Suy niệm Lời Chúa: CN 4 Mùa Chay C

Suy niệm Lời Chúa: CN 4 Mùa Chay C

CHÚA NHẬT 4 MÙA CHAY C
Lời Chúa: Gs 5,9a.10-12; 2Cr 5,17-21; Lc 15,1-3.11-32

MỤC LỤC
1. Ba cha con
2. Trở về
3. Người cha nhân hậu
4. Trở về trong tình thương
5. Người con hoang đàng
6. Câu chuyện về người cha nhân lành
7. Đứa con hoang đàng
8. Người anh cả
9. Em con đã chết nay sống lại

 



1. Ba cha con

Câu chuyện về đứa con phung phá, còn có thể được gọi là câu chuyện về tấm lòng của một người cha, hay nói đúng hơn là câu chuyện về ba cha con.

Thực vậy người con thứ chỉ là một tay giang hồ hèn nhát. Phải chi nếu vì thương cha nhớ mẹ mà anh ta trở về thì còn khá, đằng này chỉ vì đói khát, thèm ăn cả cám heo mà cũng chẳng được, thôi thì đành trở về. Mà đã trở về thì cũng phải ca mấy câu cho xong chuyện với ông già.

Nhưng người cha là một nhân vật tuyệt vời. Ông đã món mỏi chờ đợi kẻ đi hoang. Ông nuôi một con bê và ngày ngày ra tận ngoài đường trông ngóng. Bằng chứng là khi đứa con rách nát trở về thì ông đã nhận ra nó tự đàng xa và chạy lại ôm choàng lấy nó mà hôn. Ông đã tha thứ cho nó từ lâu rồi, nên đâu có để ý đến sáu câu nó vội ca lên khi gặp ông. Ông truyền mặc áo đẹp cho nó, xỏ nhẫn và xỏ giày cho nó. Đây là những biểu tượng của người con trong gia đình. Nó chỉ muốn làm đầy tớ để được ăn no, nhưng ông đã trả lại cho nó địa vị người con để được hưởng mọi quyền lợi. Rồi ông lại truyền giết con bê nuôi sẵn để thiết tiệc mừng đứa con như đã chết mà nay sống lại.

Nhân vật thứ ba của câu chuyện là người con cả. Anh ta là một người siêng năng, cần cù, hết mình tận tuỵ với cha, nhưng lại tự ti và ích kỷ: Là con trưởng nhưng lại chỉ biết sống như một người đầy tớ, như một kẻ nô lệ, không ý thức rằng hễ đã là con thì cũng có quyền thừa kế, nghĩa là được làm chủ gia tài của cha. Trái lại, anh ta chỉ biết làm công để được nuôi trong nhà mình như một kẻ xa lạ. Vì không ý thức địa vị là con, là chủ của mình, nên anh ta chẳng tình nghĩa gì với cậu em trai, đã không biết chia sẻ niềm vui của cha thì chớ, anh ta lại còn trách móc hằn học ghen tương.

Bọn biệt phái khi nghe câu chuyện này thì đã hiểu ngay cái ý nghĩa Chúa Giêsu muốn nhắm tới. Người cha là Thiên Chúa hay cũng có thể nói là chính Ngài. Đứa em giang hồ là những quân thu thuế và kẻ tội lỗi, mà Ngài thường ưu ái. Còn cậu cả chính là họ. Bởi vì họ thường lấy làm chướng tai gai mắt khi thấy Ngài đi lại và ăn uống với phường tội lỗi. Điều Chúa Giêsu khiển trách, đó là họ tuy đạo đức, chẳng hạn như đọc kinh nhiều, ăn chay lắm, nhưng lại thiếu lòng nhân ái, thiếu tình thương người, và như vậy là thiếu chính cái mà Thiên Chúa đòi hỏi vì Thiên Chúa đã phán: Ta muốn lòng nhân từ chứ không phải của lễ.

Ngày nay, khi nghe đọc dụ ngôn này, không hiểu chúng ta, những người vốn tự hào là những con chiên ngoan, có dám can đảm nhận ra nơi mình hình ảnh cậu cả hay không. Bằng chứng là vẫn thấy nhiều người sẵn sàng lên án, ném đá những người ngoại tình, những kẻ tội lỗi. Không thiếu những người được coi là đạo đức thánh thiện, lại rất khắt khe với kẻ tội lỗi. Tệ hơn nữa, người ta còn nhân danh sự thánh thiện của Thiên Chúa mà đòi xử phạt kẻ có tội.

Những thái độ trên hoàn toàn đi ngược lại tinh thần của Chúa Giêsu, Đấng đã đến để tỏ lộ lòng nhân từ khoan dung của Cha chí ái. Qua đó, Chúa Giêsu nhắm thẳng vào những kẻ thiếu tình huynh đệ, cõi lòng của họ chai đá, không biết cảm thông nỗi đau khổ của người khác và cũng chẳng biết chia sẻ niềm vui của Thiên Chúa, là được đón nhận những đứa con hư hỏng biết tìm đường trở về.

Để kết luận, là những kẻ tội lỗi chúng ta hãy can đảm trỗi dậy trở về cùng Chúa, đồng thời cũng hãy có thái độ khoan dung độ lượng với những kẻ tội lỗi, như thái độ của Chúa Giêsu trong câu chuyện chúng ta vừa nghe.

2. Trở về

Người cha không đi tìm đứa con út như tìm chiên lạc. Nó đã dùng tự do để quyết định ra đi, và người cha tôn trọng quyết định đó. Nhưng ông vẫn ngong ngóng chờ con. Niềm hy vọng vẫn không ngừng nhen nhúm.

Người cha thấy con trước khi nó kịp thấy cha. Con ốm yếu, hôi hám, bội bạc, chẳng làm cha xa tránh. Tình thương trào dâng khiến bước chân cha vội vã. Vòng tay cha lớn quá, nụ hôn cha nồng nàn.

Áo đẹp, dép mới, nhẫn đeo tay, ca nhạc, tiệc tùng, múa nhảy: tất cả chỉ để thông báo cho mọi người biết rằng đây là con tôi, vẫn là con vì chưa bao giờ không là con.

Nhưng người cha không chỉ thương con út. Con cả mới là đích nhắm của câu chuyện này. Anh quá hiếu thảo, quá vâng phục cha từng li từng tí. Anh không đi hoang, không ăn chơi, chỉ chăm lo đồng áng. Ai cũng thấy anh là người con mẫu mực.

Nhưng biến cố đứa em trở về đã làm lộ con người thật của anh. Tuy luôn ở trong nhà cha, nhưng anh lại ở ngoài tim cha. Anh không hiểu được tại sao cha lại nhu nhược đến thế, bao dung đến độ bất công với anh. Đãi tiệc với thịt bê béo để mừng đứa con hoang đàng, còn anh, một con dê để lai rai với bạn bè cũng không có. Anh không thể vui với cha, càng không thể vui với em. Anh tức giận vì thấy quyền lợi mình bị xâm phạm. Rốt cuộc anh không chịu vào nhà!

Hoá ra cả hai người con vừa khác, lại vừa rất giống nhau. Cả hai đều ở ngoài nhà cha, chấp nhận chịu đói. Con út không thấy hạnh phúc bên cha nên ra đi. Con cả không chia sẻ được hạnh phúc của cha nên không vào.

Sám hối là trở về với tình cha. Cả hai người con đều cần trở về, trở vào. Sám hối là trở lại với tình yêu, niềm vui, sự sống.

Nhưng trở về chẳng phải là chuyện dễ dàng.

Chẳng ai muốn nhận là mình đã đi lầm đường. Người anh cả cần dẹp bỏ tự ái để vui vẻ vào nhà. Người em út cần khiêm tốn mới gặp cha và gia nhân trong tình trạng thân tàn ma dại. Để trở về cần đứng lên hay bỏ chỗ mình đang đứng. Từ bỏ thì đớn đau nhưng hạnh phúc thật tuyệt vời.

Hạnh phúc lớn nhất không phải là tài sản vật chất, mà là khám phá ra mình có chỗ trong trái tim cha. Cha yêu mình dù mình hư hỏng, bất trung. Cha yêu mình không phải vì mình ngoan ngoãn, được việc. Cha yêu mình chỉ vì mình là con. Cha không muốn mất một đứa con nào.

Trở về với Cha đòi ta giang tay đón lấy người em. Đó không phải là "thằng con của cha", nhưng là "em của con". Trở về với Cha, với tha nhân cũng là trở về với mình. Tôi chợt nhận ra mình quá ư giàu có.

Cầu Nguyện

Lạy Cha, người con thứ đã muốn tự định đoạt lấy đời mình. Chúng con vẫn rơi vào tội của người con thứ, khi coi Cha như người cản trở hạnh phúc của chúng con. Chúng con thèm được tự do bay nhảy ngoài vòng tay của Cha; nhưng tự do ấy lại biến chúng con thành nô lệ. Hạnh phúc do thế gian ban tặng thì bọt bèo. Như người con thứ, chúng con bỗng thấy mình tay trắng, rơi xuống chỗ cùng cực và bị cái chết đe doạ.

Lạy Cha đầy lòng bao dung, xin kéo chúng con trở về với Cha mỗi ngày, giúp chúng con điều chỉnh những đam mê lệch lạc. Xin nâng chúng con đứng lên trong niềm vui vì tin rằng tình Cha lớn hơn tội chúng con vạn bội. Ước gì những vấp ngã khiến chúng con lớn lên, thấy mình mong manh, thấy Cha rộng lượng. Ước gì sau mỗi lần được Cha tha thứ, chúng con lại thấy mình hiền hoà hơn với tha nhân.

3. Người cha nhân hậu

Ta thường gọi là dụ ngôn “Người con hoang đàng”. Cách gọi này không được chính xác. Trước hết vì sự trở về của đứa con không đáng làm khuôn mẫu cho ta. Hơn nữa, xét theo bối cảnh và nội dung, Chúa Giêsu, khi kể dụ ngôn này, có ý đề cao tình yêu thương, lòng khoan dung nhân hậu của người cha.

Bối cảnh: Nhóm Pharisêu và các Kinh sư chê trách Chúa Giêsu vì Người ngồi ăn với những kẻ tội lỗi. Để trả lời họ, Chúa Giêsu kể một chuỗi 3 dụ ngôn: Con chiên đi lạc, Đồng bạc bị mất và Người cha nhân hậu.

Nội dung: Có thể coi đây là một vở kịch 2 màn.

NGƯỜI CHA VÀ ĐỨA CON ÚT.

Đứa con ích kỷ chỉ nghĩ đến bản thân.

Sự ích kỷ được biểu lộ trước hết trong việc xin chia gia tài, ở nhà chung mà chỉ nghĩ đến vun quén riêng. Không đóng góp mà chỉ muốn rút tỉa. Không làm việc mà chỉ muốn hưởng thụ. Sự ích kỷ đạt đến mức tồi tệ đáng kinh tởm khi nó dám mở miệng xin chia gia tài. Theo truyền thống phương đông, gia tài chỉ được chia sau khi cha mẹ đã qua đời. Xin chia gia tài lúc cha mẹ còn sống có khác nào cầu mong cha mẹ mau chết đi!

Có tiền bạc trong tay, nó bắt đầu ăn tiêu phung phí. Cách ăn tiêu nói lên tính ích kỷ của đứa con. Nó tiêu tiền mà không nghĩ gì đến mồ hôi nước mắt của cha mẹ. Nó tiêu tiền chỉ để thoả mãn dục vọng. Nó dùng tiền bạc để cung phụng bản thân. Khi có tiền nó chẳng nghĩ đến ai, nên khi hết tiền, chẳng còn ai gắn bó, sẵn sàng giúp nó qua cơn túng thiếu. Túng cùng quá mới phải trở về.
Sự ích kỷ vẫn còn đó trong toan tính trở về. Nó không hề nghĩ đến cha mẹ. Nó không hề nghĩ đến tình thương. Nó chỉ nghĩ đến cái bụng. Về nhà để được ăn no. Chỉ có thế.

Người cha hoàn toàn quên mình vì con. Khi đứa con xin chia gia tài, ông đã chia ngay, không so đo tính toán, không hạch sách khó khăn. Ông không nghĩ đến bản thân, không tự ái, chỉ mong sao con cái được vui lòng.

Khi con đã ra đi, ông ngày đêm thương nhớ, ngày nào cũng ra ngõ đứng chờ. Thật tội nghiệp, con ra đi chẳng nhớ nhung gì đến cha mà cha không phút giây nào ngừng thương nhớ con. Con chỉ biết tìm vui cho bản thân trong khi cha mỏi mòn trông đợi. Con chỉ biết đến tiền bạc, còn cha chẳng quan tâm gì đến tiền của, nhưng chỉ cần có con.

Cảm động nhất và cũng chan chứa tình thương nhất là phút giây gặp gỡ. Một phút giây vắn vỏi mà nói lên bao nhiêu điều về tình thương của cha. “Anh ta còn ở đàng xa thì người cha đã trông thấy”. Khi con chưa nhìn thấy cha thì cha đã nhìn thấy con. Mắt chàng trai trẻ hẳn phải tinh anh hơn mắt ông cụ đã nhoà dòng lệ vì thương nhớ chứ. Thế mà cha đã nhìn thấy con trước. Vì cha không nhìn bằng mắt nhưng nhìn bằng trái tim. Trái tim yêu thương có đôi mắt tinh tường giúp nhận ra ngay bóng người yêu dấu. Trái tim con không còn yêu thương nên nhìn chẳng thấy cha. Trái tim con khô cằn nên mắt vẫn sáng mà chẳng khác mù loà. Trái tim cha đầy ắp yêu thương nên đã loà rồi mà vẫn thấy rõ con ngay từ đàng xa.

“Ông chạnh lòng thương”. Trái tim dạt dào yêu thương quên hết tất cả lầm lỗi của đứa con. Tình cảm đầu tiên dâng lên trong tim ông không phải là tiếc xót nửa gia tài đã mất, cũng không phải là tức giận thằng con phá gia chi tử, nhưng lại là chạnh lòng thương. Yêu quá nên người cha chẳng còn nhìn thấy gì khác hơn là đứa con tiều tuỵ rách rưới. Yêu quá nên người cha chẳng nhìn thấy lầm lỗi mà chỉ nhìn thấy nỗi khổ của con. Trong trái tim ông, chỉ có tình thương dành cho con, nên vừa gặp con là tim đã rộn ràng xúc động.

“Chạy lại ôm cổ con”. Lại một cử chỉ lạ lùng. Cha không chờ con tới theo đúng lễ phép mà đã vội vàng chạy lại ôm con. Tình yêu thương thúc đẩy, niềm vui dâng dạt dào khiến người cha không chần chờ được nữa. Bất chấp thân phận cao quý của mình, ông chạy đi như một đứa trẻ được quà. Bất chấp tuổi tác của mình, ông nhanh nhẹn như một thanh niên sung sức. Đứa con tuổi còn trẻ mà sao chẳng nhanh nhẹn bằng ông già? Vì trong tim nó thiếu tình yêu. Trái tim không tình yêu cũng giống như cơ thể không sức sống. Ông già mà nhanh nhẹn vì ông không chạy bằng sức lực của đôi chân. Ông chạy bằng trái tim. Ông bay bằng tình yêu. Tình yêu chắp cánh cho ông.

“Hôn lấy hôn để”. Chẳng còn bút nào tả xiết niềm vui của người cha khi gặp lại đứa con. Những nụ hôn không ngớt đủ nói lên tình cảm dạt dào ông dành cho nó. Ông ôm chặt như để giữ không cho nó ra đi nữa.

Trong một thoáng, khi đứa con chưa có một động tác nào thì người cha đã có 4 động tác: nhìn thấy, chạnh lòng thương, chạy đến, ôm hôn. Trong một thoáng ngắn ngủi, khi chàng trai tuổi trẻ còn bất động thì ông lão già nua đã thực hiện 4 động tác rất nhanh nhẹn. Ông thật là người cha phung phí. Ông đã phung phí sức lực trong cuộc gặp gỡ với đứa con trở về. Ông đã phung phí tiền bạc khi chia gia tài một cách dễ dãi. Ông đã phung phí khi đem áo mới, giầy mới, nhẫn vàng, lại còn tổ chức một bữa tiệc mừng có bê béo, có cả đàn hát múa nhảy để đón đứa con đi hoang trở về. Làm thế chẳng sợ hàng xóm cười cho! Nói tóm lại ông đã phung phí tình yêu thương. Yêu thương quá độ. Yêu thương đến vô lý. Mà có lý lẽ nào giải nghĩa được yêu thương? Chỉ có tình yêu thương mới giải nghĩa được những điều vô lý đó.

MÀN 2: NGƯỜI CHA VÀ ĐỨA CON CẢ

Đứa con cả đi hoang trong tâm hồn.

Đứa con cả vẫn ở nhà, nhưng thực ra chỉ có thân xác ở nhà, còn tâm hồn nó đã đi hoang từ lâu. Tuy ở trong gia đình, nhưng tâm hồn nó không thuộc về gia đình. Nó làm việc không phải với tâm tình của một người con hiếu thảo coi “mọi sự của cha là của con”. Nó muốn vun quén riêng tư. Nó làm việc với tinh thần nô lệ, mong được trả công, chỉ nghĩ đến con “bê nhỏ”, đến “bạn bè” riêng của nó.

Sống bên cha mà tâm hồn nó xa tâm hồn cha biết bao. Nó không sao chia sẻ được những tình thương, những ưu tư, hoài bão của cha. Cha là tình thương nhưng con chỉ là ích kỷ. Cha là bao dung nhưng con chỉ là hẹp hòi. Tâm hồn cha rộng mở bao nhiêu thì tâm hồn con khép kín bấy nhiêu. Cha chỉ biết tha thứ trong khi con chỉ biết kết án. Thật là khác biệt ngàn trùng.

Cha đi tìm con

Một lần nữa, người cha lại phải bỏ nhà ra đi, bỏ dở bữa ăn để tìm đứa con đi hoang trong tâm hồn. Vẫn với cử chỉ dịu dàng cố hữu; vẫn với những lời lẽ ôn tồn; vẫn với ánh mắt chan chứa cả một trời bao dung, cha cố gắng thuyết phục đứa con cả trở về.
Nếu đứa con út cần một cuộc trở về thì đứa con cả cần tới hai cuộc trở về: về với cha và về với em. Đi hoang trong tâm hồn xa xôi diệu vợi thế!

Qua dụ ngôn này Chúa cho thấy dù tôi là con út hay con cả, tôi vẫn cần trở về. Vì nếu tôi chưa đi hoang trong đời sống, chắc chắn đã rất nhiều lần tôi đi hoang trong tâm hồn: suy nghĩ và hành động của tôi khác hẳn với đường lối của Thiên Chúa là Cha; tôi vẫn không muốn chấp nhận anh em tôi.

Nhưng dụ ngôn cũng cho tôi an tâm trở về. Hình ảnh người cha hiền đứng đợi mời gọi tôi mau bước. Chúa là người Cha yêu thương tôi trước khi tôi yêu Người, đi tìm tôi trước khi tôi đi tìm Người, tha thứ cho tôi trước khi tôi xin lỗi Người.

Lạy Chúa là Cha nhân từ, con cảm tạ tình yêu thương vô vàn của Cha.

4. Trở về trong tình thương

Có một chàng thanh niên chán sống nơi thôn dã, đã bỏ nhà trốn lên thành thị. Ở đó, chàng đã ăn chơi, trác táng… Kiếp sống sa đoạ đã đưa chàng đến chỗ thân tàn ma dại. Trong nỗi cùng cực, chàng bắt đầu hồi tâm và nhớ lại nếp sống ấm êm trong gia đình.

Chàng quyết định trở về. Nhưng trên đường về, nghĩ mình quá bất xứng, không biết cha mẹ có tha thứ không, nên chàng đã rẽ lối đi nơi khác. Ở đó, chàng viết thư về cho cha mẹ và thú nhận tội lỗi. Chàng cũng ngỏ ý: nếu cha mẹ bằng lòng thì hãy lấy chiếc áo bông treo trước cửa nhà.

Mẹ chàng đã làm gì? Bà không những treo một cái áo bông mà lấy tất cả các áo trong nhà ra treo kín cả bờ dậu trước ngõ như một rừng cờ đón rước con trở về.

Thưa anh chị em, Thiên Chúa cũng đối xử với chúng ta như thế. Phiêu lưu trong tội lỗi, chúng ta chỉ cảm thấy chán chường thất vọng. Nhưng Thiên Chúa không bao giờ thất vọng về chúng ta. Ngài chờ đợi chúng ta từng giây phút. Tình yêu của Ngài vượt lên trên mọi tính toán, đo lường của chúng ta. Ngài thi ân cho chúng ta hơn cả sự mong đợi và cầu xin của chúng ta. Người con hoang đàng trong Tin Mừng chỉ xin được đối xử như một người làm công trong nhà, nhưng người cha đã phục hồi anh trong tước vị làm con. Ông đã xỏ nhẫn cho anh, mặc áo mới cho anh, và sai đầy tớ mở tiệc ăn mừng.

Phải, Thiên Chúa yêu thương và tha thứ hơn cả sự chờ mong của chúng ta. Chính lòng thương xót của Ngài đã cứu người con. Người con ôm gia tài của cha ra đi mang theo bao nhiêu ước mơ của tuổi trẻ: tự do, tình yêu, hạnh phúc… Nhưng rồi tất cả chỉ là ảo tưởng. Ước mơ hạnh phúc không thành. Cuối cùng chỉ còn là bụng đói, xác xơ, đau khổ và tủi nhục.

Điều gì đã đưa chàng thanh niên đến quyết định trở về? Phải chăng đau khổ, thất bại, vỡ mộng, bế tắc? – Không, nếu chỉ có vậy thôi, có lẽ không đủ lý do để anh dám mang mặt trở về. Bởi đã có biết bao người rơi vào tình cảnh túng quẫn như anh, đã không dám trở về. Họ đã buông xuôi, tuyệt vọng và đã giải quyết bằng cách tự tử. Phải có một cái gì khác trở thành động lực thúc đẩy anh trở về. Cái gì khác đó chính là tình yêu của người cha. Phải, nếu không tin vào tình yêu của người cha, chắc chắn anh sẽ không dám quay đầu trở về. Nhưng anh vẫn tin tưởng vào lòng yêu thương tha thứ của cha anh. Chính niềm tin vào lòng yêu thương của người cha đã đem lại tia sáng hy vọng, đã nâng anh đứng dậy, đã mở đường tạo lối thoát cho anh để trở về cùng cha.

Tội lỗi đưa đến chỗ bế tắc, đường cùng. Con người tự tách mình khỏi tình yêu của Thiên Chúa là đi vào chỗ chế, là “mất đi”. Tình yêu Thiên Chúa đã mở lối thoát, đã cảm hoá con người tội lỗi. Nếu không có tình yêu, không có ý thức tội lỗi, thì chỉ có mặc cảm tội lỗi mà thôi. Không phải nước mắt đổi mới tâm hồn con người mà chính là tình yêu của Thiên Chúa đổi mới tâm hồn con người sám hối. Nếu không có tình yêu của Thiên Chúa, nếu không tin mình được Thiên Chúa yêu thương, con người sẽ không tìm được con đường trở về. Phải tin mình luôn được Thiên Chúa yêu thương, phải tin rằng mình luôn có một chỗ rất đặc biệt trong trái tim Chúa, dù có bỏ ra đi, chỗ ấy vẫn không mất, chỗ ấy vẫn còn để trống, để chỉ dành riêng cho ta.

Tấm lòng của người cha thật nhân hậu, tốt lành. Người con chỉ mong có được một chỗ ngủ, một bát cơm ăn, một tấm áo mặc. Nhưng cha anh đã quảng đại vô biên, đã đón nhận người con với niềm vui rộn rã: mặc áo mới cho con, mang giầy dép cho con, rồi mở tiệc ăn mừng.

Tình yêu của Thiên Chúa lớn hơn tội lỗi của chúng ta. Tình yêu của Ngài vượt quá mơ ước của chúng ta: “Nếu lòng chúng ta có cáo tội chúng ta, thì Thiên Chúa còn cao cả hơn lòng chúng ta, và Ngài biết hết mọi sự” (Rm 5,20).

Trở về là gặp lại niềm vui xum họp. Trở về là “tìm lại được”, là “sống lại”. Tìm lại được sự sống, đó là ý nghĩa đích thực của việc hoán cải và cũng là lý do của niềm vui sâu xa nơi người cha. Người cha vui mừng mở tiệc không phải vì từ nay đứa con trở về sẽ giúp cho ông việc nầy sẽ làm cho ông việc nọ, mà chỉ vì từ nay anh sẽ được sống và được sống hạnh phúc dồi dào. Thật là một niềm vui hoàn toàn vị tha và rộng mở của người cha bao dung, nhân hậu.

Trong khi người cha tràn đầy niềm vui đón nhận sự trở về của người con với tất cả sự bao dung rộng mở: “Em con đã chết, nay lại sống” thì lòng người anh lại đầy tị hiềm và từ chối chia sẻ niềm vui của người cha: “cái thằng con của cha kia…”

Con của cha chứ không phải em của con. Anh tự loại mình ra khỏi gia đình. Anh kể công với cha anh như một người làm thuê, như một người tôi tớ, chớ không phải như một người con hiếu thảo: “Bao nhiêu năm qua con đã hầu hạ cha, chẳng hề trái lệnh cha, thế mà…”. Dù không bỏ cha, cũng chẳng bỏ nhà ra đi như người em, nhưng rõ ràng anh không phải là đứa con sống hạnh phúc bên cạnh cha mình. Anh vẫn gần mặt mà chẳng gần lòng.

Thưa anh chị em, chúng ta là những người con bướng bỉnh, những người con bụi đời, những người con ích kỷ của người cha nhân hậu. Người cha ấy đã đón nhận chúng ta trở về, không phải một lần, dăm ba lần, mà rất nhiều lần. Thiên Chúa là người cha luôn tha thứ cho chúng ta và đem chúng ta về với Ngài. Thế nhưng tại sao chúng ta lại cứ muốn trốn khỏi người Cha đầy lòng khoan dung, nhân hậu? Sao chúng ta cứ muốn tách rời khỏi tình yêu của Thiên Chúa khi chúng ta biết rằng Thiên Chúa vẫn luôn chờ đợi chúng ta trở về để tha thứ, để vui mừng, tiếp đón? Lòng nhân hậu Chúa vô biên, chúng ta đừng bao giờ quên điều ấy. Nếu chúng ta nhớ Thiên Chúa nhân lành vô cùng,chúng ta sẽ không chống đối Ngài, chúng ta sẽ cố gắng làm vui lòng Ngài.

Hôm nay tôi xin đề nghị: Hãy tỏ lòng biết ơn Chúa vì đã được tha thứ bằng cách ở lại trong tình yêu của Cha trên trời. Nếu chúng ta lỡ xa cách Chúa, hãy mau trở về với Ngài. Hãy cầu nguyện cho mình và anh chị em khám phá ra tình yêu của Chúa ngay giữa cuộc sống. Bắt gặp được tình yêu Thiên Chúa như Phêrô bắt gặp tia mắt của Chúa Giêsu khi chúng ta sa ngã. Chính tình yêu của Chúa mới cứu được chúng ta.

Thánh lễ thực hiện điều đó: ngay tại đây, trong lúc này, chúng ta, những người con đang gặp lại người Cha đầy lòng yêu thương tha thứ. Hãy tạo cho Ngài niềm vui xum họp và cùng chung vui với Ngài và với anh em một nhà.

5. Người con hoang đàng

Thiên Chúa đối với người hối cải

Gandhi kể lại lúc lên 15 tuổi, ông đã lấy cắp vài đồng tiền vàng từ người anh của ông. Tuy nhiên, ông cảm thấy hành động đó thật xấu xa, đến nỗi ông quyết định tự thú với cha của ông. Ông viết tội của mình lên một tờ giấy, cầu xin được tha thứ và chịu bị phạt, và hứa sẽ không bao giờ tái phạm nữa.

Lúc cha ông còn nằm liệt giường, Gandhi đưa tận tay cho ông cụ tờ giấy đó, rồi ngồi ở bên cạnh giường chờ đợi bị xét xử. Cha ông nằm ở trên giường, và bắt đầu đọc tờ thú tội. Trong khi đọc, những giọt nước mắt cứ chảy xuống chan hoà từ đôi mắt ông. Gandhi cũng khóc. Thay vì tức giận và trừng phạt ông, người cha đã ôm lấy đứa con trai đã biết hối cải.

Cảm nghiệm rằng mình vẫn được yêu thương trong khi đang có tội đã có tác dụng sâu xa đối với Gandhi. Sau này, ông nói: “Chỉ người nào đã trải qua kinh nghiệm về tình yêu này, mới có thể nhận biết được tình yêu là gì”.

Đây là loại tình yêu mà người con thứ đã cảm nhận được, khi anh trở về nhà. Không có gì thắc mắc về việc anh ta đã cư xử tồi tệ. Tuy nhiên, khi anh quay trở về, thì điều gì đã xảy ra? Cha anh không chỉ chấp nhận cho anh trở về, mà còn đón tiếp anh nữa. Và đó không phải là sự đón tiếp hằn học hoặc nửa vời, mà là sự đón tiếp nồng ấm, với tất cả tâm tình, và đầy sự rộng lượng.

Trong sự tiếp đón mà người con thứ đã nhận được, Đức Giêsu cho chúng ta thấy thái độ của Thiên Chúa đối với các tội nhân. Nếu chúng ta là tội nhân –và ai trong chúng ta không phải là tội nhân?- thì Thiên Chúa vẫn yêu thương chúng ta, không phải là ít đi, mà càng yêu thương nhiều hơn nữa. Điều này không làm cho chúng ta sống tốt đẹp hơn, để được yêu thương vì mình là người hoàn hảo. Chúng ta cần được đón nhận và yêu thương thực sự, ngay khi chúng ta còn là tội nhân.

Thái độ của người anh cả đối với người em trai phản ánh lại thái độ của người Pharisêu đối với các tội nhân. Mặc dù là những người rất đạo đức, nhưng họ vẫn cho rằng người tội lỗi xứng đáng bị kết án hơn là cứu độ. Nhưng lòng đạo đức có công dụng gì, nếu nó không làm cho người ta trở nên thương cảm hơn đối với những kẻ bị sa ngã? Nếu chúng ta tự nhận thấy mình thông cảm với người anh cả, thì điều này càng chứng tỏ rằng tính cách người Pharisêu đang ở trong chúng ta.

Theo phạm vi rộng lớn hơn hoặc hạn hẹp hơn tất cả chúng ta chưa đáng xách giầy cho người con thứ. Bởi ai trong chúng ta có thể nói rằng mình luôn luôn trung thành? Phải chăng tất cả chúng ta đều đã từng lãng phí và sử dụng ân sủng của Thiên Chúa? Ai trong chúng ta thích được Thiên Chúa đối xử theo lẽ công bằng nghiêm khắc? Phải chăng tất cả chúng ta đều cần đến lòng thương xót hơn là lẽ công bằng?

Chính ở trong và thông qua tội lỗi của mình, mà chúng ta cảm nhận được lòng từ ái và tình thương xót của Đức Kitô. Nếu không bao giờ phạm tội, thì chúng ta sẽ không bao giờ nhận biết được ơn tha thứ của Người. Đây không phải là lời biện hộ cho tội lỗi. Nhưng thật là điều tốt đẹp, khi chúng ta nhận biết được cách Thiên Chúa đón nhận các tội nhân. Các thánh là chứng nhân cho ân sủng và sự trung tín của Thiên Chúa. Các tội nhân là chứng nhân cho tình yêu thương và lòng thương xót của Người.

“Khi một người cha cứ than thở rằng con trai của ông đã đi theo con đường xấu xa, thì ông nên làm gì? Hãy yêu thương anh ta nhiều hơn nữa” (Baal Shem Tov)

Sự bộc lộ tâm hồn

Chúng ta hãy nhìn vào dụ ngôn của Đức Giêsu từ quan điểm của tâm hồn. Một người cha có hai người con trai. Mặc dù người con cả vâng phục và chu toàn bổn phận, nhưng anh lại khá nguyên tắc và xa cách. Anh ta là một con người lạnh lùng. Trái lại, người con thứ nồng nàn và nhiều tình cảm. Tuy nhiên, trong con người anh ta, lại có tính cách hoang đàng và vô trách nhiệm. Anh ta cứ nhất quyết làm theo ý riêng của mình, bất chấp người nào khác có thể suy nghĩ ra sao. Một ngày kia, anh ta đã ích kỷ đòi được chia phần gia tài thừa kế, và sau khi đã nhận được, anh ta liền bỏ đi phương xa.

Tại đó, anh ta đã sống buông thả một cách ngu xuẩn và bất chấp mọi sự, cho những thú tính thấp hèn nhất nơi con người của anh. Nhưng khi tiền bạc đã cạn kiệt, anh mới tự nhận thấy mình không còn bạn bè hoặc người nào giúp đỡ.

Đột nhiên, anh cảm thấy trống rỗng trong tâm hồn. Thế rồi sau khi đã nhận ra những việc mình làm, lòng anh tràn ngập nỗi cay đắng và căm ghét bản thân mình. Tuy nhiên, nỗi đau của bản thân đã giúp cho anh nhận ra được nỗi đau mà anh gây ra cho những người khác. Anh đã làm tan nát cõi lòng của cha mẹ anh.

Thế là anh quyết định quay trở về nhà. Anh ra đi với đôi bàn tay trống rỗng. Thứ duy nhất anh có được, đó là một trái tim khiêm tốn và hối lỗi. Và cha của anh vẫn đang chờ đợi anh. Vì quá lo âu, người cha không bao giờ rời khỏi nhà, bởi vì ông cứ mãi bận tâm đến người con trai hoang đàng của mình. Vì thế, ngay khi nhìn thấy anh trở về, ông mới hoàn hồn. Và cuối cùng, hai cha con đã ôm chầm lấy nhau.

Nhưng sau đó, một điều đáng ngạc nhiên đã xảy ra. Khi đến gặp anh cả, người em chỉ phát hiện ra rằng người anh cả của anh không muốn nhận biết anh. Không hề có chỗ nào cho anh trong tâm hồn người anh cả. Thay vì vui mừng khi thấy người em trai của mình trở về an toàn, thì tâm hồn của người anh cả lại tràn đầy nỗi cay đắng và hằn học. Anh ta đã tìm cách chiếm được tình cảm của người cha thông qua bổn phận hơn là thông qua tình yêu. Thật đáng buồn, dường như thể anh ta chưa bao giờ đi vào tâm hồn người của người cha, bởi vì nếu đã đi vào đó được rồi, thì tâm hồn của anh ta sẽ được mở rộng ra. Nhưng thay vì được như vậy, thì tâm hồn của anh ta lại vẫn cứ nhỏ bé, hẹp hòi, lạnh lẽo và không muốn đón tiếp ai.

Câu chuyện về đứa con hoang đàng là một câu chuyện về tâm hồn: tâm hồn ích kỷ và tâm hồn quảng đại, tâm hồn khép kín và tâm hồn cởi mở, tâm hồn lạnh lùng và tâm hồn nồng nạn, tâm hồn tan nát và tâm hồn vui mừng. Tâm hồn không biết hối cải và tâm hồn biết ăn năn, tâm hồn không biết tha thứ và tâm hồn hay tha thứ, tâm hồn miễn cưỡng và tâm hồn biết ơn.

Câu chuyện này mặc khải cho chúng ta quá nhiều về tính cách thất thường của tâm hồn con người. Khi đã nói và làm xong tất cả mọi sự rồi, thì chính tâm hồn mới là đáng kể. Nhưng người ta có thể tóm tắt điều gì về tâm hồn? Tâm hồn là cái gì sâu thẳm nơi bản thân mình. Đó chính là con người thật của tôi. Cảnh tối tăm của tâm hồn là đêm đen tối nhất so với tất cả. Sự trống rỗng của tâm hồn là sự nghèo nàn nhất so với tất cả. Một tâm hồn nặng trĩu là gánh nặng chán chường nhất. Một tâm hồn tan nát chính là vết thương sâu xa nhất.

Nhưng dụ ngôn trên bộc lộ tính cách kiên định nơi tâm hồn của Thiên Chúa nhiều đến thế nào. Tâm hồn của Thiên Chúa không toả ra sức nóng và hơi lạnh. Thiên Chúa không bao giờ khép lòng lại với bất cứ người con nào của Người. Bất chấp họ có thể rời bỏ mái nhà để đi xa đến đâu, bất chấp họ làm gì, nếu họ quay trở về, điều duy nhất mà họ có thể tin chắc, đó là sự đón nhận nồng ấm và rộng lượng.

6. Câu chuyện về người cha nhân lành

Không phải là không có lý do khi người ta gọi chuyện này là chuyện ngắn vĩ đại nhất thế giới. Theo luật Do Thái, người cha không được tự do phân chia gia tài mình tuỳ ý thích, đứa con cả đương nhiên được 2/3, đứa con thứ 1/3 gia tài (Đnl 21,17). Không phải là một việc lạ khi một người cha phân chia gia tài ngay khi còn sống nếu ông muốn được nghỉ ngơi khỏi hoạt động kinh doanh. Nhưng có một sự vô tâm trơ tráo nơi đứa con thứ khi nó đề xuất việc chia gia tài này. Thực ra nó đã nói “Cha hãy cho con ngay bây giờ phần gia tài mà trước sau gì con cũng được lãnh khi cha chết, và hãy để con ra khỏi nơi này”. Người cha không tranh luận gì, ông hiểu rằng nếu con ông cần được một bài học thì nó phải có một bài học đắt giá, và ông đã cho như ý nó xin. Tức khắc đứa con lấy phần riêng của nó và bỏ nhà ra đi.

Hắn nhanh chóng tiêu xài hết tiền và kết thúc bằng việc chăn heo, một công việc cấm kỵ đối với người Do Thái, vì luật nói: “đáng rủa xả kẻ nào chăn heo”. Và Chúa Giêsu cho nhân loại tội lỗi một lời khuyên chưa từng có “Khi nó trở về với chính mình (nó tỉnh ngộ)”. Chúa Giêsu tin là bao lâu con người còn xa cách và chống nghịch với Thiên Chúa thì con người không thực sự là con người, con người chỉ thực sự là chính mình khi con người đang trên đường trở về nhà. Có một điều kỳ diệu nơi Chúa Giêsu là Ngài không tin rằng con người hư hỏng hoàn toàn. Ngài không bao giờ tin rằng ai đó có thể tôn vinh Thiên Chúa bằng cách phỉ báng con người, Ngài tin rằng con người không bao giờ được thực sự là mình cho đến khi nào con người trở về nhà với Chúa. Cho nên đứa con đã nhất định trở về nhà và xin cha nhận lại mình không phải để làm con, nhưng làm một tên nô lệ mạt hạng trong nhà, một tên đầy tớ ở thuê, một tên lao động công nhật trong nhà cha. Theo một nghĩa thì người nô lệ là một phần tử của gia đình, nhưng đầy tớ ở thuê thì có thể bị đuổi sau khi chủ báo trước một ngày vì nó không thuộc về gia đình chút nào. Vậy khi đứa con đã về nhà –theo bản Hy văn tốt nhất- cha chàng không để chàng kịp mở miệng xin làm đầy tớ. Ông đã lên tiếng trước. Chiếc áo dài tiêu biểu sự tôn trọng, chiếc nhẫn tượng trưng cho quyền bính, vì nếu ai cho kẻ khác chiếc nhẫn ấn tín của mình thì cũng như uỷ quyền cho người đó thay thế mình; đôi giày là dấu hiệu làm con khác với nô lệ vì con cái trong gia đình mới mang giày, còn nô lệ thì không được. (Ước mong của người nô lệ trong bài ca của người da đen là mau đến thời kỳ mà “mọi con cái Chúa được mang giày” vì đi giày là dấu hiệu sự tự do). Và một bữa tiệc được bày ra để mọi người ăn mừng đứa con hoang đàng trở về. Chúng ta dừng lại ở đây, thử nhìn xem chân lý trong dụ ngôn này.

1. Không nên gọi dụ ngôn này là dụ ngôn về người con hoang đàng vì đứa con không phải là nhân vật chính, phải gọi là dụ ngôn về Người Cha Nhân Lành, bởi vì nó cho ta biết về tình yêu của người cha hơn là về tội của người con.

2. Dụ ngôn này nói nhiều về sự tha thứ của Thiên Chúa. Người cha hẳn đã chờ đứa con trở về nhà, vì ông trông thấy từ đằng xa. Đứa con gặp cha thì cha liền tha thứ cho con và không một lời trách móc. Có nhiều cách tha thứ, có tha thứ được ban cho như một ân huệ, và tệ hơn nữa là khi một kẻ nào đó được tha thứ nhưng bao giờ cũng kèm theo một dấu hiệu, một lời nói, một ngăm đe rằng tội vẫn còn để đó. Một lần kia, Lincoln được hỏi ông sẽ đối xử thế nào với quân phiến loạn Miền Nam, khi họ thua trận và trở lại liên hiệp với Hoa Kỳ. Người hỏi câu ấy nghĩ rằng ông sẽ báo thù họ ghê gớm, nhưng Lincoln trả lời “Tôi sẽ đối xử với họ như họ chưa bao giờ ly khai với chúng ta”. Thật lạ lùng tình yêu của Chúa khi Ngài tha thứ chúng ta y như vậy.

Nhưng câu chuyện đến đây chưa chấm dứt. Người anh cả đi về, anh thực sự buồn rầu vì em anh đã trở về. Người anh cả đại diện cho Pharisêu tự kiêu, tự mãn, họ thà xem thấy tội nhân bị tiêu diệt hơn là được cứu. Có mấy điều nổi bật nơi người anh cả.

• Tất cả thái độ của anh chứng tỏ rằng bao nhiêu năm anh vâng lời cha chẳng qua chỉ là một bổn phận buồn rầu, chứ không phải là công việc của tình yêu.

• Thái độ của anh là thái độ thiếu hẳn sự cảm thông. Anh nói về người em nhưng không dùng tiếng “em tôi” nhưng dùng chữ “con của cha”. Chàng là thứ người tự tôn, sẵn sàng đạp kẻ nào đã ngã xuống rãnh bùn hôi hám càng ngã sâu hơn nữa.

• Tâm địa chàng rất dơ bẩn. Câu chuyện không nói tới gái điếm. Chính miệng chàng nói ra. Hẳn chàng đã nghi ngờ, tố cáo em chàng về thứ tội chính chàng muốn.

Một lần nữa chúng ta lại gặp một chân lý diệu kỳ là hoán cải, xưng tội với Chúa dễ hơn xưng tội với loài người. Thiên Chúa xét xử nhân từ hơn những người ngoại đạo. Tình yêu Chúa rộng lớn hơn tình yêu của loài người. Đứng trước một tình yêu như vậy, chúng ta không thể không chìm sâu trong kinh ngạc, ngợi khen và yêu mến Ngài hơn.

7. Đứa con hoang đàng

Dụ ngôn về đứa con hoang đàng hay nói đúng hơn câu chuyện về tấm lòng của một người cha, là một hình ảnh thật cảm động cho chúng ta thấy được tình thương bao la của Thiên Chúa đối với những kẻ tội lỗi. Đúng thế, chàng thanh niên, không chịu được sự trói buộc và gò bó của gia đình, đã đòi người cha chia gia tài cho mình, rồi lên đường đi bụi đời. Ở một thành phố nào đó, chàng đã phung phí hết số tiền, được dành dụm chắt chiu từ biết bao nhiêu giọt mồ hôi và nước mắt.

Lâm vào cảnh túng đói, chàng mới hối hận vì đã hành động sai quấy. Thế là chàng dứt khoát, chỗi dậy, lên đường trở về nhà cha để van xin sự tha thứ. Có lẽ chúng ta nên dừng lại ở hình ảnh người cha. Đúng thế, ngày ngày ông đều ngồi ở cửa, đưa cặp mắt nhìn về chốn xa xôi. Ông mòn mỏi trông chờ, ông hy vọng rằng một ngày kia cậu sẽ trở về. Bởi vì ông biết rất rõ, tự bản chất, cậu không phải là một con người xấu, nhưng vì tuổi trẻ bồng bột, lại nghe theo những lời xúi bẩy của bè bạn, cho nên mới ra nông nỗi ấy.

Ông tin rằng: trường đời sẽ mở mắt cho cậu, để cậu nhận ra rằng: không ai yêu thương cậu một cách chân thành cho bằng người cha. Cậu sẽ không tìm thấy ở đâu một sự nâng đỡ cảm thông cho bằng chính gia đình của mình. Rồi từ đó, sẽ có được một động lực thúc đẩy cậu quay gót trở về. Phải, cậu đã trở về, kéo lê những bước chân nặng nhọc, áo quần thì rách rưới, thân xác thì mệt mỏi, tâm hồn thì khao khát được tha thứ.

Từ đằng xa, cha cậu đã nhận ra cậu. Ông bồi hồi xúc động, vội chạy đến với cậu và hôn cậu hồi lâu. Còn cậu thì cúi mặt xuống, xấu hổ và ăn năn vì lỗi phạm. Cặp mắt long lanh những giọt lệ sám hối và cậu đã thú nhận:

  - Thưa cha, con đã phạm tội nghịch với trời và lỗi với cha, con không xứng đáng được gọi là con cha nữa.

Cha cậu ôm chặt cậu vào lòng. Sự thú nhận lúc này cũng bằng thừa, nhưng điều quan trọng đó là cậu đã chết mà nay được sống lại, đã mất mà nay lại tìm thấy.

Từ câu chuyện trên chúng ta đi vào cuộc sống riêng tư của mỗi người chúng ta. Đúng thế, mỗi khi phạm tội chúng ta cũng trở nên là những đứa con hoang đàng. Tội lỗi đem lại cho chúng ta sự nghèo nàn và bất hạnh. Tâm hồn mất đi vẻ đẹp của ơn thánh, nhất là sẽ bị đoạ đày và chết chóc. Thế nhưng chúng ta đừng bao giờ quên rằng: Thiên Chúa là người Cha nhân từ và giàu lòng thương xót, Ngài luôn mong mỏi chờ đợi chúng ta trở về để được tha thứ như lời Ngài đã phán:

  - Một kẻ tội lỗi ăn năn sám hối sẽ làm cho cả thiên đàng vui mừng hơn là chín mươi chín người công chính không cần sám hối ăn năn.

Có một chàng trai cũng bỏ nhà ra đi và lâm vào cảnh túng thiếu. Chàng hối hận và muốn tìm về mái ấm gia đình. Chàng phân vân không biết bố mẹ có sẵn sàng tha thứ cho chàng hay không? Chàng viết thư cho bố mẹ và nói:

  - Nếu như bố mẹ sẵn sàng tha thứ cho con, thì đến ngày ấy tháng ấy cứ treo một chiếc áo trên cửa sổ, làm dấu để con trở về, bằng không thì con chẳng dám làm phiền bố mẹ nữa.

Đến ngày ấy tháng ấy, bà mẹ không chỉ treo có một chiếc áo, mà trong nhà có bao nhiêu quần áo, bà đều đem treo khắp các khung cửa, để chàng được yên tâm trở về.

Tuy nhiên, điều quan trọng đối với chúng ta đó là, hãy ăn năn sám hối, hãy can đảm chỗi dậy và lên đường, rồi tình thương của Chúa sẽ đem lại cho chúng ta ơn tha thứ, bởi vì Chúa sẽ không thể cứu chữa chúng ta, nếu như chính bản thân chúng ta lại không muốn.

8. Người anh cả

Dụ ngôn người con hoang đàng hay còn được gọi là dụ ngôn người cha nhân hậu là một trong những trang Phúc âm lôi cuốn nhất được thánh sử Luca ghi lại cách sinh động. Mặc dù dụ ngôn nêu bật lòng nhân từ thương xót của Thiên Chúa đối với tội nhân biết sám hối trở về. Nhưng có một nhân vật làm cho chúng ta lưu ý, đó là người anh cả. Người anh cả trong dụ ngôn Chúa Giêsu ám chỉ đến ai đây? Đồng thời, cũng qua người anh cả, phải chăng Chúa Giêsu muốn cảnh tỉnh thái độ sống của người Kitô hữu chúng ta hôm nay?

Khi được biết người em trở về và cha anh đã giết bê béo ăn mừng anh liền nổi giận và không vào nhà. Người cha đã mời anh vào chung vui với ông thì anh ta kêu trách và lên án người em: “Cha coi, đã bao năm con hầu hạ cha, không hề trái lệnh cha một điều nào mà không bao giờ cha cho riêng con một con bê nhỏ để ăn mừng với chúng bạn. Còn thằng con của cha kia, sau khi phung phí hết tài sản của cha với bọn đàng điếm nay trở về thì cha lại sai làm thịt bê béo ăn mừng nó”.

Trước hết, người anh cả nói về bản thân mình, anh chứng tỏ lòng trung thành đối với cha: siêng năng, cần mẫn, chăm chỉ làm việc. Anh tự cho mình là người hiếu thảo, vâng phục cha không hề trái lệnh, không ăn chơi, không bỏ nhà đi hoang. Nhưng những lời anh dùng kể công với cha là những lời đầy ghen tức biện hộ cho chính mình. Anh tức giận vì thấy quyền lợi của mình bị xâm phạm. Người cha bao dung đến độ bất công đối với anh khi đón nhận và vui mừng khi người em trở về. Những lời than phiền đó làm lộ rõ khoảng cách giữa anh đối với cha và người em. Anh đã sống gần cha mà tâm hồn lại khác hẳn người cha. Anh thiếu tâm tình của một người con và một người anh: từ chối em mình và không muốn chia sẻ niềm vui của cha. Vì đâu mà anh sống thiếu tình thương coi vật chất trọng hơn tình nghĩa? Thưa, chỉ vì anh không hiểu được tình cha, không biết sống như một người con. Anh chỉ biết những bổn phận lạnh lùng nên anh so đo tính toán. Anh tự biến mình thành một kẻ làm thuê, nghĩ mình phải được trả công, biến mình thành nô lệ đối với ông chủ – không còn tình nghĩa cha con, không còn tương quan huynh đệ. Từ đó, anh nhìn cả hai người như xa lạ với mình. Một cái nhìn khinh bỉ người em tội lỗi và nhìn người cha như một ông chủ bất công. Anh trở thành người xa lạ chính căn nhà của mình. Sự hiệp thông trong gia đình đã biến mất.

Đã đành người con thứ khước từ tổ ấm gia đình ra đi tìm hạnh phúc nơi vùng đất lạ bị hư hỏng. Nhưng ngược lại, người anh cả ở nhà cũng ra hư hỏng luôn. Vì bên ngoài thì anh làm mọi chuyện mà một người con tốt phải làm, nhưng bên trong anh thật sự xa cách người cha. Tuy nhiên việc hư hỏng của người anh cả khó nhận ra hơn. Dù sao anh luôn trung thành vâng phục, làm việc khổ nhọc, mọi người xem anh như là người con gương mẫu không lỗi lầm. Nhưng khi đối diện với niềm vui của cha, thấy người em trở về và được cha vui mừng đón tiếp thì con người thật của anh đã để lộ chân tướng của một người kiêu ngạo, ích kỷ, ganh ghét… Những điều mà lâu nay được che đậy.

Chúa Giêsu kể dụ ngôn người con hoang đàng trở về nhưng điểm nhắm của Ngài là người con cả, hiện thân của những người Biệt phái và Luật sĩ. Những người kêu trách Chúa Giêsu về thái độ của Ngài đối với những người thu thuế và tội lỗi. Ngài chẳng những đón tiếp mà còn cùng ngồi ăn uống với họ. Điều này đã làm cho những người Biệt phái tỏ vẻ bất mãn khó chịu. Một vị tiên tri như Ngài mà lại tiếp đón những hạng người thu thuế tội lỗi như vậy là điều không thể chấp nhận được. Đối với họ, hành động của Chúa Giêsu đi ngược lại luật lệ Do thái.

Những người Biệt phái và Luật sĩ luôn tự hào về đời sống đạo đức của mình, tuân giữ tỉ mỉ, nghiêm ngặt lề luật của Thiên Chúa, như vậy họ thuộc về Thiên Chúa. Thiên Chúa xem ra mắc nợ họ và họ nghĩ rằng mình có quyền đòi hỏi. Dưới con mắt của họ, những người thu thuế là những nhân viên làm việc cho đế quốc Rôma, làm tay sai cho ngoại bang đó là hạng người đáng ghét. Còn những người tội lỗi là phường đáng khinh bỉ, họ không muốn liên hệ vì sợ dơ bẩn ô uế.

Vì mang hình thức vụ luật nghĩa là giữ luật vì luật, với tinh thần cứng nhắc và giả hình, họ không cảm nhận được tình yêu, lòng thương xót của Thiên Chúa nên họ cũng không nhận ra được tha nhân là anh em mình. Ngược lại với thái độ kỳ thị phân biệt đối xử của Biệt phái, Chúa Giêsu tỏ ra cảm thông và xót thương những người thu thuế và tội lỗi, rộng tay đón tiếp và đồng bàn với họ. Ngài mời gọi họ sám hối và tha thứ tội lỗi cho họ. Quả thực, Đức Giêsu là hiện thân của Thiên Chúa, Ngài đến trần gian để đem ơn cứu độ cho tất cả mọi người không trừ một ai, nhất là những người bị kỳ thị bỏ rơi, những người bị xã hội Do thái đương thời loại ra khước từ.

Qua dụ ngôn, Chúa Giêsu muốn trả lời cho những người Biệt phái và Luật sĩ thấy rằng: Thiên Chúa yêu thương hết mọi người và đồng thời mời gọi họ chung niềm vui với Thiên Chúa và hãy có một tâm hồn quảng đại bao dung như Thiên Chúa trong việc tiếp đón các tội nhân ăn năn trở lại.
Quả thực, dụ ngôn nhằm trả lời cho người Biệt phái và Luật sĩ nhưng cũng không phải là không liên hệ đến người Kitô hữu chúng ta. Dụ ngôn nhắc người Kitô hữu nhớ rằng: người ta không thể phục vụ Thiên Chúa đúng ý Ngài nếu không yêu mến Ngài và không thông hiệp vào tình yêu của Ngài đối với anh chị em, cho dù những người này là tội nhân. Vì thế, làm sao chúng ta có thể xưng mình là môn đệ Đức Kitô nếu chúng ta khinh bỉ, xa lánh những người đang gặp cơn hoạn nạn do tội lỗi?

Cũng như những người Biệt phái và Luật sĩ thời Chúa Giêsu, nhiều lúc chúng ta thường tự cho mình là những người ngay chính nên ta dễ dàng phê bình, chỉ trích, khinh bỉ và lên án những ai sa ngã, tội lỗi, nhất là những người mang những lỗi lầm công khai như: những người mắc bệnh Sida, nghiện ngập ma tuý, rượu chè, trộm cắp, ngoại tình, những người sa cơ lỡ bước… Vì thế để hoá giải và sửa chữa những thành kiến, những thái độ trên chắc hẳn chúng ta cần có cái nhìn cảm thông, những lời nói an ủi khích lệ, những bàn tay đỡ nâng để giúp họ vượt lên khỏi vũng bùn tội lỗi, để họ can đảm trỗi dậy trở về đón nhận hồng ân tha thứ của Thiên Chúa.

Dụ ngôn người con hoang đàng làm nổi bật trái tim của người cha: một trái tim nhân hậu, bao dung tha thứ và tràn đầy yêu thương. Nhưng đồng thời cũng đưa ra lời cảnh tỉnh về thái độ sống của những người Kitô hữu chúng ta.

Phụng vụ lời Chúa hôm nay mời gọi mỗi người chúng ta dù là con thứ hay con cả cũng cần trở về với cha để nhận được ơn tha thứ, để thực sự là con của cha. Trở về với cha là dang rộng tay đón lấy người em lầm lỡ. Không còn là thằng con của cha nữa mà là em của con. Trở về với cha là chia sẻ niềm vui với cha, nối kết tình huynh đệ, yêu thương anh em một nhà.

Ước gì khi tham dự bàn tiệc Thánh Thể, khi ăn cùng một tấm bánh và uống cùng một chén, chúng ta được hiệp nhất nên một trong yêu thương của những người anh em một cha trên trời.

9. Em con đã chết nay sống lại

Đức Hồng Y Suhart, Giám Mục Paris là một vị chủ chăn lỗi lạc. Điều này chẳng một ai dám phủ nhận. Đặc biệt về đường hướng đạo đức thâm sâu mà Ngài đã vạch ra trong các thư luân lưu danh tiếng như: "Giáo hội tiến hay lùi" (Mùa Chay năm 1948); hoặc "Linh Mục giữa xã hội" (Mùa Chay năm 1948).

Đức Thánh Cha Piô XII rất lấy làm cảm phục khi đọc qua các thư luân lưu ấy. Trong dịp Đức Hồng Y đến Vaticano, Đức Thánh Cha đã tươi cười hỏi đùa: "Năm nay Đức Hồng Y có ra thông điệp nào mới không?" Giữa những bận rộn của giáo phận với mấy triệu giáo dân, 10 Giám mục phụ tá, 1,500 linh mục và hàng trăm ngàn tu sĩ nam nữ, một hôm, một linh mục bí thư trình lên Đức Hồng Y một tập sách mới viết định xuất bản, do một linh mục trẻ trong giáo phận soạn ra. Linh mục ấy thiết tha xin Đức Hồng Y xem qua cuốn sách và chuẩn y trước khi ấn hành. Đức Hồng Y vui vẻ nhận lời: "Tốt lắm! Cha cứ để đấy, lúc nào rỗi tôi sẽ xem".

Một tháng trôi qua, cuốn sách chẳng được đụng đến, vị linh mục nôn nóng chờ đợi, thời gian dài như cả thế kỷ. Thế nhưng, chẳng biết làm sao hơn, vì Đức Hồng Y quá bận việc. Phải đợi đến một buổi chiều mùa đông giá lạnh, khi Toà Giám Mục hoàn toàn vắng khách, trong bầu khí thân mật, cha bí thư rụt rè trình bày: "Thưa Đức Hồng Y, xin Đức Hồng Y xem qua tập sách cho ông cha trẻ kia được phấn khởi. Ông ta cứ hỏi con hoài à! Có thể hôm nay vắng khách, xin Đức Hồng Y xem qua tí thôi, cũng như đọc sách báo giải trí vậy". Đúng! Tôi bận quá vậy nên chậm trễ mất, đưa quyển sách cho tôi, tôi bắt đầu đọc ngay bây giờ. Cha bí thư vui mừng phấn khởi, trao ngay cuốn sách và nhẹ nhàng rút lui. Thế rồi Đức Hồng Y mải mê đọc sách, giờ cơm tối Ngài vắng mặt, 12 giờ khuya đèn phòng Ngài vẫn còn bật sáng và 3 giờ sáng vẫn còn đèn. Ngài đã đọc suốt đêm, quên cả ăn lẫn ngủ.

Sáng hôm sau, vừa dùng điểm tâm xong, Đức Hồng Y vội gọi ngay cha bí thư vào và bảo mời các các Giám Mục phụ tá, các Tổng Đại Diện và ban cố vấn đến dự phiên họp đặc biệt. Khi tất cả tề tựu đông đảo, Đức Hồng Y lên tiếng: Lý do của buổi họp mặt đặc biệt hôm nay là vì tập sách của cha Henry Kobel mang tựa đề: "Nước Pháp, một xứ truyền giáo". Tập sách được cha bí thư trao cho tôi chiều hôm qua và tôi đã đọc hết cuốn sách, quên cả ăn, cả ngủ. Bấy lâu nay tôi cứ ngờ rằng, tôi đã biết rõ thành phố Paris, giáo phận của tôi. Nhưng bây giờ đọc trong đó, tôi thấy có nhiều sự kiện rất mới lạ khiến cho tôi phải bồn chồn thao thức. Tôi tự kiểm điểm lại: Thật tôi chưa biết rõ giáo phận của tôi. Tôi rất cảm phục cuốn sách này. Vì những tư tưởng trong cuốn sách cứ ám ảnh tôi, khiến tôi trằn trọc suốt đêm, mong sao đến sáng để gặp các vị cố vấn và tức khắc đi vào vấn đề.

Cám ơn cha Henry Kobel đã trao sách ấy cho tôi đọc. Và kết quả của công việc kiểm điểm này là Ngài đã lập ra "Hội Truyền Giáo Thừa Sai Paris" vào năm 1944, đồng thời Ngài ra hai bức thư luân lưu nổi tiếng nói trên.

Anh chị em thân mến!
Khởi đầu của cuộc canh tân hay sự trở về bao giờ cũng được đánh dấu bằng những giây phút "Tự Kiểm Điểm" hay "Cảnh Tỉnh". Bài Tin Mừng của thánh Luca hôm nay cũng gợi cho chúng ta sự đổi mới trở về của người con đi hoang sau những giây phút chạnh lòng và tự kiểm điểm. Thật thế, có lẽ trong chúng ta chẳng ai xa lạ gì với hai chữ "Kiểm Điểm", không những không xa lạ mà lắm khi còn kinh hãi khi nhắc đến hai chữ này. Nhưng dù sao đi nữa "Kiểm Điểm" vẫn luôn là yếu tố căn bản để đổi mới con người. Tu đức học Kitô giáo đã dùng nó như là phương pháp hoàn thiện con người.

Đức cố Hồng Y Phanxicô Xaviê Nguyễn Văn Thuận, tác giả tập sách "Đường Hy Vọng" cũng đã khuyên: "Trên đường hy vọng, thỉnh thoảng con phải dừng chân nơi bóng mát để kiểm điểm lại những bước lệch lạc, rút kinh nghiệm để bước tiến, chuẩn bị thêm hành trang. Hãy kiểm điểm mỗi tối, kiểm điểm mỗi tuần, kiểm điểm mỗi lần xưng tội, kiểm điểm mỗi lần tĩnh tâm.

Xe tốt cũng làm máy lại. Sức khoẻ tốt cũng khám tổng quát, nếu muốn tránh sự sụp đổ bất ngờ không thể cứu vớt được. Bay lồng lộng giữa không gian thế nào, sửa tay lái liên lỉ và triệt để nghe lời chỉ bảo từ quả đất, vì lệch lạc là không đến đích.

Con người đã sợ hãi, xa lánh từ "Kiểm Điểm". Vì mỗi lần tự kiểm điểm là mỗi lần nhận chịu hình phạt. Một dịp tự kiểm điểm là thêm một cơ hội chịu hạ nhục, bêu xấu đánh mất đi phẩm giá con người của mình.

Trong Đức Giêsu Kitô, kiểm điểm không còn mang dáng dấp đe doạ ấy. Người con đi hoang đã thưa cùng cha: "Thưa cha, con đã lỗi phạm đến trời và đến cha, con không đáng được gọi là con cha nữa. Xin cha đối xử với con như một người làm công của cha mà thôi". Đáp lại lời tự hối này không phải là lời trách phạt đoạ đầy, nhưng là một việc xác nhận địa vị làm con và một bữa tiệc linh đình với những gì ngon béo nhất để mừng con trở về.

Chúng con cũng có thể gọi "lịch sử cứu độ" là một chuỗi những bản tự kiểm điểm, những lời tự hối được nhận lời và được ban thêm giá trị: Ngôi báu của Đavít tồn tại đến muôn đời; người phụ nữ tội lỗi trở thành rường cột Giáo hội. Tuy nhiên, lời Kinh Thánh, lòng sám hối chỉ có giá trị khi xuất phát từ cặp môi miệng chân thành với tin yêu hy vọng kèm theo một sự chỗi dậy, quyết tâm trở về với hết lòng thành của tâm hồn.

Lạy Chúa, xin cho con biết nhìn lại mình, để quyết tâm đứng dậy trở về cùng Cha. Mỗi một thất bại, mỗi một đau khổ vẫn luôn là một tiếng chuông gọi mời, cảnh tỉnh, nếu con biết tự kiểm điểm rút tỉa kinh nghiệm. Chúng sẽ là cơ hội quí báu cho con cảm nghiệm được tình yêu bao la của người Cha trên trời. Amen.

Top