Suy niệm Lời Chúa: Chúa Nhật 24 Thường Niên B

Suy niệm Lời Chúa: Chúa Nhật 24 Thường Niên B

Các bài suy niệm CHÚA NHẬT 24 THƯỜNG NIÊN - B
Lời Chúa: Is 50,5-9a; Gc 2,14-18; Mc 8,27-35

 

Mục Lục
1.   Đau khổ
2.   Đức Giêsu
3.   Bạn nghĩ gì về Đức Kitô
4.   Thập giá trong đời sống
5.   Từ bỏ

 

 


1.  Đau khổ

Phân tích

Bài Tin mừng hôm nay có hai phần:

  a/ Chúa Giêsu dò hỏi các môn đệ xem dư luận nghĩ sao về Ngài. Các môn đệ phản ảnh: có nhiều dư luận hơi khác nhau, nhưng tựu trung trong mọi người đều nghĩ Chúa Giêsu là một ngôn sứ. Phần Phêrô thì lên tiếng nói thay cả nhóm 12; “Thầy là Đức Kitô”.

  b/ Sau đó Chúa Giêsu tiên báo về cuộc chịu nạn của mình. Phêrô ngăn cản liền bị Chúa trách nặng nề là Xatan. Rồi Ngài cho biết ai muốn làm môn đệ Ngài thì cũng phải đi theo con đường Ngài đi, đó là con đường thập giá.

Suy niệm

  1. Phêrô vừa mới được ơn trên soi sáng cho biết Chúa Giêsu là Đức Kitô, nhưng ông chưa hiểu rõ Kitô như thế nào, do đó ông lên tiếng ngăn cản Ngài bước vào con đường thập giá. Điều này có thể thông cảm được. Nhưng tôi đã được biết Đức Kitô từ lâu, thế mà tôi vẫn không chấp nhận con đường thập giá. Tôi nói tôi tôn thờ thập giá nhưng tôi than thở khi phải vác thập giá. Tôi nói tôi theo Đức Kitô, nhưng tôi muốn dừng chân khi Ngài bắt đầu dẫn tôi lên núi sọ.

  2. “Con người phải chịu đau nhiều, bị các kỳ lão, thượng tế cùng kinh sư loại bỏ, bị giết chết, và sau ba ngày sẽ sống lại” (Mc 8,31)

Anh ấy đến với tôi, ồn ào, kiêu hãnh. Và tôi đã thực sự bị chinh phục bởi sự phong lưu sang trọng của anh. Chiều thứ bảy, anh đón tôi đi chơi. Ngồi bên nhau trong quán nước quen thuộc, chúng tôi lặng lẽ ngắm nhìn từng giọt mưa đang rơi nhanh ngoài phố. Một đứa bé ăn xin rách rưới và ướt sũng đến bên anh, chìa đôi tay tím ngắt run rẩy ra trước mặt anh. Anh thản nhiên lắc đầu. Nhìn theo dáng đi xiêu vẹo của đứa bé khuất dần sau làn mưa, tôi chợt nghe như có một cái gì đó đang đổ vỡ trong tâm hồn mình.

Thiên Chúa đến với ta, âm thầm, lặng lẽ, nghèo hèn, giản dị, nhưng chan chứa tình thương. Tôi và các bạn có sẵn sàng đón nhận Người hay còn chờ đợi một Thiên Chúa khác, oai nghi và quyền qúy, để rồi lại chợt thấy ngỡ ngàng và hụt hẫng như tôi.

Lời Chúa, xin cho con hiểu được mầu nhiệm thánh giá như nhạc sĩ Văn Cao để hiểu và nói: “Chúa Giêsu trần trụi trên thập giá. Ngài không có gì nhưng lại có tất cả” (Epphata)

  3. “Ai muốn theo Ta, hãy từ bỏ mình, vác thập giá mà theo Ta”.

Những khổ sở mà đời chúng ta phải chịu cũng giống như một bó củi rất to và rất nặng. Chắc chắn chúng ta vác không nổi. Nhưng Thiên Chúa đã thương tháo dây bó củi đó ra, rồi chia nó ra để mỗi ngày chỉ chất lên vai ta một chút thôi. Hôm sau một khúc nữa, và hôm sau tiếp tục… Cuối cùng ta cũng vác xong bó củi. Nhiều người lại không làm như thế: chẳng những họ cất lên vai khúc củi của hôm nay mà còn thêm vào đó khúc củi hôm qua và khúc củi của ngày mai. Lạ gì họ không vác nổi!” (John Newton).

  4. “Ai muốn cứu mạng sống mình thì sẽ mất; còn ai u mất mạng sống mình vì tôi và Tin mừng thì sẽ cứu được mạng sống ấy” (Mc 8,35)

“Chúng tôi muốn lựa chọn một giai cấp thống trị mới, xa lạ với thứ đạo đức thương người, một giai cấp ý thức rằng, dựa trên cơ sở là giống nòi ưu việt nhất, nó có quyền đô hộ, một giai cấp biết thiết lập và duy trì không một chút do dự quyền thống trị của nó đối với quảng đại quần chúng” (“những bí mật của chiến tranh thế giới II, Grigôri Đêbôrin).

Dựa trên thuyết phân biệt chủng tộc, Hít-le đã xây dựng một bộ máy chính quyền tôn thờ chiến tranh. Họ coi chiến tranh là “một hoạt động cao qúy nhất của những con người thuộc giống nòi ưu việt”. Một đất nước của trại lính và nhà giam đã lôi kéo cả thế giới rơi vào lửa đạn.

50 năm đã trôi qua, chủ nghĩa Phát-xít đã bị chôn vùi. Nhưng trên thế giới vẫn còn biết bao ý tưởng điên rồ của con người, khiến nhân loại phải điêu đứng vì chiến tranh, đói nghèo và lạc hậu.

Lời Chúa, Chúa đã dạy “không có tình yêu nào lớn hơn tình yêu của người dám hy sinh mạng sống vì bạn hữu”. Xin giúp con biết hy sinh vì tình yêu đồng loại. (Epphata)

2.  Đức Giêsu

Xêdarê Philipphê hoàn toàn nằm ngoài ranh giới xứ Galilê, không thuộc lãnh thổ của Hêrôđê, nhưng là đất thuộc về Philipphê. Đây là một thành phố có lịch sử ly kỳ. Từ thời xưa nó được gọi là Balias, vì nó từng là trung tâm quan trọng cho việc thờ Baan. Ngày nay, nó hãy còn được gọi là Banias vốn từ hình thức của Panias. Sở dĩ nó có tên Panias bởi trên một sườn đồi tại dấy có một hang đá mà người ta bảo là chỗ sinh của Pan, thần sáng tạo cõi thiên nhiên của dân Hylạp. Hơn nữa từ một hốc đá bên sườn đồi ấy lại phát xuất một dòng suối mà người ta cho rằng đó là nguồn phát sinh của sông Giođan. Cao hơn trên sườn đồi, sừng sững một đền thờ sáng chói bằng đá trắng, Philipphê đã xây để thờ thần tính của Xêda, hoàng đế La mã, người đang trị vì thế giới thời ấy, người được xem như một vị thần. Điều lạ lùng chính tại đây, chứ không phải ở một nơi nào khác, Phêrô lại thấy một người thợ mộc không nhà, dân xứ Galilê là con Thiên Chúa. Bầu không khí tôn giáo cổ xưa vốn bao trùm xứ Paletin, những kỷ niệm về baan được nhìn thấy khắp nơi. Các thần của thế giới cổ Hy lạp cũng ngự trị tại đó, người ta vẫn như còn nghe tiếng sáo của thần Pan, và còn thoáng thấy các nữ thần sống trong các khu rừng. Sông Giođan chắc gợi cho người ta nhớ lại từng giai đoạn trong lịch sử dân Israel và việc chinh phục xứ ấy. Và đưới ánh sáng mặt trời từ phương Đông, đền thờ bằng đá trắng đang phản chiếu đó như nhắc nhở mọi người rằng Xêda là một vị thần. Ở đây, hơn bất cứ nơi nào khác, trong bối cảnh cho đủ thứ tôn giáo và suốt dòng lịch sử, Phêrô lại khám phá rằng một vị giáo sư lưu hành tại Nazarét, và đang tiến về hướng thập giá, là Con Thiên Chúa. Qua suốt các sách Phúc Âm, thật không thể tìm được một câu chuyện nào khác bày tỏ được sức mạnh cao cả nhân cách của Chúa Giêsu như trong trường hợp này.

Biến cố này xảy đến ngay ở giữa sách Phúc Âm Maccô và nó như đã được dụng ý sắp xếp như vậy, vì chuyện đã xảy ra đúng vào khoảnh khắc tuyệt đỉnh của Phúc Âm ấy. Ít ra theo một phương diện, khoảnh khắc này là cơn khủng hoảng trong đời sống Chúa Giêsu, cho dù các môn đệ Ngài có nghĩ gì, Chúa Giêsu biết chắc chắn ở phía trước, sừng sững một cây thập giá chẳng thể né tránh, mọi sự không còn kéo dài bao lâu nữa. Thế lực chống đối đang tập trung lực lượng để tấn công. Vấn đề Chúa Giêsu phải đối dầu là: đời sống của Ngài đã gây được chút ảnh hưởng gì chưa? Ngài thực hiện được gì? Hay nói cách khác, đã có người nào khám phá được Ngài thật sự là ai chưa? Nếu Ngài đã sống, đã giảng dạy, đã đi đây đó giữa vòng loài người, nhưng chẳng một ai thoáng thấy được Thiên Chúa nơi Ngài, thì tất cả công lao của Ngài đã bỏ ra chẳng đi đến đâu cả. Phương pháp duy nhất Ngài có thể để lại một thông điệp cho loài người, đó là viết nó vào lòng của một số người, vì thế, trong thời gian này, Chúa Giêsu đã đem mọi sự đưa vào một trắc nghiệm. Ngài hỏi các môn đệ rằng thiên hạ nói gì về Ngài để Ngài nghe từ chính họ tiếng đồn và dư luận quần chúng. Tiếp theo là một khoảng im lặng nghẹt thở, Ngài đặt một câu hỏi thật nhiều ý nghĩa: "Còn các ngươi nói ta là ai?". Thình lình, Phêrô nhận ra được điều ông vẫn biết từ nơi sâu thẳm của lòng mình. Đây là Đấng Messia, là Chúa Cứu Thế, Đấng được sức dầu, là Con Thiên Chúa. Qua câu trả lời này, Chúa Giêsu biết Ngài không thất bại.

Ngay sau khi Phêrô khám phá ra điều đó, Chúa Giêsu bảo ông không được nói điều này với ai. Tại sao? Trước nhất và trên hết, Chúa Giêsu dạy Phêrô và những người khác về chức vụ messia thật sự có nghĩa gì. Vậy muốn hiểu rõ nhiệm vụ mà Chúa Giêsu đang nắm trong tay, muốn hiểu ý nghĩa đích thực sự cần yếu đó, chúng ta cần khảo xét các ý niệm liên hệ Đấng messia vào thời Chúa Giêsu thật sự là gì.

Suốt quá trình tồn tại, người do thái chẳng khi nào quên họ là tuyển dân của Thiên Chúa theo một ý nghĩa hết sức đặc biệt. Vì lý do ấy, lẽ tự nhiên họ trông mong được một địa vị đặc biệt trong thế gian. Vào thời xa xưa, họ trông đợi chiếm được địa vị đó bằng điều mà chúng ta có thể gọi là các phương tiện tự nhiên. Họ luôn luôn xem những ngày trọng đại nhất trong lịch sử của họ như các ngày của Đavit, và họ mơ ước một ngày kia, họ sẽ có một vua khác thuộc dòng dõi Đavit, một vua sẽ khiến họ trở thành vĩ đại trong sự công chính và thế lực. Nhưng thời gian trôi qua, sự vĩ đại mà họ mơ ước đó rõ ràng một cách đáng thương hại là sẽ chẳng bao giờ có thể thực hiện được bằng các phương tiện tự nhiên. Mười chi phái bị đầy sang Asyri và đã vĩnh viễn thất lạc, người Babilon chinh phục Giêrusalem, bắt dân Do thái đem về nước làm tù binh. Rồi đến người Batư trở thành chủ nhân ông của họ, tiếp theo là người Hilạp, sau đó là người Lamã. Thế là đã chẳng chinh phục được ai, chẳng cai trị được ai, mà qua nhiều thế kỷ, dân đo thái cũng chẳng biết đến sự hoàn toàn tự do đậc lập là gì nữa. Cho nên có một dòng tư tưởng khác nảy sinh. Ý niệm về một nhà vua vĩ đại thuộc dòng dõi Đavit vẫn chưa bao giờ tan biến hẳn, luôn luôn được đưa vào tư tưởng của họ dưới một hình thức nào đó, càng ngày họ càng mơ ước về một ngày khi Thiên Chúa can thiệp vào lịch sử bằng những phương tiện siêu nhiên, sẽ thực hiện điều mà các phương tiện tự nhiên chẳng bao giờ thành tựu được. Họ trông mong quyền năng của Thiên Chúa sẽ làm cho họ những gì mà khả năng của con người đành bó tay.

Trong giai đoạn giữa Cựu Ước và Tân Ước, đã có hàng loạt các sách về những giấc mơ, những dự báo về các thời đại mới đó và sự can thiệp của Thiên Chúa. Các sách ấy được xếp vào một loại được gọi là các sách Khải huyền (tương đương với các sách sấm ký của chúng ta). Từ ngữ này có nghĩa là vén màn. Các sách này là phương tiện nhằm vén lên những bức màn đang che dấu tương lai. Chúng ta phải đặt giấc mơ về Chúa Giêsu trong bối cảnh các giấc mơ của họ. Trong các sách ấy đã xuất hiện một số ý niệm cơ bản.

  1. Trước thời Đấng Mêssia đến, sẽ có một giai đoạn đại nạn. Đó là cơn đau quặn Mêssia, là cơn chuyển bụng của kỷ nguyên mới. Tất cả những gì khủng khiếp có thể quan niệm được sẽ bùng nổ trên trái đất, mọi tiêu chuẩn về vinh dự, về luân lý đạo đức đều bị đánh đổ, thế gian này sẽ trở thành một cảnh hỗn mang về cả phương diện thể chất lẫn tinh thần. Sẽ có "nhiều cơn động đất, nhiều dân tộc láo loạn, nhiều quốc gia mưu đồ, nhiều lãnh tụ bối rối, nhiều vua chúa lo âu".

Kinh Mishnah kể ra các dấu hiệu cho biết Đấng Mêssia gần đến: "Sự khoe khoang tăng thêm, tham vọng nảy sinh. Các chính quyền biến thành tà giáo. Không có sự dạy dỗ nữa, các nhà hội dành cho việc dâm đãng. Con nít mắng chửi người già cả. Con trai khinh cha, con gái chống đối mẹ, nàng dâu nghịch cùng mẹ chồng. Kẻ thù của người ta là thân nhân ở trong nhà mình". Trước thời kỳ Đấng Mêssia đến là thời kỳ mà thế gian bị xé ra từng mảnh và mọi dây ràng buộc đều bị nới lỏng. Trật tự vất thể và tinh thần đều sụp đổ.

  2. Giữa cảnh hỗn mang đó, Êlia xuất hiện với tư cách sứ giả tiền hô, báo trước việc Đấng Mêssia giáng lâm. Ông có nhiệm vụ hàn gắn các vết thương và lập lại trật tự để dọn đường cho Vua Cứu Thế. Đặc biệt là ông phải dàn xếp những bất hòa tranh chấp. Thật ra luật truyền khẩu của do thái giáo có quy định rằng tất cả tiền bạc, tài sản đang bị tranh chấp về chủ quyền, hoặc bất cứ vật gì mà người ta không biết sở hữu chủ, thì phải chờ đợi "cho tới khi nào Êlia đến". Khi Êlia đến, thì Đấng Mêssia không còn bao xa nữa.

  3. Rồi Đấng Mêssia đến. Từ ngữ Mêssia và từ ngữ Kitô vốn đồng nghĩa (Mêssia là tiếng Hibálai, còn Kitô là chữ Hy lạp). Trước khi lên làm vua, nhà vua phải được xức dầu, Đấng Mêssia là nhà vua được Thiên Chúa xức dầu. Điều quan trọng cần nhớ là Kitô không phải là tên mà là tước vị. Lắm lúc người ta nghĩ rằng Đấng Mêssia là nhà vua thuộc dòng dõi Đavít, nhưng thường hơn, người ta nghĩ về một nhân vật vĩ đại, một thần nhân, xuất hiện trong lịch sử tái tạo thế giới và cuối cùng báo thù cho tuyển dân Thiên Chúa.

  4. Các dân các nước sẽ liên minh với nhau để chống lại với nhà vô địch của Thiên Chúa. Kết quả là các thế lực chống đối sẽ hoàn toàn bị tiêu diệt. Hiền giả Philô bảo rằng Đấng Mêssia "sẽ ra trận đánh giặc và tiêu diệt các nước lớn và đông dân". Đấng Mêssia sẽ là nhà chinh phục gây nhiều tai hại nhất trong lịch sử, đàn áp các kẻ thù Ngài cho đến khi chúng hoàn toàn tuyệt diệt.

  5. Tiếp theo đó, thành Giêrusalem sẽ được làm mới lại. Đôi khi người ta nghĩ thành phố hiện có sẽ được làm mới lại, nhưng thông thường hơn thì nghĩ rằng Thành mới sẽ từ trời xuống. Ngôi nhà cũ sẽ được cuốn lại và đem đi chỗ khác, ngôi nhà mới được thế vào, "tất cả cột trụ đều mới và đồ vật trang trí đều lớn hơn trong nhà cũ" (Hê nóc 90).

  6. Dân do thái đã bị tan lạc khắp thế gian sẽ được gom về thành phố Giêrusalem mới. Nhằm hướng về ngày đó, bài cầu nguyện của người do thái mỗi ngày có lời khấn xin "xin hãy giương lên một ngọn cờ để thu góp những kẻ tan lạc của chúng tôi khắp bốn phương trời lại". Thật dễ thấy thế gian này sẽ được làm mới lại theo cách nào dưới mắt người do thái. Lòng yêu nước của họ bao giờ cũng là yếu tố nổi bật.

  7. Xứ Paletin sẽ là trung tâm thế giới, và cả thế gian sẽ quy phục nó. Tất cả mọi dân tộc sẽ bị đè bẹp. Thật là một bức tranh ảm đạm. Dân Israel sẽ vui mừng khi thấy các kẻ thù của mình bị đập tan và ở trong hỏa ngục. Cả đến những người chết của dân Israel cũng sẽ được sống lại và dự phần vào thế giới mới.

  8. Cuối cùng một thời đại mới của hòa bình tốt đẹp sẽ đến và tồn tại vĩnh cửu.

Trên đây là các ý niệm về Đấng Mêssia vốn ngự trị trong tâm trí người do thái lúc Chúa Giêsu đến thế gian này. Các ý niệm ấy vốn tàn bạo, đầy tinh thần quốc gia cực đoan, gây tàn hại và báo thù. Thật ra chúng cũng được ho kết thúc bằng sự trị vì trọn vẹn của Thiên Chúa, nhưng muốn đạt đến đó, phải trải qua trận tắm máu và một sự nghiệp chinh phạt. Hãy nghĩ về Chúa Giêsu bị đặt trong một bối cảnh như vậy, cho nên chẳng có gì để ngạc nhiên nếu Ngài cần huấn luyện các môn đệ mình về ý nghĩa của Đấng Mêssia, và Ngài chẳng có gì lạ, nếu cuối cùng chúng ta đã đóng đinh Ngài vào thập giá và kết tội giảng tà giáo, trong một bức tranh như thế làm sao có chỗ cho một thập giá, cũng chẳng hề có một chỗ trống nào dầu thật nhỏ hẹp cho tình thương chịu khổ được.

Khi Chúa Giêsu kết hợp chức vụ Đấng Mêssia với sự đau khổ và sự chết là Ngài đang khẳng định với các môn đệ những điều khó tin, khó hiểu nổi. Suốt đời, họ vẫn quan niệm về một Đấng Mêssia bách chiến bách thắng, thế mà bây giờ họ lại được trình bày một ý niệm khiến họ phải choáng váng. Chính vì lý do ấy nên Phêrô đã mạnh mẽ phản đối. Với ông toàn diện vấn đề không thể nào xảy ra như vậy được.

Tại sao Chúa Giêsu quở trách Phêrô quá nghiêm khắc như vậy? Vì lời ông nói ra cũng chính là mối cám dỗ đang tấn công Chúa Giêsu lúc đó. Chúa Giêsu không hề muốn chết, Ngài biết Ngài có quyền năng để sử dụng cho việc chinh phục và chiến thắng. Lúc này cuộc chiến đấu với cám dỗ trong sa mặc đang tái diễn. Chính ma quỷ đang cám dỗ Ngài một lần nữa rằng hãy sấp mình xuống để thờ lạy nó, hãy chấp nhận đường lối của nó thay vì đường lối của Thiên Chúa.

Việc cám nói với chúng ta bằng giọng của một người bạn thân thiết là điều hết sức kỳ lạ, lắm khi còn là điều khủng khiếp nữa. Có lẽ chúng ta đã quyết định tiến hành một công việc phải lẽ mà không thể nào tránh được rắc rối, mất mát, bị chê bai và phải hy sinh. Thế rồi đúng lúc đó, có thể một người bạn thân đến với ý định tốt, để cố gắng can ngăn ta. Người bạn nói "hãy nhớ, anh còn vợ và gia đình, anh không nên làm thế". Người bạn làm thế vì rất yêu mến ta, muốn ta tránh chuyện rắc rối để tìm kiếm một nếp sống an toàn. Kẻ cám dỗ không thể tìm kiếm được cách tấn công nào khủng khiếp hơn là tấn công bằng tiếng nói của những người yêu thương chúng ta và chỉ nghĩ đến mưu tìm điều tốt đẹp cho chúng ta. Đó chính là chuyện đã xảy ra cho Chúa Giêsu ngày hôm ấy và cũng chính vì thế mà Ngài đã đáp lại thật nghiêm khắc. Cả đến tiếng van nài của tình thương cũng không thể lấn át tiếng phán cấp thiết của Thiên Chúa.

3.  Bạn nghĩ gì về Đức Kitô

Charles Lamb sống ở nước Anh hai trăm năm trước đây. Suốt 33 năm ông làm một công việc buồn tẻ là thơ ký trong văn phòng hàng hải. Tuy nhiên ông đã thành một nhà văn được tín nhiệm, đặc biệt ông nổi tiếng vì tính hài hước nhẹ nhàng, lòng thông cảm dịu dàng và lòng nhiệt thành hiếm có đối với gia đình và bạn hữu.

Một buổi chiều kia, dăm sáu người bạn tụ họp trong nhà ông Lamb để bàn luận vài đề tài văn chương như: “Chúng ta cảm thấy thế nào nếu chúng ta có thể nói tay đôi với một vài văn sĩ nổi tiếng trên thế giới, họ đã qua đời”. Vài người gợi ý: “Chúng ta sẽ cảm thấy thế nào nếu Dante bước vào trong phòng này. Dante đã viết cuốn “Hài kịch Thánh” về thiên đàng, địa ngục và luyện ngục. Một người khác thêm: “Giả sử Shakespear tham dự với chúng ta đêm nay”. Lamb hô to : “Tôi sẽ giơ tay đầy niềm vui. Đón tiếp một vị vua của các nhà tư tưởng. Hân hạnh biết bao ?” Cuối cùng một người tuyên bố: “Giả sử Đức Kitô vào trong phòng này ?”. Nét mặt Charles Lamb bỗng nghiêm nghị khi ông nói “Dĩ nhiên tất cả chúng ta sẽ quì xuống”. Đó là sự khác biệt giữa đức Kitô và tất cả mọi người đàn ông khác trong lịch sử. Đức Kitô là Thiên Chúa. Mọi người khác chỉ là người.

Trong bài Tin Mừng hôm nay đức Giêsu hỏi các tông đồ “Người ta nói Ta là ai ?”

Chúa chúng ta hỏi chúng ta cùng câu hỏi ấy: “Con nghĩ Ta là ai ?”. Mỗi người chúng ta phải trả lời câu hỏi quan trọng của một thời đại ấy.

Chúng ta cân nhắc những câu trả lời của những người nghĩ Đức Kitô chỉ là một người. Có người diễn tả Đức Kitô như một người chữa bệnh bằng niềm tin, Người chữa mọi thứ bệnh tật, yếu đau. Họ không nói làm sao Chúa chữa được. Chỉ có cách nhận phải nhận Người đã làm được, vì Người là Thiên Chúa. Có người nói Đức Kitô là một người phù thủy. Người khác lại bảo Người là một người theo chủ nghĩa nhân đạo, chú ý đến loài người và có thể giúp cho họ. Có người diễn tả Chúa Giêsu như một nhà tâm lý hoàn hảo, Người hiểu được cái động lực và nghị lực của con người. Nhiều người mô tả Chúa Giêsu như là một nhà kiến tạo hòa bình hoặc yêu thiên nhiên xuất sắc.

Những người cải tạo xã hội nhìn đức Giêsu như một kiểu mẫu lý tưởng. Cả những người cộng sản cũng hướng về Đức Kitô như một nhà lãnh đao cách mạng. Người lao động tin cậy Đức Kitô như lý tưởng con người. Cả những người Hippi cũng cố gắng biện minh lối sống vô trách nhiệm của họ khi nói về Đức Kitô - Đấng đã phán: “Đừng lo lắng về đồ ăn thức uống hoặc áo quần”.

Nhưng hầu hết những người ngưỡng mộ Đức Giêsu như vậy đã nhận rằng Đức Giêsu là Thiên Chúa. Trong số những người đó, bạn đồng ý với nhóm người nào? Trong suy tư và trong cách sống của bạn. Đức Giêsu có thực là Thiên Chúa không?

Như thánh Phêrô, chúng ta phải tuyên xưng đức Giêsu là Thiên Chúa, có Con Thiên Chúa hằng sống.

Tóm lại, Đức Giêsu là Thiên Chúa thật cũng là người thật, đó là trọng tâm của Kinh thánh, là trung tâm của lịch sử, là chủ đề của ngày lễ hôm nay, trong thánh lễ này. Đó là lý do chúng ta quì gối tôn thờ Đấng Chúa ngự trên bàn thờ này – như Lamb và các bạn ông.

Xin Chúa chúc lành bạn.

4.  Thập giá trong đời sống

  Thái độ của Phêrô

Đối với Chúa Giêsu, tâm tình của Phêrô nhiều khi thật mâu thuẫn. Tình trạng mâu thuẫn đó cũng thường có nơi mỗi người chúng ta.

Khi Chúa Giêsu hỏi các Tông đồ : "Còn các con, các con bảo Thầy là ai chỉ có mình Phêrô lên tiếng tuyên xưng Ngài là Đức Kitô. Vì thế ông được Chúa khen và ông cảm thấy thật sung sướng. Nhưng ngay sau đó, khi Chúa Giêsu loan báo cuộc khổ nạn thì cũng lại chính Phêrô đứng ra can ngăn. Bởi vậy lời khen này trở thành lời quở trách : "Hãy xéo đi Satan, ý nghĩ của ngươi là ý nghĩ của loài ngưòi, chứ không phải của Thiên Chúa".

Niềm vui của Phêrô thật ngắn ngửi, vừa chớm nở bỗng xẹp nhanh như trái banh xì hơi.

  Sai lầm của Phêrô

Phêrô đáng trách ở chỗ nào? Ông bị quở trách vì mơ hồ về sứ mệnh cứu thế của Chúa Giêsu. Trong khi sứ mệnh đó có hai mặt thì ông chỉ thấy có một mặt. Ông mơ ước một Đấng Cứu thế vinh quang đầy quyền lực, mong Ngài đến thiết lập một vương triều thịnh vượng ở ngay trần thế này. Và trong vương triều hiển hách đó, các Tông đồ sẽ là những người có đầy thế lực trong tay. Ông không chấp nhận một Đấng Cứu thế bị khinh chê, chịu bách hại. Điều này trái với lương tri và giấc mơ ông vẫn nuôi dưỡng.

Thực ra không phải chỉ có mình Phêrô nghĩ như vậy. Hầu hết mọi người Do Thái đương thời cũng đang chờ đợi một vị cứu tinh trần thế như vậy. Quả thật Thánh kinh có loan báo một Đấng Mêsia vinh quang, đầy quyền lực và một trều đại thịnh vượng. Nhưng đây là triều đại của chân lý và yêu thương trong các tâm hồn chứ không mang tính chính trị. Và sự thịnh vượng đây là sự thịnh vượng tâm linh nhờ ân sung chứ không phải sự thịnh vượng vật chất. Ngoài ra Thánh kinh còn phác họa một khuôn mặt khác của Đấng Cứu thế, nhưng ít người chú ý tới. Ngài là Vua vinh quang, nhưng đồng thời cũng là “Người Tôi Tớ của Giavê" tự nguyện chịu đau khổ và chết vì anh em mình.

Phêrô đã không thấy mặt đau thương của Đấng Cứu thế. Thiên Chúa đã muốn thực hiện công trình cứu độ bằng Thập giá. Sự sống, quyền lực, vinh quang không thế thiếu, nhưng chỉ đến sau đau khổ, tủi nhục, sự chết. Chúa Kitô vinh quang cũng chính là Chúa Kitô chịu khổ nạn Thập giá. Và Thập giá phải đi trước vì là mầm sống của Phục sinh. Hạt giống phải tan nát trước bông lúa mới nẩy sinh sau.

  Cứu độ phải trả bằng giá đắt

Tại sao đau khổ và Thập giá lại cần thiết cho công trình cứu độ?

Có Thập giá ta mới thấy cứu độ là việc nghiêm túc. Có thập giá ta mới thấy rõ hơn tội ta tai hại tới mức nào và lòng Chúa yêu thương ta lớn lao như thế nào. Thập giá có tính thuyết phục cao. Nếu Chúa Giêsu đã sống một cuộc đời vương giả, luôn được suy tôn trọng vọng, chết trên giường nhung lụa, thì cứu độ là một việc quá dễ dàng, ít đáng tin, ít thấy cần. Cứu độ phải trả bằng giá đắt. Phêrô cũng như dân chúng Do Thái đã không nhận ra điều đó.

Ngày nay chúng ta được hiểu chương trình cứu độ của Thiên Chúa rõ hơn. Chúng ta được biết không thế có cứu độ mà lại thiếu Thập giá. Tuy nhiên sự hiểu biết và nhất là thái độ của chúng ta về cứu độ đã hết mâu thuẫn. Chúng ta thấy Thập giá cần thiết trong cuộc đời Chúa Giêsu nhưng lại chưa chấp nhận tầm quan trọng của Thập giá trong cuộc đời của chính chúng ta.

Chúng ta thường chán nản, bực tức, thất vọng mỗi khi gặp nghịch cảnh. Chúng ta thường coi khó khăn, thử thách là trở ngại, bất hạnh chứ chưa thấy chúng là phương thế giáo dục, tôi luyện, thanh tẩy chính mình để góp phần vào công trình cứu độ của Chúa Giêsu. Chúng ta còn đứng ngoài công trình cứu độ, chưa thật sự dấn mình vào trong.

Chỉ khi nào chúng ta chấp nhận Thập giá trong chính cuộc đời chúng ta thì mới kể là người được cứu chuộc và đồng cứu chuộc với Chúa Giêsu.

5.  Từ bỏ

  Nhận ra Đức Giêsu là Kitô

Trước khi Đức Giêsu đặt câu hỏi: "Anh em bảo Thầy là ai?", Ngài đã từng làm nhiều dấu lạ trước mặt các môn đệ. Tại Galilê, Ngài đã hai lần làm cho bánh hoá nhiều để nuôi đám đông dân chúng (Mc 6,30-44; 8,1-10). Ngài đã từng đi trên mặt biển mà đến với các môn đệ (6,45-52). Ngài cũng đã trừ quỷ cho một bé gái (7,24-30), chữa một người câm điếc (7,31-37), và một người mù (8,22-26). Tất cả những việc Ngài làm và những lời Ngài dậy đã từ từ vén mở cho họ thấy Ngài là ai, mặc dù họ thường bị Ngài chê là đần độn và chậm hiểu (7,18; 8,17.21). Đức Giêsu không trực tiếp nói cho các môn đệ biết căn tính của mình. Ngài dẫn họ đi trên con đường để họ tự khám phá ra Ngài. Xê-da-rê Phi-lip-phê là nơi mà Đức Giêsu thấy có thể đặt cho các môn đệ câu hỏi quan trọng này: "Anh em bảo Thầy là ai?" Người ngoài chỉ có một cái nhìn mơ hồ và thiếu sót về Đức Giêsu. Họ coi Ngài là Gioan Tẩy Giả, là ngôn sứ Elia hay một ngôn sứ nào đó. Đức Giêsu chờ đợi một câu trả lời rõ ràng và đầy đủ hơn từ phía các môn đệ thân tín. Phêrô, đại diện cho cả nhóm, nói lên niềm xác tín của mình: "Thầy là Đức Kitô." Phêrô đã nói đúng, nhưng hình ảnh của Phêrô về Đức Kitô vẫn không khác với quan niệm thông thường của đám đông dân chúng: một Đức Kitô oai phong lẫm liệt, không hề biết đến thất bại.

  Đức Kitô: Con Người chịu đau khổ

Dù sao nhờ câu tuyên xưng của Phêrô mà Đức Giêsu bắt đầu nói đến cuộc khổ nạn của Ngài và nói một cách không úp mở. Đây là điều mới mẻ cả về nội dung lẫn hình thức trình bày. Ngài không dùng dụ ngôn nữa, nhưng nói thẳng về định mệnh đang chờ đợi mình. Có người cho rằng lời tiên báo của Đức Giêsu về cuộc Khổ Nạn và Phục Sinh chỉ là lời được viết dựa trên các biến cố đã xảy ra. Thật ra, Đức Giêsu đã thấy những phản ứng chống đối lời giảng dạy của Ngài, Ngài biết mình phải đương đầu với các nhà lãnh đạo Do Thái giáo, và Ngài thấy bóng dáng của cái chết đang rình rập mình. Nhưng Đức Giêsu không thối lui, dù Ngài có thể thối lui. Ngài không đi tìm cái chết, nhưng Ngài muốn tiếp tục trung tín với Cha và phục vụ loài người, dù phải trả giá bằng mạng sống. Đó là sự lựa chọn của Giêsu, lựa chọn của một người có lòng tin. Đức Giêsu tin rằng dù kẻ thù có cướp được sinh mạng của Ngài ở đời này thì Cha cũng chẳng bao giờ bỏ rơi Ngài, chẳng "để cho Ngài phải thấy sự hư nát" (Tv 16,10 bản LXX). Đức Giêsu mang tâm tình của một chứng nhân hiên ngang ra pháp trường.

  Cái chết là giá phải trả để trung tín về một tình yêu.

Lời tiên báo về cuộc Khổ Nạn và Tử Nạn của Đức Giêsu làm cho Phêrô choáng váng. Ông không sao hiểu được những điều khủng khiếp như vậy, bởi ông còn mải mê với một Đức Kitô vinh quang. Ông phản ứng ngay, ông kéo Đức Giêsu lại mà trách Ngài. Chẳng rõ ông đã nói gì với Ngài, nhưng chắc chắn đó là những lời can ngăn đầy tình yêu thương chân thành. Một lời can ngăn như thế thật nguy hiểm. Đức Giêsu nhận thấy đây là một cơn cám dỗ của Satan qua môn đệ Phêrô. Ngài bảo ông: "Satan, hãy lui lại sau Ta". Ngay từ khi gọi Phêrô ở ven hồ Galilê, Đức Giêsu đã cho ông thấy chỗ của ông: "Hãy đi sau Ta". Chỗ đứng của môn đệ là ở sau Thầy. Đức Giêsu muốn đưa Phêrô về đúng chỗ của ông, bởi ông muốn dẫn đường cho Ngài, muốn đi trước Ngài. "Vì anh không nghĩ những điều của Thiên Chúa, mà chỉ nghĩ những điều của loài người." Đức Giêsu thấy rõ đâu là con đường Thiên Chúa muốn mình đi, và đâu là con đường thế gian chờ đợi. Con đường của Thiên Chúa thì vượt trên những tính toán khôn ngoan nhân loại. "Bởi vì sự điên rồ của Thiên Chúa thì khôn ngoan hơn loài người, và sự yếu đuối của Thiên Chúa thì mạnh mẽ hơn loài người." (1C 1,25).

  Thân phận của người môn đệ

Những câu cuối cùng của đoạn Tin Mừng trên đây nhắm vào cả dân chúng lẫn môn đệ. Nói cách khác, nhắm đến mọi Kitô hữu, không phân biệt bậc sống. "Nếu ai muốn đi sau Ta". Đi sau Đức Giêsu là mẫu số chung của mọi Kitô hữu. Từ Đức Giáo Hoàng đến các giáo dân, tất cả đều là môn đệ đi sau Thầy Giêsu, với một lòng tự nguyện. Bất cứ ai muốn thì đều được mời gọi đi theo, mà theo là phải từ bỏ. Các môn đệ đầu tiên đã bỏ chài lưới, bỏ cả thân phụ cùng những người làm công để theo Đức Giêsu. Còn bây giờ, điều Đức Giêsu đòi hỏi thì tận căn hơn nhiều. Không phải chỉ bỏ một vật nào đó, mà là từ bỏ chính mình. Từ bỏ này là gốc rễ của mọi từ bỏ khác.

Từ bỏ chính mình là không còn sống cho chính mình nữa, là vác lấy thập giá của mình mà theo Đức Giêsu. Như thế Đức Giêsu cho chúng ta một hình ảnh về người Kitô hữu. Kitô hữu là người vác thập giá mình đi sau Đức Giêsu vác thập giá. Vác thập giá là công việc dành cho chính tử tội trên đường đến nơi chịu đóng đinh. Có thể chúng ta không được phúc tử đạo, nhưng chắc chắn mỗi Kitô hữu đều được chịu cái chết thiêng liêng, chết cho chính mình để rồi sống cho Thiên Chúa. Con đường Khổ Nạn - Phục Sinh của Đức Giêsu là con đường Phêrô không thể hiểu được và cũng không chấp nhận, nhưng rồi đó cũng sẽ là con đường của ông, và của tất cả chúng ta. "Khi đã về già, anh sẽ giang tay ra và người khác sẽ thắt lưng cho anh và lôi anh đến nơi anh không muốn." (Ga 21,18). Đức Giêsu đã vác thập giá, cái dụng cụ giết người mà cả người Do Thái lẫn Hy Lạp đều coi là nhơ nhuốc. Thập giá của Đức Giêsu là do Ngài gánh lấy tội lỗi của nhân loại. Còn thập giá của chúng ta là do chúng ta lãnh lấy sứ mạng rao giảng Tin Mừng của Đức Giêsu và muốn làm chứng cho Ngài. Chúng ta chấp nhận liều mất mạng sống mình vì Đức Kitô và vì Tin Mừng (c.35).

Từ bỏ chính mình là điều kiện tiên quyết, nếu không thì việc gánh vác sứ mạng của Đức Giêsu sẽ chỉ là một ảo tưởng chẳng đi tới đâu. Ngay cả người đã theo Chúa cũng bị cám dỗ vì chính lòng tận tụy trung tín của mình. Điều này đã xảy ra nơi các môn đệ. Sau khi họ đã bỏ cha mẹ, vợ con, nghề nghiệp, tài sản… để theo Chúa, họ chợt thấy mình trở nên quan trọng. Cái tôi có nguy cơ lớn lên song song với lòng quảng đại hiến thân của họ. Nhóm Mười Hai bắt đầu tranh luận với nhau xem ai là người lớn nhất trong Nhóm (Mc 9,33). Vậy trở ngại đầu tiên và cuối cùng vẫn là cái tôi. Từ bỏ cái tôi là nỗ lực liên tục của mọi Kitô hữu, dù là tu sĩ hay giáo dân, già hay trẻ, trí thức hay ít học

Thanh tẩy tội lỗi của mình nhờ ơn Chúa giúp, là điều không khó lắm. Nhưng thật là khó khi phải thanh tẩy mình khỏi những nhân đức và biết bao công trạng mình đã lập được. Với ơn Chúa, chúng ta có thể làm được điều khó khăn này.

Top