Chúa và chính trên sự loan báo ấy, Người muốn tập trung mọi tâm hồn và con tim, các phép lạ chỉ là một trong những ngôn ngữ của sự loan báo ấy. Thửa đất thực sự của lòng nhân từ Chúa chính là ơn Cứu chuộc mà chúng ta tiếp nhận bằng đức tin.
8. Cứu chữa khỏi bệnh phong hủi trong tâm hồn (Trích trong ‘Cùng Đọc Tin Mừng’ – Lm. Trần Ngà)
Thời Chúa Giê-su, người mắc bệnh phong lâm vào hoàn cảnh vô cùng bi đát và thảm hại. Cuộc sống của họ tồi tệ ngàn lần hơn cái chết. Thà chết phứt đi còn hơn là phải chịu cái chết dần mòn trong đau đớn thể xác và khốn khổ về tinh thần. Nỗi đau thương nhất mà người phong hủi phải gánh chịu là bị cách ly khỏi cha mẹ, bạn trăm năm, con cái, những người thân yêu và hết thảy mọi người để sống trong sự ghê tởm, ghẻ lạnh của người đời và kết thúc cuộc đời bằng cái chết cô đơn thảm hại.
Bài trích sách Lêvi được trích đọc trong phụng vụ hôm nay diễn tả phần nào tình trạng thương tâm đó: "Người mắc bệnh phong hủi phải mặc áo rách, xoã tóc, che râu và kêu lên: "Ô uế! Ô uế!". Bao lâu còn mắc bệnh, thì nó ô uế; nó ô uế. Nó phải ở riêng ra, cách ly khỏi mọi người. Chỗ ở của nó là một nơi riêng bên ngoài trại." (Lêvi 13, 45-46)
Tội lỗi cắt lìa chúng ta khỏi thân mình Chúa Giê-su.
Tội lỗi cũng y như một thứ bệnh phong hủi trong tâm hồn gây tác hại cho người lỗi phạm không thua kém.
Giáo lý công giáo dạy rằng bí tích thánh tẩy tháp nhập người tín hữu vào Thân Mình Chúa Giê-su như cành nho được tháp vào thân nho và cũng như thân nho chuyển thông nhựa sống nuôi cành thế nào thì Chúa Giê-su cũng chuyển thông sự sống thần linh của Người cho các tín hữu như thế.
Bí tích thánh tẩy làm cho "người tín hữu trở thành chi thể trong Thân Thể Chúa Giê-su" (giáo lý công giáo số 1267), nhờ đó, sự sống vĩnh cửu của Chúa Giê-su được thông ban cho họ y như sự sống của toàn thân châu lưu trong từng chi thể.
Thế nhưng, khi phạm tội trọng, người tín hữu tự cắt lìa mình ra khỏi Chúa Giê-su như cành nho bị chặt phăng khỏi thân nho, như bàn tay bị cắt lìa cơ thể.
Hậu quả của việc cắt lìa nầy là họ trở nên như một cành nho khô héo, thành một bàn tay đứt lìa, và vì thế, sự sống thiêng liêng của Thiên Chúa không còn được thông ban cho họ nữa. Thân phận của họ lúc nầy còn tệ hơn cả thân phận người phong hủi bị gạt ra khỏi gia đình, thôn xóm và cách ly với mọi người.
Chúa Giê-su cứu ta khỏi tội và đưa ta hoà nhập lại với Hội Thánh.
Khi "người bị phong hủi đến gặp Chúa Giê-su, anh ta quỳ xuống van xin rằng: "Nếu Ngài muốn, Ngài có thể làm cho tôi được sạch." Chúa Giê-su chạnh lòng thương giơ tay đụng vào anh và bảo: "Tôi muốn, anh sạch đi!" Lập tức, chứng phong hủi biến khỏi anh, và anh được sạch." (Mc 1, 40-42)
Làm sao tả hết nỗi mừng vui hoan hỉ của người phong được Chúa chữa lành. Anh ta reo lên vui sướng và mặc dù Chúa Giê-su nghiêm cấm anh tiết lộ danh tánh Người đã cứu chữa anh, nhưng niềm hạnh phúc trào dâng không thể nào kìm nổi đã khiến anh phải cao rao cho mọi người biết hồng ân anh đã lãnh nhận. (Mc 1, 42)
Từ đây, anh được thoát khỏi chứng bệnh quái ác và không còn bị cách ly với xã hội loài người, được giã từ nơi cô tịch để về sum họp với gia đình, làng xóm, được đoàn tụ với bao người thân yêu.
Hôm nay, để cứu chúng ta khỏi tình trạng "cành lìa cây", "cánh tay bị cắt lìa cơ thể" do tội lỗi gây ra, Chúa Giê-su lập nên bí tích giải tội để nối kết chúng ta lại với Thân Mình Người, để cho sự sống thần linh của Người tiếp tục truyền qua cho chúng ta như sự sống của thân nho chuyển thông cho cành, như sự sống từ thân mình chuyển qua cho bàn tay.
Ngày qua ngày, Chúa Giê-su vẫn trông chờ chúng ta ăn năn trở về như người cha chờ đợi đứa con đi hoang, như mẹ hiền mong ước đứa con lưu lạc trở về. Người vẫn thao thức tìm kiếm chúng ta như người chủ chiên đi tìm con chiên lạc rất yêu dấu.
Ước gì chúng ta biết thành khẩn tìm đến với Chúa Giê-su như người mắc bệnh phong trong Tin Mừng hôm nay, khiêm tốn quỳ xuống trước mặt Người và tha thiết van xin: "Lạy Chúa, xin thanh tẩy linh hồn con nên trong sạnh. Xin cho con được giao hoà với Chúa để sự sống của Chúa lại được thông truyền cho chúng con."
9. Loan báo Tin Mừng
Một người tân tòng mới trở lại cùng Chúa, ngày kia có anh bạn láng giềng tới chơi và hỏi: Anh biết được những gì về Đức Kitô? Người tân tòng trả lời: Có, tôi biết nhiều lắm. Người bạn hỏi: Vậy Ngài sinh ra bao giờ, ở đâu và chết lúc bao nhiêu tuổi. Trước những câu hỏi này, người tân tòng tỏ ra bối rối vì kiến thức của anh về Đức Kitô còn non yếu. Cuối cùng người tân tòng bèn thú nhận: Phải, về Đức Kitô thì tôi biết ít lắm, nhưng có điều này chắc chắn: Trước đây tôi nằm đường nằm chợ, tôi say sưa be bét, nợ nần ngập đầu ngập cổ. Trước đây, vợ tôi ít khi mỉm cười với tôi. Thấy bóng tôi là sợ hãi. Nhưng hôm nay, tôi là một người đàn ông tiết độ, hết nợ và còn dư tiền để tậu một căn nhà mới. Hôm nay, vợ tôi thường tươi cười với tôi. Đức Kitô đã làm cho tôi tất cả những điều ấy. Đó là niềm tin tưởng và xác tín của tôi.
Tình cảnh của người tân tòng này cũng phần nào giống với người phong cùi của đoạn Tin Mừng sáng hôm nay. Anh không biết nhiều về Đức Kitô, nhưng anh tin chắc Ngài đã chữa lành cho anh và anh ra đi loan truyền cho mọi người biết điều đó…
Với chúng ta cũng vậy, chúng ta phải nói cho mọi người biết những gì Đức Kitô đã làm cho mỗi người chúng ta. Chúng ta hãy lưu ý tới hành động của Chúa Giêsu. Ngài không sợ bị nhơ bẩn, bị ô uế, trái lại Ngài đã giơ tay ra, đụng tới người phong cùi và bỗng nhiên cơn bệnh của anh biến mất.
Ngày hôm nay, Chúa Giêsu vẫn còn giơ tay ra đụng tới chúng ta và chữa lành chứng bệnh phong cùi tâm hồn chúng ta là tội lỗi. Thực vậy, Ngài đụng đến chúng ta qua Bí tích Giải tội, để chữa lành những ung nhọt tội lỗi. Ngài đụng đến chúng ta qua Bí tích Thêm sức, để trao ban Thánh Linh và gia tăng sức sống. Và nhất là Ngài không phải chỉ đụng đến chúng ta mà còn ngự vào tâm hồn chúng ta qua Bí tích Thánh Thể. Rồi khi chúng ta đau yếu, Ngài đụng đến chúng ta qua Bí tích Xức dầu để xoa đi những đớn đau phần hồn cũng như phần xác. Ngài giơ tay ra cho những cô dâu và chú rể để giúp họ thánh hóa cuộc sống gia đình…
Chính vì thế, chúng ta có thể mượn lời kinh chúc tụng của Mẹ Maria để cảm tạ hồng ân Thiên Chúa. Ngài là Đấng toàn năng, đã làm cho tôi muôn việc trọng đại. Là những người cha người mẹ, chúng ta phải nói cho con cái biết những gì Chúa đã làm cho chúng ta và cho gia đình chúng ta nữa.
Tất cả chúng ta, những Kitô hữu, cũng phải nói cho những người tin cũng như không tin, bằng lời nói và bằng đời sống, những gì Chúa Giêsu đã làm cho chúng ta.
Có thể chúng ta không biết nhiều về Đức Kitô, nhưng chúng ta biết chắc chắn rằng Ngài đã làm chuyển biến, đã làm thay đổi để chúng ta được trở nên tốt lành và thánh thiện hơn.
10. "Vì loài người chúng tôi"
"Ngài chạnh lòng thương, giơ tay sờ vào anh ta"
Như bị một ma lực cuốn hút, người phong cùi cứ rẽ đám đông xấn tới, tiến lại gần Đức Giêsu, mặc cho người ta nạt nộ quát mắng, ngăn cản anh. Và cũng bất chấp dư luận, Đức Giêsu đã giơ tay ra đón và sờ vào anh ta. Theo phong tục Do Thái thời Chúa (và bây giờ ở nhiều nơi vẫn còn như vậy), bệnh nhân phong bị cấm, không được lui tới những xóm thôn, thị tứ, nơi những "người lành" cư ngụ. Họ bị coi là "kẻ xấu xa" vì đã bị Thiên Chúa luận phạt ngay ở đời này vì tội lỗi của mình. Họ bị loại trừ ra khỏi xã hội loài người, sống lang thang vất vưởng như những bóng ma. Họ là những con ma sống, hay những xác chết còn thở hí hóp. Họ phải la to lên cảnh báo khi có người tới gần họ. Ai cũng không muốn "dây với người hủi". Nhưng Đức Giêsu đã giơ tay đón anh ta, sờ vào anh ta. Khi đôi tay nhân lành chạm vào làn da "sượng sần và tê điếng", lạ thay và cũng cao cả nhường bao! Làn da vô cảm ấy đã nhẵn nhụi, hồng hào lành lặn trở lại. Ai nói được hết nỗi vui của anh. Nhưng Đức Giêsu lại bảo anh phải gấp rút đi gặp các tư tế.
Đây là một thủ tục cần thiết để người phong có thể hội nhập lại xã hội. Chứng nhận của tư tế sẽ giúp cho gia đình anh, bạn bè anh, bà con lối xóm vui lòng đón anh trở lại xã hội người. Cứu người phong khỏi bệnh, Chúa còn trả lại nhân phẩm cho anh, cứu anh khỏi thân phận bị loại trừ, hất hủi.
Lệnh truyền thứ hai của Chúa đối với người phong là anh ta không được kể chuyện mình cho ai nghe. Chi tiết này xem ra mâu thuẫn với việc phải đi bẩm báo các vị tư tế, và ý muốn cho anh hội nhập xã hội trở lại. Đương sự đã không thể giữ miệng được lâu. "Vừa ra khỏi đó, anh đã bắt đầu rao truyền và tung tin đó khắp nơi". Anh đã trở thành người rao giảng Tin Mừng cứu độ, bởi vì anh đã được cứu độ, được giải phóng. Việc anh loan báo tin vui đã khiến Đức Giêsu không thể công khai vào thành nào được. Chúa không muốn bị người ta xem Ngài là ông thầy lang mát tay, Ngài không muốn gây một sự cuồng nhiệt nơi quần chúng. Cho dù làm cho người ta hiểu đúng Tin Mừng của Chúa không phải là một điều dễ dàng.
Thánh Gioan đã gọi các phép lạ của Chúa là những "dấu chỉ", Chứng tỏ vương quốc tình yêu, công bình, hòa bình, hạnh phúc của Thiên Chúa đang đến với lịch sử nhân loại. Qua các phép lạ, Chúa muốn chứng tỏ vì sao Chúa đến. Chúa đến không phải để làm thầy lang, người trừ qủi, người giảng thuyết, mà là để chia sẻ thân phận cùng khổ, tuyệt vọng của con người chúng ta, và để cứu chúng ta khỏi mọi sự dữ. Như chúng ta vẫn thường tuyên xưng: "Vì loài người chúng tôi và để cứu chuộc chúng tôi, Người đã từ trời xuống thế".
11. Nếu Thầy muốn, Thầy có thể chữa tôi (Suy niệm của Noel Quesson)
Người phong cùi quỳ xuống cầu xin Chúa: “Nếu Thầy muốn, Thầy có thể chữa tôi”.
Bác sĩ Collins là một người vô tín, có kiến thức cao, ngày kia, gặp một bác nông dân đi lễ, ông lên tiếng hỏi:
- Bác đi đâu vậy?
- Tôi đi nhà thờ, thờ lạy Chúa.
- Chúa của bác to hay nhỏ?
- Thưa ông, Chúa rất lớn, đến mức các tầng trời không chứa nổi; nhưng Người cũng rất nhỏ, có thể ngự nơi trái tim tôi.
Câu nói của bác nông dân đã tóm gọn đầy đủ niềm tin vào Thiên Chúa: tin vào Chúa quyền năng, có thể làm được mọi sự. Đồng thời cũng tin rằng Chúa yêu thương ta triệt để, Người làm chủ trái tim ta. Người phong cùi kể trong Tin Mừng hôm nay đã cho ta thấy một lòng tin như vậy.
Trong xã hội Do Thái thời Chúa Giêsu, người phong cùi là loại người đáng ghê tởm nhất. Họ không được ở chung với cha mẹ anh em trong nhà, không được tiếp xúc với dân làng. Họ phải sống thành nhóm riêng nơi mồ mả, chốn hoang vu. Mỗi khi thấy ai tới gần, họ phải la lên: “Ô uế! ô uế!” để người ta biết mà tránh xa họ. Luật Môsê cấm liên hệ với người phong cùi. Trò chuyện với họ là phạm luật, chưa kể sự đụng chạm tới thân xác họ. Trong hoàn cảnh cách ly đó, một người phong cùi đã nghe nói về Chúa Giêsu, anh tin tưởng Chúa có quyền cứu anh. Anh đón đường đến quỳ trước mặt Chúa và van xin: “Nếu Thầy muốn, Thầy có thể chữa tôi”.
Chuyện này xảy ra vào giai đoạn đầu cuộc sống công khai của Chúa Giêsu. Người ta chỉ mới nghe đồn về Chúa như một dấu lạ xuất hiện, nhưng người phong cùi này hẳn phải được ơn trên soi sáng, mới có được một lòng tin đặc biệt như vậy. Anh đón gặp Chúa mà không sợ Ngài xua đuổi. Anh biểu lộ niềm tin, biết rõ Chúa có thể chữa mình khỏi thứ bệnh nan y. Anh quỳ gối trước Chúa, tỏ lòng tôn sùng, một thái độ người ta vốn dành cho thần linh, cho Thượng Đế.
Thấy lòng tin của anh, Chúa xúc động thương cảm, giơ tay chạm vào người anh và nói: “Ta muốn anh được khỏi”. Chạm đến người phong cùi, Chúa đã phạm luật, khiến một số người đang dò xét Chúa phải bực bội vì hành động này. Dĩ nhiên, Chúa muốn thay đổi những lệch lạc trong luật. Chúa có quyền và đến để làm việc đó. Nhưng ở đây, Chúa muốn tỏ ra Người đã hài lòng trước lòng tin vững mạnh của người phong cùi. Tình yêu Chúa đã trao ban rộng rãi và có thể phát sinh những hiệu quả kỳ diệu, khi con người tin tưởng mở rộng tâm hồn đón nhận.
Lạy Chúa, xin ban Thánh Thần cho chúng con, nhờ Người soi sáng, chúng con luôn nhận ra Chúa quyền năng và yêu thương đang hiện diện trong cuộc sống chúng con. Nếu Ngài muốn, Ngài có thể chữa lành chúng con và những người anh chị em bệnh nạn đang kêu cầu Chúa. Chúng con ngợi khen Ngài.
12. Hãy loan báo tin vui – ĐGM. Arthur Tonne
Người cha của một gia đình ở Idaho mới trở thành Kitô hữu. Ông nói về Chúa Kitô mỗi lần có dịp. Ngày kia, người láng giềng vô thần thử ông với một câu hỏi: “Thực sự anh có biết gì về Đức Kitô không?”. Người đạo mới trả lời: “Có, tôi biết”. Người vô thần hỏi: “Người sinh ra bao giờ?”. Người đạo mới không biết chắc. Tới câu hỏi khác: “Người chết lúc Người bao nhiêu tuổi?”. Một lần nữa, người đạo mới của Đức Kitô không trả lời được. Quả thực câu trả lời của ông quá yếu không xác thực đối với các câu hỏi của người lối xóm. Cuối cùng người vô thần la lên “Coi, anh chẳng biết gì về Đức Kitô, phải không?”. Người đạo mới trả lời quả quyết: “Tôi biết ít lắm. Nhưng tôi biết điều này: hai năm trước đây, tôi nằm đường, nằm chợ, tôi say sưa, tôi mắc nợ ngập đầu. Hai năm trước đây vợ tôi ít khi mỉm cười. Thấy bóng tôi các con tôi sợ hãi. Nhưng ngày nay, tôi là một người đàn ông tiết độ. Tôi sạch nợ và còn đủ tiền để mua một căn nhà mới. Ngày nay, vợ tôi thường tươi cười, các con tôi chạy lại đón chào tôi. Chúa Kitô đã làm cho tôi tất cả những điều ấy. Đó là điều tôi biết”.
Rất giống người phong cùi trong Tin Mừng hôm nay. Anh không biết nhiều về Đức Kitô; nhưng anh biết một điều Đức Kitô đã chữa lành bệnh. Anh ra đi và loan truyền tin ấy. Mặc dù Đức Giêsu đã bảo anh: “Đừng nói với ai cả”.
Người phong cùi khỏi bệnh nói với mọi người. Đó là ý tưởng của ngày hôm nay. Bạn và tôi phải nói cho mọi người những gì mà Đức Giêsu đã làm cho mỗi người chúng ta. Cử chỉ Chúa làm cho người phong cùi cảm động và đáng chú ý: “Người giang tay đụng tới anh… và bỗng nhiên bệnh cùi biến mất”. Đức Giêsu còn giang tay và đụng tới bạn và tôi bằng nhiều cách.
Ví dụ: Đức Kitô đụng vào chúng ta bằng bí tích Rửa Tội, và làm chúng ta nên anh chị em của Người. Người đụng vào chúng ta với dầu Thêm Sức để ban cho chúng ta Thánh Linh Người đã hứa. Trong phép Giải Tội, Đức Kitô đụng tới chúng ta và chữa chúng ta khỏi phong cùi tội lỗi. Khi rước lễ, phép lạ hơn mọi phép lạ, Đức Giêsu không chỉ đụng tới chúng ta, mà còn đến và sống trong tâm hồn chúng ta. Khi Xức Dầu Bệnh Nhân, Người đụng tới thân thể yếu liệt và linh hồn run sợ của chúng ta, Người chữa lành tất cả. Người giang tay cho bạn là cô dâu, là chú rể để thánh hóa sự kết hợp hôn phối của bạn.
Đức Giêsu đặt tay trên tôi trong nghi lễ truyền chức để ban cho tôi quyền làm cho bạn nhiều việc Người đã làm. Chúng ta, người công giáo, như người phong cùi khỏi bệnh phải nói cho người khác những gì mà Đức Kitô đã làm cho chúng ta.
Chúng ta có thể dùng những lời của Đức Trinh Nữ Maria trong bài ca tán tụng Magnificat: “Chúa là Đấng Toàn Năng đã làm cho tôi muôn việc lớn lao”.
Việc của tôi, một linh mục là nói lên những gì Đức Kitô đã làm cho chúng ta. Bạn là cha, là mẹ phải nói cho con em bạn những gì Đức Kitô đã làm cho bạn và cho chúng. Bạn là giáo lý viên cũng làm như vậy. Tất cả chúng ta phải nói cho những người tin cũng như không tin bằng lời nói, bằng sách báo công giáo, những gì Thầy Chí Thánh đã làm cho chúng ta. Đặc biệt, những gì Người làm trong và qua Thánh Lễ: “Người đổ máu ra cho mọi người”.
Có thể chúng ta không biết nhiều về Đức Kitô. Nhưng chúng ta biết Người đã làm một sự thay đổi lớn - chúng ta được tốt hơn.
Xin Chúa chúc lành cho bạn.
13. Cử chỉ
So với những cử chỉ lớn lao, thì những cử chỉ nhỏ bé lại có thể giúp chúng ta thấu hiểu hơn về tính cách của một con người. Những điều lớn lao chứng tỏ cho chúng ta về sức mạnh nơi một con người. Còn những điều nhỏ nhoi lại cho chúng ta thấy được bản tính nhân loại nơi một con người. Chúng ta có được ví dụ rất tốt đẹp này trong bài Tin Mừng hôm nay. Đó là cử chỉ của Đức Giêsu, qua việc Người đụng chạm vào kẻ bị phong hủi, trước khi chữa lành cho anh ta. Mặc dù tự thân sự đụng chạm là một điều nhỏ bé, nhưng trong bối cảnh này, đó là một việc làm lớn lao. Chính những cử chỉ nhỏ bé giống như vậy, lại khẳng định được nhân cách và giá trị của con người.
Ngày nay, người ta không còn sợ hãi bệnh phong hủi như trước đây. nếu người nào bị lây nhiễm căn bệnh này, mà được điều trị kịp thời, thì họ có thể hoàn toàn khỏi bệnh, và không ai biết rằng họ đã từng bị mắc bệnh. Trong Kinh Thánh qua các thời kỳ, bệnh phong hủi là một trong những căn bệnh đáng sợ nhất. Đối với dân chúng thời đó bệnh phong hủi tương tự như căn bệnh AIDS đối với chúng ta ngày nay.
Người mắc bệnh phong hủi bị cấm không được sống chung với cộng đồng, để bảo vệ cho cả cộng đồng khỏi bị lây nhiễm. Những người phong hủi cũng bị loại ra khỏi những sinh hoạt tôn giáo, bởi vì họ bị coi là những kẻ không tinh sạch theo lễ nghi, và không ai dám liên lạc với họ. Do đó, họ là những kẻ sống ngoài lề xã hội và tôn giáo. Họ bị mọi người ruồng rẫy, khinh miệt và người ta tin rằng họ bị chính Thiên Chúa cũng ruồng rẫy, khinh miệt nữa. Nếu muốn công bố là đã khỏi bệnh, họ phải trải qua một lễ nghi thanh tẩy, trước khi được chấp nhận trở lại với cộng đồng.
Đức Giêsu biết tất cả những điều này. Tuy nhiên, Người đã vượt qua những cấm đoán của xã hội và tôn giáo. Đức Giêsu cho phép người phong hủi lại gần Người. Thế rồi Người đã làm một điều mà không ai ngờ. Người tiến đến gần, đụng chạm vào người phong hủi, trước khi chữa lành cho anh. Tại sao Người lại dám làm một điều mà lề luật cấm đoán? Sự đụng chạm đó cho thấy lòng thương xót lớn lao của Đức Giêsu đối với người sống ngoài lề xã hội, kẻ tội lỗi và người đau khổ.
Người đụng chạm vào người phong hủi, để có thể chứng tỏ rằng tất cả mọi sự đều tinh sạch đối với người mà tự bản thân họ đã tinh sạch. Sự không tinh sạch bên ngoài không hề làm mất đi sự tinh sạch của tâm hồn. Người đụng chạm vào anh ta, để dạy cho chúng ta rằng không được khinh miệt bất cứ ai, và coi họ như là những kẻ đáng thương, bởi vì nỗi đau đớn thể xác của họ. Người đụng chạm vào các thương tích của con người, không phải để cho các thương tích đó có thể dính chặt vào Người, mà là để Người có thể trừ khử chúng ta ra khỏi người đang bị đau đớn.
Đối với người phong hủi, cử chỉ đơn giản đó mang ý nghĩa của cả một thế giới. Nỗi đau khổ tệ hại nhất của người phong hủi không phải là tự thân căn bệnh, mà là nỗi đau đớn vì bị tất cả mọi người ruồng rẫy. Khi đụng chạm vào người anh ta, Đức Giêsu đem đến cho anh một dấu hiệu của sự đón nhận, và sửa đổi nơi anh ý tưởng rằng mình không tinh sạch, vô giá trị, không là gì cả, chỉ là một con người bỏ đi mà thôi.
Đức Giêsu đã có sự hiểu biết lớn lao, và có cảm xúc đối với những người đau khổ, Oscar Wilde nói về điều này như sau;
“Đức Giêsu đã thấu hiểu bệnh phong hủi của người phong hủi, sự tối tăm của người mù, sự bất hạnh do thói tự mãn của những kẻ sống theo lạc thú, sự nghèo nàn đến kỳ lạ của những kẻ giàu có, sự thèm khát có thể dẫn con người đến tình trạng uống cả những giòng nước bùn lầy”.
Đức Giêsu nhấn mạnh đến khả năng thương xót của chúng ta. Người thách đố suy nghĩ của chúng ta về lòng yêu mến. Mỗi người chúng ta đều có khả năng yêu thương lớn lao. Thật đáng tiếc là chúng ta thường không sử dụng đến khả năng yêu thương đó. Chúng ta có được khả năng này trong sức mạnh của chúng ta, để tiếp cận được với những người đang phải chịu đựng nỗi đau đớn của cảnh bị ruồng rẫy. Chúng ta có thể nhen nhúm lại niềm hy vọng, mang lại niềm say mê vui sống nơi người khác, và rồi từ đó, chúng ta phản ánh được một cách mờ nhạt về lòng thương xót vô biên của Thiên Chúa.
Khi nhìn vào Đức Giêsu, chúng ta nhận ra được cách cư xử, mà một cộng đoàn Kitô hữu nên có, đối với những kẻ tội lỗi và những người bị xã hội ruồng bỏ. Trong thời đại của chúng ta, ai là những người phong hủi (sống ngoài lề xã hội)? Chúng ta đã nhận biết được cách cư xử của Đức Giêsu đối với họ. Vậy chúng ta phải cư xử với họ ra sao? Và theo mức độ con người, mỗi người chúng ta đều đã được Đức Kitô thanh tẩy trong phép Rửa tội, và chúng ta cần phải loan truyền tin vui.
14. Lạc quan
Cho đến thời Chúa Giêsu, luật lệ Do thái vẫn rất khắt khe đối với những người phong cùi. Những luật lệ này đã có từ thời ông Môsê được ghi lại trong chương 13 sách Lêvi, qui định rất tỉ mỉ và rõ ràng những trường hợp người bị cùi và cách đối xử với những người ấy. Nghĩa là khi có những triệu chứng bệnh ngoài da, người bệnh phải đến gặp tư tế để khám nghiệm. Nếu là phong cùi thì tư tế sẽ tuyên bố người đó không thanh sạch. Từ đó họ không được ở chung với người lành, không được ở trong làng, nhưng phải sống biệt lập trong hoang địa, không được tham gia bất cứ sinh hoạt nào. Họ không được tới gần người lành, cũng không được để người lành tới gần. Họ phải mặc áo rách, để tóc bù xù, và khi thấy người lành thì phải hô to: “dơ, dơ” để người ta biết mà tránh xa. Nếu họ đụng tới người lành hay người lành đụng tới họ thì người ấy trở thành dơ bẩn và bị khai trừ trong thời gian luật định.
Như vậy, khi đã mắc bệnh cùi là mặc nhiên bị đẩy vào một cái chết dần mòn khủng khiếp. Chẳng những thế, kẻ mắc bệnh cùi còn bị xã hội nguyền rủa và xa lánh. Thân xác tiêu hao, tinh thần băng hoại, đời sống người bệnh không còn gì khác hơn là những tháng ngày rên siết đau thương trong khốn cùng tuyệt vọng.
Hiểu rõ số phận người cùi như vậy, chúng ta sẽ hiểu được trường hợp người cùi trong bài Tin Mừng hôm nay. Một người cùi đến gần Chúa Giêsu và Chúa đã chữa cho người ấy được lành sạch. Như thế, người cùi này đã vượt qua các hàng rào mà luật đặt cho người cùi. Và chính Chúa Giêsu cũng đã vượt qua hàng rào luật định khi Ngài chạm tới người cùi. Nghĩa là với lòng tin mạnh mẽ người cùi đón đường và đến gần Chúa. Còn Chúa, thay vì xa lánh như luật cấm, Ngài giơ tay chạm đến người bệnh. Việc Ngài chạm tới người cùi không làm cho Ngài ra dơ bẩn mà lại làm cho người cùi được lành sạch. Ngài không phạm luật nhưng Ngài làm cho luật nên hoàn hảo.
Thái độ của người cùi này đáng cho chúng ta suy nghĩ. Dù với tâm trạng e dè sợ sệt, anh vẫn tin tưởng kêu xin. Lời cầu xin ấy không phải là một hoài nghi, nhưng diễn tả một niềm tin hoàn toàn phó thác cho tình thương của Chúa Giêsu giữa cảnh cùng đường tuyệt vọng. Trước thái độ tin tưởng khiêm tốn của anh, Chúa Giêsu rất hài lòng, Ngài đặt nhẹ tay trên vai anh và chữa anh lành bệnh bằng một lời đầy âu yếm: “Tôi muốn, anh hãy được sạch”.
Đặt tay hay đụng chạm đến người cùi là một cử chỉ mà lề luật không cho phép và cấm ngặt, vì nó sẽ làm cho con người ra dơ bẩn. Và với quyền năng của mình, không cần đụng chạm vào người cùi, Chúa Giêsu vẫn có thể chữa lành anh ta. Thế nhưng, tình yêu dâng hiến sẽ nhận được tình yêu đáp trả. Tâm tình tin yêu của người cùi đã được Chúa Giêsu đáp lại bằng cử chỉ yêu thương của Ngài.
Câu truyện người cùi trên đây tuy ngắn gọn, nhưng diễn tả được đậm nét nguyên tắc sống của người Kitô hữu: không bi quan về cuộc sống. Không bao giờ mất tin tưởng, dầu cuộc đời xem ra như chẳng còn lối thoát. Và nhất là không bao giờ được quên tình yêu thương săn sóc của Cha trên trời. Bởi vì chẳng có gì ngăn cản con người tìm đến với tình yêu Thiên Chúa. Dù cho cuộc sống có tăm tối u buồn, quanh ta chẳng còn người cảm thông, thì vẫn còn Chúa Giêsu, Ngài luôn chờ đón và sẵn sàng đáp lời chúng ta. Và chúng ta hãy đến với Ngài để học nơi Ngài cách đáp trả.
Chúng ta đừng bao giờ tự làm cho mình thành người mắc bệnh cùi và cũng đừng làm cho những người sống chung quanh mình thành những người cùi. Nghĩa là có những người cư xử như mình bị cùi, khi tự xây cho mình pháo đài ích kỷ, lập dị… Có những người khác lại đối xử với anh em như những người cùi, khi làm cho anh em cô đơn hoàn toàn, do lời nói hay thái độ chia rẽ, phân biệt đối xử… Chẳng hạn có những người, những tập thể mà chúng ta xa lánh theo kiểu dân Do thái xa lánh người cùi. Hoặc chúng ta từ chối tiếp xúc, hợp tác với cá nhân này hay tập thể nọ chỉ vì họ không cùng tín ngưỡng hay không đồng tư tưởng với chúng ta. Nếu sống như vậy là chúng ta tự làm cho mình mắc bệnh cùi và làm cho anh em trở thành người cùi.
Chúng ta đừng bao giờ sống như thế, chúng ta đừng bao giờ tự cô lập mình, đừng bao giờ gây chia rẽ; trái lại, hãy luôn sống cởi mở với mọi người, đối xử với mọi người trong tinh thần yêu thương và hợp tác.
Lạc quan vui sống là đặc tính cơ bản của người Kitô hữu. Chúng ta cần phải lạc quan vì nhận thức được phẩm giá làm người và làm con Chúa của mình. Chúng ta lạc quan vui sống vì biết rằng mình luôn được Thiên Chúa yêu thương săn sóc. Chúng ta lạc quan vui sống vì biết rằng đàng sau mọi gian nan thử thách của cuộc đời, luôn có Thiên Chúa hiện diện để bảo vệ và nâng đỡ, để an ủi và khích lệ. Mỗi ngày có những đau khổ, nhưng cũng lại có niềm vui. Người Kitô chúng ta luôn biết vươn mình trên đau khổ để đón nhận niềm vui được trao ban từ tấm lòng, từ bàn tay, từ nụ cười của Thiên Chúa yêu thương. Một cuộc sống như thế phải là điều bình thường cho những ai biết đặt trọn niềm tin vào tình yêu Thiên Chúa. Một cuộc sống như thế không những chỉ là nguồn vui cho riêng mình mà còn mang hạnh phúc đến cho gia đình, cho xã hội nữa.
15. Lòng từ ái
Trong Kinh Thánh qua các thời kỳ, người ta tin rằng căn bệnh phong hủi rất hay lây nhiễm. Vì lý do đó, những người phong hủi bị bắt buộc phải sống bên ngoài cộng đồng. Người ta biết đến họ như là những người không thể đụng chạm vào được. Sự hiện hữu của họ quả thật là lạnh lùng, cô độc. Họ phải sống xa cách với mái nhà, gia đình và bạn bè của họ. Họ là những con người đã từng hòa mình trong cuộc sống, thế mà hiện nay, họ không là gì cả. Cuộc đời của họ là một cái chết sống động. Người ta tin rằng họ bị Thiên Chúa nguyền rủa. Người ta cho rằng họ không chỉ là những kẻ bệnh hoạn, mà còn không tinh sạch nữa. Người đàn ông đang tiến lại gần Đức Giêsu chính là loại người đó. Anh ta không được xuất hiện trước công chúng, mà không rung chuông, hoặc không la to lên báo hiệu, để cho mọi người cảnh giác. Anh ta có nguy cơ bị xua đuổi bằng những cục đá. Nhưng anh ta quyết định đi gặp một người, mà anh ta tin rằng sẽ không xua đuổi anh.
Đức Giêsu nhìn thấy người phong hủi đang lại gần, và cho phép anh ta tiến thẳng đến với Người. Liệu Người có đụng chạm vào người phong hủi này không? Nếu Người sờ tay vào người phong hủi, thì Người sẽ nói gì? Nếu Người không sờ tay vào người phong hủi, thì Người sẽ nói gì? Nhận thấy tình trạng bi đát của anh ta, Đức Giêsu đã động lòng thương, Người tiến lại gần và sờ vào anh. Đây là một hành động biểu tượng, chắc chắn sẽ gây sốc cho những người xem. (Người ta nhận thấy ở bắc Ailen, thậm chí ngay cả một cái bắt tay đơn giản, cũng có thể gây rắc rối). Khi đụng chạm vào người phong hủi, thì Đức Giêsu đã tự biến mình thành một người không tinh sạch. Hầu hết mọi người trong chúng ta đều e ngại người đau yếu và người nghèo khổ. Chúng ta có thể cho người ăn xin một vài đồng lẻ, nhưng chắc chắn chúng ta không hề có tương quan gì đối với họ. tuy nhiên, chúng ta lại thích được đụng chạm vào. Chúng ta cảm thấy vinh dự, khi được một nhân vật quan trọng nào đó bắt tay, hoặc vỗ vào lưng chúng ta.
Chắc hẳn là sự tiếp xúc về mặt thể lý tạo cho mọi người, đặc biệt là những người đau yếu và bị thương tật, một cảm giác nồng ấm và vui tươi. Chính khi đụng chạm vào người khác, chúng ta cảm nhận được một cách chính xác về người đó. Đức Giêsu đã đụng chạm vào những người phong hủi, tội lỗi, đau yếu và kẻ chết.
Bạn hãy thử tưởng tượng xem người phong hủi cảm thấy sung sướng đến thế nào, khi Đức Giêsu đụng chạm vào người anh ta. Trước hết, anh ta cảm thấy mình là một con người. Thân xác của anh ta đã bị tổn thương sâu xa hơn – do cảm giác rằng mình bị tất cả mọi người, kể ac Thiên Chúa, xua đuổi và bỏ rơi. Bằng cách đụng chạm vào anh ta, Đức Giêsu đã chữa lành tinh thần bị tổn thương của anh ta. Thế rồi người phong hủi nói “Thưa Ngài, nếu Ngài muốn, Ngài có thể làm cho tôi được sạch”.
Đức Giêsu đáp: “Tất nhiên là tôi muốn”. Và Người đã chữa lành cho anh. Bây giờ, anh được chữa lành cả về thân xác nữa, hoàn toàn được lành lặn.
Nơi người y bác sĩ, lòng từ ái hầu như là một điều quan trọng nhất đối với một bệnh nhân. Khi người ta xuất viện sau một cuộc phẫu thuật hoặc một cơn bệnh, một trong những điều mà người ta luôn phê bình, đó là về cách cư xử của các bác sỹ và y tá.
Đức Giêsu yêu cầu người phong hủi im lặng về việc chữa bệnh của Người. Nhưng người này lại loan báo đi khắp mọi nơi về điều mà Đức Giêsu đã làm cho anh ta. Và anh ta không chỉ nói về sự kiện Đức Giêsu chữa lành cho anh, nhưng anh ta còn nói về tấm lòng từ ái và sự tôn trọng thật đáng kinh ngạc, mà Người đã cư xử với anh.
Đức Giêsu đưa bàn tay đầy yêu thương và chữa lành về phía một người hạ đẳng. Người thách đố chúng ta – những kẻ đi theo Người – trong việc tiếp cận với những con người mà ngày nay xã hội ruồng bỏ: các tù nhân, những người nghiện ma túy, những lữ khách, các nạn nhân Aids…
Những điều mà người ta có thể làm cho người khác thật đáng kinh ngạc. Người ta có thể nhen nhúm lại niềm hy vọng, mang đến niềm vui sống, thông truyền cảm hứng cho những kế hoạch tương lai, phục hồi lòng tự trọng và tự hào. Thậm chí người ta còn có thể phản ánh một cách lờ mờ về lòng từ ái vô biên của Thiên Chúa nữa.
16. Phong cùi
Như chúng ta đã biết, bệnh phong cùi là một chứng bệnh hiểm nghèo, rất khó chữa trị. Nó làm cho người mắc phải, bị đau đớn nhức nhối, và trở nên hôi thối. Nó gậm nhấm các chi thể, làm cho các chi thể bị băng hoại, chết dần chết mòn và sau cùng bị rơi rụng.
Hơn thế nữa, nó còn là một chứng bệnh rất hay lây, vì thế người ta thường cô lập những kẻ mắc phải chứng bệnh này ở một nơi riêng rẽ, không cho tiếp xúc với thế giới bên ngoài.
Hình ảnh của bệnh phong cùi cũng chính là hình ảnh tượng trưng cho tội lỗi. Bởi vì tội lỗi làm cho tâm hồn chúng ta trở nên xấu xa và hôi thối dưới mắt Thiên Chúa. Nó cũng làm cho tâm hồn chúng ta bị băng hoại và sau cùng giết chết sự sống của Thiên Chúa, sự sống của ơn sủng trong chúng ta. Đồng thời, tội lỗi còn là như một chứng bệnh truyền nhiễm, do gương mù gương xấu của chúng ta mà nó sẽ lây lan sang những người chung quanh.
Thế nhưng có một điều bi đát, đó là đối với những kẻ mắc phải chứng bệnh phong cùi, thì như tôi vừa nói, người ta thường để họ sống biệt lập tại một nơi hoang vắng, hay trong những trại riêng biệt, hầu giới hạn sự lây lan của nó.
Còn tội lỗi thì khác, nó đang ở giữa chúng ta, trà trộn vào trong chúng ta, thế lực và ảnh hưởng của nó mỗi ngày một bành trướng, nó tràn ngập khắp nơi, từ thôn quê cho tới tỉnh thành, không chỗ nào mà không có dấu vết của nó, để rồi con người thời nay đã đánh mất ý thức về nó. Họ coi phạm tội là một chuyện bình thường, như ăn một chén cơm, uống một ly nước.
Riêng với chúng ta thì sao? Sau khi đã nhận biết sự nặng nề và xấu xa của tội lỗi là như thế, chúng ta hãy có lấy một điều dốc quyết và kiên trì thực hiện điều dốc quyết ấy, đó là thà chết chẳng thà phạm tội mất lòng Chúa.
Hẳn chúng ta còn nhớ câu chuyện về vua thánh Louis, ngày kia ngài cùng với một số quan chức đi thăm một trại cùi. Ngài hỏi một viên đại thần. Nếu ngươi được phép chọn lựa: Một là phạm tội trọng hai là mắc chứng bệnh phong cùi thì ngươi sẽ chọn đường nào.
Viên đại thần trả lời: kẻ hạ thần thà phạm một trăm tội trọng chứ chẳng thà mắc phải chứng bệnh ghê tởm ấy.
Thế nhưng nhà vua đã nói với ông ta: Còn trẫm, thà rằng trẫm mắc phải chứng bệnh ghê tởm gấp trăm lần chứ chẳng thà phạm một tội trọng mất lòng Chúa.
Cố gắng xa tránh tội đã đành, còn khi trót phạm tội, chúng ta phải làm gì? Tôi xin thưa, hãy giục lòng thống hối ăn năn, như vua thánh Đavid ngày xưa: Lạy Chúa, xin thương xót con, vì con đã vấp phạm đến Chúa, rồi sau đó thi hành ngay phương thế mà Chúa Giêsu đã chỉ cho người phong cùi.
Phương thế ấy như thế nào: Con hãy đi trình diện cùng tư tế. Phải chăng mỗi khi chúng ta phạm tội, Chúa Giêsu cũng nhắc nhở chúng ta rằng: Con hãy đi gặp linh mục nơi tòa giải tội.
Bởi vì như chúng ta đã biết, bí tích Giải tội chính là bí tích của lòng thương xót, nhờ đó mà chúng ta sẽ được Chúa tha thứ. Và tòa giải tội chính là nơi để chúng ta gặp gỡ và làm hòa cùng Thiên Chúa.
Có một người khô khan nguội lạnh, tới gặp một vị linh mục và nói: Thưa cha con tội lỗi nặng nề lắm, chỉ có một cách là thắt cổ chết quách đi cho rồi. Vị linh mục dẫn người đó tới chân tượng thánh giá và hỏi:
Ai chịu chết trên đó?
- Thưa, Chúa Giêsu.
Tại sao Ngài lại chịu chết?
- Thưa, để cứu chuộc nhân loại.
Vậy trong nhân loại có con hay không?
- Thưa, có.
Thế là người đó thêm niềm cậy trông, giục lòng ăn năn, xưng thú tội lỗi và tìm lại được sự bình an cho tâm hồn.
Hãy xa tránh tội lỗi để tâm hồn được bình an, đồng thời hãy ăn năn sám hối để lấy lại được tình nghĩa của Chúa.
17. Phong cùi
Bệnh phong cùi ngày nay không còn là một chứng bệnh nan y, nếu được chữa trị theo đúng phương pháp. Số người mắc bệnh cùi ở Việt Nam vẫn còn nhiều, khoảng 20.000 người. Họ thường phải sống ở những nơi xa xôi hẻo lánh. Đa số bệnh nhân bị tật nguyền, không thể mưu sinh. Nói chung, họ luôn thiếu ăn, thiếu mặc, thiếu nhà ở cũng như thiếu tình thương chăm sóc.
Phần lớn trong họ chưa biết Chúa, nên trước những đau khổ thân xác và tinh thần, họ dễ rơi vào cảnh tuyệt vọng. Đã có những tấm lòng nhân hậu, noi gương Chúa Giêsu, cúi xuống trên nỗi bất hạnh của họ. Chẳng hạn các tu sĩ nam nữ, các giáo dân thiện chí tại những trại phong cùi, rải rắc trên toàn đất nước.
Thế nhưng, trong bối cảnh của xã hội Do Thái cách đây hơn 2000 năm, thì phong cùi quả là một chứng bệnh khủng khiếp. Họ bị đồng hóa với những kẻ bị Thiên Chúa trừng phạt. Kiếp sống của họ thật đáng thương. Họ phải mặc quần áo tả tơi, tóc tai phải bù xù, râu mép phải che lại. Họ bị xua đuổi khỏi cộng đoàn, sống tách biệt trong những nơi hoang vắng và nếu có đi tới đâu, thì phải kêu lớn tiếng: Tôi nhơ bẩn, để người khác nghe thấy mà tránh cho xa. Người mắc bệnh phong cùi như thế bị coi như là một người đã chết ngay khi còn đang sống. Họ chỉ là như một thây ma biết di động mà thôi.
Đoạn Tin Mừng sáng hôm nay kể lại câu chuyện một người phong cùi đến gặp Chúa Giêsu. Anh ta đã làm một điều táo bạo vượt ra ngoài luật lệ cho phép. Điều duy nhất khiến anh ta có can đảm để làm như vậy, đó là lòng tin vào Chúa Giêsu, một người mà anh đã được nghe nói đến. Anh ta không sợ mình làm cho Ngài bị nhơ bẩn, nhưng anh ta hy vọng chính Ngài sẽ làm cho anh được sạch. Lòng tin này khiến anh quỳ gối xuống trước mặt Ngài và kêu van:
- Nếu Ngài muốn, Ngài có thể làm cho tôi nên sạch.
Tất cả ước mơ của anh là được khỏi bệnh, trở nên lành sạch, được làm một con người bình thường, nối lại những liên hệ với xã hội. Anh tin là Ngài có thể làm được chuyện lớn lao đó, miễn là Ngài muốn.
Trước tình cảnh bi đát này Chúa Giêsu đã động lòng thương, Ngài đã đưa tay ra đúng vào con người anh ta. Và Ngài trả lại cho anh ta toàn bộ những gì đã mất. Chúa Giêsu không ngại nhơ bẩn, bởi vì Ngài đã để cho lòng thương xót trào dâng.
Đoạn Tin Mừng trên đòi chúng ta phải thay đổi thái độ đối với những kẻ bất hạnh. Nếu hiểu phong cùi là chứng bệnh hiểm nghèo làm cho nên ghê tởm, thì trong xã hội còn biết bao nhiêu thứ phong cùi khác nữa. Chẳng hạn những người nghiện ma túy, những người trộm cắp từng vào tù ra khám, những người mắc bệnh Siđa… Chúng ta dễ có thái độ coi thường và xa tránh. Nhiều khi họ muốn trở nên lành sạch, muốn mọi người quên đi cái dĩ vãng lầm lỡ của họ và làm lại cuộc đời, nhưng chúng ta lại không tin là họ có thể thực hiện được điều ấy. Chúng ta phê phán cái bề dầy của dĩ vãng, chúng ta khinh bỉ và chê trách họ.
Chúa Giêsu đã đưa tay động tới người phong cùi và chữa lành cho anh ta. Ước mong phép lạ Chúa Giêsu ngày xưa được kéo dài bằng thái độ yêu thương và chăm sóc của chúng ta.
Chắc hẳn rằng bệnh phong hủi là một căn bệnh khủng khiếp, nhưng không khủng khiếp bằng cảm giác không được yêu thương, không ai mong muốn mình bị ruồng bỏ. Một trong những điều tệ hại nhất có thể xảy ra cho một con người, đó là bị xua đuổi. Sự xua đuổi gây tổn thương cho bất cứ cảm xúc hoặc tâm trạng nào khác. Điều này làm tổn hại đến giá trị bản thân, khiến cho người ta cảm thấy mình vô giá trị. Sự xua đuổi còn làm cho người ta muốn co rút lại hoặc công khai nổi loạn. Trong một bộ lạc ở Châu Phi, có một hình phạt chủ yếu là tẩy chay.
Sự xua đuổi gây tác hại đối với trẻ con, người lớn tuổi, người tật nguyền… Đối với một đứa trẻ, tình trạng bị cha mẹ bỏ rơi tương đương với cái chết. Người lớn tuổi sợ hãi bị bỏ rơi, còn hơn là tất cả những bệnh tật của họ. Những vết thương nặng nề nhất gây ra cho người bị tật nguyền, không phải là do những hạn chế của họ về mặt thể lý hoặc tâm lý, nhưng là do tình trạng bị bỏ rơi mà họ đã từng trải qua. Những người làm công việc sáng tạo (các nhà văn, nghệ sĩ v.v…) đều là những người nhạy cảm, dễ cảm thấy đau khổ, bất chấp những thành công mà họ đã đạt được. về một phương diện nào đó, mỗi người chúng ta đều đã từng cảm thấy nỗi đau bị khước từ.
Có những cách để tự cô lập mình khỏi tình trạng bị khước từ – phiêu lưu đôi chút, không muốn (không cần) gì cả, tránh né các mối quan hệ. Dường như tốt hơn là nên xây dựng những bức tường, và tránh né các mối quan hệ, hơn là liều mình chịu đau khổ vì bị khước từ. Nhưng điều này cũng giống như việc cưa chân đi, để khỏi cần phải mang giày.
Người đàn ông tiến lại gần Đức Giêsu là một người đã bị ruồng bỏ. Vì là một người phong hủi, nên anh ta bị bắt buộc phải sống bên ngoài cộng đồng. Thậm chí người ta còn không được đụng chạm vào anh ta. Vào thời kỳ đó, bệnh tật bị coi như một sự trừng phạt vì tội lỗi. Do đó, người ta coi người phong hủi cũng bị cả Thiên Chúa ruồng bỏ. Nỗi đau khổ tệ hại nhất của người phong hủi không phải là căn bệnh phong hủi, nhưng chính là nỗi đau bị tất cả mọi người ruồng bỏ.
Khi chúng ta khước từ người nào, là chúng ta đang thực sự cư xử với họ giống như những “người phong hủi”, mặc dù chúng ta không ý thức về điều đó. Chúng ta có thể khước từ một người, theo những cách thế nhỏ bé nhưng tinh tế – bằng một giọng nói hoặc thậ chí chỉ bằng một cái nhìn của chúng ta. Nhưng những chuyện khó chịu nhỏ nhặt do bị khước từ, lại có thể tích lũy thành những hậu quả trầm trọng lâu dài.
Điều thú vị không phải là việc Đức Kitô chữa lành người phong hủi, nhưng là cách Người chữa lành cho anh ta. Vì bị tất cả mọi người loại trừ và ruồng bỏ, nên những kẻ phong hủi bắt buộc phải rung chuông báo hiệu mọi người, mỗi khi người đó ra đường; không một ai muốn đến gần họ, vì sợ bị lây nhiễm, và bị qui cho là không tinh sạch.
Nhưng Đức Giêsu lại bỏ qua tất cả điều này. Người đã động lòng thương, khi nhìn thấy hoàn cảnh khó khăn của người phong hủi. Đức Giêsu cho phép người đó đến gần Người. Thật ra Người đã làm một điều mà không ai ngờ: Người tiến lại gần và đụng chạm vào anh ta. Bằng cách đó, Người đem đến cho anh một dấu hiệu đón tiếp, và chấn chỉnh nơi anh ta ý tưởng rằng mình là người dơ bẩn, không xứng đáng, và không là gì cả, mà chỉ là một hạng người thừa. Trước khi chữa lành cho thân xác tan nát của anh, Người đã chữa lành sự nhận thức đầy mặc cảm nơi anh.
Đức Giêsu chấp nhận người phong hủi đúng theo con người của anh. Sự chấp nhận là một câu trả lời cho sự khước từ. Đây là một trong những điều thân ái nhất có thể xảy ra cho chúng ta. Khi chấp nhận, chúng ta có cảm giác rằng con người mình có giá trị.
Mỗi người chúng ta đều khát khao được chấp nhận con người của mình. Chính sự quí mến và chấp nhận của người khác, làm cho chúng ta được là con người duy nhất theo đúng bản chất của mình. Khi chúng ta cho rằng mình làm việc chỉ vì công việc, rằng người khác cũng có thể làm cùng một công việc đó, thậm chí còn tốt đẹp hơn chúng ta, thì chúng ta không phải là con người duy nhất. Nhưng khi chúng ta chấp nhận con người của mình, thì chúng ta có khả năng nhận ra được đầy đủ tiềm năng nơi bản thân mình.
Đây là cách Đức Giêsu chấp nhận người phong hủi, và chấp nhận chúng ta. Và đến lượt mình, đây cũng là cách thế mà chúng ta phải học hỏi, để biết chấp nhận người khác, và tiếp cận với những người đang phải chịu đựng nỗi đau khổ tình trạng bị khước từ. Đến lượt mình, chúng ta phải có thể nhen nhúm lại niềm hy vọng, mang lại niềm say mê vui sống nơi người khác, và rồi từ đó, chúng ta phản ánh được một cách mờ nhạt về lòng thương xót vô biên của Thiên Chúa.
19. Đức Giêsu chữa người bị phong cùi - JKN
Câu hỏi gợi ý:
1. So với những người Do Thái thường tình, cách đối xử của Đức Giê-su đối với những người cùi hủi có gì khác lạ? Ta có thể rút ra bài học gì về cách xử sự với những người xấu số, bị người đời khinh ghét, ghê tởm?
2. Đức Giê-su có phân biệt đối xử dựa trên giàu nghèo, sang hèn không? Sự phân biệt đối xử như thế chứng tỏ một tình trạng tâm linh thế nào?
3. Tại sao Đức Giê-su lại yêu cầu người cùi được Ngài chữa lành đừng nói gì về việc Ngài đã làm cho anh ta?
4. Làm được một việc lành mà lại muốn khoe cho người khác biết thì ta được lợi gì về mặt tâm linh? Thiên Chúa đánh giá việc làm của con người dựa trên cái gì?
Suy tư gợi ý:
1. Thái độ của Đức Giê-su đối với những người bệnh cùi: yêu thương và tôn trọng người xấu số
Bệnh cùi là một bệnh rất dễ lây truyền, mà ở vào thời Đức Giê-su, lại là một bệnh nan y không có thuốc chữa. Nếu không có biện pháp cách ly những người bệnh cùi khỏi những người không bệnh, thì thật là nguy hiểm cho xã hội. Vì thế, luật Môsê (x. Lv 13,1-14,57) chủ trương buộc những người lãnh đạo trong dân phải cô lập họ ở một nơi nhất định, thường là hẻo lánh, đồng thời tuyên bố những người nhiễm bệnh này là người ô uế, để mọi người tránh xa họ. Ai tiếp xúc với họ thì cũng trở thành ô uế. Nhưng người cùi nhiều khi lại không chịu ở nơi qui định cho họ, mà lại hay đi lang thang để xin ăn, hoặc tìm cách gặp thân nhân của mình. Vì thế, để buộc họ phải tránh xa mình, một số dân chúng đã ném đá họ khi gặp họ trên đường đi. Do đó, người bị bệnh cùi phải sống một cuộc sống hết sức cô đơn, khốn khổ, thiếu thốn, và đầy mặc cảm vì bị mọi người ghê tởm, xa lánh.
Nhưng theo Đức Giê-su, dù thân hình họ xấu xa gớm ghiếc, họ vẫn là con cái Thiên Chúa, là con cháu của Áp-ra-ham, là đồng bào ruột thịt, nên họ vẫn là anh chị em với mình. Vì thế, mình cần phải yêu thương họ, phải đối xử với họ bằng tình thương. Vả lại, không vì hình thể gớm ghiếc bên ngoài mà giá trị con người của họ bị suy giảm trước mặt Thiên Chúa. Đối với Đức Giê-su, người biết nhìn vào chiều sâu của tâm hồn con người, thì họ không đáng gớm ghiếc và xa lánh cho bằng những người cùi hủi về mặt tâm linh. Cùi hủi tâm linh là tình trạng của những con người sống không biết đến tình nghĩa, sống ích kỷ, chỉ nghĩ tới hạnh phúc hay đau khổ của một mình mình hay của gia đình mình, không hề nghĩ đến hạnh phúc hay đau khổ của người khác, hay của những gia đình khác. Họ sẵn sàng có những hành động bỉ ổi để đè nén hay áp chế người khác, và cách hành động của họ thường là «ném đá dấu tay», «khẩu Phật tâm xà». Càng là người trí thức, càng có địa vị cao trong tôn giáo và xã hội, sự cùi hủi này càng được ngụy trang một cách tinh vi, khéo léo bằng những lời nói, hành động vị tha, bằng vẻ đạo đức bên ngoài (x. Mt 23). Đức Giê-su càng tỏ ra an ủi vỗ những người cùi hủi thể chất bao nhiêu, Ngài càng không tiếc lời khiển trách những người cùi hủi tâm linh bấy nhiêu, thậm chí đến «cạn tàu ráo máng» (x. Mt 23).
Khi người cùi hủi đến cầu cứu Đức Giê-su, Ngài không hề tỏ ra ghê tởm hay xúc phạm đến anh. Trái lại, Ngài «chạnh lòng thương và giơ tay đụng vào» người anh và nói: «Tôi muốn anh được sạch!» Ta đừng vội nghĩ rằng Ngài là Thiên Chúa nên Ngài không sợ lây nhiễm, hay có lây nhiễm thì Ngài sẽ dùng phép lạ để tự chữa. Tôi nghĩ rằng Ngài là «người» thật sự, đúng nghĩa một con người, nghĩa là có thể bị lây nhiễm như bao người khác. Và nếu bị lây nhiễm, không hẳn Ngài sẽ dùng quyền phép Thiên Chúa để tự chữa cho mình, cũng như Ngài đã không lạm dụng quyền năng Thiên Chúa để biến đá thành bánh mà ăn khi đói (x. Mt 4,2-4), hay để trốn thoát khi bị bắt (Mt 26,47-56), v.v... Tốt hơn, nên nghĩ rằng Ngài đối xử với anh ta bằng một tình yêu chân thành nhất, bằng sự tôn trọng đúng nghĩa nhất của một con người đối với một con người, bất chấp phải trả giá đắt. Và đó là điều ta nên noi gương Ngài khi đối xử với mọi người, nhất là với những người xấu số, bị xã hội coi thường, khinh bỉ. Đạo đức của ta có hay không, ít hay nhiều hệ tại điều này. Sự phân biệt đối xử căn cứ trên giàu nghèo, sang hèn chứng tỏ một tâm hồn nghèo nàn về đạo đức và tâm linh.
2. Thái độ của Đức Giê-su: không muốn ai biết về mình
Bài Tin Mừng cho thấy, sau khi chữa lành căn bệnh nan y như thế, Ngài nói với người được chữa lành: «Đừng nói gì với ai cả». Đó là một thái độ thường hằng của Ngài sau khi làm được một điều gì đáng khen ngợi, thậm chí đến kinh ngạc: Ngài không muốn được người khác biết đến (x. Mt 8,4; 16,20; 17,9; Mc 1,34; 1,44; Lc 4,41), trì phi vì ích lợi cho họ (chẳng hạn để họ được cứu rỗi). Ngài đã áp dụng đúng điều Ngài khuyên mọi người: «Khi làm việc lành phúc đức, anh em phải coi chừng, chớ có phô trương cho thiên hạ thấy. Khi bố thí, đừng cho tay trái biết việc tay phải làm» (Mt 6,1.3).
Thử đặt mình vào địa vị của Ngài khi làm xong một việc mà không ai làm được, ta sẽ cảm thấy ta muốn được nổi tiếng, được mọi người ca tụng hay khen ngợi, hầu đi tới đâu ta cũng được khâm phục, kính trọng và được đối xử một cách đặc biệt. Ta cũng mong có những đặc quyền đặc lợi vì những việc phi thường đã làm được. Khi viết được một bài báo hay, giảng được một bài mà ta đoán được nhiều người tâm đắc, làm được một việc tốt, ta mong chờ những lời khen ngợi. Nếu không được khen, ta cảm thấy như bị hụt hẫng, lòng không thỏa mãn. Ta muốn «cái tôi» của ta được phình to lên, to hơn những người khác.
Xét trên bình diện tự nhiên, đó là một khuynh hướng rất thường tình, rất phổ quát, khá lành mạnh, nó tạo nên động lực để ta cố gắng, nỗ lực hết mình. Tuy nhiên, nếu để khuynh hướng tự nhiên này ảnh hưởng quá đáng trên tất cả mọi việc làm, đến nỗi nó trở thành động lực duy nhất thúc đẩy ta hành động tốt, thì ta trở nên một con người rất tầm thường, dù ta có làm được những việc phi thường. Lúc đó, ta làm mọi sự chỉ là để được khen, được nổi tiếng, một mục đích hoàn toàn vị kỷ, chứ không còn vì yêu thương, vì ích lợi cho người khác nữa.
Còn xét trên bình diện siêu nhiên, khuynh hướng này có thể trở thành một mầm nguy hại cho sự phát triển tâm linh, đạo đức. Theo định luật của tâm linh, muốn cho tâm linh lớn lên, phát triển, thì "cái tôi" phải nhỏ đi, nghĩa là phải sống tinh thần tự hủy, tự xóa mình, quên mình. Đời sống tâm linh càng cao, thì động lực thúc đẩy ta hành động càng phải vị tha, càng phải «vô kỷ, vô công, vô danh" (=không làm vì mình, làm xong không cậy công, không mong được người khác biết mình đã làm).
3. Cách Thiên Chúa đánh giá việc làm của con người
Sự thánh thiện của một người được đánh giá theo mức độ vị tha, quên mình khi hành động. Động lực thúc đẩy hành động của một người thánh thiện chính là tình yêu đối với Thiên Chúa và tha nhân. Càng thánh thiện thì động lực thúc đẩy càng phải thuần túy là tình yêu hơn, và càng ít tính chất vị kỷ đi. Chính tình yêu làm cho hành động - dù nhỏ hay lớn - trở nên có giá trị trước mặt Thiên Chúa. Thánh Phao-lô viết: «Giả như tôi được ơn nói tiên tri, và được biết hết mọi điều bí nhiệm, mọi lẽ cao siêu, hay có được tất cả đức tin đến chuyển núi dời non, mà không có tình yêu, thì tôi cũng chẳng là gì cả. Giả như tôi có đem hết gia tài cơ nghiệp mà bố thí, hay nộp cả thân xác tôi để chịu thiêu đốt, mà không vì yêu thương, thì cũng chẳng ích gì cho tôi» (1Cr 13,2-3). Như thế, những việc có vẻ đầy tình thương như «đem hết gia tài cơ nghiệp mà bố thí», nếu ta làm chỉ vì mong được tiếng là đạo đức, là thương người, hay để được một lợi ích nào đó cho bản thân ta, chứ hoàn toàn không vì yêu thương, thì chẳng có giá trị gì trước mặt Thiên Chúa. Nó chẳng phải là một việc đạo đức, mặc dù có vẻ rất đạo đức.
Câu nói trên của thánh Phao-lô cho thấy: một việc làm dù rất nhỏ như quét nhà, giặt giũ, nấu bếp của một người vợ hay người con trong nhà, nếu được làm với tâm tình yêu mến Thiên Chúa, nhằm làm cho những người thân yêu của mình tốt đẹp hơn, hạnh phúc hơn, thì có thể có giá trị rất lớn trước mặt Thiên Chúa. Những việc làm nhỏ bé được làm với tình yêu ấy rất có thể giá trị trước Thiên Chúa hơn cả những việc làm hết sức lớn lao của những bậc vị vọng trong xã hội cũng như Giáo Hội, nếu những người này làm chỉ vì muốn được danh tiếng, được thăng quan tiến chức, chứ không phải vì yêu thương.
Cứ xem cách đánh giá của Đức Giê-su khi quan sát những người bỏ tiền vào thùng dâng cúng cho đền thờ thì thấy rõ cách định giá trị của Thiên Chúa đối với các việc làm của con người: «Bà goá nghèo này đã bỏ vào thùng nhiều hơn ai hết» (x. Mt 12,41-44). Cách Ngài đánh giá khác hẳn với cách của con người. Ngài dựa trên tấm lòng, động lực thúc đẩy hành động, chứ không dựa trên hiện vật hay kết quả của hành động. Cùng một việc làm, nhưng động lực tình yêu càng lớn, thì giá trị công việc càng cao. Chỉ có Thiên Chúa mới có thể đánh giá chính xác giá trị của một hành động, vì chỉ Ngài mới biết rõ động lực thúc đẩy của hành động ấy là gì.
Cầu nguyện
Lạy Cha, Đức Giê-su luôn luôn tự đồng hóa Ngài với tha nhân của con, nhất là với những người bé mọn, đau khổ nhất (x. Mt 25,40.45; Lc 9,48). Xin cho con biết yêu thương và cư xử với những người bị thế gian coi thường ấy như với chính Cha và Đức Giêsu vậy
20. Chú giải mục vụ của Jacques Hervieux
Trình thuật khởi đầu một cách đầy bất ngờ, chẳng xác nhận thời gian lẫn nơi chốn (c. 40a). Đặc biệt động từ “đến” được dùng ở thì hiện tại lịch sử. Chắc chắn Maccô muốn nêu bật giá trị “hiện thực” của biến cố này cho bản văn của ông. Thêm vào đó, ngay nơi bản văn cũng đưa ra cho độc giả một vài vấn nạn. Tại sao Chúa Giêsu lại đuổi thẳng thừng anh chàng vừa được Ngài chữa lành? (c. 43). Tại sao anh chàng phung hủi vừa được chữa lành lại dám bất tuân không giữ lệnh Chúa truyền cho anh ta phải giữ kín miệng? (c. 45). Các nghịch lý này hẳn sẽ tác hại cho sự mạch lạc của bản tường trình có tính trực tiếp như thế nếu chúng không được giải thích đầy đủ trong nhãn quan của một sự cố được đọc lại dưới ánh sáng đức tin. Chúng ta sẽ thấy rõ điều này.
Người bệnh tiến đến gần Chúa Giêsu, khiêm tốn, tin cậy van xin: anh ta quỳ gối xuống trước mặt Chúa, nài xin Chúa chữa lành nếu Chúa muốn (c. 40b). Muốn hiểu được lời thỉnh cầu này, chúng ta phải biết rằng vào lúc bấy giờ, người phung hủi là kẻ hoàn toàn bị “khai trừ” khỏi xã hội. Mắc phải một chứng bệnh nặng nề và ô nhiễm như thế, kẻ ấy phải sống ngoài lề cộng đoàn của mình. Ngay từ thời xa xưa trong quá khứ, người ta đã đề ra những biện pháp phòng ngừa kỹ lưỡng nhất để tránh mọi sự đụng chạm thể xác giữa những người khỏe mạnh và loại người mắc bệnh đáng tởm này. Bức chân dung được luật Môsê vẽ ra về loại bệnh nhân này tố cáo sự khai trừ mãnh liệt của Lề Luật như sau: “Một khi mắc chứng bệnh này, kẻ phong hủi phải mặc quần áo tả tơi, tóc tai xõa xuống, râu mép để dài và phải la lớn: “Ô uế, ô uế!”. Bao lâu còn mắc bệnh thì kẻ ấy vẫn phải sống tách biệt, phải ra ngoài đồng vắng mà ở” (Lv 13,45-46). Thực thế, trong Kinh Thánh, bệnh hủi không những chỉ là thứ bệnh gây kinh hãi, gặm nhấm và làm biến dạng hình hài bệnh nhân (đến nỗi thấy kẻ ấy người ta phải che mặt), nó còn là thứ bệnh mang chiều kích tôn giáo. Kẻ mắc bệnh này bị xem như đã phạm một trọng tội nên bị Chúa trừng phạt. Một số giáo sĩ đương thời Chúa Giêsu còn dám phóng đại cho rằng bệnh hủi dùng để trừng phạt bảy mối tội đầu như: vu khống, giết người, làm chứng gian, ham trụy lạc, kiêu căng, trộm cắp và tham lam. Từ thời xửa thời xưa, người phong hủi bị mọi người kể như là một xác chết biết di động. Bị phung hủi là lập tức bị khai trừ, và bị ruồng bỏ như một thây ma đầy “ô uế”, nghĩa là không thể thông giao với Thiên Chúa cũng như với loài người. Chỉ có Thiên Chúa mới có thể chữa lành được thứ bệnh này. Ngài đã dùng nó như hình phạt thì chỉ Ngài mới có thể giải thoát bệnh nhân khỏi hình phạt đó (xem Cuộc đời Myria, em gái Môsê trong Ds 12,1-16).
Thế mà người ta trông thấy Chúa Giêsu đã phản ứng như thế nào trước lời van xin của kẻ phung hủi bị khai trừ khỏi xã hội và cộng đoàn (c.41). Cử chỉ của Chúa Giêsu thật đơn sơ nhưng tràn đầy ý nghĩa: Ngài dám đưa tay chạm đến kẻ mà không ai dám sờ đến. Và lời Ngài mang uy lực lời nói của Thiên Chúa: Ngài nói và sự việc xảy ra đúng theo lời Ngài (c. 42).
Khi tường thuật lại sự cố này, hẳn Maccô đã chủ ý mang lại cho nó trọn vẹn một trong số các dấu chỉ giúp người ta nhận ra việc khánh thành thời đại Đấng Mêsia (x. Mt 11,1-5, câu trả lời của Chúa Giêsu cho các sứ giả của Gioan Tẩy Giả). Như vậy, Đấng Mêsia, Đấng hồi phục trọn vẹn sức khỏe thể lý và thiêng liêng cho con người, hiện đang có mặt ở đây. Tuy nhiên, một lần nữa, người ta lại ngạc nhiên về tiến trình gặp gỡ giữa Chúa Giêsu và bệnh nhân được chữa lành (c. 43-44a). Hành vi của vị đạo sư quả là cứng cỏi. Ngài đuổi anh chàng trước đó bị mắc bệnh phung hủi: động từ trong tiếng Hy Lạp ở đây có nghĩa là “xua đuổi, trục xuất”. Chính Maccô đã dùng động từ này để chỉ việc trục xuất ma quỷ (1,34-39’ 3,15-22; 6,13 v.v…). Sự thô bạo của Chúa Giêsu đi kèm theo mệnh lệnh nghiêm khắc truyền giữ kín miệng, nghĩa là truyền anh ta phải giữ “Bí mật của Đấng Thiên Sai”. Vị Đạo Sư không muốn người ta hiểu sai ý nghĩa sứ mệnh của Ngài. Ngài không phải là gã phù thủy mà họ mong ước đến để tiêu hủy mọi sự dữ trên trái đất. Họ chỉ có thể thực sự hiểu được bản thể và sứ mệnh sâu sắc của Ngài dưới ánh sáng cuộc tử nạn và Phục Sinh của Ngài.
Trình thuật tiếp tục với lời Chúa Giêsu yêu cầu người trước đây bị phung hủi: “Hãy đi trình diện tư tế…” (c. 44b). Khi sai anh ta đến trình diện thầy tư tế, Chúa Giêsu muốn bảo đảm cho anh ta được tái hội nhập vào cộng đoàn tôn giáo. Chính thầy tư tế là người chính thức được đặc cách để chuẩn nhận việc anh ta được lành bệnh (Lv 14,1-9 và tiếp theo). Chu toàn nghi thức như thế trước các vị đại diện dân chúng không khác nào đưa ra “bằng chứng” cho dân Do Thái biết rằng Chúa Giêsu đã hoàn tất niềm mong đợi lâu dài về Đấng Mêsia. Từ đó họ phải kết luận ra rằng thời gian cứu độ đã đến.
Tuy nhiên đây quả là điều làm chúng ta ngạc nhiên: Anh chàng phung hủi đã vi phạm lệnh Chúa truyền phải nín lặng về trường hợp khỏi bệnh của anh ta (c. 45a); Anh ta vẫn cứ “công bố” tin này ra; đây chính là động từ được dùng để diễn tả việc công bố Phúc âm. Rõ ràng ở đây Maccô đã “ nhảy qua” thời đại Chúa Giêsu để đặt các độc giả của ông vào “hiện thực tính”. Người từng bị phung hủi trước kia giờ đã trở thành một loại thừa sai loan báo Tin Mừng. Khi Chúa Giêsu từ cõi chết sống lại thì “Bí mật Mêsia” không cần giữ kín nữa. Giờ đây, sau khi được các biến cố cứu độ soi sáng, theo gương anh chàng phung hủi được Chúa Giêsu chữa lành, các độc giả được mời gọi loan báo sứ điệp giải phóng vui mừng của Chúa Giêsu.
Tuy nhiên, khi kết thúc trình thuật này, Maccô đã trở về lại với thời đại Chúa Giêsu. Vì hành vi cứu độ này cũng như vì bị dân chúng đồn ầm lên, vị Đạo Sư bó buộc phải lẩn trốn đám đông đang từ khắp nơi tuôn đến với Ngài (c. 45b). Lúc khởi đầu câu chuyện là một bệnh nhân đơn độc bạo Gioan tiến đến gần Chúa Giêsu. Vào đoạn kết là một đoàn người đông đúc tuôn đến gần vị lương y. Đối với đám đông này, cũng như đối với độc giả, câu hỏi được nêu lên như sau: “Người này là ai mà có thể đem lại vị trí cũ cho những kẻ bị khai trừ, giúp họ thông hiệp với Thiên Chúa và với cộng đồng anh em bè bạn của họ?”.
21. Chú giải của Noel Quesson
Có người bị phong hủi đến gặp gỡ Đức Giêsu... và dân chúng từ khắp nơi tuôn đến với Người.
Theo lối hành văn Sêmít cổ xưa, mà người ta gọi là “gom kết" lại, thì trang Tin Mừng của Mác-cô trên đây được đóng khung trong hai câu giống nhau. Ở đầu trình thuật ông diễn tả một bước chân của cá nhân. Kết thúc trình thuật, ta thấy nhiều người đến từ khắp nơi.
Đức Giêsu, là chính Thiên Chúa đến gặp gỡ con người. Nhưng con người, cũng phải đến gặp gỡ Thiên Chúa. Lạy Chúa, xin dẫn con đến gặp gỡ Chúa.
Anh ta quỳ xuống van xin rằng: "Nếu Ngài muốn, Ngài có thể làm cho tôi được sạch".
Đừng quên chúng ta mới ở chương đầu của Tin Mừng Maccô. Con người đó thật là mạnh dạn, hay anh ta đã có một lòng tin phi thường. Anh ta làm một cử chỉ: thưa gửi vài lời. Đó là những gì mà người ta thường chỉ có thể làm và nói với một mình Thiên Chúa.
Thực tế vào thời đó, bệnh phong hủi vẫn còn là một thứ bệnh không thể chữa trị được. Việc chữa lành người phong hủi là một thứ kỳ công giống như việc phục sinh một người chết. Đó là một trong những "dấu chỉ" của thời Thiên Sai (Mt 11,25; Lc 7,18-22). Thái độ khiêm tốn phủ phục của người phong hủi biểu lộ lòng tin của anh nơi Đức Giêsu. Đúng vậy, có những tình huống mà cách cầu cứu duy nhất là "kêu xin" Thiên Chúa, Đấng làm chủ tất cả, ngay cả những gì con người không thể thực hiện được: "Thưa Ngài, Ngài muốn là Ngài chữa tôi được khỏi bệnh”. Đó là một lời nguyện xin cần được lặp đi lặp lại.
Động lòng thương trước người đó.
Ở đây bản thảo Hy Lạp giữ hai từ: "splagknisteis" có nghĩa là động lòng thương, xốn xao lòng dạ, cảm động đến tận tâm can, và "orgisteis" có nghĩa là "nổi giận". Thiếu gì dịp Maccô đã sử dụng rất chính xác từ "nổi giận" nhưng ở đây thật là khó giải thích: Trường hợp một kinh sư, khó chịu trước kiểu nói trên, có lẽ ông ta đã làm giảm nhẹ ý nghĩa. Nhưng vì cả hai "câu dịch" đều có trong bản thảo, nên suy nghĩ về hai ý nghĩa, tưởng là không vô ích. Tại sao Thánh Thần, Đấng linh hứng Kinh thánh, lại không có thể đi đến mức đó, nghĩa là có thể sử dụng những sai lầm của những người sao chép Kinh thánh để nói với ta? Dù sao, qua hai từ trên, chúng ta cũng nhận thấy một "phản ứng rất nhân bản"! Việc nhập thể của Thiên Chúa thật là "hiện thực", đi tới tình trạng chấp nhận cả những tình cảm của con người tầm thường như thế: xót thương, giận hờn. Lạy Chúa. Xin tạ ơn Chúa vì đã muốn cảm nghiệm những cảm xúc của chúng con và đã bầy tỏ cách công khai những diễn biến tình cảm đó. Nổi giận ... "Thực ra điều đó ý nghĩa gì? Riêng tôi, tôi thấy ở đó phản ứng tự nhiên của Thiên Chúa trước nỗi đau khổ của con người". Đức Giêsu nhìn thấy tận mắt một khuôn mặt đáng thương bị các vết thương mâng mủ làm biến dạng. Và Người không thể chịu nổi điều đó, Người nổi giận. Đừng quên rằng, Đức Giêsu là Chính "Thiên Chúa hiện hình cụ thể". Qua thái độ biểu lộ tính khí trên, Đức Giêsu muốn nói với ta rằng, Thiên Chúa lên án định mệnh khắc nghiệt của con người, luôn bị bệnh tật tác hại trên thân xác. Phẫn nộ, đó cũng là phẫn nộ của biết bao người, nhưng trước "vấn đề sự dữ", họ chỉ biết chống đối mãnh liệt nhất đến nỗi phủ nhận sự hiện diện của Thiên Chúa.
“Động lòng thương". Kiểu nói này ta có thể hiểu ngay. Thực vậy, Thiên Chúa của chúng ta không phải là một Thiên Chúa vô cảm, dửng dưng, nhưng là một Thiên Chúa dễ bị thương tổn một Thiên Chúa cùng chịu khổ với nhưng người đau khổ, một Thiên Chúa mang trên mình những thương tích của chúng ta (Is 53,5). Đấng "làm cho Thiên Chúa hiện diện cụ thể” nói cho ta biết tấm lòng trìu mến của Thiên Chúa đối với bệnh nhân. Vậy khi nào chúng ta mới chấp nhận thế giới này, như thực trạng hiện nay của nó, không thể "hoàn hảo" được? Chỉ có mình Thiên Chúa là Thiên Chúa. Chỉ có mình Thiên Chúa là hoàn hảo. Thế gian không phải là "Chúa”. Thế gian không thể hoàn hảo. Thiên Chúa đã không thể làm khác hơn là tạo dựng một thế gian "không phải là Chúa nếu không Người đã không làm được điều gì cả, và Người có thể sẽ muôn đời cô đơn. Do đó, Người đã quyết định tạo dựng con người, được ghi dấu ấn "hữu hạn", rõ ràng “không phải là Chúa". Và như thế, con người phải gánh chịu những rủi ro về tình trạng sức khỏe suy sụp, với khả năng nguy hiểm trở thành phong hủi, điên khùng, khi các nhiễm thể hoạt động lệch lạc. Cần phải có can đảm nhìn thẳng vào "thế gian này". Nhưng, nếu Thiên Chúa tạo thành một tạo vật mang dấu tích hạn hẹp và bất toàn, thì Người chỉ tạo dựng nó trong chương trình là một ngày kia sẽ ban cho nó sự sống thần thiêng của Người.
Đối với Thiên Chúa, con người chưa hoàn hảo, vì chưa được sống lại, chưa được thần hóa. Và sự dữ tác hại con người; đã làm cho Người "nổi giận", đã khơi dậy "lòng thương xót" của Người. Do đó, Đức Giêsu chữa lành một số người bệnh, như là một "dấu chỉ" báo hiệu ngày cánh chung, lúc đó mọi sự "sẽ được hoàn tất" (Rm 8,18).
Đức Giêsu giơ tay đụng vào anh ta
Chúng ta lại có dịp suy nghĩ đến "bàn tay". Ở đây, đối với một người phong hủi, một người "không ai được sờ động đến", thì cử chỉ của Đức Gìẽsu phải mang một ý nghĩa đặc biệt vì không ai được sờ chạm, ôm ấp, vuốt ve họ bao giờ cả. Luật đã cấm như thế. Ngay cả, khi một ai đó tiến lại sát kề họ, họ cũng phải kêu to lên để người khác lánh xa: "Nhơ! Nhơ!": Thế mà ở đây, Đức Giêsu lại dám phá đổ một điều cấm kỵ nguy hiểm đó: Người đụng chạm đến người phong hủi.
Người bảo: "Tôi muốn, tôi cho anh được khỏi bệnh".
Đức Giêsu cứu chữa, nhờ một "cử chỉ" và "bằng một lời phát biểu: Đó là nguyên lý để cử hành mỗi bí tích. Chúng ta là những tạo vật có thể xác, và chúng ta cần đến những cử chỉ trên thân xác. Khi chịu phép rửa, nước đổ trên trán chúng ta, thì một lời cũng được đọc lên nói rõ ý nghĩa của cử chỉ đó. Trong Bí Tích Thánh Thể, khi bánh ban sự sống chạm đến tay và liên hệ đến thân xác ta; thì đồng thời cũng có một lời đọc nêu lên ý nghĩa: “Mình Thánh Đức Kitô".
Tôi cũng có thể dành một chút thời gian để suy gẫm về lời phát biểu: "Tôi muốn!”. Ở đây, một lần nữa, người dịch đã làm giảm nhẹ ý nghĩa bản văn chính thức bằng tiếng Hy Lạp của Maccô (thật là đáng tiếc!). Người phong hủi đã không nói: "Nếu Ngài muốn điều đó", nhưng là nếu Ngài muốn". Và Đức Giêsu cũng không đáp lại: "Tôi muốn điều đó", mà là "Tôi muốn". Điểm quan trọng muốn đề cao ở đây, không phải là đại danh từ "điều đó", những quyền năng thuộc nguyên ý muốn của Đức Giêsu, nghĩa không nhấn mạnh đến điều mong muốn.
Ngay tức khắc, chứng phong hủi biến đi, và anh ta được khỏi bệnh
Câu nói trên phản lại bối cảnh văn hóa của thời đại, là Maccô lúc đó đang viết Tin Mừng. Đối với một người Do Thái, bệnh phong hủi là một "hình phạt của Thiên Chúa", Đấng đã phạt Mytiam, chị của Môsê (Ds 12,9).
Gêhadi, đầy tớ của Êlisê (2V 5,27), Ôdia, ông vua đầy tham vọng (2Sb 26,16). Bệnh phong hủi là chứng bệnh gây sợ hãi, đến nỗi có người kinh sợ dù chỉ nhìn thấy một vết loang lổ trên tường. Vì thế, sách Lê vi đã dành cả hai chương nói về bệnh này. Chứng bệnh làm cho mặt và tay chân người bệnh thối rữa, chứng tỏ sự khủng khiếp của nó. Người ta coi đó như sức tác hại của ma quỷ. Nói đúng ra, người bị phong hủi không được sống thông hiệp với kẻ khác, bị loại ra khỏi cộng đoàn (Lv 13,1-6). Trong chứng bệnh làm ung thối con người như thế, người ta coi đó là "biểu tượng" của tội lỗi. Như thế, ai mà không bị phong hủi! Và ai sẽ cứu chữa ta khỏi chứng bệnh ác độc đó? Thưa, đó là nhờ sự “tiếp cận" và "lời" của Đức Giêsu. Lạy Chúa Giêsu Kitô, nhờ Mình Chúa xin cứu chữa tâm hồn con người hôm nay. Hiện nay, vẫn còn hàng triệu người trong các nước thuộc thế giới thứ ba mắc bệnh phong hủi.
Và giũa chúng ta trong những xã hội tân tiến, vẫn cần tìm kiếm những bàn tay và những tấm lòng để thực hiện tác động "chữa lành" của Đức Giêsu đối với biết bao người nghèo khó: Đó là những người không có vẻ đẹp và ngoại hình lôi cuốn cái nhìn của kẻ khác, đó là những kẻ bị gạt ra khỏi xã hội chúng ta, những trẻ em khuyết tật, những người mắc bệnh nan y.
Người nghiêm giọng đuổi anh ta đi ngay.
Đó là câu dịch chính xác theo đúng bản văn của Maccô (nhưng ta cũng thấy có kiểu dịch làm giảm nhẹ ý nghĩa: "Người cho anh ta ra về với lời cảnh giác nghiêm trọng"). Nếu tôn trọng bản văn, thì Chúa Giêsu được giới thiệu cho ta ở đây, không phải là hạng người "nhu mì", mà các bức ảnh thuộc thế kỷ trước đã trình bày cho ta, nhưng là một con người đầy cương nghị.
Coi chừng, không được nói gì với ai cả.
Như Đức Giêsu đã truyền cho quỷ phải im lặng, Người cũng đòi buộc kẻ được ơn lạ phải im hơi lặng tiếng, kiểu nói rất mạnh: "không gì hết", "không với một ai cả".
Đó là “bí mật Thiên Sai" nổi tiếng, đã được Maccô lặp đi lặp lại tới 10 lần trong Tin Mừng của ông. Do đó, hầu như Đức Giêsu tránh làm phép lạ, vì thường bị người ta hiểu lầm! Người Do Thái (và cả chúng ta nữa!) dễ mong đợi một Đấng Mêsia theo kiểu trần gian. Từng đám đông tuôn đến với hy vọng rằng, Đức Giêsu có thể mang lại cho họ hạnh phúc đời này, Người có thể giải quyết những vấn đề thuộc sức khỏe, hay khôi phục nền độc lập có tính chính trị. Đúng vậy, đối với Đức Giêsu, làm phép lạ thật là nguy hiểm! Điều đó có thể làm hỏng sứ vụ của Người, hay có thể làm cho người ta hoàn toàn hiểu sai ý nghĩa. Các phép lạ có thể làm cho nhiều người tưởng rằng, Nước Thiên Chúa chỉ bao gồm một thứ hạnh phúc tầm thường. Đúng ra, công cuộc cứu độ thực sự việc cứu rỗi triệt để, mà Đức Giêsu trình bày, chỉ có thể được hiểu tường tận dưới ánh sáng tử nạn và phục sinh của Chúa. Cần phải chờ đợi đến lúc đó để không còn lầm lẫn nữa về bản chất của công cuộc "giải phóng" con người, mà Đức Giêsu chủ động thực hiện! Còn những việc chữa bệnh chỉ là cách loan báo sự sống lại .
Nhưng lo đi trình diện tư tế, và vì anh đã được khỏi bệnh, thì hãy dâng của lễ như ông Môsê đã truyền để làm chứng cho người ta.
Đức Giêsu truyền cho người được ơn lạ phải im lặng, không được lộ chuyện với dân chúng, đồng thời Người cũng trao cho anh trách nhiệm phải đến gặp các tư tế. Đây là việc rất cần thiết, để có thể tái hội nhập vào xã hội. Nhưng hơn nữa, Đức Giêsu còn muốn mở mắt các tư tế ở Giêrusalem là những người sẽ kình chống Người kịch liệt. Cho họ dấu chỉ thiên sai qua việc chữa lành người phong hủi, để họ sẽ không có lý do nào biện minh khi họ kết án Người. (Ga 15,22).
Nhưng vừa ra khỏi đó, anh ta đã vội công bố và tung tin ấy ra; đến nỗi Đức Giêsu không thể công khai vào thành nào được, mà phải ở lại những nơi vắng vẻ ngoài thành. Và dân chúng từ khắp nơi tuôn đến với Người.
Đối với Maccô. “Lời" được công bố trên đây là một thuật ngữ, được ông sử dụng tới 10 lần khác nhau trong Tin Mừng: đó là Phúc Âm, là Tin Mừng. Dù bị Đức Giêsu ngăn cấm, nhưng ta thấy người được cứu chữa, khi đến lượt mình lại trở nên "kẻ cứu độ" người khác. Còn chúng ta thì sao? Chúng ta có công bố Lời Chúa không? Một lần nữa, ta chiêm ngắm tình yêu Đức Giêsu dành cho bầu khí cô tịch, cho những "nơi hoang vắng". Người thực sự là hình ảnh của Thiên Chúa, một Thiên Chúa kín mật, một Thiên Chúa không gây ồn ào, một "Thiên Chúa ẩn giấu”.
bài liên quan mới nhất
- Bài hát cộng đồng Lễ Các Thánh Tử Đạo Việt Nam năm 2024
-
Ủy ban Phụng tự giải thích về “Lễ Cầu Cho Các Tín Hữu Đã Qua Đời” năm 2024 -
Ủy ban Phụng tự giải thích về “Lễ Cầu Cho Các Tín Hữu Đã Qua Đời” năm 2024 -
Cử hành Thánh Thể: Bài 52 - Lời giải tán -
Cử hành Thánh Thể: Bài 51 - Lời chào và phép lành cuối lễ -
Cử hành Thánh Thể: Bài 48 - Lời nguyện hiệp lễ -
Cử hành Thánh Thể: Bài 47 - Ca hiệp lễ và bài ca sau hiệp lễ -
Giúp hối nhân vượt qua lạm dụng phim ảnh khiêu dâm trong Bí tích Sám hối -
Ủy ban Phụng tự trả lời về sách lễ Rôma -
Linh mục cử hành phụng vụ thánh hoá dân Chúa
bài liên quan đọc nhiều
- Kinh Rước lễ thiêng liêng
-
Ủy ban Phụng Tự: những lưu ý về trực tuyến Thánh Lễ -
Chính xác, Chúa Giêsu chết vào ngày giờ nào? -
Lời Chúa trên 14 chặng đàng Thánh Giá -
Phụng vụ Tuần Thánh: Cơ Cấu và Ý nghĩa các Nghi Thức -
Giải đáp phụng vụ lễ Giáng sinh năm nay (2023) -
Đào tạo phụng vụ cho Dân Chúa: Bài 1 - Cử hành Thánh lễ -
Ý nghĩa của thứ Tư Lễ Tro -
Ủy ban Phụng tự - Hướng dẫn cử hành phụng vụ tết Nguyên đán Giáp Thìn 2024 -
Lời thông báo long trọng về lễ Phục sinh và những ngày lễ chính trong năm phụng vụ 2024