Chúa nhật V mùa Chay A

Chúa nhật V mùa Chay A

5th Sunday of Lent
Reading I: Ezekiel 37:12-14 II: Romans 8:8-11

Chúa Nhật 5 Mùa Chay
Bài Đọc I: Ezekiel 37:12-14 II: Romans 8:8-11

Gospel
John 11: 1-45

1 Now a certain man was ill, Laz'arus of Bethany, the village of Mary and her sister Martha.

2 It was Mary who anointed the Lord with ointment and wiped his feet with her hair, whose brother Laz'arus was ill.

3 So the sisters sent to him, saying, "Lord, he whom you love is ill."

4 But when Jesus heard it he said, "This illness is not unto death; it is for the glory of God, so that the Son of God may be glorified by means of it."

5 Now Jesus loved Martha and her sister and Laz'arus.

6 So when he heard that he was ill, he stayed two days longer in the place where he was.

7 Then after this he said to the disciples, "Let us go into Judea again."

8 The disciples said to him, "Rabbi, the Jews were but now seeking to stone you, and are you going there again?"

9 Jesus answered, "Are there not twelve hours in the day? If any one walks in the day, he does not stumble, because he sees the light of this world.

10 But if any one walks in the night, he stumbles, because the light is not in him."

11 Thus he spoke, and then he said to them, "Our friend Laz'arus has fallen asleep, but I go to awake him out of sleep."

12 The disciples said to him, "Lord, if he has fallen asleep, he will recover."

13 Now Jesus had spoken of his death, but they thought that he meant taking rest in sleep.

14 Then Jesus told them plainly, "Laz'arus is dead;

15 and for your sake I am glad that I was not there, so that you may believe. But let us go to him."

16 Thomas, called the Twin, said to his fellow disciples, "Let us also go, that we may die with him."

17 Now when Jesus came, he found that Laz'arus had already been in the tomb four days.

18 Bethany was near Jerusalem, about two miles off,

19 and many of the Jews had come to Martha and Mary to console them concerning their brother.

20 When Martha heard that Jesus was coming, she went and met him, while Mary sat in the house.

21 Martha said to Jesus, "Lord, if you had been here, my brother would not have died.

22 And even now I know that whatever you ask from God, God will give you."

23 Jesus said to her, "Your brother will rise again."

24 Martha said to him, "I know that he will rise again in the resurrection at the last day."

25 Jesus said to her, "I am the resurrection and the life; he who believes in me, though he die, yet shall he live,

26 and whoever lives and believes in me shall never die. Do you believe this?"

27 She said to him, "Yes, Lord; I believe that you are the Christ, the Son of God, he who is coming into the world."

28 When she had said this, she went and called her sister Mary, saying quietly, "The Teacher is here and is calling for you."

29 And when she heard it, she rose quickly and went to him.

30 Now Jesus had not yet come to the village, but was still in the place where Martha had met him.

31 When the Jews who were with her in the house, consoling her, saw Mary rise quickly and go out, they followed her, supposing that she was going to the tomb to weep there.

32 Then Mary, when she came where Jesus was and saw him, fell at his feet, saying to him, "Lord, if you had been here, my brother would not have died."

33 When Jesus saw her weeping, and the Jews who came with her also weeping, he was deeply moved in spirit and troubled;

34 and he said, "Where have you laid him?" They said to him, "Lord, come and see."

35 Jesus wept.

36 So the Jews said, "See how he loved him!"

37 But some of them said, "Could not he who opened the eyes of the blind man have kept this man from dying?"

38 Then Jesus, deeply moved again, came to the tomb; it was a cave, and a stone lay upon it.

39 Jesus said, "Take away the stone." Martha, the sister of the dead man, said to him, "Lord, by this time there will be an odor, for he has been dead four days."

40 Jesus said to her, "Did I not tell you that if you would believe you would see the glory of God?"

41 So they took away the stone. And Jesus lifted up his eyes and said, "Father, I thank thee that thou hast heard me.

42 I knew that thou hearest me always, but I have said this on account of the people standing by, that they may believe that thou didst send me."

43 When he had said this, he cried with a loud voice, "Laz'arus, come out."

44 The dead man came out, his hands and feet bound with bandages, and his face wrapped with a cloth. Jesus said to them, "Unbind him, and let him go."

45 Many of the Jews therefore, who had come with Mary and had seen what he did, believed in him;

Phúc Âm
Gioan 11: 1-45

1 Có một người bị đau nặng, tên là Ladarô, quê ở Bêtania, làng của hai chị em cô Mácta và Maria.

2 Cô Maria là người sau này sẽ xức dầu thơm cho Chúa, và lấy tóc lau chân Người. Anh Ladarô, người bị đau nặng, là em của cô.

3 Hai cô cho người đến nói với Đức Giêsu: "Thưa Thầy, người Thầy thương mến đang bị đau nặng."

4 Nghe vậy, Đức Giêsu bảo: "Bệnh này không đến nỗi chết đâu, nhưng là dịp để bài tỏ vinh quang của Thiên Chúa: qua cơn bệnh này con Thiên Chúa được tôn vinh."

5 Đức Giêsu quý mến cô Mácta, cùng hai người em là cô Maria và anh Ladarô.

6 Tuy nhiên, sau khi được tin anh Ladarô lâm bệnh, Người có lưu lại thêm hai ngày tại nơi đang ở.

7 Rồi sau đó, Người nói với các môn đệ: " Nào chúng ta cùng trở lại miền Giuđê!"

8 Các môn đệ nói: "Thưa Thầy, mới đây người Do thái tìm cách ném đá Thầy, mà Thầy lại còn đến đó sao?"

9 Đức Giêsu trả lời: " Ban ngày chẳng có mười hai giờ đó sao? Ai đi ban ngày thì không vấp ngã, vì thấy ánh sáng của thế gian này.

10 Còn ai đi ban đêm, thì vấp ngã vì không có ánh sáng nơi mình!"

11 Người nói những lời này, sau đó Người lại bảo họ: "Ladarô, bạn của chúng ta, đang yên giấc; tuy vậy, Thầy đi đánh thức anh ấy đây."

12 Các môn đệ nói với Người: "Thưa Thầy, nếu anh ấy yên giấc được, anh ấy sẽ khỏe lại."

13 Đức Giêsu nói về cái chết của anh Ladarô, còn họ tưởng Người nói về giấc ngủ thường.

14 Bấy giờ Người mới nói rõ: "Ladarô đã chết.

15 Thầy mừng cho anh em, vì Thầy đã không có mặt ở đó, để anh em tin. Thôi, nào chúng ta đến với anh ấy."

16 Ông Tôma, gọi là Điđymô, nói với các bạn đồng môn: "Cả chúng ta nữa, chúng ta cũng đi để cùng chết với Thầy!"

17 Khi đến nơi, Đức Giêsu thấy anh Ladarô đã chôn trong mồ được bốn ngày rồi.

18 Bêtania cách Giêrusalem không đầy ba cây số.

19 Nhiều người Do thái đến chia buồn cùng hai cô Mácta và Maria, vì em các cô mới qua đời.

20 Vừa được tin Đức Giêsu đến, cô Mácta liền ra đón Người. Còn cô Maria thì ngồi ở nhà.

21 Cô Mácta nói với Đức Giêsu: "Thưa Thầy, nếu có Thầy ở đây, em con đã không chết.

2 Nhưng bây giờ con biết: Bất cứ điều gì Thầy xin cùng Thiên Chúa, Người sẽ ban cho Thầy."

23 Đức Giêsu nói: "Em chị sẽ sống lại!"

24 Cô Mácta thưa: "Con biết em con sẽ sống lại, khi kẻ chết sống lại trong ngày sau hết."

25 Đức Giêsu liền phán: "Chính Thầy là sự sống lại và là sự sống. Ai tin vào Thầy, thì dù đã chết, cũng sẽ được sống.

26 Ai sống và tin vào Thầy, sẽ không bao giờ phải chết. Chị có tin thế không?"

27 Cô Mácta đáp: "Thưa Thầy, có. Con vẫn tin Thầy là Đức Kitô, Con Thiên Chúa, Đấng phải đến thế gian."

28 Nói xong, cô đi gọi em là Maria, và nói nhỏ: "Thầy đến rồi, Thầy gọi em đấy!"

29 Nghe vậy, cô Maria vội đứng lên và đến với Đức Giêsu.

30 Lúc đó, Người chưa vào làng, nhưng vẫn còn ở chỗ cô Mácta đã ra đón Người.

31 Những người Do thái đang ở trong nhà với cô Maria để chia buồn, thấy cô vội vã đứng dậy đi ra, liền đi theo, tưởng rằng cô ra mộ khóc em.

32 Khi đến gần Đức Giêsu, cô Maria vừa thấy Người, liền phủ phục dưới chân và nói: "Thưa Thầy, nếu có Thầy ở đây, em con đã không chết."

33 Thấy cô khóc, và những người Do thái đi với cô cũng khóc, Đức Giêsu thổn thức trong lòng và xao xuyến.

34 Người hỏi: "Các người để xác anh ấy đâu?" Họ trả lời: "Thưa Thầy, mời Thầy đến mà xem."

35 Đức Giêsu liền khóc.

36 Người Do thái mới nói: "Kìa xem! Ông ta thương anh Ladarô biết mấy!"

37 Có vài người trong nhóm họ nói: "Ông ta đã mở mắt cho người mù, lại không thể làm cho anh ấy khỏi chết ư?"

38 Đức Giêsu lại thổn thức trong lòng, Người đi tới mộ. Ngôi mộ đó là một cái hang có phiến đá đậy lại.

39 Đức Giêsu nói: "Đem phiến đá này đi." Cô Mácta là chị người chết liền nói: "Thưa Thầy, nặng mùi rồi, vì em ở trong mồ đã được bốn ngày."

40 Đức Giêsu bảo: "Nào Thầy đã chẳng nói với chị rằng nếu chị tin, chị sẽ được thấy vinh quang của Thiên Chúa sao?"

41 Rồi người ta đem phiến đá đi. Đức Giêsu ngước mắt lên và nói: "Lạy Cha, con cảm tạ Cha, vì Cha đã nhậm lời con.

42 Phần con, con biết Cha hằng nhậm lời con, nhưng vì dân chúng đưng quanh đây, nên con đã nói để họ tin là Cha đã sai con."

43 Nói xong, Người kêu lớ tiếng: "Anh Ladarô, hãy ra khỏi mồ!

44 Người chết liền bước ra, chân tay còn cuốn vải, và mặt còn phủ khăn liệm. Đức Giêsu bảo: "Cởi khăn và vải cho anh ấy, rồi để anh ấy đi."

45 Trong số những người Do thái đến thăm cô Maria và được chứng kiến việc Đức Giêsu làm, có nhiều kẻ đã tin vào Người.

Interesting Details

• The story of Lazarus' death and resurrection is really about the coming death and resurrection of Jesus himself. Both are for the glory of God.

• There is a crucial difference in the two resurrections. When Lazarus was raised, the shroud still covers him, meaning that he will die again.

• When Jesus was raised, the shroud was put away (Jn 20:6-7), showing that Jesus will never die again.

• Lazarus was dead for 4 days, so there would be no question of whether he was really dead or not.

• Jesus prays before resurrecting Lazarus, showing that he does the will of God.

• Jesus gives life but receives death in return. The disciples know this, so they oppose the idea of Jesus going to Judea.

Chi Tiết Hay

• Câu chuyện Ladarô chết và sống lại ám chỉ việc chính Chúa sắp chết và sống lại. Cả hai đều làm vinh quang Thiên Chúa.

• Hai người sống lại hai kiểu khác nhau: Ladarô còn phủ khăn liệm, có ý là rồi còn sẽ chết, còn khăn liệm của Đức Giêsu được xếp một bên (Gioan 20:6-7), có ý là Ngài sẽ không còn phải chết nữa.

• Chúa đợi Ladarô chết 4 ngày rồi mới tới, để mọi người khỏi nghi ngờ ông đã chết thật chưa.

• Đức Giêsu cầu nguyện cùng Chúa Cha trước khi làm Ladarô sống lại. Điều này chứng tỏ Ngài làm việc theo thánh ý của Thiên Chúa.

• Trong khi Đức Giêsu ban cho dân chúng sự sống thì họ lại muốn giết Ngài. Các môn đệ thông hiểu điều này, vì thế họ không muốn Đức Giêsu đi Giudêa để chịu chết.

One Main Point

Jesus is the resurrection and the life.

Một Điểm Chính

Đức Giêsu là sự sống lại và là sự sống.

Reflections

1. Some believe, some decide to kill Jesus when they see the miracle. What is my reaction?

2. Do I believe that Jesus gives me life? Do I have any experience of it?

3. Sometimes God delays actions while suffering and death happen. Have I experienced that delay? Do I then have faith in God? Is my suffering connected to Jesus' cross and thus to the glory of God?

Suy Niệm

1. Có người thấy phép lạ thì tin Chúa, kẻ khác lại muốn giết Ngài. Còn tôi thì sao?

2. Tôi có thật sự tin là Chúa cho tôi sự sống không? Tôi có kinh nghiệm gì để chứng tỏ điều đó?

3. Tại sao sự đau khổ của tôi hay của những người chung quanh lại có thể làm vinh quang Thiên Chúa?

CHÚA NHẬT 5 MÙA CHAY A
Lời Chúa: Ed 37,12-14; Rm 8,8-11; Ga 11,1-45

MỤC LỤC

1. Sự sống.
2. Mở cửa mộ – ĐTGM. Ngô Quang Kiệt
3. Thầy là Sự Sống Lại
4. Tin vào cái gì, hay là tin vào ai? – Achille Degeest
5. Lưỡi hái hay chìa khóa vàng? – R. Veritas
6. Lagiarô sống lại
7. “Ta là sự phục sinh của ngươi” – André Sève
8. Đức tin
9. Khóc
10. Người bạn
11. Sống và chết

SUY NIỆM

1. Sự sống

Đối với nhiều người Việt Nam, sự chết không nhất thiết là điều đáng sợ. Người xưa coi chết là mãn kiếp, tức là hết đời sống, nên thường ung dung thư thái đón chờ cái chết và chuẩn bị cho cái chết của mình ngay những tháng năm còn khoẻ mạnh. Chẳng hạn như mua sắm quan tài và những đồ khâm liệm đề phòng khi cái chết đến. Cho nên ông Nguyễn Khuyến, vì không muốn phí phạm xa hoa, nên đã căn dặn con cái:

- Đồ khâm liệm chớ nề xấu tốt,

Kín chân tay đầu gót thì thôi.

Trong khi đó, người Tây phương thì không làm như vậy. Họ không sắm sẵn quan tài và những đồ khâm liệm. Thậm chí, họ còn sắp xếp để người thân yêu của mình không chết trong gia đình. Tốt hơn nên để người đó chết ở bệnh viện, rồi từ đó đưa thi hài người quá cố, tới quàn tại nhà xác trước khi đưa tới nhà thờ, và từ nhà thờ đưa thẳng ra nghĩa địa.

Còn Chúa Giêsu, Ngài nghĩ gì về cái chết? Theo Cựu Ước, người Do Thái không quan niệm chết là hồn lìa khỏi xác, vì đó là quan niệm của người Hy Lạp. Còn người Do Thái thì cho rằng chết là mất hết sự sống. Với phép lạ cho Lagiarô sống lại, Chúa Giêsu không quan tâm đến việc tìm hiểu xem sự sống và sự chết là gì, nhưng điều chính yếu Ngài muốn gởi gấm, muốn xác quyết: Ngài chính là sự sống lại và là sự sống.

Đây cũng là một chủ đề được đề cập đến nhiều lần qua Tin Mừng theo thánh Gioan. Với người phụ nữ Samaria bên bờ giếng Giacob, Ngài xác quyết: Nước Ta ban sẽ vọt lên đem lại sự sống đời đời. Sau phép lạ bánh hoá nhiều, Ngài nói với người Do Thái: Ta là bánh ban sự sống. Nơi khác Ngài bảo: Ta là ánh sáng mang lại sự sống. Có lần Ngài đã mạnh mẽ công bố: Ta là đường, là sự thật và là sự sống. Mục đích của Ngài đến trong thế gian là gì, nếu không phải là để cho chúng ta được sống và được sống một cách dồi dào.

Và để thực hiện mục đích này Ngài đã phải trả một cái giá thật đắt bằng chính mạng sống của Ngài với cái chết trên thập giá. Ngài đã sánh ví mình như hạt lúa được gieo trên ruộng đồng, có mục nát đi, thì mới sinh nhiều bông hạt. Ngài đã sánh ví mình như người mục tử nhân lành, hiến mạng sống vì đàn chiên. Và chính Ngài đã thực hiện lời giảng dạy: Ta đến không phải để được phục vụ, nhưng đến để phục vụ và hiến mạng sống mình là giá cứu chuộc cho nhiều người.

Qua cái chết của mình, Ngài đã đem lại cho chúng ta ơn cứu độ, cũng như biểu lộ được tình yêu tuyệt vời Ngài đã dành cho chúng ta, bởi vì không ai yêu hơn người liều mạng sống mình vì bạn hữu.

Để chuẩn bị bước vào tuần thánh, chúng ta hãy suy gẫm lời thánh Phaolô: Chúa đã yêu thương tôi và đã nộp mình chịu chết vì tôi.

2. Mở cửa mộ – ĐTGM. Ngô Quang Kiệt

Tai họa ngày 11 tháng 09 năm 2001 trên đất Mỹ đã trở thành một nỗi ám ảnh đối với mọi người. Trong phút chốc, hai tòa tháp chọc trời đổ sập xuống, trở thành ngôi mộ khổng lồ chôn vùi mấy ngàn sinh mạng. Ngôi mộ gieo tang thương. Ngôi mộ gieo kinh hoàng. Ngôi mộ làm rung chuyển thế giới.

Ngôi mộ không chỉ hiện hữu từ khi toà tháp đôi đổ xuống. Trước đó ngôi mộ đã hiện diện trong trái tim của những người khủng bố. Sau đó ngôi mộ vẫn phủ màn u ám trên cuộc sống thân nhân bạn bè.

Như thế, ngôi mộ không chỉ xây bằng gạch đá. Nó được xây bằng những lực lượng chết chóc như sự hận thù, sự áp bức, sự độc ác… Ngôi mộ không chỉ chôn vùi sự sống. Nó chôn vùi cả niềm tin, cả niềm hy vọng.

Nhưng hôm nay, Chúa Giêsu đã dõng dạc mở cửa mộ và truyền cho người chết chỗi dậy bước ra. Việc Chúa Giêsu mở cửa mộ cho Lagiarô mở ra những chân trời mới cho đời sống con người.

Khi mở cửa mộ, Người đã mở cánh cửa sự sống. Thông thường, ngôi mộ là vương quốc của tử thần. Cửa mộ là cửa mở vào thế giới chết chóc. Ai đã vào đó chẳng còn hy vọng thoát ra. Nhưng hôm nay, Chúa Giêsu đã mở cửa mộ để Lagiarô không phải bước vào sự chết nhưng bước vào sự sống. Khi mở cửa mộ, Người phá tan sào huyệt Thần Chết. Khi tháo những dải băng liệm cuốn quanh thân thể Lagiarô, Người giải phóng ông khỏi dây trói ràng buộc của tử thần.

Khi mở cửa mộ, Người đã mở cánh cửa niềm tin. Trước đó, niềm tin của Mácta chỉ là một niềm tin mơ hồ, chung chung của đa số người Do thái thời ấy. Nhưng sau khi thấy Lagiarô sống lại, niềm tin của bà trở nên cụ thể, sống động và vững vàng. Trước đó, nhiều người Do thái chưa tin vào Chúa Giêsu. Nhưng sau khi được chứng kiến Lagiarô từ cõi chết sống lại, họ không thể nào không tin. Tảng đá lấp cửa mồ tung ra cũng làm bật tung tảng đá nghi ngờ che lấp trái tim, đưa họ tới tin nhận Chúa là Thiên Chúa.

Khi mở cửa mộ, Người mở ra cánh cửa niềm vui. Chết chóc gieo tang tóc u buồn. Ngôi mộ bao giờ cũng gợi lên nỗi buồn. Buồn ly biệt. Buồn mất mát. Buồn thất bại. Cái buồn vốn hay lây. Nước mắt người thân dễ làm cay mắt ta. Nên Chúa Giêsu không ngăn được dòng lệ. Nhưng khi Lagiarô bước ra, cả một trời vui. Đám tang bỗng biến thành đám hội. Lời chia buồn đổi thành lời chúc mừng. Thiên Chúa đã biến tang tóc thành niềm vui. Niềm vui ấy trọn vẹn.

Khi mở cửa mộ, Chúa Giêsu mở cánh cửa hy vọng. Thiên Chúa đến biến đổi số phận con người. Con người không còn bị giam hãm trong thân phận hay chết, nhưng được thênh thang tự do trong cõi sống. Con người không sinh ra để chết đi nhưng để sống, sống mãi, vì Chúa là “sự sống”, “ai tin sẽ sống đời đời”. Con người không sinh ra để tàn lụi, nhưng để triển nở đến vô biên.

Trong mỗi người chúng ta có nhiều nấm mộ. Chúng ta bị giam hãm trong những nấm mộ tội lỗi, gian tham, ích kỷ, bất công, đam mê, ghen ghét hận thù, nghèo đói, thất học… Có những nấm mộ kiên cố, tự sức mình không thể phá nổi. Ta hãy xin Chúa đến mở những cửa mộ, lăn những tảng đá đè nặng đời ta, để ta được sự sống dồi dào của Chúa nuôi dưỡng. Đồng thời, ta cũng phải tiếp tay với Chúa, phá đi những nấm mộ vây bọc anh chị em chúng ta, để mọi người được sống và sống dồi dào như lòng Chúa mong ước, như định mệnh Chúa dành cho ta, những người con cái Chúa.

GỢI Ý CHIA SẺ

1) Tôi còn bị giam cầm trong những ngôi mộ nào?
2) Tôi còn muốn xây những ngôi mộ nào để chôn vùi anh em?
3) Hôm nay tôi phải làm gì để mở cửa mộ cho tôi và cho anh em?
4) Việc Chúa cho Lagiarô chết bốn ngày sống lại có ảnh hưởng gì trên tôi?

3. Thầy là Sự Sống Lại (Trích trong ‘Manna’)

Suy Niệm

Bệnh tật và cái chết đeo đẳng lấy đời người. Bệnh tật làm con người bị tê liệt. Còn cái chết thì như một nhát dao cắt đứt tất cả mọi dự tính về cuộc sống. Ngay cả đối với người tín hữu, cái chết vẫn là một mầu nhiệm làm họ run rẩy.

Đức Giêsu trong Vườn Dầu cũng sợ hãi trước cái chết. Cái chết đưa đến chia ly nên có nước mắt, tiếc thương, nhung nhớ. Hai chị em Macta và Maria rất đau buồn trước cái chết của người em là Lagiarô. Cả hai đều tiếc vì Thầy không có mặt lúc ấy. Bốn ngày đã trôi qua, đá đã lấp cửa mồ. Thi hài người chết đã bắt đầu rữa nát. Chẳng còn chút hy vọng nào...

Bất chấp nguy hiểm đến tính mạng, Đức Giêsu vẫn trở lại Giuđê để đến thăm gia đình mà Ngài có lòng quý mến. Ngài biết Ngài sẽ làm gì để tôn vinh Chúa Cha, và qua đó chính Ngài cũng được tôn vinh. Dầu vậy, trước nỗi đau của hai chị em, Đức Giêsu vẫn thổn thức và xao xuyến. Ngài bật khóc trên đường đi đến mộ.

Trước ngôi mộ đá, Ngài đã cất tiếng cảm tạ Cha, vì Cha đã nhận lời Ngài xin khi cho Ngài quyền làm cho người chết được sống lại. Làm sao nói hết được niềm vui của ba chị em, và sự kinh ngạc của những người chứng kiến.

Trong sứ điệp nhân ngày Giới Trẻ Thế Giới năm 1996, Đức Thánh Cha đã yêu cầu các bạn trẻ "hãy trở nên những ngôn sứ của sự sống và tình yêu, những ngôn sứ của niềm vui."

Thế giới văn minh nhưng có nhiều bóng tối sự chết: chiến tranh, đói kém, phá thai, tự tử, sida, những vụ ám sát, đặt chất nổ, tai nạn giao thông...

Cái chết thân xác phản ánh một cái chết nguy hiểm hơn, cái chết của tình yêu ở trong lòng con người. Cái chết thắng thế khi con người sống buông xuôi, chán chường và khép kín trong ích kỷ.

Đức Giêsu là sự sống lại và là sự sống. Ngài trả lại sự sống cho Lagiarô. Ngài lau khô nước mắt cho Macta và Maria. Khi gắn bó với Đức Giêsu, chúng ta cũng có khả năng thông truyền sự sống và niềm vui cho thế giới.

Thiên Chúa là Thiên Chúa của sự sống, đời này và đời sau. Ngài say mê sự sống của con người. Ước gì chúng ta dám cất đi những phiến đá che mộ để người chết có thể bước ra.

Gợi Ý Chia Sẻ

• Chẳng ai thích sự chết, nhưng mặt khác, con người lại nghiêng chiều về bạo lực. Bạn có thấy khuynh hướng bạo lực ở nơi mà bạn đang sống không?

• Bạn đã làm gì để sống lời mời gọi này của Đức Thánh Cha: "Kitô hữu phải sẵn sàng lao tới bất cứ nơi đâu có những anh em cần giúp đỡ, có những giọt nước mắt phải lau khô, có những lời cầu cứu mong được đáp ứng"?

Cầu Nguyện

Lạy Chúa Giêsu thương mến, xin ban cho chúng con tỏa lan hương thơm của Chúa đến mọi nơi chúng con đi.

Xin Chúa hãy tràn ngập tâm hồn chúng con bằng Thần Khí và sức sống của Chúa.

Xin Chúa hãy xâm chiếm toàn thân chúng con để chúng con chiếu tỏa sức sống Chúa.

Xin Chúa hãy chiếu sáng qua chúng con, để những người chúng con tiếp xúc cảm nhận được Chúa đang hiện diện nơi chúng con.

Xin cho chúng con biết rao giảng về Chúa, không phải bằng lời nói suông, nhưng bằng cuộc sống chứng tá, và bằng trái tim tràn đầy tình yêu của Chúa. (Mẹ Têrêxa Calcutta)

4. Tin vào cái gì, hay là tin vào ai? – Achille Degeest (Trích trong ‘Lương Thực Ngày Chúa Nhật’)

Sau cuộc gặp gỡ với Giakêu, Chúa Giêsu rời Giêricô đi Giêrusalem. Các môn đệ tìm cách can ngăn Người vì biết rằng ở đó Người sẽ gặp sự kình địch của người Do Thái. Tin tức về bệnh tình của Lagiarô gây nên một cuộc bàn cãi sôi nổi. Cuối cùng Chúa Giêsu tuyên bố: “Lagiarô chết rồi Ta mừng cho chúng con vì Ta không có mặt ở đó, để chúng con được tin”. Niềm vui của Chúa trong một hoàn cảnh như thế có thể làm ta ngạc nhiên. Người vui vì Người sắp tỏ uy quyền của mình trên thế lực mù quáng của sự chết, và đàng khác vì sắp tăng cường lòng tin của các môn đệ đối với Người.

1) Cái chết của Lagiarô là một sự kiện tự nhiên. Con người sinh ra rồi chết, đó là chuyện tự nhiên chắc chắn, điều hòa khác nào thời tiết vần xoay. Nhưng trong cái tất định ấy, trong cái tất yếu kia, một người can thiệp vào và chế ngự được chúng. Con người ấy đầy từ bi và quyền năng, Người là Thiên Chúa. Sự can thiệp của Chúa Giêsu chứng tỏ Thiên Chúa không xa xôi, không hờ hững với tạo vật. Chúa đã nhập thể. Người muốn có con tim biết xúc động, xao xuyến. Người bị đánh động bởi số phận con người, bởi tình nghĩa, bởi nỗi buồn phiền của bạn hữu. Bây giờ Người biểu dương quyền năng và cho Lagiarô sống lại. Điều này cho thấy rằng tuy vẫn trung tín với mình trong sự tôn trọng định luật thiên nhiên, nhưng Thiên Chúa có thể lấy quyền năng mình thay đổi chúng để phụng sự những kẻ Người yêu mến.

2) Nên để ý tới câu trả lời của Martha. Chúa Giêsu hỏi: “Con có tin điều ấy không?” Nghĩa là, con có tin rằng ai tin vào Ta sẽ được sống và hơn nữa, sẽ không phải chết bao giờ chăng? Chúa hỏi Martha về một chuyện gì, về sự xác tín được sống. Nhưng câu trả lời của Martha nói về chính con người Chúa Giêsu. Bà không đáp: ‘Dạ, con tin rằng con sẽ không chết’ nhưng: “Con tin Thầy là Đấng Kitô, Con Thiên Chúa”. Hẳn là nhờ lời tuyên xưng đức tin này (các môn đệ nghe rõ ràng) mà Chúa Giêsu tuyên bố với các môn đệ khi đi về Bêtania, rằng: Người vui mừng. Người đã muốn xảy ra việc Lagiarô sống lại để những người chứng kiến nó, tin Người được Chúa Cha sai đến. Điều này cho ta thấy: Đức tin không phải là một sự tin tưởng vào sự vật, dù là vào một thế giới đã được phục hồi trong sự công chính nguyên thủy, nhưng là tin vào Đức Giêsu Kitô Con Thiên Chúa. Tin vào Chúa Giêsu vì Chúa Giêsu, đó là điều căn bản, mọi sự khác sẽ đến sau, và chỉ là thứ yếu.

5. Lưỡi hái hay chìa khóa vàng? – R. Veritas. (Trích trong ‘Niềm Vui Chia Sẻ’)

Thánh Charles Borrômê sống ở Italia trên 400 năm trước đây (1538-1584). Khi còn trẻ, Borrômê đầy những tước vị, danh vọng. Nhưng một lúc Borrômê đã nhận ra ngày nào đó, Ngài sẽ phải bỏ tất cả. Ngài muốn ghi khắc điều đó, nên nhờ một họa sĩ nổi tiếng vẽ bức bích họa trong tư thất để diễn tả cái chết. Bức họa hoàn thành: họa sĩ trình bày thần chết theo lối cổ điển: một bộ xương người nắm chặt lưỡi hái trong tay.

Borrômê ngạc nhiên: “Tại sao họa sĩ hình dung cái chết bằng chiếc lưỡi hái?”
Họa sĩ đáp: “Vì thần chết cắt hái mọi cuộc sống. Cái chết hủy hoại mọi cuộc đời.”

“Đồng ý”, Borrômê nói, “nhưng thần chết cũng mở cửa Nước Trời nữa chứ. Cái chết là cửa ngõ vào đời sống tốt đẹp hơn. Vì thế, tôi đề nghị họa sĩ xóa chiếc lưỡi hái đi và đặt vào tay thần chết chiếc chìa khóa vàng.”

Phải, Chúa Kitô đã chết và đã sống lại. Thập giá là chìa khóa Nước Trời. Thần chết đã buông lưỡi hái và cầm lấy chiếc chìa khóa vàng. Cửa Trời đã mở ra cho con người vào Nhà Cha.

Anh chị em thân mến,
Chúa Giêsu đã tuyên bố: “Tôi là sự sống lại và là sự sống”. Lời tuyên bố của Chúa Giêsu trước khi làm cho Lagiarô sống lại là một trong những lời “lạ tai” nhất đối với người thời đại cũng như bao người ngoài Thiên Chúa giáo và những người không tin ngày nay. Nhưng đối với chúng ta, lời tuyên bố đó chính là nền tảng và hy vọng của cuộc đời.

Chúa Giêsu tuyên bố: “Tôi là sự sống. Ai đang sống mà tin tôi sẽ không bao giờ chết”. Chúa không nói đùa. Chúa không thể đùa với sự chết, vì nó hoàn toàn trái nghịch với Ngài. Là sự sống và đến để đem lại sự sống, Chúa không thể muốn sự chết cho con người. Phép lạ cho ông Lagiarô sống lại làm chứng rằng Ngài có quyền ban sự sống. Không phải sự sống như đám đông bao quanh Ngài thầm nghĩ – sống một thời gian rồi chết – cũng không phải sống lại ngày tận thế mà thôi, như Matta tin tưởng, mà là sống ngay bây giờ và sống đời đời, như Ngài đã nói: “Ai nghe lời Tôi và tin vào Đấng đã sai Tôi thì được sống đời đời và khỏi bị xét xử, nhưng được từ cõi chết mà qua cõi sống” (Ga 5,24).

Vậy là có một sự sống khác. Có một sự sống thật. Sự sống ấy đã bắt đầu từ bí tích Rửa Tội và tiếp tục mãi đến đời đời. Sự sống thật này không mất đi khi con người chết, nhưng chỉ mất đi bởi tội lỗi (Ga 8,21). Tội lỗi mới là cái chết thật. Và ngược lại, cái mà chúng ta coi là sống chưa hẳn là sống.

Chỉ khi nào sống bằng chính sự sống của Chúa thông ban cho, lúc đó mới là sống thật và bảo đảm sống đời đời ngan qua cái mà chúng ta gọi là chết.

Thánh Phaolô, trong bài đọc 2 hôm nay (Rm 8,8-11) đã nói đến tình trạng những người “sống mà như chết” và “chết mà vẫn sống” đó: “Ai sống theo xác thịt, tội lỗi, thì dù có sống cũng như chết; ngược lại, ai sống theo Thánh Thần thì dù có chết cũng vẫn sống; hơn nữa, một ngày kia, Đấng đã cho Đức Kitô phục sinh cũng sẽ cho thân xác của những kẻ sống theo Thánh Thần được sống lại”.

Thưa anh chị em,
Một người nhắm mắt xuôi tay từ giã cõi đời này được coi là chết. Nhưng nhiều người đang sống vẫn tự coi mình đã chết. Vì sống mà không có hy vọng, sống không tình thương, sống mà bị đời bạc đãi, phản bội, sống không ra con người, và nhất là sống trong tội ác. Sống như vậy, con người không cần đợi đến chết mới là chết. Chúng ta khóc thương người chết, nhưng biết đâu người sống lại chẳng đáng khóc thương hơn?

Bất cứ ai đã thoát khỏi tội lỗi và sống trong ân sủng thì đang sống trong sự sống đời đời rồi. Sự chết thể xác không làm gián đoạn được sự sống thân thiết với Thiên Chúa trong Nước Trời. Sự sống lại ngày tận thế, sự sống vinh quang đời sau đã bắt đầu ở hiện tại như cây trái đã bắt đầu trong hạt giống.

Từ Lời Chúa hôm nay, chúng ta mới có được một cái nhìn lạc quan hơn về thân phận con người chúng ta. Là tội nhận, là loài người phải chết, nhưng chúng ta đã được Con Thiên Chúa xuống thế làm người mạc khải tình yêu thương của Thiên Chúa cho chúng ta và Ngài đã thực hiện công việc cứu chuộc của Thiên Chúa giữa chúng ta và cho chúng ta. Cuối cùng, bằng chính cái chết và cuộc Phục Sinh của Ngài, Ngài đã giải thoát chúng ta khỏi chết đời đời và cho chúng ta được tham dự vào sự sống bất diệt của Thiên Chúa.

Như thế, đối với chúng ta, những người đã tin nhận Đức Giêsu là Con Thiên Chúa, là Đấng Cứu Thế và đang cố gắng sống Lời Chúa dạy, thì sống hay chết, không thành vấn đề, mà chỉ có một thực tại duy nhất là sống, sống trong Chúa, sống cho Chúa, sống thuộc về Chúa. Cái chết chẳng qua chỉ là bước vượt qua từ đời sống trần gian đến đời sống vinh quang vĩnh hằng với Chúa Cha trên trời. Chính vì có sự liên tục giữa hai cuộc sống mà đời sống trần gian này mới có ý nghĩa và mới quan trọng, đòi hỏi mỗi người chúng ta phải sống làm sao cho cuộc sống trần gian này là khởi điểm, là bảo đảm, là dấu chứng cho cuộc sống mai sau.

Anh chị em thân mến,
Trước khi bước vào Tuần Thánh là đỉnh cao của mầu nhiệm Khổ Nạn Phục Sinh, Giáo Hội đọc bài Tin Mừng hôm này nhằm kêu gọi chúng ta tin vào Đấng là sự sống lại và là sự sống. Niềm tin ấy thắp sáng lên trong chúng ta một hy vọng mà trần gian này dù đen tối đến đâu cũng không thể nào dập tắt được. Đức tin không chuẩn chước cho chúng ta khỏi những tang chế đau thương, những chia ly mất mát hay sự sợ hãi khi đối diện với cái chết. Nhưng đức tin là chấp nhận hiểu và sống các biến cố hiện tại dưới ánh sáng của sự sống siêu việt mà Đức Giêsu Kitô, Đấng là nguồn cội sự sống đã loan báo.

“Tôi là sự sống lại và là sự sống. Ai tin Tôi sẽ không chết bao giờ”. “Matta, con có tin điều đó không?”, Chúa Giêsu hỏi. “Vâng, thưa Thầy, con tin”. Matta nói lên niềm tin của chị cũng là niềm xác tín của chúng ta: “Con tin Thầy là Đức Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống đã đến trong thế gian”.

Chớ gì khi tuyên xưng: “Tôi trông đợi kẻ chết sống lại và sự sống đời sau”, trong kinh Tin Kính chúng ta sắp đọc, niềm tin ấy không chỉ được phát biểu cách máy móc ngoài môi miệng, nhưng sẽ trở nên sức mạnh giúp chúng ta đứng vững trước mọi đau khổ thử thách, ngay cả cái chết. Đồng thời niềm tin ấy thúc đẩy chúng ta đến với anh em, để góp phần mang lại sự sống dồi dào cho anh em.

6. Lagiarô sống lại (Trích trong ‘Sống Tin Mừng’ của R. Veritas)

Hôm nay đã là Chúa Nhật V Mùa Chay và Chúa Nhật tới đây là Chúa Nhật Lễ Lá bắt đầu Tuần Thánh. Tuần chúng ta được mời gọi suy niệm nhiều hơn và cử hành mầu nhiệm chết và sống lại của Chúa. Bài Phúc Âm hôm nay như là một chuẩn bị cho chúng ta để cử hành mầu nhiệm chết và sống lại của Chúa.

Chúa Giêsu đã chết và đã sống lại, chúng ta cũng sẽ phải chết và được sống lại với Chúa. Khi nói về sự sống lại thì nhiều người anh chị em chúng ta có lẽ nghe khó tin. Mới đây tập hợp điều tra về niềm tin của những người công giáo bền Italia về sự sống đời sau sau cái chết, kết quả cho biết rằng, mặc dù đa số tin có Thiên Chúa, nhưng khi được hỏi về niềm tin của họ vào sự sống đời đời thì họ tỏ vẻ do dự. Quan tâm của họ về sự sống đời đời xem ra như càng ngày càng ít đi, dường như có hai hoàn cảnh làm cho con người dễ xa lìa Thiên Chúa, quên đi cuộc sống đời đời. Đó là khi con người giàu sang, quyền quí hoặc khi gặp cảnh cùng cực thái qúa. Giàu quá dễ bị cám dỗ quên Chúa và nghèo quá cũng làm con người tuyệt vọng.

Bài Phúc Âm hôm nay ghi lại biến cố Chúa Giêsu đến với gia đình chị em Martha, Maria và Lagiarô để mạc khải cho họ sự thật căn bản về sự sống đời đời: "Ta là sự sống lại và là sự sống, ai tin Ta thì dù có chết cũng sẽ được sống. Ai sống mà tin Ta sẽ không chết bao giờ".

Vào hoàn cảnh mà Chúa Giêsu chọn để mạc khải sự thật này cho chị em Martha, Maria là cái chết của Lagiarô, người được Chúa thương. Đây có thể nói là một biến cố không thuận lợi chút nào, Lagiarô đã bị đau cần Chúa đến nâng đỡ chữa trị thì Chúa không đến, xem ra như lơ là hai chị em đã nhắn tin cho Chúa Giêsu biết hoàn cảnh đau yếu của Lagiarô, nhưng Chúa vẫn trì hoãn không đáp lại. Một thử thách cho người bạn của Chúa, chờ đợi Chúa mau mắn đáp lại và ỷ lại vào tình bạn với Ngài, nhưng Chúa đã không đáp lại như lòng họ mong ước: "Nếu Thầy có mặt ở đây thì em con không chết".

Rồi sau khi Lagiarô chết rồi, gia đình Martha và Maria đang sống trong sự tang chế đau buồn thì Chúa lại đến, và thay vì nói lời an ủi hay là một điều gì liền ngay theo như mong ước thường tình của con người trong hoàn cảnh tương tự như vậy, thì Chúa Giêsu lại nói điều mà Martha và Maria cả hai người đều không nghĩ đến, đó là Chúa mạc khải sự thật và sự sống đời đời, kêu gọi hãy tin vào Chúa, tin vào sự thật Chúa mạc khải: "Ta là sự sống lại và là sự sống, ai tin Ta sẽ không chết bao giờ".
Có thể nói là những lời chói tai, không hợp thời, lạc đề xem từ phía con người đang phải chịu thử thách, đang gặp phải những đau thương: "Nếu Thầy có mặt thì em con không chết". Sự đáp trả của hai chị em Martha, Maria và của hai người Do Thái đến chia buồn lúc đầu chưa được trọn hảo. Martha nghĩ đến sự sống lại ngày sau hết, còn hai người Do Thái có mặt ở đó quan sát xem Chúa Giêsu có làm gì để thay đổi hoàn cảnh hay không? Martha và Maria ra khỏi hoàn cảnh cụ thể của mình để đến với Chúa, để gặp Chúa ở nơi mà Chúa muốn ở ngoài hoàn cảnh tang thương, tang chế của họ vào lúc đó để được Chúa hoán cải, để tuyên xưng: "Lạy Thầy, con tin".

Chúng ta đã biết những gì xảy ra sau lời tuyên xưng đức tin đầy khiêm tốn và can đảm của hai chị em Martha và Maria. Sống mà không có niềm tin thì kể như là đã chết. Trong biến cố mà Phúc Âm thánh Gioan ghi lại cho chúng ta hôm nay, chúng ta thấy Chúa Giêsu làm phép lạ không phải chỉ cho Lagiarô được sống lại mà thôi, mà cho ba người được sống lại, đó là Martha, Maria và Lagiarô.

Sống lại đầu tiên đó là sống lại với niềm tin vào Chúa, có thể nhiều người trong chúng ta cũng đã chết trong niềm tin vào Chúa và không còn tin Chúa nữa. Chúng ta cần Chúa cho chúng ta sống lại, sống lại trong niềm tin vào Ngài như Martha, Maria: "Lạy Thầy, con tin". Nhờ lời tuyên xưng của Martha và Maria mà tiếp sau đó Chúa Giêsu cho Lagiarô trở lại cuộc sống. Tất cả qui hướng chúng ta về quan điểm cuối cùng, đó là Chúa Giêsu làm Con Thiên Chúa, là Thiên Chúa, Ngài là Chúa, là chủ của sự sống và có quyền năng trao ban sự sống cho con người.

Vì biến cố phép lạ Lagiarô chuẩn bị cho biến cố lạ lùng nhất sắp diễn ra là biến cố chính Chúa chết và sống lại mà chúng ta sẽ cữ hành trong Tuần Thánh sắp đến. Chúa chết và sống lại để hoàn tất công trình cứu chuộc con người, để ban cho chúng ta được sống và sống lại với Chúa: "Ta là sự sống lại và là sự sống. Ai tin Ta thì dù có chết cũng sẽ được sống, và ai sống và tin vào Ta sẽ không chết bao giờ. Con có tin điều đó không?" Chúa Giêsu sẽ hỏi chúng ta: phần con, con có tin điều đó hay không?

Ước chi mỗi người chúng ta cũng được khiêm tốn thưa như Martha, như Maria: Lạy Chúa, con tin. Đức tin làm cho con được sống thật, dù chết hay sống nếu con tin thì không còn gì phải lo lắng nữa. Xin Chúa hãy cho chúng ta được sống lại trong niềm tin của mình vào Chúa để rồi chúng con được sống và sống lại với Chúa mai sau. Amen.

7. “Ta là sự phục sinh của ngươi” – André Sève.

Trong buổi nói chuyện với Matta, Chúa Giêsu đòi hỏi có một tiếng khẳng định quan hệ giữa chúng ta với Ngài:

- Ta là sự sống lại và là sự sống. Ai tin Ta thì dầu có chết cũng sẽ sống; hễ ai sống và tin Ta sẽ không bao giờ chết. Con có tin như vậy không?
Dĩ nhiên chúng ta nhanh chóng trả lời “Có! Ngài là sự sống”. Nhưng sự sống nào? Chúng ta là những người đang sống. Ngài thêm gì vào sự sống của chúng ta? Thực ra, chúng ta là những sinh vật nhỏ bé bị cái chết rình rập. Chúa Giêsu muốn làm chúng ta trở thành những kẻ chiến thắng sự chết.

Trong trần thuật dài và bi thảm nói về sự sống lại của Lagiarô, ba cái chết được gợi ra và xen lẫn vào nhau: cái chết của Lagiarô, cái chết của Chúa Giêsu và cái chết của chúng ta. Trong khi đi tới nhà Lagiarô, Chúa Giêsu biết rằng cái chết cũng đang đe dọa Ngài: “Người Do thái muốn ném đá Thầy, sao Thầy còn quay trở lại đó nữa?”, các môn đệ nói với Ngài như thế.

Khi thấy Maria quá buồn khổ, Chúa Giêsu cũng bối rối cảm động. Ngài cảm thấy sâu sắc sự tuyệt vọng của thân phận con người, Ngài khóc bạn, Ngài thông hiệp với nỗi khổ của các chị của bạn và nghĩ đến cái chết của mình đang đến gần. Chưa bao giờ Ngài chìm đắm trong nỗi buồn khổ của chúng ta như thế. Những người chung quanh nói: “Kìa, Ngài yêu bạn mình biết bao!”

Nhưng họ ngạc nhiên, cả chúng ta nữa: “Chẳng phải Đấng quyền năng đã nói: Ta đến để mang lại sự sống cho các ngươi. Ta là sự sống lại và là sự sống?” hay sao?

Không phải Chúa Giêsu muốn làm cho chúng ta sống mạnh mẽ ở bên ngoài những khó nhọc, những thảm kịch của chúng ta và thậm chí cái chết nữa. Ở tận thâm sâu sự tuyệt vọng mà Chúa Giêsu chịu đựng cùng với chúng ta, Ngài sẽ cho chúng ta một dấu hiệu hùng hồn về cuộc sống vinh quang. Ngài đứng dậy và nói lớn lên: “Hỡi Lagiarô, hãy đi ra!”
Như mọi khi, đứng trước một dấu hiệu, phải thấy rõ rằng đó là một dấu hiệu, nghĩa là một lời mời gọi đi xa hơn nữa. Sự sống lại của Lagiarô là sự chiến thắng cái chết, nhưng là một sự chiến thắng tạm thời. Thế đã là nhiều rồi, một sự hy vọng điên rồ có thể nổi lên, cái chết không còn là phiến đá đè bẹp tất cả. Chúng ta đứng dậy để nghe mặc khải tối hậu vượt lên trên sự sống lại đơn giản:

- Ta là sự phục sinh.
Đây là một điều khác hẳn! Chúa Giêsu không sống lại như Lagiarô. Sự sống lại của Chúa Giêsu là sự chiến thắng hoàn toàn trên sự chết, bước vào cuộc sống “vĩnh cửu”, không chỉ theo nghĩa vô tận, mà còn có nghĩa là một cuộc sống khác. Cuộc sống này chắc chắn vẫn là của con người, tuy vậy với những tính chất và chiều kích khác biệt.

Chúa Giêsu ban tặng cho chúng ta cuộc sống khác này. Ban tặng ngay tức khắc! Do đó mới có lời này: “Ta đến để chúng được sống”. Và tất cả điều khẳng định lạ lùng này được dùng ở thì hiện tại: “Ai nghe Ta thì được sống đời đời, người đó sẽ vượt qua cái chết mà đến sự sống” (5,24). Chúa Giêsu đã là “sự sống lại” cho Ngài và sẽ là “sự sống lại” cho chúng ta. Đây là lời tuyên xưng đức tin khó khăn nhưng chúng ta vẫn làm. Điều chúng ta ít hiểu đó là Chúa Giêsu là sự phục sinh như thế nào.

Ngài là sự phục sinh bởi vì Ngài có thể thông truyền cuộc sống phục sinh của Ngài, cuộc sống “thuộc về sự sống lại” của Ngài cho chúng ta. Khi chúng ta uống nước ở nguồn mạch này, chúng ta bắt đầu hiện hữu như thể chúng ta sẽ hiện hữu đời đời, trong khi hiệp thông tình yêu với Thiên Chúa và với anh em.

Đây không phải là những điều dễ nhận thấy được. Chúng ta tin rằng Mẹ Maria và các thánh đã trải qua một cuộc sống yêu đương trong sáng ở dưới thế này để đi đến sự viên mãn vĩnh cửu. Nhưng chúng ta, chúng ta có lẽ sẽ sống cho đến cuối đời một cuộc sống pha lẫn cái chết, bởi vì chúng ta không thông hiệp với cuộc sống của Chúa Kitô cho đủ.

Tôi nhớ lại một nữ tu bị bệnh ung thư đã chăm chú nghe tôi nói về tác động hiện tại có thể có của sự sống lại. tôi nói với chị: mỗi lần sự can đảm và tình yêu chiến thắng tội lỗi di căn nơi chúng ta, thì chính sức mạnh của sự phục sinh của Chúa Kitô đã giành lấy con người phục sinh từ cái chết rồi vậy.

8. Đức tin

Chúng ta thường nghe nói:

- Chết là hết.

Những người chủ trương như thế là những kẻ mang nặng đầu óc vật chất, không tin ở đời sau, không hy vọng gì ở một tương lai vĩnh cửu. Còn chúng ta thì khác. Với cái chết, thì một cuộc sống khác được khởi đầu. Có thể là hạnh phúc mãi mãi, nhưng cũng có thể là khổ đau đời đời, tùy theo việc lành dữ chúng ta đã làm khi còn sống ở trần gian này.

Đây là một vấn đề đòi hỏi chúng ta phải tin, như đoạn Phúc âm sáng hôm nay đã diễn tả. Thực vậy, Martha và Maria, đã sai người đến báo tin cho Chúa Giêsu hay:

- Lagiarô, bạn thân Chúa đang đau nặng.

Thế nhưng cơn bệnh này lại được xử dụng để làm sáng danh Thiên Chúa. Cho dù Lagiarô đã chết nhưng Chúa Giêsu vẫn nói:

- Ta mừng vì không có mặt ở đó để các con được tin.

Chúa Giêsu và các môn đệ lên đường tới Bêtania. Martha đón Ngài và biểu lộ niềm tin tưởng tuyệt đối của mình:

- Lạy Thầy, nếu Thày có mặt ở đây thì em con không chết. Nhưng bây giờ vẫn còn kịp bởi vì con biết rằng: Tất cả những gì Thầy kêu xin thì Thiên Chúa sẽ ban cho Thày.

Lagiarô em nàng đã chết nhưng nàng tin tưởng chắc chắn Ngài có thể làm cho nó được sống bởi vì Ngài là Đấng quyền năng. Chúa Giêsu đã trả lời cho Martha:

- Ta là sự sống lại và là sự sống. Ai tin Ta thì dù có chết cũng sẽ sống, và bất kỳ ai sống và Tin Ta thì sẽ không phải chết bao giờ.

Với lời xác quyết vừa trang trọng, lại vừa lạ lùng này, Chúa Giêsu đòi hỏi mỗi người chúng ta phải xác tín như lời Ngài hỏi Martha:

- Con có tin điều đó không?

Và Martha đã tuyên xưng:

- Lạy Thày con tin, Thày là Đức Kitô Con Thiên Chúa, là Đấng phải đến trong thế gian.

Nàng biết Chúa Giêsu là Đấng quyền năng, Ngài có thể truyền lệnh cho sự chết cũng như Ngài đã truyền lệnh cho sóng nước. Và Chúa Giêsu đã thực hiện phép lạ, Ngài truyền cho Lagiarô sống lại bước ra khỏi mồ, sau khi đã cầu nguyện và cảm tạ Chúa Cha. Trước sự thật hiển nhiên này, một số người đã tin theo Chúa, thế nhưng một số người khác, nhất là bọn Biệt phái và các thượng tế lại chống đối Ngài một cách quyết liệt hơn nữa. Họ hội họp với nhau và nhất trí kết án tử hình cho Chúa.

Cùng một sự kiện mà có người thì chấp nhận, nhưng có kẻ lại từ khước. Đức tin, dĩ nhiên là một ơn huệ của Thiên Chúa, thế nhưng nó không phải là một kho tàng được trao ban một lần thay cho tất cả vì sẽ không bao giờ bị mất đi. Trái lại, đức tin giống như một bông hoa quí nhưng lại dễ tàn và dễ héo, nếu chúng ta không biết chăm sóc cho nó.

Chúng ta nói nhiều về đức tin, nhưng thử hỏi được mấy người đã thực sự vun trồng cho đức tin trong cõi lòng của mình. Đức tin không phải là một món ăn được nấu chín và dọn sẵn cho chúng ta, nhưng là một cây được trồng nơi thửa đất là tâm hồn chúng ta.

Bởi đó, hãy vun trồng và chăm sóc cho cây đức tin của mình được đâm rễ sâu, vì rễ có sâu thì cây đức tin mới đứng vững được trước những phong ba và bão táp.

9. Khóc

Đức Kitô không phải chỉ là một vị Thiên Chúa uy quyền, mà còn là một người như chúng ta. Ngài cũng có một trái tim và trái tim ấy cũng biết rung động, cũng mang lấy những tình cảm dạt dào.

Thực vậy, trước sự ngoan cố của bọn biệt phái, Ngài đã nổi giận. Trước sự giả hình của họ, Ngài đã đe loi. Trước sự buôn bán nơi đền thờ, Ngài đã nổi nóng và xua đuổi. Trước cảnh bơ vơ của dân chúng, Ngài đã động lòng thương xót. Trước đám đông đang đói khát vì đã theo Ngài những ba ngày rồi, Ngài đã làm phép lạ cho bánh hóa nhiều để nuôi dưỡng họ. Ngài đã chúc lành cho các em nhỏ, đã chữa khỏi những bệnh hoạn tật nguyền để xoa dịu nỗi đớn đau của dân chúng.

Nơi vườn cây dầu, Ngài đã buồn sầu đến nỗi mồ hôi máu chảy ra nhỏ xuống đất. Đặc biệt hơn cả, đó là Ngài đã khóc. Khóc vì Giêrusalem sẽ bị đổ vỡ hoang tàn. Khóc vì thương xót Lagiarô.

Tuy nhiên, Ngài luôn giữ được thế quân bình trong đời sống tình cảm. Trước tình thế căng thẳng nơi vườn cây dầu, Ngài vẫn sẵn sàng vâng phục thánh ý Chúa Cha. Lúc phải đau khổ tới tột cùng, Ngài luôn nhớ tới mục đích mình theo đuổi. Ngài đã bình tĩnh trước phong ba bão táp, Ngài đã tha thứ cho kẻ thù trong cơn hấp hối.

Tóm lại, đời sống tình cảm của Ngài hoàn toàn khác xa chúng ta. Ngài luôn làm chủ được tình cảm của mình trong mọi hoàn cảnh. Những tình cảm ấy luôn hướng thiện và không bao giờ quên lãng mục đích. Luôn hòa hợp vâng phục lý trí và thúc đẩy cho việc làm.

Chẳng hạn khi Ngài khóc thương trước nấm mồ Lagiarô, thì người Do Thái đã coi đó là dấu chỉ Chúa yêu thương ông cách riêng. Chúa khóc vì thần chết đang khống chế loài người. Chúa khóc vì chính Lagiarô sẽ là dịp cho người Do Thái ghen tức và vấp phạm. Chúa khóc vì sự ngoan cố của bọn biệt phái, phủ nhận uy quyền của Thiên Chúa. Chúa khóc vì lòng tin của chị em Martha chưa được hoàn hảo.

Còn chúng ta, chúng ta đã khóc như thế nào? Trước một đám tang, có người khóc chỉ vì a dua, khóc mướn, khóc theo kiểu chặng đàng thứ tám. Khi một kẻ thân yêu chết đi, nhiều người trong họ hàng cũng đã khóc. Cái khóc ấy chưa hẳn đã là vì thương người nằm xuống, mà có khi chỉ vì thương chính bản thân mình, là kẻ còn lại phải đơn côi, phải bơ vơ không ai nương tựa. Ay là chưa nói đến những hoàn cảnh mượn tiếng khóc để chửi xéo lẫn nhau, nhất là đối với các bà các cô.

Thực vậy, người ta thường bảo nước mắt các bà các cô có thể là một đập nước, nhưng cũng có thể là một trận lụt. Và tệ hơn nữa, nhiều người đã đổ ra những giọt nước mắt cá sấu, tức là những giọt nước mắt giả dối và lừa đảo, có thể ăn sống nuốt tươi kẻ khác.

Trong đời này, người ta thường khóc khi vui cũng như lúc buồn. Ay là chưa nói đến những kẻ khóc trong lúc say xỉn, khóc không có lý do. Tuy nhiên, lại có những kẻ chẳng khóc bao giờ, bởi vì lương tâm họ đã chai lỳ, đã băng giá, không còn nhạy cảm trước những nỗi đau thương. Họ không khóc đã đành mà tệ hơn nữa còn làm cho người khác phải khóc vì họ.

Tóm lại, khóc là một nhu cầu, chúng ta khóc phần lớn là do kết quả của một nỗi khổ tâm hay một niềm đau đớn nào đó.

Thế nhưng, điều quan trọng đó là hãy biết khóc cho cuộc đời tội lỗi của mình. Chính cuộc đời tội lỗi này đã làm cho Chúa phải khóc và làm cho Giáo Hội đau buồn. Đó là những giọt nước lệ làm mờ nhạt đôi mắt nhưng lại làm sáng tâm hồn. Và hơn thế nữa, trong Mùa Chay, hãy biết khóc lóc ăn năn tội lỗi để được thứ tha.

10. Người bạn

Có một câu chuyện huyền thoại kể lại rằng: hàng năm bộ lạc kia phải hiến tế một người con gái cho thủy thần. Vị tộc trưởng của bộ lạc là một người rất yêu quý gia đình, có một người con gái duy nhất lại bắt trúng thăm phải làm vật hiến tế. Ông vô cùng đau khổ, nhưng không thể vi phạm tục lệ của bộ lạc được. Phải làm sao bây giờ khi ngày phận số đã gần đến và chính ông tộc trưởng cũng không thể nào chủ tọa nổi nghi thức hiến tế này. Những người có uy tín trong bộ lạc nghĩ rằng ông sẽ không đủ can đảm hoàn thành trách nhiệm của mình. Sau cùng, ngày đó đã đến, người ta đoán rằng hoặc là họ sẽ phải cử hành nghi thức hiến tế mà không có mặt của ông tộc trưởng, hoặc là truyền thống sẽ bị hủy bỏ. Họ đặt người con gái xinh đẹp của ông tộc trưởng vào một con thuyền nhỏ, rồi đẩy ra dòng sông. Khi con thuyền bồng bềnh trôi nổi trên dòng sông, với sự kinh ngạc, họ trông thấy một con thuyền khác ẩn nấp trong những bụi cây cũng từ từ trôi ra dòng sông. Và trong ánh sáng mập mờ, họ đã nhận ra người ngồi trong thuyền kia chính là ông tộc trưởng của họ, cha của cô gái. Ngay lập tức, cả hai chiếc thuyền bị cuốn hút mạnh mẽ vào dòng nước đang chảy xiết ra giữa sông. Cả hai cha con đã cùng rơi xuống con thác chung với nhau!

Thiên Chúa cũng không thể chịu được khi nhìn thấy con người chết trong tội lỗi. Bởi thế, Chúa Giêsu đã chấp nhận cùng chết với chúng ta, để chúng ta được sống như thánh Gioan đã nói: “Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một, để ai tin vào Con của Người thì khỏi phải chết, nhưng được sống muôn đời”.

Hôm nay trong bài Phúc âm, Gioan đã diễn tả tình cảm của Chúa Giêsu đối với người bạn Lagiarô đã chết và thương cảm cho những người thân yêu trong cơn đau khổ muộn phiền: “Thấy Maria khóc, và những người Do Thái đi với cô cũng khóc, Đức Giêsu thổn thức trong lòng và xao xuyến”.

Với chủ đề “Thiên Chúa là Tình Yêu”, Gioan muốn cho người Hy Lạp thấy rằng Thiên Chúa của người Kitô hữu là một Thiên Chúa có trái tim biết rung động trước những phiền muộn, đau khổ và thất vọng của con người, nhất là đứng trước sự chết. Không có sự tuyệt vọng và đau khổ nào cho bằng cái chết của những người thân yêu của chúng ta. Maria và Mátta đang buồn phiền và đau khổ vì cái chết của em trai mình là Lagiarô. Họ nhắn tin cho Chúa Giêsu biết từ khi Lagiarô đang đau nặng với hy vọng sẽ được cứu khỏi bệnh, nhưng Ngài đã không về đúng lúc. Bà Mátta đến gặp Chúa Giêsu trên đường gần về tới Bêtania, đã thốt lên những lời trách móc có vẻ thất vọng: “Thưa Thầy, nếu Thầy có mặt ở đây thì em con không chết”.

Phải, cuộc sống nhân sinh bắt chúng ta phải nếm mùi đau khổ của sự chết. Nhưng qua câu chuyện làm cho Lagiarô sống lại, Chúa Giêsu đã hứa hẹn cho chúng ta niềm hy vọng: “Thầy là sự sống lại và là sự sống. Ai tin vào Thầy, thì dù đã chết, cũng sẽ được sống. Ai sống và tin vào Thầy, sẽ không bao giờ phải chết”. Có lẽ trong đau buồn vì mất mát, chúng ta chưa hiểu được chương trình và kế hoạch của Thiên Chúa, nhưng chúng ta phải hy vọng vào Người.

Vào thời Chúa Giêsu, những người Sađuxê không tin vào sự sống lại. Ngài đã mạnh mẽ nói với họ rằng: “Các người không biết Thánh Kinh và cũng không biết quyền năng của Thiên Chúa. Các người sai lầm rồi”. Niềm hy vọng vào sự sống lại của những người đã chết được Thiên Chúa mạc khải dần dần, dựa trên niềm tin vào Thiên Chúa. Ngài “không phải Thiên Chúa của những người chết, nhưng của những người sống”.

11. Sống và chết

Sống và chết là hai việc hoàn toàn mâu thuẫn, chống đối nhau. Tâm lý con người ai cũng muốn sống và không muốn chết: ham sống sợ chết là tâm lý tự nhiên của con người. Lòng ham sống thúc đẩy con người phải bám vào nhiều thứ, nhất là của cải, tiền bạc, chẳng hạn như ông nhà giàu trong Tin Mừng: thâu hoạch lúa thóc đầy tràn, ông phải xây thêm nhà kho, tự cho đời sống mình như thế thật là bảo đảm, tha hồ ăn chơi sung sướng. Nhưng Chúa bảo ông: thật là hạng khờ dại, vì đêm nay ông chết, của cải có bảo đảm được mạng sống ông không? Ông còn nắm giữ được của cải không? Và quả thực ông đã vỡ mộng khi đối diện với cái chết. Mỗi ngày trên thế giới có khoảng 30 ngàn người chết, bao nhiêu người bị Chúa cho là “hạng khờ dại”, vì lúc chết, tay buông xuôi, người ta không còn có thể bám vào một vật gì cả: “Vua Ngô ba mươi sáu tấn vàng, chết xuống âm phủ chẳng mang được gì”. Trăm năm nào có gì đâu, chẳng qua một nấm cỏ khâu xanh rì”. Ba vạn sáu ngàn ngày là mấy, cảnh phù du trông thấy cũng nực cười”.

Nếu nghèo là không có, hoặc có rồi mà mất đi, như không có tiền bạc là nghèo vật chất, mồ côi cha mẹ là nghèo tình thương, dốt nát là nghèo về trí thức, bệnh tật là nghèo về sức khỏe, thì cái chết đưa người ta đến cái nghèo cùng cực. Người khỏe mạnh hay còn trẻ chưa cảm thấy rõ điều này. Nhưng chúng ta cũng biết cái chết nói lên sự bất lực của y khoa, của mọi thứ khả năng tự vệ trên cõi đời này: quyền hành nhất trần gian cũng chết, giàu có nhất nhân loại cũng chết, sung sướng tất cả đời cũng chết. Mọi người đều bó tay trước cái chết.
Trước định luật nghiêm khắc ấy, con người lo âu, bồn chồn, và người ta cố níu kéo sự sống lâu chừng nào hay chừng ấy, dầu vẫn biết là bất lực. Bởi thế mới có những quảng cáo về thuốc “trường sinh” hay “bất tử”. Có một câu chuyện như sau: Thời Chiến Quốc, có một người đem dâng vua nước Sở một vị thuốc bất tử. Người ấy mang vị thuốc này vào hoàng cung, viên quan canh cửa quát hỏi: “Vị thuốc này có ăn được không?”. Người ấy đáp: “Dạ, ăn được”, tức thì viên quan giật lấy vị thuốc và ăn. Truyện đến tai vua, vua truyền bắt viên quan đó đem giết. Viên quan xin vào gặp vua và kêu van rằng: “Tâu hoàng thượng, hạ thần đã hỏi người đem dâng thuốc, người ấy nói: ăn được, nên hạ thần mới dám ăn, thế là hạ thần vô tội mà lỗi ở người dâng thuốc, hơn nữa, người đem thuốc nói là thuốc bất tử, ăn vào thì không chết nữa, thế mà hạ thần mới ăn, đã sắp phải chết. Vậy là thuốc tử chứ sao gọi là bất tử được? Hoàng thượng giết hạ thần thực là bắt tội một người vô tội, trong khi thiên hạ dối gạt hoàng thượng mà hoàng thượng vẫn tin”. Nhà vua nghe nói có lý nên tha tội chết cho viên quan ấy.

Hiện nay các nhà bác học đang cố tìm ra một thứ thuốc làm cho con người khỏi chết. Được chăng? Chúng ta cứ hy vọng. Đó là vấn đề còn trong giả thuyết, nhưng theo Kinh Thánh thì không thể nào có được, vì Chúa đã phán với ông bà nguyên tổ: “Ngươi sẽ trở về bụi đất”. Từ đó, chết là một định luật Chúa ra cho loài người, loài người không thể phá nổi định luật này. Nói khác đi, con người đã mắc phải một chứng bệnh nan y không thể nào chữa khỏi, đó là bệnh chết. Cái án chết áp dụng cho hết mọi người: hữu sinh hữu tử: có sinh có chết là một điều tất yếu.
Nhưng qua cái chết và sự sống lại của Ngài, Chúa Giêsu đã loan báo cho con người một tin mừng: cái chết không còn là một ngõ cụt hay tận cùng nữa mà là cửa ngõ dẫn vào một cuộc sống mới, một cuộc sống trong Đức Kitô và cùng với Đức Kitô trong cõi vĩnh hằng. Vì thế, thánh Têrêxa Hài Đồng Giêsu đã nói: “Nếu một mai bạn thấy tôi nằm chết, bạn đừng buồn, vì chính Cha chung của chúng ta là Thiên Chúa đã đến đón tôi đi, đơn giản vậy thôi”. Hoặc như thánh Phaolô đã nói: “Đối với tôi, sống là Đức Kitô và chết là một mối lợi”. Làm thế nào để được như thế? Chúng ta hãy sống theo câu nói của một bà mẹ kia đã khuyên bảo đứa con trai sắp bước vào đời: “Con ơi, ngày con mở mắt chào đời, mọi người đều tươi cười, còn con thì khóc. Con hãy sống thế nào để ngày cuối đời, một mình con tươi cười, mà mọi người lại tràn lệ”.

Top