Suy niệm Lời Chúa: Chúa Nhật 21 Thường Niên B

Suy niệm Lời Chúa: Chúa Nhật 21 Thường Niên B

Lời Chúa: Gs. 24,1-2a.15-17.18b; Ep. 5,21-32; Ga. 6,54a.60-69

 

Mục Lục
1.  Các con có muốn bỏ đi không
2.  Sự chọn lựa
3.  Thầy có những lời ban sự sống đời đời
4.  Hãy làm điều bạn có thể

 

 

 


1. Các con có muốn bỏ đi không

  A. Hạt giống...

Kết quả của bài giảng về Thánh Thể:

- Nhiều người cho là chói tai, bỏ đi, trong số đó có cả các môn đệ: “Từ hôm đó, có nhiều môn đệ rút lui không theo Ngài nữa.”

- Chúa Giêsu hỏi nhóm 12, Phêrô thay mặt nhóm tuyên xưng “Lạy thầy, chúng con sẽ đi theo ai. Thầy mới có những lời ban sữ sống đời đời”

  B...nẩy mầm.

  1. Hành trình theo Chúa không luôn êm ả. Một ngày nào đó, có thể Lời Chúa làm chúng ta cảm thấy chói tai, nhất là khi Lời Chúa buộc ta phải thực hiện một sự lựa chọn khó khăn. Tin đòi phải kiên trì.

Chúa ơi!

Có những ngày con cảm thấy Lời Chúa rất ngọt ngào êm ái và bình an. Khi đó con rất dễ dàng đáp lại Lời Chúa. Nhưng cũng có những ngày khác con thấy Lời Chúa thật chói tai, con không muốn chấp nhận, con còn rút lui. Nhưng xin cho con hiểu rằng Lời Chúa- và chỉ có Lời Chúa- mới là lời chân thật và mới đem lại cho con sự sống thật. Xin cho con đừng bao giờ rút lui vì “Lạy thầy, con sẽ đi theo ai? Thầy mới có những lời ban sự sống đời đời”.

   2. Tôi đã được sinh ra và lớn lên, được nuôi dưỡng bằng lời của cha mẹ, thầy cô, bạn bè. Hơn nữa, là người Kitô hữu, tôi còn sống nhờ một lời đặc biệt: Đó là Lời Chúa.

Đức Giêsu ngỏ lời với tôi qua chính cuộc đời của Ngài. Ngài đã mặc khải cho tôi biết Cha đã giới thiệu tôi với Người. Sự đốt phá của Ngài vào sư sống đời đời mở ra cuộc sống mới cho đến vô hạn.

Hôm nay, tôi có dám khẳng định với Chúa như Phêrô không? Ông đã sống với Chúa và Tin vào Lời Ngài, đặc biệt qua những lần bị vấp ngã.
Lời Chúa Giêsu xin cho con biết tin vào sự linh nghiệm của Lời Chúa, để dám sống theo Lời Ngài dạy bảo. (Epphata)

  3. Trong vườn, một gốc nho héo úa giữa bao cây xanh tươi mơn mởn. Tưới bao nhiêu phân cũng chẳng thấy khá hơn. Cuối cùng, người chủ đào gốc lên xem, thì thấy có miếng gỗ nằm chắn ngang gốc nho.

Có lẽ đời ta cũng vậy. Nếu không đâm rễ sâu vào lòng đất là Lời Chúa, đời ta cũng tàn úa.(Góp nhặt)


2. Sự chọn lựa

Chúng ta không ngạc nhiên mấy khi thấy các môn đệ cho rằng bài giảng của Chúa Giêsu thật khó lãnh hội. Từ ngữ Hilạp skleros không phải là khó hiểu nhưng có nghĩa là khó chấp nhận. Các môn đệ biết rất rõ là Chúa Giêsu tự xưng là sự sống từ Thiên Chúa giáng hạ chẳng ai có thể sống hay đối diện với cõi đời đời nếu không tin nhận và đầu phục Ngài.

Đến đây chúng ta gặp một chân lý nổi bật vào mọi thời đại. nhiều khi người ta khước từ Chúa Cứu Thế vì không đáp ứng được tiêu chuẩn đạo đức mà Ngài đòi hỏi, chứ chẳng phải vì không bết Ngài. Khi thành thật suy nghĩ về vấn đề này, chúng ta bắt buộc nhìn nhận tại tâm điểm của mọi tôn giáo đều phải có huyền nhiệm, lý do đơn giản vì ở trung tâm của mọi tôn giáo đều có Thiên Chúa. Theo bản tính chung của mọi sự vật, tân trí loài người chẳng bao giờ hiểu được đầy đủ, trọn vẹn về Thiên Chúa. Bất cứ một nhà tư tưởng chân chính nào cũng phải chấp nhận huyền nhiệm.

Chỗ khó thật sự của Kitô giáo gồm hai phương diện. Nó đòi hỏi một hành động đầu phục Chúa Giêsu, nận Ngài là quyền uy tối hậu, và nó cũng đòi hỏi một tiêu chuẩn đạo đức cao nhất. Các môn đệ vốn hiểu rất rõ rằng Chúa Giêsu tự xưng chính Ngài là sự sống, là thần trí của Thiên Chúa xuống thế gian. Cái khó của họ là chấp nhận điều đó là đúng, luôn với tất cả những gì hàm ngụ trong đó. Mãi đến nay nhiều người vẫn khước từ Chúa Cứu Thế, không phải vì trí tuệ họ không hiệu nổi, nhưng vì không theo nổi tiêu chuẩn sống của Ngài.

Cho nên Chúa Giêsu tiếp tục- không nhằm cố gắng chứng minh cho lời tự xưng của Ngài- mà để vạch rõ rằng sẽ có ngày các biến cố xảy ra chứng minh điều đó. Ngài nói “các ngươi thấy khó tin Ta là bánh, là phần thiết yếu cho sự sống, từ trời xuống. Rồi các ngươi không còn thấy khó tin nữa, khi chứng kiến Ta trở lên trời”. Đây là lời báo trước sự thăng thiêng. Điều đó có ý nghĩa rằng sự phục sinh bảo đảm cho tất cả các lời tuyên bố của Ngài. Chúa Giêsu không phải là người sống cao quí và cet dũng cảm cho một chính nghĩa bị thất bại. Ngài là Đấng mà những lời tự xưng được ứng nghiệm bởi sự kiện Ngài chết rồi sống lại.

Chúa Giêsu tiếp tục dạy rằng điều tối quan trọng là quyền ban sự sống bởi Chúa Thánh Linh, xác thịt chẳng ích lợi gì cả. Thật đơn giản để hiểu phần nào ý nghĩa của nó- điều quan trọng hơn hết, ấy là phần tinh thần ở trong mọi hành động. Giá trị của bất cứ vật gì tùy thuộc vào mục đích của nó. Nếu chỉ ăn để mà ăn thì chúng ta trở thành kẻ tham ăn như thế có hại hơn có lợi; nếu chúng ta ăn để bảo tồn sự sống, để làm việc tốt hơn, để giúp thân thể thích ứng với điểm cao nhất của nó thì thức ăn mới có ý nghĩa đích thực. Nếu một người chỉ dành thời giờ để chơi thể thao chỉ vì thể thao mà thôi, thì trong phạm vi nào đó anh đã phí phạm thời giờ của mình. Nhưng nếu người ấy chơi thể thao để thân thể được tráng kiện, do đó, có thể phục vụ Thiên Chúa và loài người đắc lực hơn thì thể thao lại trở thành quan trọng. Mọi điều liên hệ tới xác thịt có giá trị hay không tùy thuộc vào tinh thần nó được thực hiện.

Chúa Giêsu tiếp tục “Lời Ta là thần linh (tinh thần) và sự sống”. Chỉ một mình Chúa Cứu Thế cho chúng ta biết sự sống là gì, đặt trong chúng ta phần tinh thần hướng dẫn cuộc sống đời mình, và ban cho chúng ta năng lực để sống cuộc đời ấy. Sự sống có giá trị hay không tùy theo chủ đích, chủ đích thực của đời sống, và cũng chỉ một mình Ngài ban cho chúng ta năng lực để thực hiện mục đích ấy, chống lại những nghịch cảnh bên ngoài và bên trong sẽ đến với mình.
Nhưng Chúa Giêsu biết rất rõ nhiều người không chỉ khước tử xuông lời đề nghị của Ngài mà cón chối bỏ với lòng đối kỵ, thù ghét nữa. Không ai có thể tin nhận Chúa Giêsu trừ phi được Thánh Thần tác động để làm như vậy, nhưng con người cũng có thể chống lại Thiên Thần cho đến ngày cuối cùng. Một người như thế không phải bị Thiên Chúa loại bỏ ra, nhưng chính người ấy tự loại bỏ mình ra.

Đoạn này được viết theo linh tính về thảm họa sắp xảy ra, vì đây là phần bắt đầu của giai đoạn cuối cùng. Nhiều người kéo đến theo Chúa Giêsu, lúc Ngài dự Lễ Vượt Qua tại Giê-ru-sa-lem, họ đã thấy các phép lạ Ngài làm và tin danh Ngài, số người đến chịu các môn đệ làm phép rửa không kể xiết (2,23; 4,1-3). Tại Samari nhiều việc lớn đã xảy ra (4, 1.39.45). Tại Galilê, mới ngày hôm trước dân chúng hãy còn theo Ngài rất đông (6,2), nhưng bây giờ giọng mô tả đã thay đổi. Từ nay trở đi , sự oán ghét sẽ càng chồng chất cho đến khi đạt đến tột đỉnh là thập giá. Thánh kí Gioan đã hé mở màn cuối của tấm thảm kịch. Chính trong những hoàn cảnh như thế, người ta mới thấy rõ lòng người và bộ mặt thật của họ. Và trong những hoàn cảnh như thế, đã có ba thái độ khác nhau đối với Chúa Giêsu.

Có sự bỏ cuộc:

Nhiều người quay lưng lại, không đi theo Ngài nữa, họ bỏ đi vì nhiều lý do. Một số người trong số họ đã thấy rõ Chúa Giêsu đang đi về đâu. Không thể thách thức giới cầm quyền như Ngài đã làm mà có thể tránh khỏi hậu họa. Chúa Giêsu đang đi vào thảm họa và họ đã rút lui kịp thời, họ là hạng người tùy thời. Người ta bảo muốn thử một đạo quân hãy xem cách đạo quân ấy đánh giặc khi mọi người đều mệt mỏi. Nến sự nghiệp của Chúa Giêsu cứ đi lên, chắc những người kia chưa quay lui, nhưng ngay khi nhìn thấy bóng thập giá họ đã bỏ Ngài. Có một số người khác bỏ Chúa vì muốn trốn tránh thách thức của Ngài. quan điểm cơ bản phải mất một chút gì đó cho Ngài là họ bỏ đi ngay.

Nếu theo Ngài là thơ mộng huy hoàng, chắc họ bám sát Ngài, nhưng khi đường đi trở thành khó khăn, theo Ngài đòi hỏi một số điều khó làm thì họ bỏ Ngài. Việc họ tìm thầy học đạo hoàn toàn đều do những động lực ích kỷ. Thật ra chẳng có ai ban cho chúng ta nhiều hơn Chúa Giêsu. nhưng nếu chúng ta chỉ đến với Ngài nhằm mục đích thu vào chứ chẳng cho ra, chắc chắn chúng ta phải trở lui. Những ai muốn theo Chúa Giêsu phải nhớ đường theo Ngài là thập giá.

Có sự suy thoái.

Chúng ta thất điều này nơi Giuđa rõ ràng nhất. Chúa Giêsu đã thấy ông là người có thể dùng cho mục đích của Ngài. Nhưng thay vì trở thành anh hùng, Giuđa lại trở thành tên vô lại, và người đáng lẽ là thánh lại thành quỉ. Câu chuyện của họa sỹ vẽ bức tranh Bữa Tiệc Ly là một kinh nghiệm đáng sợ. Đó là một bức tranh khổng lồ, đòi hỏi họa sỹ phải mất nhiều năm để vẽ. Tìm một người mẫu để vẽ Chúa Giêsu, ông gặp một thanh niên có khuông mặt đẹp đẽ, thuần khiết và siêu thoát, ông thuê chàng làm người mẫu. Bức tranh cứ thế được bổ túc, ông cứ vẽ hết môn đệ này đến môn đệ khác, một ngày kia ông cần một người để vẽ Giuđa mà ông đã dành lại để vẽ sau cùng. Ong đi ra tìm trong số người hèn hạ nhất trong thành phố. Cuối cùng ông gặp được một người, bộ mặt in hằn dấu vét của một kẻ trụy lạc vô cùng xấu xa. Ông thuê người ấy làm mẫu. Khi bức tranh hoàn tất, người mẫu nói với họa sỹ "trước đây đã có lần ông vẽ tôi rồi". Họa sỹ đáp: "chắc chắn là không". Người nọ bảo: “Ồ có chứ, lần trước ông vẽ tôi, ông đã dùng tôi làm mẫu để vẽ Chúa Giêsu đấy”. Năm tháng đã tạo nên sự suy thoái khủng khiếp. Thời giai thật bạo tàn có thể cướp đi những lý tưởng, những hăng say, những mơ ước và sự trung thành của chúng ta , có thể để lại nơi chúng ta một đời sống ngày càng nhỏ nhoi thay vì càng cao đẹp. Nó có lưu lại cho chúng ta một tấm lòng chai lỳ thay vì được mở rộng trong tình yêu thương của Thiên Chúa. Cuộc đời có thể làm mất đi vẻ đẹp của chúng ta. Nguyện Chúa cứu chúng ta khỏi tình trạng đó.

Có sự quyết định.

Đây là cách Gioan viết lại lời tuyên xưng của Phêrô tại Xêzarê. Chính trong một hoàn cảnh như thế, người ta đã thấy lòng trung thành của Phêrô. Đối với Phêrô, có một điều thật đơn giản, ấy là chẳng có ai đáng cho ông đi theo hơn là Chúa Giêsu. Với ông chỉ có Ngài mới có lời của sự sống đời đời.

Lòng trung thành của Phêrô được căn cứ trên mối liên hệ cá nhân với Chúa Giêsu. Có nhiều điều Phêrô không hiểu. Ông cũng bối rối lạc lõng như bất cứ ai khác, nhưng nơi Chúa Giêsu có một cái gì khiến ông sẵng sàng hy sinh tính mạng. Nói cho cùng, Kitô giáo không phải là một triết lý mà chúng ta phải chấp nhận hay một lý thuyết buộc chúng ta phải trung thành. Nó là sự đáp ứng cá nhân với Chúa Giêsu. Đó là lòng trung thành và tình yêu mà một người hiến dâng, vì tấm lòng ấy không cho phép làm gì khác hơn được.

3. Thầy có những lời ban sự sống đời đời

  1. Khi mọi người đã bỏ đi, Đức Giêsu lại đặt một câu hỏi hết sức quyết liệt.

Ở Caphacnaum, diễn từ về bánh hằng sống kết thúc bằng sự khủng hoảng công khai. Sau "người Do thái" là những người đầu tiên bỏ đi, đến lượt "nhiều môn đệ" của Đức Giêsu xầm xì và đả kích Ngài giống như con cái Israel trong thời kỳ băng qua sa mạc (vào đất hứa). Họ nói: "Lời này chướng tai quá, ai mà tiếp tục nghe nổi?"
Không làm dịu bớt bầu không khí căng thẳng, Đức Giêsu còn đặt ra cho những người nghe mình một câu khó trả lời. Sau khi đã loan báo cái chết của mình là nguồn mạch sự sống cho thế gian, bây giờ Ngài đề cập đến việc Ngài trở về với Cha. Ngài nói vói họ: "Điều đó, anh em lấy làm chướng, không chấp nhận được ư? thế anh em thấy Con người lên nơi đã ở trước kia thì sao?

Lần này thì quá lắm rồi! tác giả Tin Mừng viết tiếp: "Từ lúc đó, rất nhiều môn đệ rút lui, không còn đi với Ngài nữa".
Chính lúc đó mà hầu như mọi người bỏ rơi mình, Đức Giêsu quay sang "nhóm mười hai" (hạt nhân của một dân mới) là tên mà Tin Mừng thứ bốn gọi lần đầu tiên. Ngài nói với họ, thúc ép họ phải có một chọn lựa dứt khoát: hoặc bỏ đi, hoặc ở lại theo Ngài cho tới lễ vượt qua của Ngài, như Ngài đã hỏi họ tại miền Cêsarê Philipphê (Mt 16,15; Mc 6,14-15; Lc9,7-8):"Cả anh em nữa, anh em cũng muốn bỏ đi sao?".

  2. ...Và lời tuyên xưng đức tin của Simon-Phêrô:

Simon-Phêrô nhân danh "nhóm mười hai" (ông xưng hô ở ngôi nhất số nhiều) tuyên bố sự gắn bó của các ông với Đức Giêsu: "Lạy Thầy, bỏ Thầy chúng con biết theo ai? Thầy mới có những lời ban sự sống đời đời. Phần chúng con, chúng con tin và biết rằng chính Thầy là Đấng của Thiên Chúa".

Thánh Phêrô bắt đầu:"Chúng con biết đi với ai?". Tác giả Tin Mừng đặt trên môi Phêrô động từ "đi" là động từ đã được dùng trước đó để chỉ sự "rất nhiều môn đệ" bỏ rơi Thầy. Rõ ràng ngược lại với đám đông môn đệ đó, "nhóm mười hai" đã dấn thân theo Thầy.

Chính việc mạnh mẽ tuyên xưng đức tin đã làm tan biến mọi do dự; tuyên xưng đức tin không phải là gắn bó với những chân lý trừu tượng, nhưng với con người Đức Giêsu: "Thầy có... Thầy là...". X.Léon Dufour chú giải: Lời tuyên xưng đức tin của "Phêrô vọng lại điều Đức Giêsu vừa khai mạc: lời Ngài là "sự sống đời đời". Phêrô mặc nhiên hoàn toàn chấp nhận tất cả nội dung của diễn từ mà các môn đệ khác xét là không thể chấp nhận được. Chắc chắn theo tình hình câu chuyện được kể lại trong Tin Mừng, Ông vẫn chưa hiểu hết ý nghĩa trọn vẹn những lời Đức Giêsu, nhưng ông đã tin tưởng vào những điều chính yếu nhất, đó là sứ điệp của Chúa Giêsu đem lại sự sống đời đời". ("Lectere de l'Evangile selon Jean", tập 2, Seuil, trang 188).

Và trong lời tuyên xưng đức tin, Phêrô đã dành cho Đức Giêsu một danh hiệu chưa từng có: "Thầy là Đấng Thánh của Thiên Chúa", nghiã là Đấng mang trong mình một cái gì đó Thánh thiện của chính Thiên Chúa.

X.Léon Dufour đặt câu hỏi: "Đấng Thánh của Thiên Chúa nói lên điều gì? Đây là một tên gọi hãn nữu, khó giải thích. Phêrô không dùng lại một tên nào mà Đức Giêsu đã sử dụng trong diễn từ để chỉ chính Ngài (Con, Bánh Trường Sinh, Đấng thiên sai, Con người); thậm chí ông cũng không dùng một danh hiệu truyền thống nào về sự mong đợi Đấng cứu thế trong đạo Do thái... Điều đặt biệt nơi đây là Phêrô đã diễn tả Đức Giêsu là ai theo cách riêng của ông. Phải chăng ông lập lại danh hiệu này theo thánh vịnh 16, trong đó có nói đến danh hiệu "Đấng Thánh của Ngài" theo bản dịch Bảy mươi? (xem tông đồ công vụ 2,27) Thánh vịnh này ca tụng tình thân mật sâu xa giữa Thiên Chúa và người cầu nguyện; phải chăng Phêrô cũng muốn nói đến tình thân mật sâu xa giữa Đức Giêsu với Thiên Chúa? Đức Giêsu đã công bố sự kết hợp giữa Ngài với Đức Chúa Cha (5,19-30), sau đó, Ngài còn loan báo mình đã được "Thiên Chúa thánh hiến" (10,6; 17,19). Danh hiệu "Đấng thánh của Thiên Chúa" cao vượt hơn danh hiệu "Thiên sai" rất nhiều và thích hợp với danh hiệu "Con Thiên Chúa" mà Simon-Phêrô tuyên xưng trong Thánh Mátthêu 16,16". (Sách đã dẫn, trang 189)

Trong cơn khủng hoảng Giáo hội phải đương đầu, Các Kitô hữu ngày nay cũng đang đứng trước câu hỏi cốt yếu xưa kia Đức Giêsu đã đặt ra cho các môn đệ Ngài: câu hỏi về căn tích Con người của Ngài, về sứ vụ của Ngài và về sứ vụ của Giáo hội. Dựa trên đức tin của Phêrô và nhóm mười hai, chúng ta có cương quyết chọn đi theo Đức Giêsu để trở nên nhân chứng cho Tin Mừng mà Thế giới đang mong đợi không?

4. Hãy làm điều bạn có thể

John là một người thanh niên, chàng lần lần rời xa Giáo hội. Chàng không đi lễ nữa, không chịu các bí tích. Trong thế chiến thứ hai, khi chàng đăng ký nhập ngũ, sự lo lắng của mẹ chàng tăng thêm: nếu chàng bị chết thì sao ? Linh hồn chàng sẽ ra sao ? Khi chàng chuẩn bị lên đường mẹ chàng nói với chàng: “John ơi, mẹ muốn con làm cho mẹ một việc”. John hỏi: “Cái gì đó, Mẹ?”

“Mẹ muốn con đọc ít nhất mỗi ngày 1 lần kinh Kính mừng. Hãy đọc, bất kể con bận hay con mệt tới mức nào.” Một chút do dự, John hứa.
Trải qua năm, tháng những bức thư của John thưa dần. Một ngày kia một bức thư của cha tuyên úy cho hay John bị thương nặng và chàng đã xin chịu các phép bí tích. May mắn, John bình phục. Trong bức thư đầu về nhà, chàng viết: “Mẹ ơi, cám ơn mẹ đã bảo con làm lời hứa ấy. Con đã giữ. Mỗi lần có dịp con đi lễ và rước lễ”.
Mỗi vị linh mục đều nghe những câu chuyện như thế. Nó làm tôi nghĩ ngay: dẫu một linh hồn trôi dạt xa Chúa bao nhiêu. Nếu họ giữ một liên hệ nào đó với Chúa dù chỉ một kinh Kính mừng một ngày, có hy vọng và có cơ may linh hồn ấy sẽ tìm đường trở vê với Chúa.

Như rất nhiều người công giáo ngày nay, John đã bắt chước những người môn đệ trong Tin Mừng hôm nay: họ không đến với Chúa nữa. Những môn để ấy từ chối tin rằng: đức Kitô có thể lấy thịt sống của riêng Ngài cho họ ăn, máu Ngài cho họ uống. Dẫu rằng: họ đã thấy với 5 chiếc bánh và hai con cá, đức Giêsu đã làm cho 5000 người ăn no và họ đã thấy Người đi trên mặt nước.

Hầu hết những lý do người công giáo xa lìa công giáo có liên quan đến điều này. Thí dụ: “Thánh lễ không liên hệ tới tôi”. Họ muốn nói thánh lễ không cho họ một rung động thể lý hay xúc cảm. Họ làm gì thay vào đó ? Không làm gì cả. Kinh nghiện cho thấy những người như vậy thường không đọc lấy một kinh, điều đó không lạ. Họ phải nói điều các tông đồ đã nói với Chúa Giêsu: “Chúng con biết theo ai ?” Điều này áp dụng đặc biệt cho người công giáo hơn người ngoài Giáo hội, và họ không thể lãnh các bí tích. Hầu hết mọi nơi, ho chẳng làm gì cả.

Quan điểm của tôi là người ta phải làm cái gì họ có thể làm được, điều này đem lại sự nâng đỡ và ơn của Chúa.
Đây là mấy đề nghị: “Hãy đọc kinh “Lạy Cha”, kinh “Kính Mừng”. Hãy cầu nguyện bằng ngôn ngữ của riêng bạn như: “Lạy Chúa, xin giúp con làm mọi cái con có thể, để làm vui lòng Chúa.”

Bạn để ý cho con em của bạn để chỉ dạy về tôn giáo. Chính bạn phải dạy chúng. Hãy tham gia công việc của họ đạo. Bố thí cho người nghèo, người thúng thiếu. Hãy giữ luật Chúa, những luật bạn có thể giữ được.

Rất thường xẩy ra là một người công giáo, khi họ nghĩ họ không thể giữ lấy một giới răn nào đó của Chúa, họ sẽ gác bỏ tất cả mọi giới răn của Chúa qua một bên.
Bạn hãy làm những gì bạn có thể làm được, nhất là cố gắng tham dự thánh lễ mỗi ngày Chúa nhật, nếu bạn không thể rước lễ, bạn hãy rước lễ thiêng liêng. Nghĩa là bạn hãy thưa với Chúa Giêsu rằng: bạn muốn rước Người vào trái tim bạn. Hãy thưa với Người rằng: bạn hối hận vì tội lỗi của bạn, bạn ước ao Người đến với bạn một cách thiêng liêng. Bạn đón tiếp Người.

John trong câu chuyện chỉ tìm làm một việc rất nhỏ là đọc mỗi ngày một kinh kính Mừng. Chúa đã thương anh. Bạn hãy làm những gì bạn có thể làm được. Chúa sẽ thương bạn.

Xin Chúa chúc lành bạn.


 

Top