Suy niệm Lời Chúa: CN II Phục Sinh C

CHÚA NHẬT 2 PHỤC SINH - Năm C
Lời Chúa: Cv 5,12-16; Kh 1,9-11a.12-13.17-19; Ga 20,19-31
MỤC LỤC
1. Tôma
2. Hãy nhìn xem
3. Xem tận mắt bắt tận tay - ĐTGM. Ngô Quang Kiệt
4. Lạy Chúa là Thiên Chúa con
5. Tôma đa nghi
6. Nỗi oan Tôma - ĐGM. Vũ Duy Thống
7. Chúa hiện đến - Lm. GB Nguyễn Văn Hiếu
Cái chết của Chúa Giêsu đã làm cho các môn đệ hết sức dao động. Các ông buồn phiền, hoang mang và thất vọng. Mộng ước các ông theo đuổi từ ba năm nay, bỗng dưng tan theo mây khói. Ngày mai rồi sẽ làm gì? Trở về làng cũ và nghề xưa với ghe thuyền và chài lưới trước những cặp mắt chế diễu của bà con lối xóm ư?
Vì thế, chúng ta không mấy ngạc nhiên khi thấy lời nói đầu tiên của Đức Kitô Phục sinh khi hiện ra với các môn đệ là lời chào chúc: Bình an cho các con. Từ những kẻ lo âu và dao động về cái chết của Thầy mình, các ông đã được Ngài biến thành những người được sai đi, để làm chứng rằng Ngài vẫn sống và đang ở giữa chúng ta: Như Cha đã sai Thầy, Thầy cũng sai các con.
Thế nhưng, mọi sự xem ra không được xuôi chảy. Trong số các tông đồ được diễm phúc gặp gỡ Đức Kitô Phục sinh, vắng bóng một người. Và người đó chính là Tôma. Ông quả là một con người thiếu may mắn. Những gì xảy ra với ông do sự vắng mặt này, đã khiến ông trở thành một con người cứng lòng tin trong sử sách.
Tuy nhiên, chúng ta cũng cần phải công bằng mà đặt câu hỏi: Trong thực tế, Tôma có thực sự là một kẻ cứng lòng tin hay không? Có lẽ không hẳn là thế, bởi vì chính ông đã từng chứng tỏ sự hăng hái của mình khi quyết định đi lên Giêrusalem: Nào chúng ta hãy cùng đi để được chết với Ngài.
Thế nhưng, trường hợp của Tôma đã đưa chúng ta đi sâu vào việc tìm hiểu nền tảng của niềm tin nơi Đức Kitô Phục sinh, bởi vì niềm tin này không phải là một chuyện bình thường, một chuyện tự nhiên. Sự sống lại của Đức Kitô vốn là một hòn đá tảng, đặt nền móng cho niềm tin Kitô hữu của chúng ta. Thánh Phaolô đã từng khẳng định như thế và đó cũng chính là nội dung số một của việc rao giảng nơi các tông đồ.
Sự vắng mặt của Tôma trong lần thứ nhất Chúa Giêsu hiện ra được đền đáp một cách khá dồi dào trong lần Ngài hiện ra sau đó tám ngày. Trong lần hiện ra này, Chúa Giêsu đã cho Tôma được xỏ ngón tay vào lỗi đinh cũng như lỗ đòng trên thân thể Ngài. Và Tôma cũng đã trở thành một con người mới với niềm vui mừng và xác tín mới.
Không phải vì đã có được những chứng cớ nơi các lỗ đinh làm nền tảng cho niềm tin, nhưng chính là được hoà tan trong Đức Kitô, với những khổ đau của Ngài, là dấu chứng cho một tình thương dạt dào Ngài đã thực hiện cứu chuộc chúng ta.
Thực vậy, Thiên Chúa chỉ có thể được làm chứng bằng những hành động yêu thương, vì Ngài vốn được gọi là Tình yêu. Đức Kitô Phục sinh trong niềm tin của Tôma chính là Đấng đã từng trải qua những đau khổ của thập giá cùng với cái chết ê chề và tủi nhục. Vì thế, chúng ta không thể tách rời sự sống lại của Ngài với những đau khổ và cái chết. Đồng thời, cũng không thể chỉ thấy cái chết và những đau khổ mà không thấy việc Ngài sống lại.
Và hơn thế nữa, sự chết và sự sống lại được gắn liền với tình thương của Thiên Chúa. Thực vậy, sở dĩ Đức Kitô đã chết và đã sống lại là để thực hiện chương trình cứu độ mà Thiên Chúa muốn dành để chuộc con người chúng ta.
2. Hãy nhìn xem
Suy Niệm
Thân xác chúng ta thường mang những vết sẹo, hậu quả của những lần bị trầy trụa, té ngã. Có những vết sẹo gợi lại cả một vùng kỷ niệm. Dù vui hay buồn thì cũng là chuyện đã qua. Vết sẹo làm ta kém đẹp, nhưng không làm đau như xưa.
Khi Đức Giêsu phục sinh hiện ra thăm các môn đệ, Ngài giúp họ nhận ra Ngài nhờ những vết sẹo.
Ngài cho họ xem những vết sẹo ở tay và cạnh sườn. Những vết sẹo nói lên một điều quan trọng: Thầy chính là Đấng đã bị đóng đinh và đâm thâu; Thầy đã chết nhưng Thầy đã thắng được cái chết.
Chúng ta ngỡ ngàng khi thấy Chúa phục sinh có sẹo, dù điều đó chẳng đẹp gì. Ngài không ngượng mà cho các môn đệ xem. Những cái sẹo sẽ ở mãi với Ngài trên thiên quốc. Chúng gợi lên những kỷ niệm buồn phiền, thất bại, đớn đau. Nhưng nếu không có chúng thì cũng chẳng có phục sinh.
Chẳng cần phải xoá đi khỏi ký ức cuộc khổ nạn kinh hoàng và cái chết nhục nhã. Chúng ta cũng lên thiên đàng với các vết sẹo của mình. Sống ở đời sao tránh khỏi những dập gẫy, thương tích. Nếu chúng ta đón nhận mọi sự với tình yêu thì mọi sự sẽ trở nên nhịp cầu cứu độ.
Tin Mừng phục sinh là Tin Mừng về các vết thương đã lành. Có những vết thương tưởng chẳng thể nào thành sẹo. Chúng ta có dám cho người khác thấy sẹo của mình không?
Cuộc khổ nạn của Thầy đã làm các môn đệ bị thương. Các vết sẹo của Thầy sẽ chữa lành những vết thương đó. Hẳn Tôma đã nhìn thật lâu những dấu đinh.
Chính lúc đó ông khám phá thật sâu một Tình Yêu.
• Tình yêu hy sinh mạng sống và đủ mạnh để lấy lại.
• Tình yêu khiêm hạ cúi xuống để chinh phục ông.
Ông đâu dám mong Thầy sẽ đích thân hiện đến để thoả mãn những đòi hỏi quá quắt của mình. Lòng ông tràn ngập niềm cảm mến tri ân.
Ông ra khỏi được sự cứng cỏi, khép kín, tự cô lập, để bước vào thế giới của lòng tin. Tôma đã tin vượt quá điều ông thấy.
Ông chỉ thấy và chạm đến các vết sẹo của Thầy, nhưng ông tin Thầy là Chúa, là Thiên Chúa của ông. Tin bao giờ cũng đòi một bước nhảy vọt khỏi cái thấy.
Chúng ta không được phúc thấy Chúa theo kiểu Tôma, nhưng chúng ta vẫn được thấy Chúa theo những kiểu khác. Cần tập thấy Chúa để rồi tin. Có khi phải tập nhìn lại những vết sẹo của mình, của Hội Thánh, của cả thế giới, để rồi tin rằng Chúa phục sinh vẫn đang có mặt giữa những trăn trở và vấp váp, thất bại và khổ đau. "Phúc cho những ai không thấy mà tin", và phúc cho những ai biết thấy nên tin.
Cầu Nguyện
Lạy Chúa, xin cho con luôn vui tươi. Dù có phải lo âu và thống khổ, xin cho con đừng bao giờ khép lại với chính mình; nhưng biết nghĩ đến những người quanh con, những người - cũng như con - đang cần một người bạn.
Nếu như con nên yếu đuối, thì xin cho con biết yêu thương và sáng suốt hơn, thông cảm và nhân từ hơn.
Nếu bàn tay con run rẩy, thì xin giúp con luôn biết mở ra và cho đi.
Khi lâm tử, xin cho con biết đón nhận khổ đau và bệnh tật như một lời kinh. Ước chi con sẽ chết trong khiêm hạ và tín thác, như một lời xin vâng cuối cùng. Và con sẽ về nhà Chúa, để dự tiệc yêu thương muôn đời. Amen.
3. Xem tận mắt bắt tận tay - ĐTGM. Ngô Quang Kiệt
Mỗi khi nói đến Tông đồ Tôma, người ta thường kèm theo biệt hiệu “Cứng lòng tin”.
Thật ra Tôma không cứng lòng tin hơn các Tông đồ khác. Khi Chúa đã chết rồi, các ngài hoang mang sợ hãi. Khi nghe tin Chúa sống lại, các ngài bàng hoàng bỡ ngỡ nhưng nửa tin nửa ngờ. Vì thế hai môn đệ đi đường Emmau vẫn còn buồn bã. Dù đã nghe các phụ nữ tường thuật việc Chúa sống lại, các ngài vẫn không tin, nên muốn bỏ về làng cũ. Vì thế, Chúa phải hiện ra nhiều lần. Và mỗi lần hiện ra, Người phải trấn an các ngài, cho các ngài xem các vết thương, cùng ăn uống để các người tin tưởng.
Tuy các môn đệ chưa hoàn toàn tin nhưng không ai trong các ngài phát biểu câu nào. Chỉ có Tôma nói một câu quyết liệt: “Nếu tôi không thấy dấu đinh ở tay Người, nếu tôi không xỏ ngón tay vào lỗ đinh và không đặt bàn tay vào cạnh sườn Người, tôi chẳng có tin”. Chính vì câu nói mạnh mẽ này mà ông bị mang biệt danh “Cứng lòng tin”.
Tôma đại diện cho những người thời nay, cái gì cũng muốn xem tận mắt, bắt tận tay. Chỉ tin những gì thấy được. Chỉ chấp nhận những gì sờ được. Đòi kiểm nghiệm tất cả. Đòi tự mình chứng nghiệm tất cả. Không chỉ tin vào lời nói suông. Nhưng ta phải cám ơn thánh Tôma, vì nhờ Ngài mà các môn đệ khác được chứng kiến tỏ tường Chúa sống lại, được nhìn thấy những vết thương ở tay chân và cạnh sườn Người. Vì nhờ ngài mà Đức Giêsu lại hiện ra một lần nữa. Và nhất là nhờ ngài mà ta được nghe mối phúc cuối cùng Chúa hứa cho ta: “Phúc cho những ai không thấy mà tin”.
Việc thánh Tôma đòi xem vết thương ở tay chân và cạnh sườn Chúa đặt ra cho ta những tiêu chí mới cho việc truyền giáo hôm nay.
Người thời nay không còn tin vào những lý thuyết đẹp, những lời nói hay, những hứa hẹn xa vời thực tế. Những lý thuyết đẹp phải được kiểm nghiệm bằng những kết quả đẹp. Những lời nói hay chỉ có giá trị khi đi đôi với những việc làm tốt. Vì thế, muốn làm chứng cho Chúa, người tín hữu phải có một đời sống đạo gương mẫu. Đời sống đạo gương mẫu không phải chỉ là siêng năng đi đọc kinh, đi lễ. Nhưng nhất là phải gương mẫu trong cách ăn nết ở.
Làm sao người ngoài đạo mến đạo nếu những người trong đạo cũng chia rẽ bất hoà? Làm sao đạo có sức thuyết phục khi người theo đạo vẫn còn ham hố danh vọng chức quyền đến nỗi bán rẻ cả lương tâm của mình và tìm cách chà đạp bôi nhọ người khác? Làm sao làm chứng được đạo là tốt trong khi những người tin đạo vẫn còn bất công, gian tham của cải không phải là của mình.
Thỉnh thoảng tôi có dịp gặp một ông trùm xứ Long Châu. Long Châu là một giáo xứ thuộc giáo phận Nam ninh. Trước đây, chỉ có gia đình ông tin Chúa. Gia đình ông tích cực rao giảng Lời Chúa. Kết quả là sau 20 năm hầu như cả làng gần 500 khẩu đã tin theo Chúa. Cứ mỗi dịp lễ Phục Sinh và Giáng Sinh có khoảng 20 người xin rửa tội. Tôi hỏi ông nhờ bí quyết nào mà việc truyền giáo của ông có kết quả tốt đẹp như thế. Ngẫm nghĩ một lát, ông trả lời: “Nhờ đời sống gia đình”. Bên Trung quốc, đời sống gia đình trong thời đại mới đang gặp khủng hoảng. Vợ chồng bất hoà với nhau. Con cái không vâng lời cha mẹ, có khi còn hành hung cả cha mẹ. Số gia đình tan vỡ ngày càng tăng lên. Trong khi đó gia đình ông trùm vẫn trên thuận dưới hoà, vợ chồng thương yêu kính trọng nhau, con cái vâng lời cha mẹ, anh chị em thương yêu đùm bọc lẫn nhau. Thấy thế, người trong làng bảo nhau: “Đây là đạo tốt vì có thể gìn giữ được hạnh phúc gia đình”. Nhờ tấm gương sống đạo của gia đình ông trùm mà mọi người trong làng tin theo Chúa.
Những anh em ngoài Công giáo cũng nhìn vào đời sống của chúng ta. Nếu người Công giáo thật sự sống tốt thì không cần rao giảng mọi người cũng tin. Đời sống công bình bác ái, khiêm nhường nhịn nhục, đoàn kết yêu thương có sức thuyết phục hơn tất cả mọi lời nói hay đẹp.
Trong tạp chí Guidepots, bác sĩ Scott Harrison, một chuyên viên phẫu thuật bàn tay có viết rằng: lần nào giải phẫu ông cũng đều kêu lên vào một lúc nào đó: “Lạy Chúa là Thiên Chúa của con!”. Ông có thói quen lạ lùng nầy từ hồi ông còn ở Việt Nam. Một đêm nọ, vừa mới rời trường Y, ông được kêu đi gắp một viên đạn bị kẹt trong tay một người lính. Đã vậy, ông còn phải giải phẫu dưới ánh sáng của ngọn đèn pin. Cuộc giải phẫu ấy khiến ông cảm xúc sâu xa đến nỗi sau khi cuộc chiến kết thúc, ông đã quyết định đi chuyên ngành giải phẫu bàn tay. Nhờ đi sâu vào lãnh vực chuyên môn nầy, ông đã thẩm định được cách sâu sắc cơn đau khủng khiếp do một vật gây ra, chẳng hạn như một viên đạn, khi vật ấy xuyên thủng lớp xương, lớp gân và những sợi dây thần kinh nơi bàn tay con người. Nhà phẫu thuật ấy kể rằng ông thường giật thót người mỗi lần nghĩ đến cơn đau kinh khiếp Chúa Giêsu phải chịu khi đôi tay Ngài bị đóng đinh vào thập giá.
Khi chia sẻ bài Tin Mừng hôm nay, ông nói rằng theo ông, tiếng kêu “lạy Chúa là Thiên Chúa của con” của Thánh Tôma không chỉ là một lời tuyên xưng đức tin, mà còn là tiếng kêu đầy rung động khi vị tông đồ nhìn thấy dấu vết của đôi bàn tay bị xé toạc ra của Chúa Giêsu. Chỉ đến lúc đó, Tôma mới hoàn toàn nhận thức được cơn đau đớn Chúa Giêsu đã phải chịu trên thập giá. Theo nhận định của nhà phẫu thuật, khám phá nầy hầu như vượt quá mức chịu đựng của Tôma. Và ông đã kết thúc bản văn đầy cảm động đó với lời chứng sau đây: “Mỗi lần giải phẫu mà nhìn phía dưới làn da của bàn tay con người, tôi luôn nhớ tới Chúa Kitô đã hy sinh đôi tay toàn hảo của Ngài cho tôi, và cũng như Tôma, tôi thốt lên: “Lạy Chúa là Thiên Chúa của con”.
Thưa anh chị em,
Câu chuyện trên làm nổi bật một điểm thuộc về đức tin mà chúng ta rất thường hay quên. Đó là mỗi người chúng ta phải tiếp xúc trực tiếp với Chúa Giêsu qua đức tin. Không phải vì cha mẹ, họ hàng, bạn hữu chúng ta tin nên chúng ta tin theo. Đức tin của họ giúp ích cho chúng ta rất nhiều, nhưng chỉ như thế mà thôi thì chưa đủ. Chúng ta phải tự tiếp xúc trực tiếp bằng đức tin với Chúa Giêsu giống như nhà phẫu thuật trong câu chuyện hoặc giống như Thánh Tôma trong Tin Mừng hôm nay. Ông nghĩ mình có quyền được xem thấy Chúa sống lại tí là như các anh em khác. Các tông đồ kia lúc đầu cũng chẳng ai tin Chúa đã sống lại. Các ông chỉ tin sau khi được tiếp cận với Chúa Giêsu, được sờ đến thân xác Ngài, được ăn uống với Ngài. Vì thế, Tôma thấy mình thiệt thòi và thua kém. Cho nên ông cương quyết không chịu tin lời anh em kể lại và ông đòi phải được sờ vào những dấu đinh ở tay Ngài.
Ông Robert Cleath, một tác giả viết sách đã trở lại với đức tin khi ông suy niệm về sự biến đổi kỳ diệu đã đến với các môn đệ Chúa Giêsu vào dịp lễ Phục Sinh. Trước biến cố nầy, họ là đám người thất vọng thảm bại, thế mà sau biến cố nầy, họ đã được biến đổi kỳ diệu và còn có năng lực làm phép lạ nữa. Ông nói: “Không có cách giải thích nào hữu lý về sự biến đổi của họ hơn là sự giải thích của chính họ: đó là vì họ đã nhìn thấy Chúa Giêsu hiện đang sống”.
Blaise Pascal, nhà thiên tài toán học, được hấp dẫn đến với đức tin khi ông suy niệm về sự kiện không có sự đe doạ giết chóc nào có thể ngăn cản các môn đệ Chúa Giêsu nói thật to cho thế giới biết rằng Chúa đã sống lại. Pascal nói ông tin chắc chắn vào kẻ nào dám sẵn sàng chịu “chém đầu” vì lời rao giảng của mình.
Trong cuốn sách mang tựa đề “Ngang qua thung lũng sông Kwai”, Ernest Gordon đã kể lại câu chuyện đám tù binh hai ngàn tù binh đã bị chết vì bệnh tật và vì bị đối xử tàn tệ. Thế nhưng, họ được lôi cuốn đến với đức tin qua cảm nghiệm riêng tư về quyền năng Chúa Giêsu đang hoạt động trong cuộc sống của họ. Chúng ta hãy nhớ lại đám tù binh nầy từng lao động đầu trần chân đất dưới cơn nóng cháy da miền nhiệt đới. Trong chỉ vài tuần lễ, từ những người đàn ông lực lưỡng, họ đã biến thành những bộ xương biết đi. Tinh thần họ bị xuống đến mức tệ nhất. Người ta lo sợ sắp có điều gì xảy ra. Thế nhưng vào ngay thời điểm ấy, hai tù nhân đã đứng lên tổ chức đám tù còn lại thành những nhóm tìm hiểu Kinh Thánh. Nhờ suy tư tìm hiểu Kinh Thánh, các tù nhân đã học biết rằng Chúa Giêsu Phục Sinh đang ở giữa họ. Họ chỉ việc tiếp xúc với Ngài. Và sau khi tiếp xúc với Ngài, đám tù đã được biến đổi kỳ diệu trong cuộc sống từng người. Chính cảm nghiệm thiêng liêng nầy khiến họ quỳ gối xuống thưa Chúa Giêsu “Lạy Chúa là Thiên Chúa của con”.
Anh chị em thân mến,
Chúng ta cũng phải biểu lộ niềm tin trực tiếp vào Chúa Giêsu như thế. Chúng ta cũng phải tìm được lý do riêng tư thôi thúc chúng ta quỳ gối xuống thưa với Chúa Giêsu: “Lạy Chúa là Thiên Chúa của con!”. Dĩ nhiên chúng ta không thể leo lên cỗ máy thời gian bay ngược dòng lịch sử cách đây 2000 năm để dự lễ Phục Sinh đầu tiên. Chúng ta cũng không thể đặt ngón tay vào lỗ đinh nơi tay Chúa Giêsu giống như Thánh Tôma. Vậy thì chúng ta có thể làm gì?
Chúng ta có thể làm như đám tù nhân ở bờ sông Kwai. Chúng ta có thể tin vào Tin Mừng, có thể tiếp xúc với Chúa Giêsu bằng đức tin, có thể tự cảm nghiệm được Chúa Giêsu Phục sinh đang ngự giữa chúng ta: Ngài sẵn sàng giúp đỡ chúng ta như Ngài từng giúp đỡ đám tù binh nọ. Đây là lời mời gọi mà Tin Mừng hôm nay dành cho chúng ta. Đây là lời mời gọi Chúa Giêsu ngỏ với chúng ta như Ngài nói với Thánh Tôma: “Tôma, vì con đã thấy nên con mới tin, nhưng phúc cho kẻ nào không thấy mà tin”.
Thưa anh chị em,
Khi Chúa Giêsu nói với Thánh Tôma: “Phúc cho ai không thấy mà tin” là Ngài đang ngỏ lời với chính chúng ta cũng như với triệu triệu Kitô hữu trong suốt dòng lịch sử. Phúc cho chúng ta nếu chúng ta tin vào Tin Mừng. Phúc cho chúng ta nếu chúng ta tiếp xúc với Chúa Giêsu bằng đức tin. Thật vậy, phúc cho chúng ta, vì cũng như các tù binh nọ, chúng ta sẽ khám phá được Chúa Giêsu đã sống lại và hiện đang sống ngay lúc nầy đây giữa chúng ta và luôn sẵn sàng giúp đỡ chúng ta.
Cuối cùng, đức tin còn phải được nuôi dưỡng bằng những dấu hiệu, dấu chỉ. Không có các bí tích, không có Thánh Thể, chúng ta sẽ tìm đâu ra cơ hội để gặp thấy sự hiện diện của Đức Kitô Phục Sinh? Một khi đức tin của chúng ta đã được các dấu hiệu, các bí tích nầy thức tỉnh rồi, thì mọi sự sẽ có thể trở thành dấu hiệu về sự hiện diện của Chúa Kitô: các biến cố, các hoàn cảnh, tha nhân… Mỗi giây phút đưa chúng ta đến với một cuộc gặp gỡ và chúng ta lại có thể tuyên xưng như Thánh Tôma tông đồ: “Lạy Chúa, lạy Thiên Chúa của con”.
5. Tôma đa nghi
Thật dễ sai lầm khi cho rằng những ai đã nhìn thấy Đức Giêsu, thì dễ có lòng tin hơn so với chúng ta. Tin Mừng chứng tỏ rằng có nhiều người đã được nhìn thấy Đức Giêsu, nhưng vẫn không có lòng tin nơi Người. Nhìn thấy không nhất thiết là tin. Động tác tin tưởng lôi kéo theo một quyết định tin tưởng.
Trên thực tế, Tin Mừng còn cho thấy rằng ngay cả các Tông đồ mà còn có vấn đề về lòng tin. Tôma không phải là người Tông đồ duy nhất nghi ngờ về sự sống lại. Tất cả các Tông đồ đều như vậy cả. Thánh Maccô kể cho chúng ta nghe rằng khi Đức Giêsu hiện ra với họ vào buổi tối Phục sinh, “Người khiển trách các ông không tin và cứng lòng, bởi lẽ các ông không chịu tin những kẻ đã được thấy Người, sau khi Người chỗi dậy”. (Mc 16: 14).
Chúng ta có thể thông cảm cho các Tông đồ. Cảnh Đức Giêsu bị đóng đinh đã làm cho họ bị tuyệt vọng. Họ đã dành cho Đức Giêsu một tầm quan trọng lớn lao. Họ đã bỏ hết công việc của mình, và để lại mọi sự để đi theo Người. Thế mà Người lại đột ngột ra đi. Càng nghe nói thật về cái chết của Người, thì sự mất mát của họ càng trở nên lớn lao hơn. Giá trị và ý nghĩa của tất cả mọi sự đều bị đe doạ: tình bạn đồng hành, lòng tin và toàn bộ cuộc sống của họ.
Và rồi một điều không thể tin nổi đã xảy ra – một lần nữa, Người lại đứng giữa họ. Việc đầu tiên mà Người làm, là chỉ cho các ông nhìn thấy những vết thương của Người. Tại sao Người lại làm như vậy? Trước hết, bởi và những vết thương này giúp cho các ông nhận ra Người chính là Đấng đã bị đóng đinh. Thứ hai, những vết thương này là bằng chứng tình yêu của Người đối với họ. Tình yêu phải được chứng tỏ bằng những hành động cụ thể. Sau đó, Người còn mời gọi các ông “nhìn xem và sờ tay vào”.
Trường hợp của Tôma đặc biệt soi sáng chúng ta. Ông đã chứng tỏ một sự chân thành thật thú vị. Ông không hề cố gắng che đậy những nghi ngờ của mình. Người ta thường nhìn sự hoài nghi như là một dấu hiệu của sự yếu đuối. Chúng ta thường hay mang mặc cảm tội lỗi, vì đã có những hoài nghi. Nhưng hoài nghi có thể là một điểm nói lên sự đang phát triển, là một hòn đá bước lên để đi vào sự hiểu biết sâu xa hơn. Đây là điều chắc chắn đối với Tôma, bởi vì trong Tin Mừng theo Thánh Gioan, ông đã tiến tới việc diễn tả lời tuyên xưng cao cả nhất về lòng tin nơi Đức Giêsu: “Lạy Chúa, Lạy Thiên Chúa của con”.
Ở nơi đây, trên trái đất này, người ta không thể tuyệt đối biết chắc chắn về những điều thiêng liêng. Nếu biết chắc chắn, thì không còn cần đến lòng tin nữa. Sự tuyệt đối chắc chắn có thể đưa đến thói kiêu ngạo, không khoan dung và sự ngu xuẩn. “Kẻ tin nào không bao giờ tỏ ra hoài nghi, thì không phải là kẻ tin nữa” (Thomas Merton).
Một cộng đoàn đều có thể rút được kinh nghiệm từ một nhân vật như Tôma, nghĩa là một người có can đảm đặt ra những câu hỏi mà không một người nào khác dám hỏi. Đó là người chân thành, người như vậy cũng giúp cho những người khác giữ được chân thành. Họ làm cho những kẻ tin tức giận, khi bày tỏ sự mỏng dòn nơi lòng tin của họ; họ làm cho những kẻ hoài nghi tức giận, khi làm cho những người này cảm thấy sự dằn vặt của nỗi trống rỗng trong tâm hồn.
Sau khi chế ngự được khủng hoảng lòng tin của mình, Thánh Tôma đã tiếp tục can đảm làm chứng cho Đức Giêsu, và trở thành một trong những nhà truyền giáo vĩ đại nhất của Giáo Hội tiên khởi. Theo truyền thống, ngài đưa Tin Mừng tới tận Ba Tư, Syria và Ấn Độ, là nơi ngài chịu tử đạo. Thánh Tôma là người Tông đồ đầu tiên chịu chết vì đức tin.
Đức Giêsu mời gọi chúng ta tiếp cận với Người trong lòng tin, và nhìn vào những vết thương của Người. Mặc dù chúng ta không được đụng chạm vào Người về mặt thể lý, nhưng chúng ta vẫn có thể tiến lại gần Người về mặt thiêng liêng. Và chúng ta cũng được kêu gọi mang lời chứng đến cho những người khác. Công việc của Chúng ta là làm cho Đức Giêsu trở thành “nhìn thấy được” trên thế giới. Các môn đệ đầu tiên đã làm theo cách này. Một khi đã được nhìn thấy Đức Kitô, họ cảm thấy bắt buộc phải làm cho người khác nhận biết người.
Thế giới ngày nay đầy rẫy những kẻ hoài nghi và không tin tưởng. Cách thức duy nhất khiến cho họ được biến đổi trong lòng tin, đó là làm như thể họ “nhìn thấy” Đức Giêsu và “đụng chạm” vào Người thông qua những kẻ đi theo Người. Nhưng kẻ đi theo Người lại không hề có vết thương tình yêu để bày tỏ ra cho họ, vì thế, chưa chắc có thể thuyết phục được những kẻ không tin.
Xin cho chúng ta xứng đáng được kể và số những người mà Đức Giêsu chúc phúc, nghĩa là “những kẻ không thấy mà tin”.
6. Nỗi oan Tôma - ĐGM. Vũ Duy Thống
Đối với phần đông tín hữu Việt Nam, danh xưng Tôma khơi gợi về một thái độ, rất riêng tư nhưng cũng rất điển hình, chẳng những không tích cực mà xem ra còn để lại nhiều tai tiếng. Gặp một tâm hồn cứng cỏi trước những biểu cảm của niềm tin, cảm tính không nhanh nhạy đủ hoặc lý trí còn đòi hỏi những chứng cứ, người ta đã khéo ví von “cứng lòng như Tôma”; thấy ai biểu lộ do dự hoặc nghi ngờ trước những sự kiện tôn giáo, mà theo một số người, đã rành rành hiển nhiên, người ta vội vàng đưa vào gia phả “con cháu Tôma”. Kể cũng oan!
Thật ra, đi liền với danh xưng Tôma lại là một bài học dẫn đến niềm tin, và cũng còn đó lời gọi sống sao cho mối phúc thứ chín, như người ta gọi về lời Chúa Giêsu kết thúc trang tin Mừng hôm nay “Phúc cho kẻ không thấy mà tin”, được trở thành hiện thực trong đời mỗi Kitô hữu.
1. “Lạy Chúa tôi, lạy Thiên Chúa của tôi”.
Niềm tin của Tôma vào Đấng Phục Sinh là cả một chặng đường trong đó yếu tố trước hết chính là cộng đoàn: “Chúng tôi đã được thấy Chúa”. Chính vì chứng từ của cộng đoàn này mà Tôma đã tự vấn để rồi sau đó mới đi tới đức tin. Ngay việc các môn đồ hội họp vào “ngày thứ nhất trong tuần” cùng với lời chúc bình an của Đấng Phục Sinh, làm bối cảnh hình thành truyện Tôma, cũng cho thấy vai trò của cộng đoàn trong việc khai sinh đức tin nơi một người.
Nhưng yếu tố chủ động hơn phải được tìm thấy trong phản tỉnh của cá nhân ông. “Nếu tôi không thấy…tôi không tin”. Câu nói tự phát ấy đã trở thành tai tiếng khiến nhiều người nghĩ rằng Tôma là một kẻ cứng đầu cứng cổ, đòi hỏi, nghi ngờ. Nhưng thực ra, ông là người thực tiễn. Chính nhờ ông lên tiếng mà ta mới thấy rõ hơn thế nào là trăn trở của đức tin thuở ban đầu và thế nào là nỗ lực cá nhân làm cho niềm tin có được bản sắc riêng không thể lầm lẫn với người khác.
Nếu hôm trước Tôma đòi thấy mới tin, thì “tám ngày sau”, qua tiếp xúc cá nhân với Đấng Phục Sinh, ông đã dõng dạc tuyên xưng không phải bằng công thức chung chung như mọi người nữa, mà bằng một cách rất riêng đậm màu bản sắc làm thành đỉnh cao tuyên tín Phục Sinh: “Lạy Chúa tôi, lạy Thiên Chúa của tôi”.
Và niềm tin chỉ có thể đạt được kết quả khi có yếu tố quyết định chính là hồng ân Thiên Chúa, như một bao trùm từ khởi sự cho đến hoàn thành. Nguyện vọng của Tôma xem ra ngược ngạo, nhưng đã được Đức Giêsu thanh luyện, để cuối cùng khi dâng lời tuyên tín, cũng là lúc ông được dẫn vào một nhận thức mới mẻ hoàn toàn.
Thay vì “phải thấy mới tin”, ông đã nhận ra rằng “phải tin mới thấy” trọn vẹn: thấy Đấng Phục Sinh và con người Giêsu cũng là một, thấy Đấng Phục Sinh rốt cuộc là Chúa và là Thiên Chúa của mình, và thấy niềm tin vượt lên tất cả sẽ trở thành hạnh phúc.
2. “Đừng cứng lòng, nhưng hãy tin”
Chuyện lòng riêng của Tôma cũng là chuyện lòng chung của muôn lòng tín hữu. Từ nỗi oan Tôma, ngày nay người ta hiểu hơn rằng niềm tin không phải là một yếu tố đơn thuần, mà là một tổng hợp giữa ơn thánh và nghị lực con người, trong đó có cộng đoàn và mỗi cá nhân.
Chỉ dựa vào ơn thánh, người ta có nguy cơ rơi vào thái độ coi mọi sự là bởi Chúa nên không cần phải đào sâu tìm hiểu thêm. Có biết đâu tin như thế không còn là tin nữa, mà một cách nào đó đã trở thành cả tin. Vì tin tất cả nên cả tin, hay vì cả tin nên tin tất cả?
Chỉ dựa vào lý trí, người ta lại có nguy cơ khác là thái độ muốn giới hạn tri thức về thực tại vào tiêu chuẩn của kinh nghiệm khả giác hoặc khả năng suy luận: những gì không hiểu, không đo lường sờ chạm, đều bị chối từ. Có biết đâu tin như thế cũng không còn là tin nữa, mà xem ra lại gần với sự bất tín!
Nếu chỉ dựa vào cộng đoàn thôi, người ta còn có thêm một nguy cơ nữa là thái độ tiêu cực. Bên ngoài có vẻ ngoan nguỳ, nhưng thực chất là dấu hiệu của một niềm tin hời hợt. Lúc đạo giáo hưng thịnh xem ra không có vấn đề nhưng khi sự đạo phải bước vào thầm lặng thì biết đâu bởi vì dễ tin nên cũng dễ bỏ niềm tin trước bất cứ ai?
Thành ra, phải xem trường hợp Tôma như một kinh nghiệm, và cần xem chặng đường niêm tin của ông như một kinh điển cho niềm tin đang dấn bước đi trong cuộc sống. “Đừng cứng lòng!” phải chăng là lời gọi hãy xa đi những thái độ không phù hợp, để chẳng những tránh được khủng hoảng, mà dường như còn nghe lại từng ngày lời ân cần đã một lần ngỏ với Tôma ở cuối chặng đường gặp gỡ: “Nhưng hãy tin!”
3. “Phúc cho kẻ không thấy mà tin”
Cũng từ nỗi oan Tôma, tín hữu hôm nay cảm nhận hơn niềm vui trong đức tin của mình. Niềm vui của Tôma là được thấy Chúa nên tin, còn niềm vui của đời tín hữu lại là tin để được thấy Chúa. Tin như thế là một hạnh phúc.
Trong hạnh phúc ấy, sau này các Tông đồ đã quy tụ cho Chúa những kẻ tin, và những kẻ tin sơ khởi đãvui mừng cử hành niềm tin của mình một cách sống động, không những qua nghi thức Phụng Vụ, mà còn qua cách sống cộng đoàn biết chia sẻ và phục vụ lẫn nhau, và niềm hạnh phúc, cuối cùng, sẽ là sức mạnh chiến thắng.
Nhưng với kẻ tin hôm nay, tất cả vẫn còn ở phía trước. Bổn phận của ta là phải khổ công vun đắp niềm tin của mình sao cho thắm đượm hồng ân Thiên Chúa mà vẫn không quên nỗ lực đóng góp của con người, sao cho chan hoà với nhịp sông cộng đoàn mà vẫn không triệt tiêu bản sắc cá nhân. Và một khi niềm tin muốn khơi dậy niềm tin, thì cái bổn phận kia đã trở thành trách nhiệm loan báo hạnh phúc cho những người đồng thời.
Tuy nhiên, phải thú nhận rằng niềm tin hạnh phúc ấy còn lắm nhạt nhoà. Đó đây trong nhịp sống chung Giáo Hội cũng như trong nếp sống riêng mỗi tín hữu, vẫn có thể có những lúc ngại tin hoặc chậm tin vào điều mình không thấy. Nhất là khi phải hy sinh những hạnh phúc chính đáng “thấy được” để vươn đến một thứ hạnh phúc ở ngoài tầm nhìn khả giác. Quả là vất vả!
Nhưng chính lúc ấy, Tôma xuất hiện như một người bạn tri âm, như một người thầy đã từng trải nghiệm. Và lời Đức Giêsu nói với ông lại trở thành lời vỗ về đem lại sức mạnh. Nghe trong mối phúc thứ chín có câu dặn dò: muốn thấy điều mình tin, hãy bắt đầu bằng cách tin điều mình không thấy; và chừng như cũng có lời ước hẹn: tin điều mình không thấy sẽ được thấy điều mình tin.
Ngày nay nỗi oan Tôma vẫn còn đó. Một mình ông chịu tai tiếng để sau này người ta biết đường mà tránh. Một mình ông chịu quở là cứng lòng tin để tín hữu hiểu rằng phải vượt trên những điều nhìn thấy mới gặp được lối hạnh phúc của niềm tin. Và như thế, liệu ta có thể bảo rằng nỗi oan Tôma là một nỗi oan hạnh phúc?
Cùng với mầu nhiệm đức tin khi bánh rượu được truyền phép hôm nay, ta sẽ lặp lại lời tuyên xưng của Tôma: “Lạy Chúa tôi, lạy Thiên Chúa của tôi”. Để xin thêm đức tin cho những tấm lòng còn nghi ngại, củng cố đức tin cho những người đang yếu đuối, và xin được hạnh phúc cho mọi kẻ tin.
7. Chúa hiện đến - Lm. GB Nguyễn Văn Hiếu
Phân tích
Nguyên nhân của những mối nghi ngờ chính là vì sự việc vượt quá tầm nhận thức, hiểu biết của con người -nhất là về phuơng diện đức tin. Do đó việc Thánh Tôma nghi ngờ như trong trình thuật Tin Mừng, cũng là điều tự nhiên.Tuy nhiên điều mà Thánh Tôma có lỗi, chính là vì đã không tin vào lời Chúa. Như Thánh Tôma, chúng ta cũng đã nhiều khi không tin vào lời Chúa như vậy. Xin Chúa tha lỗi cho chúng con.
-Lạy Chúa, vì niềm tin vào Chúa của chúng con được truyền lại từ các Tông Đồ. Xin Chúa thương xót …
-Lạy Chúa, vì Chúa là “Đấng Hằng Sống” và “giữ chìa khoá của tử thần và âm phủ” (Kh1,18). Xin Chúa Kitô …
-Lạy Chúa, vì Chúa đã đến để cứu chuộc và ban bình an cho chúng con. Xin Chúa thương xót …
Suy gẫm
Có thể nói là từ xưa đến nay, Thánh Tôma hầu như đã bị người ta ghim chết trong định kiến một con người cứng lòng tin. Thế nhưng có mấy ai nghĩ cho ngài là con người tiên phong trong việc tuyên xưng Chúa Giêsu là Chúa và là Thiên Chúa? Nếu hiểu được điều đó, chúng ta mới có thể thấy được câu nói của Chúa Giêsu vừa là lời trách cứ, nhưng cũng là lời khích lệ niềm tin cho ngài cũng như cho tất cả chúng ta bất kỳ thời đại nào: “Vì đã thấy Thầy, nên anh tin. Phúc thay những người không thấy mà tin” (Ga 20,29).
Quả vậy, Thánh Tôma không hẳn là người môn đệ duy nhất cứng tin. Các môn đệ khác cũng thế. Trong Tin Mừng theo Thánh Máccô, đã có lần Chúa Giêsu khiển trách các ông không tin và cứng lòng, “vì đã không chịu tin những kẻ đã được thấy Người sau khi Người sống lại” (Mc 16,14). Ngay cả khi tiễn Chúa về trời, Thánh sử Mátthêu vẫn còn ghi lại: “Có mấy ông lại hoài nghi” (28,17). Thực ra, niềm tin không phải là định kiến bất dịch, nhưng là một sức sống. Sức sống thì phải được nuôi dưỡng, phải có di chuyển. Nuôi dưỡng thì tất nhiên phải có thời để cảm nhận đói và thời được no; nghĩa là có tình trạng hao hụt để tiến tới thời sung mãn. Những lần Chúa hiện đến, đâu có phải ai ai cũng nhanh chóng nhận ra người đứng trước mặt mình là Chúa -Chúa Giêsu Phục Sinh! Chỉ sau khi được nhắc bảo, các môn đệ mới ngạc nhiên hướng nhìn Người! Cho nên ai cũng có thể sai lầm, cũng có thể lỡ bước. Điều quan trọng, chính là biết thức tỉnh để đi đến cùng, đến cùng sự thật.
Thánh Tôma trong trình thuật hôm nay, bước đầu có thể như hơi quá lời khi thách thức các môn đệ khác: “Nếu tôi không thấy dấu đinh ở tay Người, nếu tôi không xỏ ngón tay vào lỗ đinh và không đặt bàn tay vào cạnh sườn Người, tôi chẳng có tin” (Ga 20,25b). Tuy nhiên sau đó, khi Chúa ngự đến, Thánh nhân không chỉ giữ im lặng như những người khác, nhưng đã tuyên xưng niềm tin của mình: “Lạy Chúa của con, lạy Thiên Chúa của con” (c.28). Ngài công bố chấp nhận Đức Giêsu -người đang đứng trước mặt ngài- là con người đã chết đi nhưng đã sống lại thực sự, chẳng những là chủ nhân có thể ra lệnh sai khiến chỉ bảo, mà còn là Thiên Chúa -Đấng tạo sinh nên mình nữa ! Điều mà Giáo Hội tuyên xưng Chúa Giêsu trong kinh Tin Kính từ thời các Tông Đồ cho đến ngày nay, đâu có gì vượt quá điều Thánh Tôma đã tuyên xưng trước mặt Chúa ngày hôm nay: “Lạy Chúa của con; lạy Thiên Chúa của con!” Thánh nhân không chỉ tuyên xưng Chúa đã sống lại, nhưng còn tin nhận Chúa là Đấng Cứu Thế phải đến thế gian và là Thiên Chúa. Như thế, đức tin còn phải vượt qua điều thấy trước mắt để thấy được điều cần phải thấy, phải tin. Đã chắc gì các vị môn đệ khác thấy con người Chúa phục sinh hôm đo, mà tin nhận ngay hay thấy ngay được Chúa là Thiên Chúa tối cao đáng kính, đáng tôn thờ? Ngôi Lời Thiên Chúa khi trở nên xác phàm, là muốn để cho nhân loại thấy Chúa Giêsu có thân xác. Nhưng để được đi vào mầu nhiệm cứu rỗi và để sống trong Tình Yêu của Thiên Chúa, con người phải thấy được Chúa Giêsu tỏ hiện trong vinh quang Thiên Chúa tính của Người. Mối hạnh phúc mà Chúa Giêsu chúc mừng cho Thánh Tôma, chính là điều Thánh nhân đã “thấy” -thấy vượt qua cái thấy trước mắt- và đã nhanh chóng tuyên xưng lòng xác tín của mình vào điều đã thấy ngoài điều nhìn bắng ánh mắt đó. Nhờ xác tín như thế mà Thánh nhân đã không ngần ngại mang Tin Mừng của Chúa sang rao giảng tận Batư, Xyri; và tại Ấnđộ, ngài đã sẵn sàng đổ máu đào làm chứng cho Chúa.
Chúng ta cũng đã không thấy Chúa nhãn tiền như các Tông Đồ hay như Thánh Tôma xưa. Nhưng liệu đó có phải là đầu mối đem lại hạnh phúc cho chúng ta, vì chúng ta đã cố gắng khám phá và tuyên xưng Chúa đang sống trong cuộc đời mình chăng? Lời Chúa khích lệ Thánh Tôma ngày xưa vẫn còn mãi mãi giữ giá trị cho chúng ta ngày hôm nay: “Phúc thay những người không thấy mà tin!” (Ga 20,29).
Lạy Chúa, dù cuộc đời con có tăm tối, hay trống rỗng; dù đời con có thất bại nặng nề, muộn phiền hay lo âu, xin cho con luôn vững tin nơi Chúa, để nhìn thấy Chúa đang hiện diện bên cạnh và nâng đỡ con. Amen.
bài liên quan mới nhất

- Hiệp sống Tin mừng: Chúa nhật Lễ Mình Máu Thánh Chúa năm C
-
Bài giảng trong thánh lễ kỷ niệm 50 năm thụ phong Linh Mục 1975/15-6/2025 - linh mục Tổng Đại diện Ignatio Hồ Văn Xuân -
Hiệp sống Tin mừng: Chúa nhật Chúa Ba Ngôi năm C -
Hiệp sống Tin mừng: Chúa nhật Chúa Thánh Thần hiện xuống -
Hiệp sống Tin mừng: Chúa nhật 7 Phục sinh năm C - Chúa Thăng Thiên -
Hiệp sống Tin mừng: Chúa nhật 6 Phục sinh năm C -
Hiệp sống Tin mừng: Chúa nhật 5 Phục sinh năm C -
Hiệp sống Tin mừng: Chúa nhật 4 Phục sinh năm C -
Hiệp sống Tin mừng: Chúa nhật 3 Phục sinh năm C -
Hiệp sống tin mừng: Chúa nhật 2 Phục sinh
bài liên quan đọc nhiều

- Tâm tình Mùa Chay
-
Hiệp sống Tin mừng: Chúa nhật 13 Thường niên năm B -
Hiệp sống Tin mừng: Chúa nhật 14 Thường niên năm A -
Hiệp sống Tin mừng: Chúa nhật 5 Phục sinh năm C -
Hiệp sống Tin mừng ngày 29/06: thánh Phêrô và thánh Phaolô tông đồ -
Hiệp sống Tin mừng: Chúa nhật 3 mùa Chay năm B -
Hiệp sống Tin mừng ngày 02/11: Cầu cho các đẳng linh hồn -
Hiệp sống Tin mừng: Chúa nhật Chúa Thánh Thần hiện xuống -
Hiệp sống Tin mừng: Chúa nhật 27 Thường niên năm B -
Hiệp sống Tin mừng: Chúa nhật 29 Thường niên năm B