Suy niệm Lời Chúa: CN 12 Thường Niên C

Các bài suy niệm CHÚA NHẬT 12 TN - C
Lời Chúa: Dcr. 12, 10-11; 13,1; Gl. 3, 26-29; Lc. 9, 18-24
MỤC LỤC
1. Nhận diện Đức Kitô
2. Đức Kitô là ai?
3. Mầu nhiệm Vượt Qua là những vấn đề gì?
4. Lệnh truy nã
5. Đấng Mêsia đau khổ
6. Đấng Kitô
1. Nhận diện Đức Kitô - ĐTGM. Ngô Quang Kiệt
Đức Kitô là ai? Đó là câu hỏi sẽ còn làm nhiều người thuộc nhiều thế hệ băn khoăn thắc mắc. Có rất ít người, kể cả những môn đệ thân tín, dù đã quyết tâm theo Người, thực sự hiểu Người cho đúng.
“Mesiah” trong tiếng Do thái và “Kitô” trong tiếng Hi lạp có nghĩa là Đấng Được Xức Dầu. Là Đấng được Thiên Chúa sai đến. Là Đấng dân Do Thái mong đợi. Nhưng Đấng Kitô thực sự như thế nào, sẽ sống như thế nào và sẽ làm gì thì vẫn còn trong vòng mơ hồ. Tuy nhiên đa số người Do Thái ước mơ Đấng Kitô đến để khởi đầu một thời kỳ mới, đưa nước Do Thái lên vị trí bá chủ thế giới. Người sẽ trở thành vị Chúa Tể thống trị khắp địa cầu.
Chính vì thế, hôm nay Chúa Giêsu muốn các môn đệ hiểu Người cho đúng. Thọat tiên Chúa hỏi các ông về luồng dư luận. Nhất là sau phép lạ hóa bánh ra nhiều. Quả nhiên mọi người đều công nhận Chúa Giêsu là một tiên tri vĩ đại. Nhưng chưa có ai dám quả quyết Người là Đấng Kitô. Chúa hỏi thêm về ý kiến của các môn đệ thân tín. Phêrô đại diện anh em tuyên xưng: “Thày là Đấng Kitô của Thiên Chúa”. Chúa Giêsu hài lòng về lời tuyên xưng ấy. Tuy nhiên khi tuyên xưng, Phêrô vẫn chưa thật sự hiểu Đấng Kitô có nghĩa là gì. Có lẽ ông còn chịu ảnh hưởng của đám đông nghĩ đến một Đấng Kitô oai nghi, vinh quang và quyền lực. Vì thế Chúa Giêsu đã phải giải thích cho các môn đệ hiểu biết con đường của Người.
Trước hết, Chúa Giêsu “nghiêm giọng truyền các ông không được nói điều ấy với ai”. Không được nói cho họ biết Người là Đấng Kitô. Vì họ chưa hiểu Đấng Kitô là gì. Họ có thể tôn vinh Người lên làm vua. Như họ đã muốn làm thế sau khi Chúa làm phép lạ hóa bánh ra nhiều. Như thế là sai đường lối của Chúa. Và có thể làm hỏng kế họach của Chúa.
Sau đó Chúa bày tỏ cho các môn đệ biết con đường thực sự mà Đấng Kitô phải đi là con đường đau khổ: “Con Người phải chịu đau khổ nhiều, bị các kỳ mục, thượng tế cùng kinh sư loại bỏ, bị giết chết, và ngày thứ ba sẽ trỗi dậy”. Đó là con đường tủi nhục. Con đường khổ nạn. Con đường chết chóc. Nhưng sau tủi nhục sẽ đến vinh quang. Sau khổ nạn sẽ là hạnh phúc. Sau chết chóc là phục sinh. Đó không phải là con đường vinh quang trần thế, nhưng là con đường nhỏ hẹp thiêng liêng. Nhưng đó chính là con đường dẫn đến hạnh phúc đích thực.
Rồi Chúa nói với các môn đệ: “Ai muốn theo tôi, phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mình hằng ngày mà theo. Quả vậy, ai muốn cứu mạng sống mình, thì sẽ mất; còn ai liều mất mạng sống mình vì tôi, thì sẽ cứu được mạng sống ấy”. Muốn theo chân Chúa, các môn đệ không thể đi con đường nào khác con đường của Chúa. Phải đi vào con đường hẹp để dẫn đến Nước Trời. Đi vào con đường đau khổ để đến vinh quang. Vượt qua cái chết để đến sự sống.
Bây giờ ta đã hiểu Đấng Kitô thực sự là gì. Bây giờ ta đã hiểu con đường của Đấng Kitô phải đi là con đường nào. Và ta cũng đã hiểu muốn theo Chúa ta phải đi vào con đường nào. Nhận diện Đấng Kitô đã khó. Đi vào con đường của Người còn khó hơn. Ta hãy xin Chúa ban cho ta được sức mạnh để đi theo con đường Chúa đã đi. Chính con đường đó dẫn ta đến hạnh phúc đích thực.
Qua đoạn Tin mừng vừa nghe, chúng ta thấy Phêrô, đã thay mặt cho nhóm mười hai, tuyên xưng:
- Thầy là Đức Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống.
Tuy nhiên, biết Chúa Giêsu là Đức Kitô mà thôi chưa đủ, điều quan trọng đó là còn phải hiểu danh xưng ấy theo ý nghĩa nào?
Thực vậy, mặc dầu Phêrô đã tuyên xưng đức tin, nhưng liền sau đó, ông lại tỏ ra chẳng hiểu biết gì về sứ mạng của Ngài, bởi vì vào thời bấy giờ, người Do Thái có những quan niệm rất khác biệt nhau về Đức Kitô. Điều nay cũng dễ hiểu, bởi vì danh từ khó mà phản ảnh đúng về con người.
Chẳng hạn chúng ta có thể gọi một người là tổng thống hay chủ tịch, nhưng trong thực tế, đó có thể chỉ là một tên độc tài tàn bạo, chứ không phải là một nhà lãnh đạo như trong các thể chế dân chủ. Chính các tông đồ cũng đã hiểu lầm về sứ mạng của Đức Kitô. Các ông coi Ngài chỉ là một Đấng cứu tinh trong phạm vi trần tục, sẽ giải thoát dân tộc các ông thoát khỏi ách thống trị của đế quốc La Mã và rồi các ông sẽ được chia chác phần vinh quang, được ngồi bên phải và bên trái, nghĩa là được giữ những chức vụ to lớn trong vương quốc của Ngài.
Ngày nay cũng vậy, không phải tất cả mọi người tuyên xưng Đức Kitô đều hiểu theo cùng một nghĩa và nhất là hiểu đúng cái nghĩa mà Ngài muốn chúng ta phải hiểu. Thực vậy, có quá nhiều những nét huyền thoại đã được tô lên khuôn mặt đơn sơ và khiêm nhường của Đức Kitô, khiến cho nhiều người chẳng còn có thể nhận diện được Ngài nữa. Đức Kitô hôm nay có lẽ đã được tô vẽ bằng những nét vinh quang, siêu việt và cao cả. Ngài đã trở thành một vị thần minh ngự trên chín tầng trời, khác biệt với Đức Kitô của lịch sử.
Rồi chúng ta hiểu thế nào về danh từ «Con Thiên Chúa hằng sống?» Có phải theo nghĩa là thiên tử, là con trời kiểu Trung Hoa chăng? Hay theo kiểu thần thoại? Chúa Giêsu quả thật là Đức Kitô, là Con Thiên Chúa, nhưng là Con Thiên Chúa làm người. Nói cách khác, Thiên Chúa đã muốn tự mạc khải trong chính con người Đức Kitô. Ngoài con người ấy ra, không ai thấy được Thiên Chúa…
Dân Do Thái ngày xưa đã không tin Ngài là Đức Kitô, bởi vì họ không thể tin rằng Thiên Chúa lại hiện thân như một con người bình thường, nếu không muốn nói là tầm thường: Con của một bác thợ mộc, sống một cuộc đời không có gì đặc biệt ở giữa họ.
Ngày nay trong thực tế, có lẽ nhiều người tín hữu cũng không thể nào tin yêu Đức Kitô, nếu họ gặp Ngài dưới hình dạng một con người tầm thường như vậy. Cứ nhìn các ảnh tượng người ta đã vẽ, đã tạc thì thấy rõ là ai ai cũng chỉ muốn tin nhận một Đức Kitô phi thường và siêu việt. Đức Kitô đối với nhiều người chỉ còn là Chúa, chứ không còn là người nữa.
Chúng ta tin vào một Đức Kitô toàn năng, một Đức Kitô chiến thắng, bởi vì chỉ có Đấng ấy mới có thể đáp ứng những đòi hỏi, những ước mơ không cùng của con người, bù trừ được những thiếu sót mà con người, tự sức riêng, không thể nào giải quyết nổi.
Thế nhưng, sự thật lại không phải là như vậy. Đức Kitô đến không phải để được đề cao, để được tôn vinh, nhưng đến để cùng đi, cùng sống với loài người, trong thân phận của một con người, của một tôi tớ, của một nô lệ. Với trí khôn, chúng ta không thể nào hiểu biết, nhưng với tình yêu, chúng ta sẽ dễ dàng tin nhận.
Phải, chỉ có những người biết yêu thương như Đức Kitô đã yêu thương, mới có thể nhận biết ngài là Đức Kitô của Thiên Chúa, bời vì Thiên Chúa là Tình yêu và con tim có những ly lẽ riêng của nó.
3. Mầu nhiệm Vượt Qua là những vấn đề gì? - E. Miller
Ngày thứ Sáu Tuần thánh người ta thường tuốn đến nhà thờ thật đông. Họ biết rằng những ngày đó là những ngày quan trọng trong đạo của chúng ta, ngày đó kỷ niệm sự chết của Chúa Giêsu trên thánh giá. Vào ngày Chúa Nhật Phục Sinh, một đám đông lớn chật ních tất cả các nhà thờ cũng như thế. Dân chúng biết rằng sự cử hành Phục Sinh của Chúa có một ý nghĩa đặc biệt. Nhưng những người đi nhà thờ thường xuyên nhận thấy rằng sau lễ Phục Sinh người ta đi lễ dần dần giảm sút.
Những người đi nhà thờ thường xuyên sẽ bị cám dỗ tự hỏi: “Thời gian còn lại của năm họ đi đâu?”. Hãy để quyền xét đoán cho Thiên Chúa bây giờ chúng ta sẽ suy nghĩ về sự nhận biết ngày Chúa Nhật thì quan trọng đối với chúng ta là những người Công giáo, khi Thánh Lễ là một phần đặc biệt của ngày Chúa Nhật mà chúng ta mừng sự cứu độ của chúng ta. Quả thật Giáo Hội đã dạy rằng ngày Chúa Nhật là ngày đầu tiên trong một tuần, điều này có trong truyền thống đã truyền lại từ các tông đồ. Đối với những người Công giáo, ngày Chúa Nhật không có Thánh Lễ thì giống như những thành viên của một hội kèn không có nhạc cụ thì không thể làm viên mãn mục đích của họ được. Mục đích của chúng ta vào ngày Chúa Nhật là cử hành biến cố cứu độ của chúng ta.
Biến cố này là sự chết và sự Phục Sinh của Chúa Giêsu đã được trải dài trong một thời ký ba ngày, nhưng bây giờ chúng là một thực tại mà Giáo Hội gọi là mầu nhiệm Vượt Qua, mầu nhiệm Vượt Qua là toàn thể mục đích của việc Con Thiên Chúa vào trong thế gian. Từ đời đời Cha đã xác quyết rằng tội lỗi và sự chết sẽ không cản trở dự định của Ngài, là Người Con duy nhất của Ngài cứu độ chúng ta thoát khỏi tội lỗi và sự chết qua mầu nhiệm Vượt Qua của Người.
Sự chết và sự Phục Sinh của Chúa Giêsu là một phần suy nghĩ của Cha trên trời đã có trong Cựu Ước, rất lâu trước khi Chúa Giêsu sinh ra đã có những dấu hiệu những gì sẽ xảy đến. Giacaria như là một người phát ngôn của Thiên Chúa đã tiên báo về một Con Người mầu nhiệm mà tự con người đó dân chúng sẽ than khóc như cha mẹ than khóc trên cái chết của người con độc nhất của mình. Ông nói rằng: “Dân chúng sẽ nhìn lên Người, Đấng mà họ đã đâm thâu qua”. Chúng ta biết rằng Đấng ấy là con người nào. Đó là Đức Giêsu người Con độc nhất của Thiên Chúa, Đấng đã chết trên thánh giá và đã bị ngọn giáo đâm xuyên qua cạnh sườn.
Thánh Luca đã giới thiệu Chúa Giêsu trong Phúc Âm như là một hành trình đi lên Giêrusalem. Gương mặt của Ngài luôn luôn hướng về thành thánh kể từ khi những lời tiên tri của chính Chúa Giêsu đã thốt lên ít nhất ba lần sẽ được ứng nghiệm: “Con Người sẽ phải chịu nhiều đau khổ. Sẽ chết và sẽ sống lại vào ngày thứ ba”.
Chúng ta nhận biết ý nghĩa về cái chết của Chúa Giêsu trong lời tuyên xưng Thánh Thể của chúng ta: “Bởi sự chết Ngài đã phá hủy sự chết của chúng ta và bằng sự sống lại, Ngài đã phục hồi sự sống cho chúng ta”, khi cạnh nương long của Chúa Giêsu bị xuyên qua máu và nước đã chảy ra. Theo truyền thống xưa của Giáo Hội, nước là biểu hiệu của phép rửa và máu là biểu tượng của bí tích Thánh Thể. Thánh Phaolô ngày hôm nay đã nhắc nhở cho chúng ta rằng, chúng ta đã chịu phép rửa để chúng ta được mặc lấy Chúa Kitô. Tại phép rửa chúng ta đã lãnh nhận một áo trắng, biểu tượng đó là chúng ta đã mặc lấy Chúa Kitô, chúng ta mặc lấy một đời sống mới, một đời sống mà đã chinh phục chúng ta bằng mầu nhiệm Vượt Qua và bây giờ được nuôi dưỡng bởi Thánh Thể.
Qua lời tuyên xưng, chúng ta nói về sự tiếp nhận Thánh Thể của chúng ta: “Khi chúng ta ăn bánh và uống chén này chúng ta tuyên xưng cái chết và sự sống lại của Chúa Giêsu cho đến khi Chúa lại đến trong vinh quang”. Mỗi ngày Chúa Nhật chúng ta cử hành mầu nhiệm Vượt Qua, đó là một thực tại tuyệt cao trong tâm trí đời đời của Thiên Chúa. Chúng ta cũng đến với Thánh Lễ vào mỗi ngày Chúa Nhật để cử hành mầu nhiệm Vượt Qua.
Trên một bức tường cao ốc tại thành phố Francisco, tiểu bang California, Hoa Kỳ, có dám một thông báo khổ lớn 5mx3m với những dòng chữ sau:
Công lực có bổn phận truy mã thủ phạm trọng tôi Giêsu Nagiaret, bí danh Messia, tức là Kitô. Theo chứng minh nhân dân, phậm nhân mang quốc tịch Do Thái, sinh tại Bêlem, thuộc chi tộc Giuđa, hậu duệ Đavit. Mẹ y là Maria, không đề tên cha, chỉ bố nuôi là Giuse-Nagiaret, miền Galilê. Nghề nghiệp thợ mộc, lao động đủ sống, chưa lập gia đình.
Tội trạng: sau vụ phép rửa sám hối của ông Gioan Tẩy Giả, tên Giêsu bỏ xưởng mộc, ngưng sản xuất, đi lang thang, kể như vô gia cư, vô nghề nghiệp. Y tự ý kết nạp một số thanh niên đủ giai cấp trong xã hội: dân chài lưới, bọn thu thuế, nông dân mộc mạc, kéo nhau đi rao truyền một thứ Nước Trời nào đó sắp tới, làm náo động dân thị hiểu nhiều nơi, làm cho nhân dân bỏ công việc làm ăn. Đó là tội gây rối trận tự trị an…
Thưa anh chị em,
Đây là câu chuyện giả sử của một nhóm khá đông thanh niên nam nữ Hoa Kỳ muốn lôi kéo sự chú ý của dân chúng đến một con người lịch sử lạ kỳ của Đức Giêsu, Đấng Thiên Sai, đã xuất hiện trên địa cầu cách đây 20 thế kỷ. Nhưng cho đến nay, người ta vẫn ái mộ hoặc đả kích kịch liệt con người ấy và xem như ông vẫn ám ảnh nhiều người dài dài…
Vào lúc sinh thời tại Palestine, Ngài cũng đã gây một dư luận quần chúng khác nhau chung quanh Ngài. Theo Tin Mừng Thánh Luca kể lại, trong dân chúng, người thì nói: “Ông ấy là Gioan Tẩy Giả”; kẻ khác lại nói: “Ông ấy là tiên tri Êlia hay một tiên tri nào khác…”. Chúa Giêsu cũng đã nghe biết những dư luận hàm hồ nầy. Và có lần Ngài hỏi các môn đệ, những người đã từng sống bên Ngài từ vài năm nay. Ngài đặt câu hỏi: “Dư luận nghĩ Thầy như thế, còn anh em, anh em nghĩ Thầy là ai?:” Các môn đệ im lặng. Câu hỏi nầy mới khó trả lời, vì đây không còn nói đến những gì các ông nghe biết nữa, nhưng là nói đến điều các ông tin. Các ông tin Thầy của mình là ai? Và niềm tin nầy sẽ thiết lập mối liên hệ của các môn đệ với Chúa Giêsu. Ai cảm thấy mình chắc chắn để trả lời đây? Các ông không nói: “Chúng con cũng nghĩ như dân chúng: Thầy là Gioan Tẩy Giả, là Êlia, là một tiên tri…”. Sự im lặng của các ông có thể muốn nói rằng: “húng con nghĩ rằng Thầy còn hơn một tiên tri nữa…”. Nhưng ai dám nói điều đó?
Chính là Phêrô: “Thầy là Đấng Kitô của Thiên Chúa”. Phêrô trả lời như một người Do Thái có thể trả lời. Dân Israel đang mong chờ Đấng Thiên Sai Cứu Thế. Nhưng điều đáng chú ý và thật là quá sức để nói: “Chúng con tin Thầy là Đấng Thiên Sai Cứu Thế”. Thế mà Phêrô dám nói lên điều đó và không ai trong nhóm các ông nói ngược lại. Phêrô nói thay lời anh em. Chúa Giêsu nói với Phêrô: đức tin của ông thật đúng lúc. Chắc hẳn trong đời Phêrô có những lần ông bị trách là nghi ngờ, là tự cao tự đại, là kém lòng tin. Đó là những giây phút ông không tin tưởng đủ. Nhưng ở đây, ngay bây giờ thì đức tin của ông thật chính xác và mạnh mẽ.
Còn chúng ta, thưa anh chị em, khi nói về đức tin của mình, chúng ta có chắc chắn được rằng đức tin đó còn trong chúng ta không? Chúa Giêsu có chấp nhận đức tin của chúng ta như đã chấp nhận đức tin của Phêrô không? Nói cách khác, nếu Chúa Kitô đến giữa chúng ta, chúng ta có nhận được Ngài như Ngài muốn không? Nơi nào trên thế giới nầy có cái may mắn nhất để tiếp nhận Ngài? – Ở Rôma, trung tâm của Giáo Hội hay ở các đền thờ hành hương? – Không, ngay trong lòng chúng ta và nơi những người khác, Chúa chờ chúng ta ở đó. Tôi muốn nói, nếu Đức Kitô trở lại giữa chúng ta, Ngài không làm gì khác như trước đây 2000 năm Ngài đã làm: Ngài sẽ ở giữa chúng ta, với những người nghèo khổ nhất trong chúng ta. Ngài sẽ ở giữa những gia đình như gia đình Nagiaret của Ngài ngày xưa, và ai muốn gặp Ngài thì trước hết phải tìm Ngài nơi Ngài đang ở, có nghĩa là nơi những người nghèo khó. “Anh em bảo Thầy là ai?”
Nếu Chúa Kitô trở lại, con người ngày nay phải trả lời cho Ngài thế nào? – Tôi đã được nghe nhiều người nói thế nầy:
- Ngài là Chúa, con kính mến Chúa trên hết mọi sự. Chúa bảo gì con cũng làm hết, nhưng với những thù địch thì con không thể nào yêu thương được, con chịu thôi!
- Hoặc là: Ngài là lý tưởng của con, của tất cả mọi người. Nhưng lý tưởng của Ngài sáng chói quá, khó quá, ai mà sống được như Ngài!
- Hoặc nữa: Ngài là người đã đặt ra những luật lệ hay nhất, chính đáng nhất, nhưng làm sao chúng con giữ được, nhất là sống thời buổi kinh tế thị trường nầy?...
Thưa anh chị em,
Những lời tuyên xưng đó chỉ là một cách thức chối từ Chúa Kitô và đời sống của Ngài. Đó không phải là câu trả lời của những người đang thực sự sống đức tin của mình. Sống đức tin là gì? Chính là họa lại đời sống của Chúa Kitô nơi cuộc sống của mỗi người chúng ta. Trả lời câu hỏi của Chúa Giêsu: “Thầy là ai” là để cố gắng sống theo những gì mình đã xác tín và tuyên xưng về Chúa Kitô, chứ không phải trả lời xong để rồi cố thủ với con người, với ích kỷ, lười biếng của mình. Và một khi đã xác tín và tuyên xưng: “Ngài là Đức Kitô”, thì phải trung thành dấn thân theo Ngài cho đến cái chết treo trên thập gí. Chết trên thập giá như Chúa Giêsu thì rất hiếm, nhưng mọi Kitô hữu đều phải vác thập giá mỗi ngày trong đời sống và phải sẵn sàng bước lên thập giá đó. Điều đó có ý nghĩa cụ thể là người ta không thể là môn đệ của Đấng bị đóng đinh thập giá, nếu không chấp nhận như Thầy của chúng ta, trở thành tôi tớ của anh em trong cuộc sống hằng ngày, như Thầy đã làm.
5. Đấng Mêsia đau khổ - McCarthy
Suy Niệm 1: Trở nên chính mình
Có những người thèm khát được tán thưởng. Họ có lẽ đã lớn lên với cảm giác mình bị bỏ quên, bị chỉ trích và chê bai. Người nào có sự nghi ngờ thật sự và sâu xa về chính mình luôn luôn chờ đợi sự xác nhận của người khác.
Người nào càng thiếu căn tính của bản thân và sự thành công, càng cảm thấy có nhu cầu đồng hoá mình với một nhóm xã hội đang thành đạt. Có người đeo mặt nạ để chiếm được sự tán thưởng. Nhưng người nào luôn phô trương, thì những dự tính hiếm khi đạt kết quả.
Khi Đức Giêsu hỏi các Tông đồ: “Dân chúng nói Thầy là ai?” Người không hỏi điều đó vì lợi ích của Người mà vì lợi ích của họ. Người biết rõ Người là ai. Người có một sự tự chủ phi thường đến nỗi Người có thể đối diện với cả sự nịnh hót và thù ghét với sự thanh thản hoàn toàn.
Tin Mừng nói về sự từ bỏ chính mình, và cũng nói về “chết cho chính minh”. Đời sống tâm linh bao gồm từ bỏ chính mình và chết cho chính mình, nhưng xét toàn bộ đúng hơn, đó là vấn đề trở nên chính mình, tức bản ngã chân thật và viên mãn. Đó là điều quan trọng nhất trong đời sống. Nếu trái lại, chúng ta không thể sống và hạnh phúc tràn đầy. Vậy, dù đường đời chúng ta là gì thì vấn đề thật sự quan trọng là chúng ta phải trở nên chính mình, không để cho nỗi sợ hãi điều người khác nghĩ về chúng ta làm chúng ta tê liệt.
Trong đời sống công cộng, cái tôi thật đặc biệt khó thấy rõ. Phongxiô Philatô biết rằng Đức Giêsu vô tội nhưng sợ làm mất địa vị với vinh dự và các đặc quyền mà đối với ông là tất cả mọi ý nghĩa. Khi chúng ta phạm tội vì sợ mất địa vị thì cái “bản ngã” của chúng ta chìm sâu vào bóng tối. Nhưng bản ngã thật hiện rõ khi chúng ta làm theo lương tâm, và có đủ dũng cảm để liều mình bước ra khỏi con đường xấu.
Bản ngã chân thật hiện rõ trong sự khiêm nhường, qua mọi thất bại và cả những lầm lỗi. Đó là một sự phát triển chậm và đẹp qua mọi giai đoạn của đời sống. Vì chúng ta lữ hành hướng về điều đó, chúng ta được kêu gọi phải sống nhẫn nại và cho phép mọi việc xảy đến với chúng ta –bệnh tật, khủng hoảng mất mát- để hoạt động một cách hiền hoà ở giữa chúng ta. Khi chúng ta thật sự ước muốn sống chân lý, mọi việc sẽ cùng nhau hoạt động cho điều tốt và cho sự phát triển của chúng ta hướng về sự trưởng thành tâm linh.
Sự trưởng thành ấy có thể không thấy được. Nó xảy ra bên trong chúng ta. Đặc biệt nó xảy ra trong những người khiêm hạ và không quan trọng về mặt xã hội. Nó không cần mang đến phần thưởng danh dự và tiền bạc. Nhưng nó sẽ dẫn đến một sự hiệp thông sâu xa với những người khác.
Trong quá khứ, tính tâm linh liên quan đến việc mặc lấy một cái ngã khác –thường là một cái ngã sùng tín và thánh thiện. Tính tâm linh thật ra không phải là vấn đề mặc lấy một cái gì từ bên ngoài chúng ta, nhưng là rút ra điều mà chúng ta đã được ban cho. Đó là làm hiện rõ cái bản ngã tâm linh của mình. Bản ngã tâm linh là bản ngã thật, làm bằng chất liệu con người nhưng mang hình ảnh của Thiên Chúa.
Qua mọi giai đoạn phát triển, mục đích thật sự trong đời sống là trở thành chính mình, là làm cho mọi rào cản sụp đổ để cái “tôi” thâm sâu nhất có thể xuất hiện rõ ràng. Nó không muốn trở thành điều mà những người khác muốn chúng ta trở thành hoặc hô hào chúng ta quan tâm bằng mọi giá. Nó không muốn nỗ lực trở thành một người khác, những trưởng thành từ hạt giống sự sống ở bên trong chúng ta. Chúng ta là những người khách hành hương xa lạ trong cuộc hành trình để trở thành người mà chúng ta thật sự vẫn là. Thật bi đát khi luôn luôn có rất ít người “chiếm hữu được linh hồn họ” trước khi họ chết.
Suy Niệm 2: Nhận thức của dân chúng
Dân chúng nói tôi là ai? Hoặc Tôi như thế nào đối với những người khác? Đó là những câu hỏi mà nhiều người hỏi, nhưng đặc biệt là những người được dân chúng nhìn vào.
Khi Đức Giêsu hỏi: “Dân chúng nói Thầy là ai?”. Người không hỏi điều đó vì lợi ích cho Người mà vị lợi ích của các Tông đồ. Đức Giêsu biết rõ Người là ai. Người có sự tự chủ phi thường đến nỗi Người có thể đối mặt với cả sự nịnh hót lẫn sự thù ghét với sự thanh thản hoàn toàn.
Một số người thèm khát được tán thưởng. Hẳn họ đã lớn lên với cảm thức mình bị bỏ quên, chê bai và chỉ trích. Người nào có sự hoài nghi sâu xa, thật sự về mình luôn luôn tìm kiếm sự xác nhận của những người khác.
Chúng ta cần tìm kiếm thực tại của riêng mình để có thể đứng vững trên đôi chân của mình. Do đó chúng ta không cần người khác chống đỡ cho chúng ta. Có những người có một ngọn lửa chiếu sáng rực rỡ liên tục từ nơi thâm sâu của tâm hồn họ. Ngọn lửa ấy không biết đến họ, vì nó không lệ thuộc vào điều mà những người khác nghĩ về họ. Đó là điều họ nghĩ về chính họ với sự chắc chắn và thanh thản.
Tuy nhiên, một đôi khi nhìn lại chính mình như những người khác nhìn chúng ta có thể có lợi cho chúng ta. Alfred Nobel là một nhà công nghiệp người Thuỵ Điển giàu có và danh tiếng. Ông đã phát minh ra chất nổ. Nhưng gần cuối đời ông hoàn toàn không hạnh phúc. Ông chưa bao giờ kết hôn và cả đời ông, ông bị sức khoẻ kém là phiền nhiễu. Kết quả là ông có một nhân sinh quan rất bi quan.
Thế rồi, một sáng nọ, ông đọc thấy trong một tờ báo một cáo phó của ông. Đó là một nhầm lẫn của một nhà báo. Ông rất bối rối bởi những điều ông đọc. Điều làm ông tổn thương nhất là hình ảnh sai lạc mà dân chúng có về ông. Thế giới biết đến ông như “một ông vua chất nổ”. Đó là từ người ta dùng để nhắc đến ông. Trong bản cáo phó, người ta không hề nói đến mong ước của ông muốn đoàn kết các dân tộc và làm cho chất lượng của đời sống con người tốt hơn. Tổn thương to lớn đối với ông là khám phá ra rằng mọi điều chủ yếu, mọi việc làm nên cái cốt lõi của đời ông đã bị che giấu đối với người khác; còn mọi điều sai lạc lại được phổ biến công khai. Ông cảm thấy hoàn toàn bị hiểu lầm. Ông không phải như thế. Ông quyết định phải lập tức hành động để cho thế giới biết lý tưởng thật và mục đích của đời ông.
Ông để lại phần lớn gia tài khổng lồ dùng vào việc làm cho thế giới tốt đẹp hơn. Ông lập ra năm giải thưởng để phát cho các ông hay bà nào có sự đóng góp nổi bật vào các lĩnh vực vật lý, hoá học, y học, văn chương và hoà bình. Ông muốn được nhớ đến không phải như một người đã phát minh ra thuốc nổ có thể làm thế giới nổ tung, nhưng như một người có tâm hồn tốt lành và nhân hậu.
Điều đã xảy ra cho ông Nobel chứng tỏ người ta mắc sai lầm như thế nào trong sự phán xét người khác. Điều đó cũng đã xảy ra với chính Đức Giêsu. Tin Mừng hôm nay cho thấy dân chúng có những ý tưởng khập khiễng về Người. Có kẻ nghĩ Người là Gioan Tẩy Giả (lúc đó đã chết). Những người khác thì nói là một ngôn sứ thời xưa sống lại.
Đức Giêsu là Đấng Mêsia như Phêrô đã đoán chính xác. Nhưng Người không là Đấng Mêsia vinh quang như dân chúng đã mong đợi. Người phải là một Đấng Mêsia đau khổ. Người không thống trị, Người phục vụ. Đức Giêsu không quan tâm chiếu rọi hình ảnh mà dân chúng muốn. Người biết Người có một số phận mà Thiên Chúa đã định mà Người phải hoàn thành, không sai sót.
Chúng ta sẽ mắc sai lầm nếu bận tâm chính của chúng ta chiếu rọi một hình ảnh tốt đẹp và và sống theo những kỳ vọng của người khác. Điều duy nhất mà chúng ta được mời gọi trở thành là phải trở nên cái bản ngã chân thật của mình. Chúng ta không thể sống viên mãn và hạnh phúc nếu không hoàn thành điều đó. Nhưng chúng ta không nên bằng lòng cho đến lúc đạt đến mức độ tốt nhất mà chúng ta có thể đạt được trong việc trở nên chính mình. Vậy, dù đường đời của chúng ta như thế nào, điều thật sự quan trọng là chúng ta phải trở nên chính mình trước mặt Thiên Chúa và người khác. Đây là cuộc hành trình về lại nhà mình.
6. Đấng Kitô - Lm. GB Nguyễn Văn Hiếu
Phân tích
Đoạn Tin Mừng hôm nay liên quan đến mỗi người chúng ta. Chúa nói : “Còn anh em, anh em bảo Thầy là ai ?”(Lc 9,20a). Không phải chỉ có các Tông Đồ, Chúa Giê-su mới chất vấn như thế, nhưng là mỗi người chúng ta. Câu hỏi đặt ra không phải để trả lời theo công thức, theo khuôn mẫu, nhưng là lời tuyên xưng đức tin tự tấm lòng của mỗi người. Chúa Giê-su không phải chỉ là ông Thầy để người ta nhớ đến, nhưng còn là một Đấng muốn chiếm hữu chúng ta trọn vẹn, muốn chúng ta mê say đi theo Người ~mê say đi theo khắp nơi, kể cả con đường lên núi Sọ : “Ai muốn theo Tôi, phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mình hằng ngày mà theo” (c.23).
-Lạy Chúa, Chúa đã chết, để cho chúng con được sống. Xin ..
-Lạy Chúa, nhờ Chúa, chúng con được thừa hưởng lời hứa của Thiên Chúa. Xin Chúa Ki-tô ..
-Lạy Chúa, Chúa là Đường để chúng con noi theo. Xin Chúa..
Suy niệm
Ở thành Chieti, miền Naples, Nước Ý, có một người làm nghề cầm đồ, cho vay. Anh chẳng biết có ai, ngoại trừ tiền. Với những người nghèo khổ, anh cũng chẳng chút thương tâm, lại còn lợi dụng tình cảnh túng thiếu của họ để khai thác, bắt chẹt, miễn sao có lợi cho mình ! Vì thế, chẳng bao lâu ruộng vườn của những người nghèo trong vùng trở thành tư điền của anh. Việc này đi ngược với tinh thần của Tin Mừng.
Không may, anh bị nhiễm chứng phong cùi, lở loét. Bao nhiêu tiền của đổ ra cũng chẳng chặn đứng được cơn bệnh. Không trông mong gì nơi các bác sĩ, thầy thuốc, anh chạy đến với Đức Mẹ ở Lorette. Từ đáy lòng, anh tha thiết cầu khấn Đức Mẹ và cho người bỏ vào thùng khấn 100 tiền vàng. Anh được lành bệnh !
Nhân dịp này, bạn bè cho anh thấy được lòng yêu thương của Thiên Chúa và Đức Mẹ, khuyên anh cần phải đoạn tuyệt với chứng bệnh phong cùi thiêng liêng là thói biển lận, ăn lời quá đáng. Anh nhếch mép cười khinh mạn nói : “Nếu lấy lãi là một tội, thì Đức Mẹ chẳng mắc lỗi với tôi sao, vì để chữa lành bệnh tôi, Ngài đã lấy của tôi những 100 đồng tiền vàng !?”.
Các bạn anh sợ hãi trước lời lẽ phạm thượng như vậy, nên bỏ ra về. Tối hôm đó, người chủ nợ tệ bạc rên rỉ : “Ôi tôi chết mất ! Bệnh tôi lại tái phát rồi ! Ở cạnh sườn tôi dường như có gì như hòn than nóng bỏng, đau đớn lắm !”. Một người nhà thò tay vào cạnh sườn anh chỉ, lấy ra một túi đựng 100 đồng vàng và đưa cho anh. Nhìn số tiền đó, anh nhớ lại lời nói phạm thượng của mình và thất vọng kêu lên :“Ôi tôi mất linh hồn rồi ! Đức Mẹ đã không thương, thì còn ai thương tôi nữa !”. Nói xong anh gục xuống, tắt thở.
Người cho vay bất nghĩa kia khi trước được khỏi bệnh là nhờ ơn Thiên Chúa qua Đức Mẹ, cùng với việc cộng tác của anh khi đóng góp 100 đồng vàng xin khấn. Không phải Thiên Chúa hay Đức Mẹ cần số tiền đó, nhưng đây là biểu hiện lòng tin và việc cộng tác của anh. Có tin, anh mới thực hiện việc cộng tác. Điều đó giúp thông sáng cho chúng ta về giáo huấn của Lời Chúa hôm nay:
Ngôn sứ Da-ca-ri-a cho chúng ta hiểu : Ơn trở lại là ơn Thiên Chúa dẫn dắt chúng ta tin vào Đấng mà Thiên Chúa đã đặt để làm Đấng trao ban ân sủng ~nghĩa là Đức Giê-su Ki-tô, Đấng Trái Tim bị đâm thủng, để đổ ơn xuống cho chúng ta. Thánh Phao-lô trong thư gửi cho tín hữu Ga-lát nói : sở dĩ chúng ta được trở nên con cái Thiên Chúa yêu mến, được thừa kế gia nghiệp với Đức Ki-tô, chính là vì chúng ta đã được “thanh tẩy để thuộc về Đức Ki-tô” và đã “mặc lấy Đức Ki-tô” (Gl 3,27). Lòng tin vào Đức Ki-tô mới là nguồn chính yều dẫn dắt chúng ta đến với ân sủng của Thiên Chúa.
Tuy nhiên vấn đề đặt ra cho chúng ta là : Khi tin vào Đức Ki-tô và thực hành theo giáo huấn của Người, thì tôi phải đã xác định Người là ai trong cuộc sống của tôi. Nếu tôi chỉ quan niệm về Đức Ki-tô một cách trần tục như người Do-thái hoặc như anh cầm đồ cho vay nặng lãi kia, thì tôi cũng sẽ dễ dàng từ chối Người, không thể tin vào Người, không thể dấn thân theo Người. Chính vì thế, để có thể quan niệm đúng đắn về Đức Ki-tô, tôi phải tiếp cận Người, phải sống với Người và phải thực hành theo giáo huấn của Người. Chỉ muốn sống theo ý riêng, chúng ta không thể nào đi đúng đường và chắc chắn không thể gặp được Người.
Khi sai phái Con của Người xuống trần gian, Thiên Chúa đã ban cho Đức Ki-tô một thân xác, để sống nếp sống con người như chúng ta. Từ việc nhập thể làm người, cho đến cuộc tử nạn, phục sinh và lên trời vinh hiển, Đức Giê-su đã hoàn toàn hoạt động theo Thánh Ý Chúa Cha, hầu đem ơn cứu rỗi cho nhân loại. Thiên Chúa cũng ban cho mỗi người chúng ta một thân xác, một nếp sống, một cuộc đời. Để nhận diện được Chúa Ki-tô, để trở nên được đồng hình đồng dạng với Người, không gì khác hơn là chúng ta cũng sẽ qua thân xác của mình, qua cuộc đời của mình mà thông phần vào cuộc đời của Chúa. Chính Người đã mời gọi chúng ta :“Ai muốn theo Tôi, phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mình hằng ngày mà theo” (Lc 9,23).
Việc từ bỏ chính mình ở đây không phải là tự ý huỷ hoại thân xác mình, nhưng là biết đặt cuộc sống, con người, nếp suy tư của mình đối chiếu trước giáo huấn của Chúa. Người ta thường nói : “Con nhà tông không giống lông cũng giống cánh”. Là con cái Thiên Chúa, là Ki-tô hữu, chúng ta phải sống theo gương mẫu, theo lời chỉ bảo của Chúa Giê-su, sẵn sàng chấp nhận từ bỏ những tập quán, những đam mê có thể làm mình lỗi phạm đến Thiên Chúa, có thể làm mình đi lạc xa đường hướng giáo huấn của Chúa. Từ bỏ cái tôi cũng còn là biết từ bỏ những tham vọng, những tự ái, để tha thứ, để sống hoà đồng, bao dung với người khác; biết dẹp bỏ những xung khắc giữa bản thân với tha nhân, để tạo tình hoà thuận với mọi người, hầu hướng dẫn anh em về với Thiên Chúa. Từ bỏ như vậy, là chúng ta đã cùng với Đức Ki-tô vác thập giá của mình để theo Chúa. Như thế, tuyên xưng Đức Ki-tô, chính là bước theo Chúa Ki-tô, sẵn sàng từ bỏ nếp sống đam mê trần tục của mình, để sống theo giáo huấn, gương mẫu của Chúa.
Đức Ki-tô sẵn sàng đến cư ngụ và ban ơn cứu độ chữa lành cho chúng ta, nhất là trong bí tích Thánh Thể mà chúng ta đang cử hành nơi đây. Nhưng liệu tôi có thực lòng cộng tác với Chúa, góp phần mình vào hiến tế mà Hội Thánh đang cùng Đức Ki-tô Giê-su dâng tiến chăng?
Xin cho mỗi người chúng ta nhờ ơn Chúa Thánh Thần soi sáng và thúc đẩy, ngày càng có thể tiến đến gần Chúa Ki-tô. A-men.
bài liên quan mới nhất

- Hiệp sống Tin mừng: Chúa nhật 14 Thường niên năm C
-
Hiệp sống Tin mừng: Chúa nhật Lễ Mình Máu Thánh Chúa năm C -
Bài giảng trong thánh lễ kỷ niệm 50 năm thụ phong Linh Mục 1975/15-6/2025 - linh mục Tổng Đại diện Ignatio Hồ Văn Xuân -
Hiệp sống Tin mừng: Chúa nhật Chúa Ba Ngôi năm C -
Hiệp sống Tin mừng: Chúa nhật Chúa Thánh Thần hiện xuống -
Hiệp sống Tin mừng: Chúa nhật 7 Phục sinh năm C - Chúa Thăng Thiên -
Hiệp sống Tin mừng: Chúa nhật 6 Phục sinh năm C -
Hiệp sống Tin mừng: Chúa nhật 5 Phục sinh năm C -
Hiệp sống Tin mừng: Chúa nhật 4 Phục sinh năm C -
Hiệp sống Tin mừng: Chúa nhật 3 Phục sinh năm C
bài liên quan đọc nhiều

- Tâm tình Mùa Chay
-
Hiệp sống Tin mừng: Chúa nhật 13 Thường niên năm B -
Hiệp sống Tin mừng: Chúa nhật 14 Thường niên năm A -
Hiệp sống Tin mừng: Chúa nhật 5 Phục sinh năm C -
Hiệp sống Tin mừng ngày 29/06: thánh Phêrô và thánh Phaolô tông đồ -
Hiệp sống Tin mừng: Chúa nhật 3 mùa Chay năm B -
Hiệp sống Tin mừng ngày 02/11: Cầu cho các đẳng linh hồn -
Hiệp sống Tin mừng: Chúa nhật Chúa Thánh Thần hiện xuống -
Hiệp sống Tin mừng: Chúa nhật 27 Thường niên năm B -
Hiệp sống Tin mừng: Chúa nhật 29 Thường niên năm B