Tông huấn "Lời Chúa" của Đức Thánh Cha Bênêđictô XVI (5)

Tông huấn "Lời Chúa" của Đức Thánh Cha Bênêđictô XVI (5)

Việc công bố lời Chúa và thừa tác vụ đọc sách

58. Thượng Hội Đồng về Thánh Thể đã từng kêu gọi phải thận trọng hơn trong việc công bố lời Chúa (204). Như đã biết, trong truyền thống La Tinh, dù Tin Mừng do linh mục hay phó tế công bố, nhưng bài đọc một và bài đọc hai do một người được chỉ định đọc sách, cả nam lẫn nữa, công bố. Tôi muốn nhắc lại lời các Nghị Phụ Thượng Hội Đồng khi các ngài nhấn mạnh một lần nữa nhu cầu huấn luyện thích đáng (205) cho những người thi hành nhiệm vụ (munus) đọc sách trong các cử hành phụng vụ (206), và đặc biệt những người thi hành thừa tác vụ (ministry) đọc sách, một thừa tác vụ tự nó vốn thuộc giáo dân theo nghi lễ La Tinh. Tất cả những ai được trao phó nhiệm vụ này, ngay cả những người không được lập (instituted) vào thừa tác vụ đọc sách, phải là người thực sự xứng đáng và được huấn luyện cẩn thận. Việc giáo dục này phải đặt nặng thánh kinh và phụng vụ cũng như kỹ thuật: “Mục đích của việc huấn luyện về Thánh Kinh là để giúp người đọc sách có khả năng hiểu các bài đọc trong bối cảnh của chúng và nhờ ánh sáng đức tin, họ nhận thức được điểm chính yếu trong sứ điệp mạc khải. Việc huấn luyện về phụng vụ phải trang bị cho người đọc sách nắm vững phần nào ý nghĩa và cấu trúc của phụng vụ lời Chúa và tầm ý nghĩa trong mối liên kết của nó với phụng vụ Thánh Thể. Việc chuẩn bị kỹ thuật nên giúp người đọc sách có kỹ năng trong nghệ thuật đọc trước công chúng, nhờ sức mạnh của giọng nói hay với sự trợ giúp của dụng cụ âm thanh” (207).

Tầm quan trọng của bài giảng lễ

59. Mỗi thành phần Dân Chúa “đều có bổn phận và trách nhiệm khác nhau liên quan tới lời Chúa. Theo đó, tín hữu lắng nghe lời Chúa và suy niệm lời ấy, nhưng những ai có nhiệm vụ giảng dạy nhờ đã được truyền chức thánh hay đã được trao phó việc thi hành thừa tác vụ này” tức các giám mục, linh mục và phó tế “sẽ giảng giải lời Chúa” (208). Bởi thế, ta hiểu được việc Thượng Hội Đồng rất chú ý tới bài giảng lễ. Trong Tông Huấn Sacramentum Caritatis, tôi đã nhấn mạnh rằng “vì tầm quan trọng của lời Chúa, phẩm tính bài giảng cần được cải thiện. Bài giảng lễ ‘là một phần của hành động phụng vụ’ và có mục tiêu phát huy một cái hiểu lời Chúa sâu sắc hơn để nó mang lại hoa trái cho đời sống tín hữu” (209). Bài giảng lễ là phương tiện đem lại sự sống cho một đoạn Sách Thánh theo nghĩa giúp tín hữu hiểu ra rằng lời Chúa hiện diện và hành động trong cuộc sống hàng ngày của họ. Nó nên dẫn đến việc hiểu biết mầu nhiệm đang được cử hành, đóng vai trò thúc đẩy nhận lãnh sứ mệnh và chuẩn bị cộng đoàn cho phần tuyên xưng đức tin, cho lời nguyện chung và cho phụng vụ Thánh Thể. Thành thử, những ai có trọng trách giảng dạy do thừa tác vụ chuyên biệt phải coi trọng trách nhiệm này. Cần phải tránh những bài giảng chung chung và trừu tượng chỉ có tác dụng làm mờ nhạt tính minh bạch của lời Chúa, cũng phải tránh những kiểu giảng giải vòng vèo vô bổ nhằm lôi kéo chú ý vào người giảng chứ không vào trọng tâm của sứ điệp Tin Mừng. Tín hữu phải nhận ra một cách rõ ràng rằng vị giảng thuyết thực sự có ý nguyện tha thiết muốn trình bày Chúa Kitô, Đấng phải nằm ở trọng tâm mọi bài giảng. Vì lý do này, các vị giảng thuyết cần tiếp xúc một cách gần gũi và thường xuyên với bản văn thánh (210); họ nên chuẩn bị bài giảng bằng cách suy niệm và cầu nguyện, để có thể giảng với xác tín và lòng say mê. Thượng Hội Đồng yêu cầu ta nên để ý những câu hỏi như sau: “Sách Thánh đang được công bố muốn nói gì? Nó nói đích danh điều gì với bản thân tôi? Tôi phải nói gì với cộng đoàn dưới ánh sáng hoàn cảnh cụ thể của họ?” (211). Vị giảng thuyết “phải là người trước nhất nghe lời Chúa, lời mà ngài sẽ công bố” (212) vì như Thánh Augustinô từng nói: “Người giảng dạy lời Chúa ở bên ngoài mà không nghe lời ấy trong nội tâm chắc chắn là người vô bổ (barren)” (213). Bài giảng Chúa Nhật và lễ trọng phải được chuẩn bị kỹ càng, nhưng trong các thánh lễ ngày thường có giáo dân, vẫn không quên cung cấp những suy niệm vắn tắt và hợp thời giúp tín hữu chào đón lời Chúa vừa được công bố và đem lại ích lợi cho đời sống hàng ngày của họ.

Sự thích đáng của một cuốn Hướng Dẫn Giảng Lễ

60. Nghệ thuật giảng dựa trên Sách Các Bài Đọc muốn tốt phải là một nghệ thuật cần được vun trồng. Do đó, để liên tục với ý muốn được Thượng Hội Đồng trước phát biểu (214), tôi yêu cầu các cơ quan có năng quyền, dựa vào đường hướng của cuốn Hợp Tuyển Thánh Thể (215) cũng sẽ chuẩn bị các ấn phẩm có tính thực tiễn giúp các thừa tác viên thi hành trách vụ của họ cách tốt nhất: thí dụ một cuốn Hướng Dẫn Giảng Lễ chẳng hạn, trong đó, các vị giảng thuyết có thể tìm được sự trợ giúp hữu ích trong việc chuẩn bị thi hành thừa tác vụ của mình. Như Thánh Giêrôm từng nhắc nhở ta, việc giảng lễ cần đi đôi với chứng tá một đời sống tốt lành: “hành động của anh em không được mâu thuẫn với lời anh em nói, kẻo khi anh em đang giảng trong nhà thờ, có người dám nghĩ: ‘như thế tại sao ông không hành động như thế đi?’… nơi vị linh mục của Chúa Kitô, tư tưởng và lời nói phải đi đôi với nhau” (216).

Lời Chúa, Hòa Giải và Xức Dầu Bệnh Nhân

61. Dù Thánh Thể chắc chắn vẫn là trung tâm đối với mối liên hệ giữa lời Chúa và các bí tích, ta vẫn phải nhấn mạnh tầm quan trọng của Sách Thánh trong các bí tích khác, nhất là các bí tích chữa lành, tức Bí Tích Hòa Giải và Bí Tích Xức Dầu Bệnh Nhân. Vai trò của Sách Thánh trong các bí tích này thường bị bỏ qua, ấy thế nhưng ta cần phải dành cho chúng một chỗ đứng thích đáng. Ta không bao giờ được quên rằng: “lời Chúa là lời hoà giải, vì trong lời ấy, Thiên Chúa đã giao hòa mọi sự với chính Người (xem 2 Cor 5:18-20; Eph 1:10). Sự tha thứ đầy yêu thương của Thiên Chúa, thành xác phàm nơi Chúa Giêsu, đã làm tội nhân trỗi dậy” (217). “Qua lời Chúa, Kitô hữu nhận được ánh sáng để nhìn ra tội lỗi mình và được mời gọi hồi tâm và tin tưởng vào lòng thương xót của Chúa” (218). Muốn cảm nghiệm một cách sâu sắc hơn sức mạnh hòa giải của lời Chúa, các hối nhân cá thể phải được khuyến khích chuẩn bị việc xưng tội bằng cách đọc hay lắng nghe những lời khuyên của Thánh Kinh như những lời được cung cấp trong nghi thức. Khi ăn năn tội, điều tốt là hối nhân nên sử dụng “lời cầu nguyện dựa vào lời lẽ của Sách Thánh” (219), như những lời đã được ghi trong nghi thức. Khi có thể, điều tốt là trong một số dịp đặc biệt trong năm, hay bất cứ khi nào có cơ hội, việc xưng tội cá thể của một số hối nhân nên diễn ra trong buổi cử hành thống hối như đã được dự trù trong nghi thức, với điều kiện phải tôn trọng các truyền thống phụng vụ khác nhau; ở đây, phải dành nhiều thì giờ hơn cho việc cử hành lời Chúa qua việc dùng các bài đọc thích hợp.

Trong trường hợp Bí Tích Xức Dầu Bệnh Nhân cũng thế, không nên quên rằng: “sức mạnh chữa lành của lời Chúa là lời mời gọi liên tục để người lắng nghe đích thân hồi tâm” (220). Sách Thánh chứa vô số các trang nói tới sự an ủi, nâng đỡ và chữa lành mà Chúa muốn mang đến. Một cách riêng, ta có thể nghĩ tới sự gần gũi của Chúa Giêsu đối với người đang đau khổ và cách mà Người, trong tư cách Lời nhập thể của Thiên Chúa, đã gánh lấy đau khổ của ta và chịu đau đớn vì thương yêu ta, nhờ thế đã mang lại ý nghĩa cho bệnh tật và sự chết. Điều tốt là trong các giáo xứ và bệnh viện, tùy theo hoàn cảnh, nên tổ chức các buổi cả cộng đoàn cử hành Bí Tích Xức Dầu Bệnh Nhân. Trong những dịp này, phải dành nhiều chỗ hơn cho việc cử hành lời Chúa và giúp người bệnh chịu đựng đau đớn trong đức tin, trong kết hợp với lễ hy sinh cứu chuộc của Chúa Kitô, Đấng đã giải thoát ta khỏi sự ác.

Lời Chúa và Phụng Vụ Các Giờ Kinh

62. Trong các hình thức cầu nguyện biết nhấn mạnh tới Sách Thánh, Phụng Vụ Các Giờ Kinh hiển nhiên có một chỗ đứng. Các Nghị Phụ Thượng Hội Đồng gọi nó là “hình thức ưu tuyển của việc nghe lời Chúa, theo nghĩa nó giúp tín hữu tiếp xúc với Sách Thánh và Truyền Thống sống động của Giáo Hội” (221). Trên hết, ta nên suy niệm về phẩm tính thần học và giáo hội học sâu xa của lối cầu nguyện này. “Trong Phụng Vụ các Giờ Kinh, Giáo Hội, khi thực thi chức vụ tư tế của Đấng làm Đầu mình, đã ‘không ngừng’ (1 Tx 5:17) dâng lên Thiên Chúa lễ hy sinh ngợi khen nghĩa là hoa trái miệng lưỡi tuyên xưng danh Người (xem Dt 13:15). Lối cầu nguyện này chính là ‘giọng nói của một nàng dâu thỏ thẻ cùng chú rể mình, nó chính là lối cầu nguyện mà chính Chúa Kitô, cùng với Nhiệm Thể Mình, ngỏ cùng Chúa Cha’” (222). Về phương diện này, Công Đồng Vatican II tuyên bố rằng “tất cả những ai tham gia lối cầu nguyện này không những chu toàn bổn phận của Giáo Hội, mà còn chung chia vinh dự lớn được làm hiền thê của Chúa Kitô; vì nhờ cử hành lời ngợi ca Thiên Chúa, họ đứng trước ngai của Người nhân danh Giáo Hội, Mẹ của họ” (223). Phụng Vụ các Giờ Kinh, trong tư cách lời cầu nguyện công khai của Giáo Hội, nêu ra lý tưởng thánh hóa người Kitô hữu cho ngày sống của họ, được đánh dấu bằng nhịp độ nghe lời Chúa và đọc các Thánh Vịnh; bằng cách này, mọi sinh hoạt đều tìm được điểm qui chiếu trong lời ca ngợi dâng lên Thiên Chúa.

Những ai, vì bậc sống của mình, buộc phải đọc Phụng Vụ Các Giờ Kinh nên thi hành nhiệm vụ này một cách trung thành vì lợi ích của thể Giáo Hội. Các giám mục, linh mục và phó tế đang chuẩn bị thụ phong linh mục, tất cả những ai được Giáo Hội trao trọng trách cử hành phụng vụ này, buộc phải cầu các Giờ Kinh này hàng ngày (224). Còn đối với việc bó buộc cử hành phụng vụ này trong các Giáo Hội Công Giáo Đông Phương độc lập, thì phải tuân theo các qui định riêng của luật lệ họ (225). Tôi cũng khuyến khích các cộng đoàn sống đời tận hiến nêu gương sáng trong việc cử hành Phụng Vụ Các Giờ Kinh, và nhờ thế, trở thành điểm qui chiếu và gây cảm hứng cho đời sống thiêng liêng và mục vụ của toàn thể Giáo Hội.

Thượng Hội Đồng yêu cầu để lối cầu nguyện này trở nên phổ biến hơn trong Dân Chúa, nhất là việc đọc các Giờ Kinh Sáng và Kinh Tối. Điều này nhất định sẽ dẫn tới việc làm quen hơn nữa với lời Chúa nơi các tín hữu. Cũng cần nhấn mạnh tới giá trị của Phụng Vụ Các Giờ Kinh đối với Giờ Kinh Tối Thứ Nhất của các Chúa Nhật và Lễ Trọng, đặc biệt trong các Giáo Hội Công Giáo Đông Phương. Để đạt mục đích này, tôi khuyên, bất cứ khi nào có thể, các giáo xứ và và các cộng toàn tu sĩ nên cổ vũ lối cầu nguyện này với sự tham dự của tín hữu giáo dân.

Lời Chúa và Sách Phép Lành

63. Cũng thế, khi sử dụng Sách Phép Lành, cần lưu ý đến phần dành cho việc công bố, nghe và vắn tắt giải thích lời Chúa. Thực vậy, trong các trường hợp được Giáo Hội dự trù và được tín hữu yêu cầu, hành vi chúc lành không nên bị coi như một điều đơn độc tách biệt nhưng có liên hệ, theo mức độ riêng của nó, với đời sống phụng vụ của Dân Chúa. Theo nghĩa ấy, trong tư cách một dấu chỉ thánh thực sự, nó “đã rút tỉa được ý nghĩa và tính hiệu lực từ chính lời Thiên Chúa đang được công bố” (226). Như thế, điều cũng quan trọng là sử dụng các hoàn cảnh này làm phương tiện đánh thức một lần nữa nơi tín hữu lòng đói khát mọi lời từ miệng Thiên Chúa phán ra” (xem Mt 4:4).

Các gợi ý và đề nghị thực tiễn để cổ vũ việc tham gia trọn vẹn hơn vào phụng vụ

64. Sau khi thảo luận một số yếu tố căn bản trong mối liên hệ giữa phụng vụ và lời Chúa, giờ đây, tôi muốn tiếp nhận và khai triển một số đề nghị và gợi ý được các Nghị Phụ Thượng Hội Đồng đưa ra nhằm mục đích làm cho Dân Chúa mỗi ngày một thân quen hơn với lời Chúa trong bối cảnh sinh hoạt phụng vụ hay, trong bất cứ hoàn cảnh nào, với việc qui chiếu vào sinh hoạt ấy.

a) Cử hành lời Chúa

65. Các Nghị Phụ Thượng Hội Đồng khuyến khích mọi mục tử phát huy thời giờ dành cho việc cử hành lời Chúa trong các cộng đoàn được ủy thác cho các ngài (227). Các cử hành này là những dịp tuyệt vời để gặp gỡ Chúa. Thực hành này chắc chắn mang lợi ích lại cho tín hữu và nên được coi như yếu tố quan trọng của việc huấn luyện phụng vụ. Các cử hành loại này đặc biệt có ý nghĩa đối với việc chuẩn bị Thánh Thể Chúa Nhật; chúng cũng là cách giúp tín hữu đào sâu hơn vào sự phong phú của Sách Các Bài Đọc, biết cầu nguyện và suy niệm Sách Thánh, nhất là trong các mùa phụng vụ lớn là Mùa Vọng và Mùa Giáng Sinh, Mùa Chay và Mùa Phục Sinh.

Các buổi cử hành lời Chúa phải được đặc biệt khuyến cáo nhất là trong các cộng đoàn, vì thiếu giáo sĩ, nên không thể cử hành được hy lễ Thánh Thể vào các Chúa Nhật và ngày lễ buộc. Nhớ đến các chỉ dẫn đã được nêu ra trong Tông Huấn Hậu Thượng Hội Đồng Sacramentum Caritatis liên quan tới các cuộc cử hành Chúa Nhật mà không có linh mục (228), tôi xin khuyên các vị có thẩm quyền hãy soạn ra các sách hướng dẫn nghi thức, căn cứ vào kinh nghiệm của các giáo hội đặc thù. Trong những hoàn cảnh như thế, việc ấy sẽ cổ vũ các buổi cử hành lời Chúa có khả năng nuôi dưỡng đức tin của tín hữu, trong khi tránh được nguy cơ lẫn lộn hình thức cử hành này với việc cử hành Thánh Thể: “trái lại, chúng là những giây phút tuyệt vời để cầu xin Chúa sai tới các linh mục thánh thiện như lòng Người mong muốn” (229). Các Nghị Phụ Thượng Hội Đồng cũng khuyến cáo việc cử hành lời Chúa trong các cuộc hành hương, các ngày lễ đặc biệt, các tuần đại phúc bình dân, các buổi tĩnh huấn thiêng liêng và các ngày đặc biệt dành cho thống hối, đền tạ hay xin tha thứ. Các biểu thức khác nhau của lòng đạo đức bình dân, dù không phải là các hành vi phụng vụ và không được lẫn lộn chúng với các cuộc cử hành phụng vụ, tuy nhiên vẫn nên được các cuộc cử hành này gây cảm hứng và trên hết phải dành chỗ thích đáng cho việc công bố và nghe lời Chúa; “lòng đạo đức bình dân có thể tìm thấy nơi lời Chúa một nguồn linh hứng bất tận, những mẫu mực cầu nguyện khó có thể vượt qua và những điểm phong phú để suy niệm” (230).

b) Lời Chúa và sự im lặng

66. Trong các góp ý của mình, số đông các Nghị Phụ Thượng Hội Đồng đã nhấn mạnh tới tầm quan trọng của im lặng trong tương quan với lời Chúa và việc tiếp nhận nó trong đời sống tín hữu (231). Thực vậy, lời Chúa chỉ có thể nói và nghe trong im lặng, cả bề ngoài lẫn bề trong. Thời đại ta không phải là thời đại người ta cổ vũ việc tĩnh tâm; có lúc, ta có cảm tưởng người ta sợ phải tách mình, dù chỉ là giây lát, ra khỏi các phương tiện truyền thông đại chúng. Ngày nay, vì lý do đó, điều cần thiết là phải giáo dục Dân Chúa biết giá trị của sự im lặng. Tái khám phá tính trung tâm của lời Thiên Chúa trong đời sống Giáo Hội cũng có nghĩa là tái khám phá cảm thức tĩnh tâm và thanh thản nội tâm. Truyền thống vĩ đại của các Giáo Phụ dạy ta rằng các mầu nhiệm của Chúa Kitô đều bao gồm sự im lặng (232). Chỉ trong im lặng, lời Chúa mới tìm được nơi cư ngụ trong ta, như đã tìm được nơi Đức Maria, người phụ nữ của lời nhưng một cách không thể tách biệt, cũng là người phụ nữ của im lặng. Các nền phụng vụ của ta phải làm dễ thái độ lắng nghe chân chính này: Lời càng lên cao, ta càng thiếu lời (Verbo crescente, verba deficiunt) (233).

Tầm quan trọng của điều ấy thấy rõ một cách đặc biệt trong Phụng Vụ Lời Chúa, “một phụng vụ nên được cử hành một cách thiên về suy niệm” (234). Khi được yêu cầu, im lặng phải được coi là “một phần của việc cử hành” (235). Do đó, tôi xin khuyến khích các mục tử cổ vũ các giây phút tĩnh lặng nhờ thế, với ơn trợ giúp của Chúa Thánh Thần, lời Chúa tìm được sự nghinh đón trong trái tim ta.

c) Công bố lời Chúa một cách long trọng

67. Một gợi ý nữa được nêu ra trong Thượng Hội Đồng là việc công bố lời Chúa, cách riêng Tin Mừng, phải được thực hiện cách long trọng hơn, nhất là trong các ngày lễ phụng vụ lớn, bằng cách sử dụng Sách Tin Mừng để rước kiệu trong nghi thức đầu lễ và sau đó, được một phó tế hay một linh mục cung nghinh lên bục đọc sách để công bố. Việc này sẽ giúp Dân Chúa hiểu ra rằng “đọc Tin Mừng là đỉnh cao của phụng vụ lời Chúa” (236). Theo các chỉ dẫn trong Ordo Lectionum Missae (Qui định các bài đọc trong Thánh Lễ), điều tốt đẹp là lời Chúa, nhất là Tin Mừng, sẽ được tăng giá trị nhờ được công bố bằng cách hát, đặc biệt trong một số lễ trọng. Lời chào, lời công bố khởi đầu: “Tin mừng Chúa Giêsu theo Thánh…” và những lời kết thúc “Tin Mừng của Chúa” (một số nơi: Đó là Lời Chúa) rất có thể được hát như là cách nhấn mạnh tầm quan trọng của điều được đọc (237).

d) Lời Chúa trong các giáo hội Kitô Giáo

68. Để làm dễ việc nghe lời Chúa, ta cần xem sét các biện pháp có thể giúp kéo chú ý của tín hữu. Nên chứng tỏ có sự quan tâm tới việc vang âm nhà thờ (church acoustics), dĩ nhiên phải tôn trọng thích đáng các qui luật phụng vụ và kiến trúc. “Trong việc xây dựng các nhà thờ, khi được trợ giúp một cách thích đáng, các giám mục nên thận trọng để chúng thích ứng với việc công bố lời Chúa, với việc suy niệm và với việc cử hành Thánh Thể. Các nơi thánh, ngay dù xa hẳn hành vi phụng vụ, cũng nên có nhiều tính diễn cảm (eloquent) và trình bày mầu nhiệm Kitô Giáo liên quan tới lời Chúa” (238).

Phải đặc biệt chú trọng tới bục đọc sách (ambo) như là không gian phụng vụ từ đó lời Chúa được công bố. Nên đặt nó ở một nơi ai cũng thấy rõ khiến tín hữu tự nhiên chú tâm tới nó trong phần phụng vụ lời Chúa. Nó nên ở một nơi nhất định và được trang trí một cách hài hòa thẩm mỹ đối với bàn thờ, để nói lên một cách hữu hình ý nghĩa thần học của chiếc bàn kép cả lời Chúa lẫn Thánh Thể. Các bài đọc, thánh vịnh đáp ca và kinh Exultet (Hãy Vui Lên) phải được công bố từ bục đọc sách; bục này cũng có thể được sử dụng cho bài giảng và phần lời nguyện giáo dân (239). Các Nghị Phụ Thượng Hội Đồng cũng đề nghị các nhà thờ nên dành một chỗ danh dự để đặt Sách Thánh, ngay cả ở bên ngoài các cử hành phụng vụ (240). Cuốn sách chứa lời Chúa đương nhiên phải được hưởng chỗ danh dự ai cũng thấy ở bên trong đền thờ Kitô Giáo, mà không phương hại tới vị trí trung tâm dành riêng cho Nhà Chầu để chứa Mình Thánh Chúa (241).

e) Chỉ dùng bản văn thánh trong phụng vụ

69. Thượng Hội Đồng cũng tái khẳng định một cách rõ ràng một điểm vốn đã được luật phụng vụ qui định (242) tức việc không bao giờ được thay thế các bài đọc rút từ Sách Thánh bằng các bản văn khác, dù các bản văn khác này có ý nghĩa đến bao nhiêu về phương diện thiêng liêng hay mục vụ: “Không một bản văn tu đức hay văn chương nào có thể ngang tầm giá trị và sự phong phú chứa đựng trong Sách Thánh, tức lời Chúa” (243). Đây là một qui luật rất cổ xưa của Giáo Hội mà ta cần duy trì (244). Đứng trước một số lạm dụng, Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II từng lặp lại tầm quan trọng của việc không bao giờ được dùng các bài đọc khác thay thế cho Sách Thánh (245). Cũng cần ghi nhớ rằng Thánh Vịnh Đáp Ca cũng là lời Chúa, và do đó, không được thay thế nó bằng các bản văn khác; thực sự, điều thích hợp hơn cả là hát thánh vịnh này.

f) Phụng ca lấy hứng Thánh Kinh

70. Như một phần trong việc nâng cao lời Chúa trong phụng vụ, ta cũng nên lưu tâm tới việc sử dụng các ca khúc trong những lúc cần, theo một nghi lễ đặc biệt nào đó. Ưu tiên nên dành cho các ca khúc rõ ràng lấy cảm hứng từ Thánh Kinh và là các ca khúc diễn đạt vẻ đẹp của lời Chúa qua sự hòa hợp giữa nhạc và lời. Ta nên cố gắng hết sức để sử dụng tối đa các ca khúc từng được lưu truyền tới ta từ truyền thống của Giáo Hội, một truyền thống luôn tôn trọng tiêu chuẩn vừa nói. Tôi nghĩ cách riêng tới sự quan trọng của lối hát Grêgôrianô (246).

g) Lưu tâm cách riêng tới những người khuyết tật về thính thị

71. Ở đây, tôi cũng muốn nhắc lại khuyến cáo của Thượng Hội Đồng khi cho rằng cần lưu tâm đặc biệt tới những ai gặp khó khăn trong việc tham gia tích cực vào phụng vụ; thí dụ, tôi nghĩ tới những người khuyết tật về thính thị. Tôi khuyến khích các cộng đồng Kitô Giáo chúng ta cung ứng mọi trợ giúp thực tiễn có thể có cho các anh chị em đang chịu các khuyết tật này, để cả họ nữa cũng có khả năng cảm nhận được sự tiếp xúc sống động với lời Chúa (247).

Lời Chúa trong Đời Sống Giáo Hội

Gặp gỡ lời Chúa trong Sách Thánh

72. Nếu phụng vụ quả thực là nơi ưu tuyển để công bố, lắng nghe và cử hành lời Chúa, thì cuộc gặp gỡ này quả thực cũng phải được chuẩn bị trong tâm hồn các tín hữu và sau đó được họ thâm hậu và hội nhập trên hết. Đời sống Kitô hữu được ghi dấu bằng cuộc gặp gỡ với Chúa Giêsu Kitô, Đấng hằng kêu gọi ta bước chân theo Người. Vì thế, Thượng Hội Đồng thường hay nói tới sự quan trọng của việc chăm sóc mục vụ trong các cộng đồng Kitô Giáo như là khung cảnh thích đáng để cuộc hành trình cá nhân và cộng đoàn dựa trên lời Chúa có thể diễn ra và thực sự được dùng làm căn bản cho đời sống thiêng liêng của ta. Cùng với các Nghị Phụ Thượng Hội Đồng, tôi tha thiết hy vọng được thấy sự bừng nở “một mùa mới đầy yêu mến hơn đối với Sách Thánh nơi mọi thành phần Dân Chúa để việc đọc Sách Thánh một cách đầy cầu nguyện và đầy đức tin của họ, với thời gian, sẽ thâm hậu hóa mối liên hệ bản thân của họ với Chúa Giêsu” (248).

Suốt trong lịch sử Giáo Hội, nhiều vị thánh từng nói về nhu cầu phải hiểu biết Thánh Kinh để lớn mạnh trong tình yêu Chúa Kitô. Điều ấy rất rõ rệt nơi các Giáo Phụ. Trong tâm tình yêu mến lời Chúa của ngài, Thánh Giêrôm hay tự hỏi: “Làm sao người ta có thể sống mà không hiểu biết chi về Thánh Kinh, mà nhờ nó, ta mới biết được chính Chúa Kitô, Đấng vốn là sự sống của tín hữu?” (249). Ngài biết rõ rằng Thánh Kinh là phương tiện “nhờ đó, Thiên Chúa nói với tín hữu hàng ngày” (250). Lời khuyên ngài ngỏ với mệnh phụ Rôma là Leta về việc dưỡng dục con gái bà như sau: “Bà phải chắc chắn việc con bà mỗi ngày học một đoạn Sách Thánh… Việc cầu nguyện phải tiếp nối việc đọc, và việc đọc tiếp nối việc cầu nguyện… để ở chỗ đầy nữ trang và lụa là, cô ấy vẫn yêu mến Sách Thánh” (251). Lời khuyên của Thánh Giêrôm ngỏ với linh mục Nepotian cũng có thể áp dụng cho ta: “Hãy thường xuyên đọc Sách Thánh; thực vậy, Sách Thánh không bao giờ nên rời tay cha. Hãy học ở đó điều cha có nhiệm vụ phải dạy” (252). Ta hãy noi gương vị đại thánh này, người đã hiến cả đời để nghiên cứu Thánh Kinh và đã đem lại cho Giáo Hội bản dịch La Tinh, tức Bản Phổ Thông, cũng như gương của tất cả các thánh, những người vốn biến cuộc gặp gỡ Chúa Kitô thành trung tâm đời sống thiêng liêng của họ. Ta hãy canh tân các cố gắng của ta để hiểu sâu xa lời mà Thiên Chúa đã ban cho Giáo Hội của Người: nhờ thế, ta có thể vươn tới “tiêu chuẩn cao trong lối sống Kitô Giáo bình thường” (253), một lối sống từng được Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II đưa ra nhân dịp khởi đầu thiên niên kỷ thứ ba của Kitô Giáo, và vốn nhận được chất nuôi dưỡng bất biến từ việc chăm chú lắng nghe lời Chúa.

Để Thánh Kinh linh hứng hoạt động mục vụ

73. Cùng với các dòng trên, Thượng Hội Đồng cũng kêu gọi phải có một cam kết mục vụ nhằm nhấn mạnh tính trung tâm của lời Chúa trong đời sống Giáo Hội, và khuyến cáo việc tổ chức một việc “tông đồ Thánh Kinh” lớn hơn, không hẳn song song với các hình thức hoạt động mục vụ khác, nhưng như một phương tiện để Thánh Kinh linh hứng mọi hoạt động mục vụ (254). Việc này không có nghĩa hội họp thêm đây đó trong giáo xứ hay giáo phận, mà đúng hơn, nên soát lại các hoạt động bình thường của các cộng đoàn Kitô hữu nơi giáo xứ, trong các hiệp hội và phong trào, để xem xem chúng có thực sự quan tâm tới việc phát huy cuộc gặp gỡ bản thân với Chúa Kitô hay không, Đấng vốn hiến thân cho ta trong lời của Người. Vì “dốt Thánh Kinh là dốt Chúa Kitô” (255), nên việc biến Thánh Kinh thành linh hứng cho mọi chương trình mục vụ bình thường hay bất thường sẽ dẫn người ta tới một ý thức lớn hơn về con người Chúa Kitô, Đấng đã mạc khải Chúa Cha và là sự viên mãn của mạc khải Thiên Chúa.

Vì thế, tôi khuyến khích các mục tử và tín hữu nhìn nhận tầm quan trọng của việc nhấn mạnh này đối với Thánh Kinh: đây cũng là cách tốt nhất để bàn tới một số vấn đề mục vụ từng được thảo luận tại Thượng Hội Đồng và có liên quan tới việc lan tràn các giáo phái đang phổ biến cách đọc Sách Thánh đầy méo mó và có tính cách thao túng. Nơi nào tín hữu không được trợ giúp để nhận biết Thánh Kinh theo đức tin của Giáo Hội và dựa vào truyền thống sống động của Giáo Hội, thì khoảng chân không về mục vụ này sẽ trở thành mảnh đất mầu mỡ để các thực tại như giáo phái bắt rễ. Cần phải dự trù việc chuẩn bị thích đáng để các linh mục và giáo dân có khả năng dạy dỗ Dân Chúa trong cách tiếp cận chân chính đối với Thánh Kinh.

Hơn nữa, như đã được đưa ra trong các phiên họp của Thượng Hội Đồng, điều tốt đẹp là hoạt động mục vụ cũng nên ủng hộ việc lớn mạnh của các cộng đồng nhỏ, “được các gia đình thành lập hay dựa trên các giáo xứ hoặc liên kết với một số phong trào trong Giáo Hội và các cộng đoàn tân lập” (256), là các thực thể có khả năng giúp ta cổ vũ việc huấn luyện, việc cầu nguyện và hiểu biết Thánh Kinh phù hợp với đức tin Giáo Hội.

Chiều kích Thánh Kinh của giáo lý

74. Một khía cạnh quan trọng trong hoạt động mục vụ của Giáo Hội, nếu được sử dụng một cách khôn ngoan, có thể giúp tái khám phá tính trung tâm của lời Chúa là giáo lý, là khoa cần liên tục đi đôi với hành trình đức tin của Dân Chúa, dưới các hình thức và trình độ khác nhau. Theo một nghĩa nào đó, mô tả của Thánh Luca (xem Lc 24:13-35) về các môn đệ gặp Chúa Giêsu trên đường Emmau đã đại biểu cho một mẫu mực giáo lý đặt trọng tâm vào “việc giải thích Thánh Kinh”, một giải thích mà chỉ một mình Chúa Giêsu mới ban cho được (xem Lc 24:27-28), vì Người cho thấy nó đã được nên trọn trong chính con người của Người (257). Như thế, niềm hy vọng chiến thắng trên mọi thất bại đã được tái sinh, làm cho các môn đệ trở thành các nhân chứng đầy xác tín và khả tín của Chúa Phục Sinh.

Cuốn Chỉ Dẫn Giáo Lý Tổng Quát chứa đựng nhiều hướng dẫn giá trị cho một nền giáo lý lấy hứng từ Thánh Kinh và tôi từng khuyến khích việc tham khảo các hướng dẫn này (258). Ở đây, tôi muốn trước hết và trên hết nhấn mạnh rằng giáo lý “phải được thấm nhuần não trạng (mindset), tinh thần và quan điểm của Thánh Kinh và Tin Mừng qua việc cần mẫn tiếp xúc với chính các bản văn; thế nhưng điều ầy cũng có nghĩa phải nhớ rằng giáo lý càng phong phú và có hiệu quả hơn nhờ đọc bản văn bằng tâm trí của Giáo Hội” (259), và bằng việc rút tỉa cảm hứng từ hai ngàn năm suy niệm và sống thực của Giáo Hội. Kiến thức về các nhân vật, các biến cố và các câu nói của Thánh Kinh vì thế nên được khuyến khích; việc này cũng có thể được phát huy bằng cách học thuộc lòng một cách sáng suốt một số đoạn văn đặc biệt có tính diễn cảm các mầu nhiệm Kitô Giáo. Các công trình giáo lý luôn bao hàm việc tiếp cận Thánh Kinh trong đức tin và trong Truyền Thống của Giáo Hội, để lời Thánh Kinh được nhận thức là sống động, giống như Chúa Kitô đang sống động ngày nay ở bất cư nơi nào có hai hay ba người tụ họp vì danh Người (Xem Mt 18:20). Giáo lý phải sinh động thông truyền lịch sử cứu rỗi và nội dung đức tin của Giáo Hội, và nhờ thế giúp mọi thành phần tín hữu nhận ra rằng lịch sử ấy cũng lả một phần cuộc sống của họ.

Ở đây, điều quan trọng là phải nhấn mạnh mối tương quan giữa Sách Thánh và Sách Giáo Lý Của Giáo Hội Công Giáo, như cuốn Chỉ Dẫn Giáo Lý Tổng Quát đã nói rõ: “Thực vậy, Sách Thánh như ‘lời Thiên Chúa được viết dưới sự linh hứng của Chúa Thánh Thần’, và Sách Giáo Lý Của Giáo Hội Công Giáo, như biểu thức quan trọng hiện thời của Truyền Thống Sống Động trong Giáo Hội và là chuẩn mức chắc chắn cho việc giảng dạy đức tin, đều được kêu gọi nuôi dưỡng giáo lý trong Giáo Hội ngày nay, theo cách riêng và theo thẩm quyền chuyên biệt của chúng” (260).

Việc huấn luyện các Kitô hữu về Thánh Kinh

75. Để thực hiện được mục tiêu do Thượng Hội Đồng đưa ra, tức việc nhấn mạnh nhiều hơn tới Thánh Kinh trong sinh hoạt mục vụ của Giáo Hội, mọi Kitô hữu, nhất là các giáo lý viên, cần tiếp nhận được một sự huấn luyện thích đáng. Như kinh nghiệm của Giáo Hội đã chứng minh: phương tiện giá trị nhất để đạt được mục đích vừa rồi là cần phải chú trọng tới hình thức tông đồ Thánh Kinh (biblical apostolate). Các Nghị Phụ Thượng Hội Đồng cũng khuyến cáo rằng: nếu có thể, bằng cách sử dụng các cơ cấu học thuật hiện có, nên thiết lập ra các trung tâm huấn luyện để huấn luyện giáo dân và các nhà truyền giáo giúp họ hiểu, sống và công bố lời Chúa. Ngoài ra, nơi nào có thể, nên thiết lập ra các viện chuyên môn để nghiên cứu Thánh Kinh giúp cho các nhà chú giải nắm vững được một cái hiểu vững chắc về thần học và biết đánh giá chính xác các bối cảnh trong đó họ đang thi hành sứ mệnh của mình (261).

Sách Thánh trong các cuộc tụ họp đông đảo của Giáo Hội

76. Trong một loạt các sáng kiến có thể áp dụng, Thượng Hội Đồng có gợi ý rằng trong các cuộc tụ họp cấp giáo phận, cấp quốc gia hay cấp quốc tế, cần phải nhấn mạnh nhiều hơn tới tầm quan trọng của lời Chúa, tới việc chăm chú lắng nghe lời ấy, và tới việc đọc Thánh Kinh một cách đầy đức tin và cầu nguyện. Trong các Đại Hội Thánh Thể, ở cấp quốc gia cũng như cấp quốc tế, trong các Ngày Giới Trẻ Thế Giới và các cuộc tụ họp khác, điều đáng ca ngợi là dành nhiều chỗ hơn để cử hành lời Chúa và nhiều thời khắc hơn để huấn luyện dựa vào Thánh Kinh (262).

Lời Chúa và ơn gọi

77. Khi nhấn mạnh tới lời mời nội tại của đức tin hướng tới một mối tương quan mỗi ngày một sâu đậm hơn với Chúa Kitô, lời Thiên Chúa ở giữa chúng ta, Thượng Hội Đồng cũng nhấn mạnh rằng lời này đích thân mời gọi mỗi người chúng ta, mạc khải cho ta thấy: chính đời sống ta là một ơn gọi của Thiên Chúa. Nói cách khác, càng lớn lên trong mối tương quan bản thân với Chúa Giêsu, ta càng hiểu ra rằng Người đang kêu gọi ta nên thánh trong và qua các chọn lựa dứt khoát mà ta đã dùng để đáp lại tình yêu của Người trong đời ta, qua việc nhận lấy các trách nhiệm và thừa tác vụ góp phần vào việc xây dựng Giáo Hội. Đó là lý do tại sao Thượng Hội Đồng hay khuyến khích mọi Kitô hữu lớn lên trong mối tương quan của họ với lời Chúa, không những chỉ vì Phép Rửa của họ mà còn phù hợp với ơn gọi bước vào các bậc sống khác nhau nữa. Ở đây, ta đụng tới một trong các điểm then chốt trong giáo huấn của Công Đồng Vatican II, là điểm nhấn mạnh rằng mỗi thành phần tín hữu đều được kêu gọi nên thánh tùy theo bậc sống của mình (263). Ơn gọi nên thánh của ta được chính Sách Thánh mạc khải: “Hãy thánh thiện như Ta là Đấng thánh thiện” (Lv 11:44; 19:2; 20:7). Còn Thánh Phaolô thì nhấn mạnh tới căn bản Kitô học của ơn gọi này: trong Chúa Kitô, Chúa Cha “đã chọn ta trước khi dựng nên thế giới, để ta trở nên thánh thiện và không tì vết trước mặt Người” (Eph 1:4). Lời chào mà Thánh Phaolô ngỏ với các anh chị em của ngài tại cộng đoàn Rôma có thể được coi như ngỏ với mỗi người chúng ta: “Với mọi người Chúa thương, những người vốn được gọi là thánh: ơn thánh và bình an của Chúa Cha và của Chúa Giêsu Kitô ở cùng anh chị em!” (Rm 1:7)

----

[204] Cf. BENOÎT XVI, Exhort. apost. post-synodale Sacramentum caritatis (22 février 2007), n. 45: AAS 99 (2007), pp. 140-141.
[205] Cf. Proposition 14.
[206] Cf. CIC, can. 230 §2; 204 §1.
[207] MISSEL ROMAIN, Présentation générale du Lectionnaire de la Messe, n. 55.
[208] Ibidem, n. 8.
[209] N. 46: AAS 99 (2007), p. 141.
[210] Cf. CONC. ŒCUM. VAT. II, Const. dogm. sur la Révélation divine Dei Verbum, n. 25.
[211] Proposition 15.
[212] Ibidem.
[213] Sermo 179,1; PL 38, 966.
[214] Cf. BENOÎT XVI, Exhort. apost. post-synodale Sacramentum caritatis (22 février 2007), n. 93: AAS 99 (2007), p. 177.
[215] CONGREGATION POUR LE CULTE DIVIN ET LA DISCIPLINE DES SACREMENTS, Compendium eucharisticum (25 mars 2009), Cité du Vatican 2009.
[216] Epistula 52,7; CSEL 54,426-427.
[217] Proposition 8.
[218] RITUEL DE LA PÉNITENCE ET DE LA RÉCONCILIATION. Orientations doctrinales et pastorale, n. 17.
[219] Ibidem, n. 19.
[220] Proposition 8.
[221] Proposition 19.
[222] Principes et normes de la Liturgie des Heures, III, 15.
[223] Const. sur la Sainte Liturgie Sacrosanctum Concilium, n. 85.
[224] Cf. CIC, cc. 276 § 3; 1174 § 1.
[225] Cf. CCEO, cc. 377; 473, § 1 et 2, 1°; 538 § 1; 881 § 1.
[226] LIVRE DES BÉNÉDICTIONS, Préliminaires généraux, n. 21.

[227] Cf. Proposition 18; CONC. ŒCUM. VAT. II, Const. sur la Sainte Liturgie Sacrosanctum Concilium, n. 35.
[228] Cf. BENOÎT XVI, Exhort. apost. post-synodale Sacramentum caritatis (22 février 2007), n. 75: AAS 99 (207), pp. 162-163.
[229] Ibidem.
[230] CONGRÉGATION POUR LE CULTE DIVIN ET LA DISCIPLINE DES SACREMENTS, Directoire sur la piété populaire et la liturgie, Principes et orientations, n. 87; Ench. Vat. 20, n. 2461.
[231] Cf. Proposition 14.
[232] Cf. SAINT IGNACE D’ANTIOCHE, Ad Ephesios 15, 2: Patres Apostolici, éd. F. X. FUNK, Tübingen 1901, I, 224.
[233] Cf. SAINT AUGUSTIN, Sermo 288, 5: PL 38, 1307; Sermo 120, 2: PL 38, 677.
[234] Présentation générale du Missel Romain, n. 56.
[235] Ibidem, n. 45; cf. CONC. ŒCUM. VAT. II, Const. sur la Sainte Liturgie Sacrosanctum Concilium, n. 30.
[236] MISSEL ROMAIN, Présentation générale du Lectionnaire de la Messe, n.13.
[237] Cf. ibidem n. 17.
[238] Proposition 40.
[239] Présentation générale du Missel Romain, n. 309.
[240] Proposition 14.
[241] Cf. BENOÎT XVI, Exhort. apost. post-synodale Sacramentum caritatis (22 février 2007), n. 69: AAS 100 (207), p. 157.
[242] Présentation générale du Missel Romain, n. 57.
[243] Proposition 14.
[244] Cf. le canon 36 du Synode d’Hippone en 393, DenzingerSchönmetzer, 186.
[245] Cf. JEAN-PAUL II, Lett. Ap. Vicesimus quintus annus, 4 décembre 1988, n. 13: AAS 81 (1988), p. 910; CONGRÉGATION POUR LE CULTE DIVIN ET LA DISCIPLINE DES SACREMENTS, Instruction sur certaines choses à observer ou à éviter au sujet de la Très Sainte Eucharistie Redemptionis sacramentum (25 mars 2004), n. 62: Ench. Vat. 22, n. 2248.
[246] 246 Cf. CONC. ŒCUM. VAT. II, Const. sur la Sainte Liturgie Sacrosanctum Concilium, n. 116; CONGRÉGATION POUR LE CULTE DIVIN ET LA DISCIPLINE DES SACREMENTS, Présentation générale du Missel Romain, n. 41.
[247] Cf. Proposition 14.

[248] Proposition 9.
[249] Epistula 30, 7: CSEL 54, 246.
[250] ID., Epistula 133, 13: CSEL 56, 260.
[251] ID., Epistula 107, 9.12: CSEL 55, 300.302
[252] ID., Epistula 52, 7: CSEL 54, 426.
[253] JEAN-PAUL II, Lett. Novo millennio ineunte (6 janvier 2001), n. 31: AAS 83 (2001), pp. 287-288.
[254] Proposition 30; cf. CONC. ŒCUM. VAT. II, Const. dogm. Sur la Révélation divine Dei Verbum, n. 24.
[255] SAINT JÉRÔME, Commentariorum. in Isaiam libri, Prol; PL 24, 17B.
[256] Proposition 21.
[257] Cf. Proposition 23.
[258] Cf. CONGRÉGATION POUR LE CLERGÉ, Directoire général pour la catéchèse (15 août 1997), n. 94; JEAN-PAUL II, Exhort. apost. Catechesi tradendae (16 octobre 1979), n. 27: AAS 71 (1979), p. 1298.
[259] Ibidem, n. 127; cf. JEAN-PAUL II, Exhort. apost. Catechesi tradendae (16 octobre 1979), n. 27: AAS 71 (1979), p. 1299.
[260] 260 Ibidem, n. 128: Ench. Vat. 16, n. 936.
[261] Cf. Proposition 33.
[262] Cf. Proposition 45.
[263] Cf. CONC. ŒCUM. VAT. II, Const. dogm. sur l’Église Lumen gentium, chap. 5.

bài liên quan mới nhất

bài liên quan đọc nhiều

Top