Suy niệm Lời Chúa: Chúa Nhật 20 Thường Niên B

Các bài suy niệm CHÚA NHẬT 20 THƯỜNG NIÊN - B
Lời Chúa: Cn 9,1-6; Ep 5, 15-20; Ga 6, 51-59
MỤC LỤC
1. Ăn uống chính Chúa
2. Bánh hằng sống từ trời xuống
3. Bánh trường sinh
4. Tạ ơn trong mọi lúc
A. Hạt giống...
Tiếp tục bài giảng sau phép lạ hóa bánh ra nhiều. Chúa Giêsu hướng thính giả về Bí tích Thánh Thể: Ngài nói rõ hơn về bánh ban sự sống, đó là Thịt và Máu Ngài: “Ai ăn Thịt ta và uống Máu Ta thì có sự sống đời đời”.
- Ở cuối đoạn tuần trước. Chúa Giêsu đã nói rõ: “Bánh Ta sẽ ban chính là Thịt Ta đây” (câu 51).
- Câu đó đã khiến những người do thái tranh luận với nhau. Sở dĩ họ tranh luận vì trong họ có nhiều người theo nghĩa đen (ăn Thịt sống của Chúa Giêsu), có người hiểu theo nghĩa bóng (tin vào Ngài).
- Phần Chúa Giêsu, Ngài muốn hiểu theo nghĩa nào? Thưa theo nghĩa đen. Bởi đó Chúa Giêsu dùng những động từ rất mạnh và cụ thể. Động từ “ăn” nguyên gốc là Trôgô nghĩa là “nhai”, lấy răng mà nhai một thức ăn nào đó. Và động từ Trôgô này được lập đi lập lại nhiếu lần (các câu 53-54). Tới câu 55 Ngài tuyên bố dứt khoát “Thịt Ta thật là của ăn, Máu Ta thật là của uống”.
- Như thế là Chúa Giêsu nói tới bí Tích Thánh Thể, trong đó Ngài ban chính thịt và máu Ngài làm của ăn uống cho loài người.
- Hiệu qủa của việc rước lễ: “Ai ăn thịt Ta và uống máu Ta thì có sự sống đời đời… thì ở trong Ta và Ta ở trong người ấy”.
B...nẩy mầm.
1. Đến đoạn Tin mừng này, Chúa Giêsu nói rõ ràng về bí tích Thánh Thể và khuyên tín hữu cần lãnh nhận Thịt và Máu Ngài, nhờ đó Ngài ở trong họ, họ ở trong Ngài và có được sự sống đời đời.
Thánh lễ quả là dịp rất qúy giá để chúng ta ăn uống Chúa, nhờ đó được ở trong Ngài và chia sẻ sự sống thần linh của Ngài. Thế nhưng các lễ nghi thánh lễ vẫn cứ lặp đi lặp lại hầu như ngày nay cũng như ngày khác. Điều đó khiến chúng ta quá quen đến nỗi không còn chú ý. Việc rước lễ cũng thế, có nhiều ngày nó chỉ là một một động tác theo thói quen không còn chút ý thức.
Thỉnh thoảng ta cần phải làm sống laị ý thức khi tham dự thánh lễ và rước lễ.
2. “Xin Chúa tha thứ cho những lần chúng con đã thờ ơ lãnh đạm hoặc không chuẩn bị tâm hồn cho xứng đáng để đón nhận Chúa” (“mỗi ngày một niềm vui”)
3. Khi Mẹ Têrêsa Calcutta sang Liên xô xin lập một chi nhánh của dòng bà, bà đã kiên trì xin cho bằng được có một Linh mục để mỗi ngày dâng Thánh lễ cho các nữ tu. Bà giải thích lý do: sở dĩ các nữ tu có đẻ tinh thần và nghị lực để mỗi ngày đem đến cho những người nghèo khổ sự an ủi, phục vụ và yêu thương, đó là nhờ Mình Thánh Chúa mà họ rước mỗi ngày. “Thịt Ta thật là của ăn và Máu Ta thật là của uống”.
4. “ Thịt Ta thật là của ăn và Máu Ta thật là của uống”.
Hằng đêm, mỗi khi thành phố lên đèn, mọi người hối hả trở về công sở, trường học…
Bên vệ đường, một bà lão khô quắt, nằm cong queo như cố thu mình trốn cái không khí se lạnh. Bà kiệt sức vì đói. Những bước chân vẫn đi qua, đi qua…
Và rồi, đôi chân con bước tới, ngập ngừng… rồi lại bước đi.
Trên tivi, người ta nói đến lũ lụt. Cảm động, con dự định… rồi lại thôi!
Con là thế! Từ thuở lọt lòng mẹ, đã biết nắm tay lại.
Lạy Chúa, trên thánh giá Ngài đã giang rộng đôi tay và khi phục sinh, Ngài đã trở nên tấm bánh bẻ ra cho nhân loại được sống.
Xin cho con luôn biết cho đi, cho đi mãi, không chỉ vật chất, nhưng cho cả bản thân. (Epphata)
2. Bánh hằng sống từ trời xuống
Tôi là bánh hằng sống từ trời xuống. Ai ăn bánh này, sẽ được sống muôn đời. Và bánh tôi sẽ ban tặng, chính là thịt tôi đây, để cho thế gian được sống." Người Do-thái liền tranh luận sôi nổi với nhau. Họ nói: "Làm sao ông này có thể cho chúng ta ăn thịt ông ta được?" Đức Giê-su nói với họ: "Thật, tôi bảo thật các ông: nếu các ông không ăn thịt và uống máu Con Người, các ông không co sự sống nơi mình. Ai ăn thịt và uống máu tôi, thì được sống muôn đời, và tôi sẽ cho người ấy sống lại vào ngày sau hết, vì thịt tôi thật là của ăn, và máu tôi thật là của uống. Ai ăn thịt và uống máu tôi, thì ở lại trong tôi, và tôi ở lại trong người ấy. Như Chúa Cha là Đấng hằng sống đã sai tôi, và tôi sống nhờ Chúa Cha thế nào, thì kẻ ăn tôi, cũng sẽ nhờ tôi mà được sống như vậy. Đây là bánh từ trời xuống, không phải như bánh tổ tiên các ông đã ăn, và họ đã chết. Ai ăn bánh này, sẽ được sống muôn đời." Đó là những điều Đức Giê-su đã nói khi giảng dạy trong hội đường, ở Ca-phác-na-um.
Đối với phần đông chúng ta, phân đoạn Thánh kinh này thật khó hiểu. Nó được phát biểu bằng một ngôn ngữ trong một thế giới của tư tưởng hoàn toàn xa lạ với chúng ta, có thể là quái dị và thô kệch nữa. Nhưng chúng ta phải nhớ điều này, với thế giới thời cổ, nó vốn vận hành giữa những tư tưởng quen thuộc, những ý niệm từ thời ấu trĩ của loài người.
Các ý niệm trong đoạn văn này vẫn hoàn toàn bình thường đối với bất cứ ai từng được sinh trưởng trong việc dâng tế lễ đời xưa.
Ngày xưa, khi dâng sinh tế, con vật ít khi được thiêu hủy trọn vẹn, thường chỉ được thiêu một phần tượng trưng nơi bàn thờ, tuy toàn thể con vật được dâng lên cho vị thần. Một phần thịt được chia cho các thầy tế lễ kể như thù lao của họ, một phần khác được chia lại cho người dâng tế lễ, để người ấy tổ chức bữa tiệc thiết đãi bạn bè mình ngay trong khuôn viên đề thờ. Trong bữa tiệc ấy vị thần cũng được xem như một vị khách. Hơn nữa, khi thịt đã dâng cho thần rồi, người ta cho rằng thần đã nhập vào đó, nên khi người ta ăn thịt ấy, là ăn chính vị thần của mình. Ta có thể nghĩ đó là cách thờ tượng, là ảo tưởng viễn vông, nhưng với một số người tin vào những từng trải sống động như đã nói trên thì đoạn sách này chẳng có gì khó hiểu cả.
Hơn thế nữa, trong thế giới thời ấy, hình thức tôn giáo sống động hơn hết là tôn giáo thần bí. Một điều đáng nói mà các tôn giáo thần bí ấy cung ứng được, là sự hiệp thông và ngay đến sự đồng hóa với một vị thần nào đó. Cách thức thực hiện việc đó như sau. Tất cả các tôn giáo thần bí chủ yếu đều là những vở kịch đam mê. Có nhiều chuyện kể về một vài vị thần đã sống và chịu đau khổ khủng khiếp, đã chết rồi sống lại. Câu chuyện được dựng nên thành một vở kịch cảm động, nhưng trước khi được xem vở kịch ấy, kẻ dự tòng phải qua một lớp tập huấn lâu dài về ý nghĩa tiềm ẩn sau câu chuyện. Người ấy phải trải qua đủ thứ nghi lễ thanh tẩy, phải trải qua một thời gian dài kiêng cữ mọi liên hệ tình dục. Khi vở kịch về đam mê được trình diễn, thì mọi sự đều được dàn xếp nhằm tạo bầu không khí dễ gây cảm xúc cao độ, người ta tính toán rất kỹ mức độ ánh sáng, có mùi trầm hương kích thích, có nhạc kích động, có kinh kệ kỳ bí, mọi sự đều nhằm cho người mới nhập đạo một cảm xúc và khát vọng cao độ mà người ấy chưa từng biết trước đó. Nếu muốn, chúng ta có thể gọi đó là ảo giác, là sự kết hợp giữa thôi miên và tự kỷ ám thị- thái độ chờ đợi một cái gì xảy ra. Và điều xảy ra đó là được đồng hoá với vị thần. Khi người mới nhập giáo đã được chuẩn bị sẵn sàng xem diễn vở kịch, thì người ấy trở thành một với vị thần, người ấy chia sẽ những lo âu, đau khổ, sự chết và sự sống lại. người với vị thần vĩnh viễn trở thành một, do đó, người ấy sẽ được an toàn khi còn sống cũng như lúc đã chết.
Chúng ta cần nghĩ rằng những người thời cổ biết rõ mọi sự về sự phấn đấu, chờ đợi, mơ ước được đồng hóa với thần của họ, được phước hạnh nhận vị thần ở trong mình và nghe được vị thần của mình. họ không đọc những câu như “ăn thịt và uống máu Chúa Cứu Thế” theo nghĩa đem một cách sống sượng và đáng sợ. Họ đã biết ít nhiều về từng trải hiệp nhất không thể mô tả được, một sự kết hợp gần gũi, thiết cận hơn bất cứ sự kết hợp nào trên thế gian. Đó là loại ngôn ngữ mà người thời cổ hiểu được, và chính chúng ta cũng hiểu được nữa.
Những lời Chúa Giêsu tự xưng và tuyên bố làm cho người Do Thái choáng váng. Họ hiểu lời Chúa nói, và chính vì hiểu nên họ không thể chấp nhận Ngài. Ngài đang đứng trước mặt họ thế mà Ngài bảo Ngài từ trời xuống, Ngài là người thợ mộc thành Nazarét mà tự xưng là sứ giả của Thiên Chúa, là chính Thiên Chúa Đấng ban cho con người sự sống đời đời. Họ thiếu hẳn niền tin nơi Chúa Giêsu “ông chỉ là người phàm mà tự coi mình như Thiên Chúa!”
1. Một lời huyền nhiệm mới:
Chúa Nhật trước, chúng ta đã kết thúc phần thứ nhất về "diễn từ Bánh trường sinh"; theo Thánh Gioan, Chúa nói những lới này ở hội trường Caphacnaum, tiếp theo sau là phép lạ bánh hóa ra nhiều. Lúc ấy, Chúa Giêsu tự giới thiệu Ngài là "Bánh từ trời xuống": cao trọng vô cùng so với manna của cuộc vượt qua thứ nhất. Điều này đã gây ra sự chống đối thứ nhất nơi người Do thái: "Người này không phải là Giêsu con của ông Giuse đó sao? Cha mẹ ông ta chúng ta đều biết rõ bây giờ ông ta lại nói: "Tôi từ trời xuống?".
Trước sự chống đối này Chúa Giêsu cho họ biết một mặc khải mới về mầu nhiệm con người và sứ vụ của Ngài: "Tôi là bánh trường sinh. Tổ tiên của các ông đã ăn manna trong sa mạc, nhưng đã chết, còn bánh này là bánh từ trời xuống, để ai ăn thì khỏi chết. Tôi là bánh hằng sống từ trời xuống. Ai ăn bánh này sẽ được sống muôn đời".
Câu nói này còn gây ra một chống đối khác, và để trả lời cho sự chống đối lần thứ hai này, lại có thêm một mạc khải mới nữa về mầu nhiệm Đức Giêsu, lời huyền nhiệm mới của Ngài ở câu 51 (câu kết bài Phúc Âm Chúa Nhật trước) mở đầu cho phần thứ hai của diễn từ. Lời này chủ yếu nói đến Thánh Thể: "Bánh tôi sẽ ban tặng, chính là thịt tôi đây, để cho thế gian được sống".
Đức Giêsu không những chỉ rõ mình là "Bánh Trường Sinh" mà còn là "Bánh Trường Sinh từ trời xuống".
Động từ "ban" ("Bánh tôi sẽ ban tặng, chính là thịt tôi đây, để cho thế gian được sống") chủ từ của nó không phải là Cha, nhưng chính là Đức Giêsu. Ngài là người ban tặng, nhân danh Chúa Cha.
Bánh này đồng nhất với "thịt" của Chúa Giêsu. Từ này không chỉ bản thân cơ thể của con người, nhưng chỉ chính Đức Giêsu trong thân phận con người phải chết. Tại sao tác giả Tin Mừng lại thích dùng từ này hơn là từ "thân mình" mà truyền thống đã quen khi nhắc lại những lời Đức Giêsu nói ở bữa tiệc ly? Cha X. Léon- Dufour trả lời: "Có thể do từ "thịt" đã nêu lên cách hiện diện của Ngôi lời giữa chúng ta trong Lời Tựa của Phúc Âm thánh Gioan (1,14: "Ngôi Lời đã trở nên xác thịt); như vậy ở đây tác giả Phúc Âm muốn giữ lại ý tưởng về màu nhiệm nhập thể mà diễn từ muốn làm nổi bật khi nói đến vấn đề từ trời xuống". ("Lectere de l'Evangile selon Jean", tập 2, Seuil, trang 160). Ngôi lời đã trở nên xác thịt (1,14). Và thịt đã trở nên bánh (6,51).
Còn công thức: "Ban để cho thế gian được sống" nói rõ mục đính của việc Chúa Giêsu dâng hiến mạng sống của mình làm quà tặng". (sách đã dẫn, trang 161).
2. Một phản đối mới:
Điều khẳng định mới mẻ về cái chết của Ngài là mạch suối hằng sống để cho thế gian gây ra một phản đối mới: "Làm sao ông này có thể cho chúng ta ăn thịt ông ta được?"
Mới đó, Đức Giêsu đã gây xung đột khi xưng mình có nguồn gốc từ trời, giờ lại thêm một xung đột khác. Nếu đúng đích thực là người Thiên Chúa sai đến, là Đấng Thiên sai như đã tự phụ thì làm sao Thiên Chúa có thể để Ngài phải trải qua cái chết vì Ngài quả quyết: "Bánh tôi sẽ ban tặng, chính là thịt tôi đây, để cho thế gian được sống". Làm sao Thiên Chúa có thể không cứu Ngài thoát khỏi quân thù và đảm bảo cho Ngài chiến thắng? L.M. Chauvet cảnh báo: "Nếu khó khăn thứ nhất về căn tính Đức Giêsu đã khó có thể tiêu hóa nổi thì khó khăn thứ hai về cách thực hiện sứ mạng của Ngài càng không thể nuốt trôi: vì như vậy; có lẽ Thiên Chúa sẽ không còn là Thiên Chúa nữa." (Symbole et sacrement", Cerf, trang 229-230)
Chính xung đột thứ hai là hậu cảnh cho "diễn từ về Bánh Trường Sinh", chứ không phải việc bánh trở nên thịt Ngài được coi là sự "biến đổi bản thể". Chính niềm tin vào Đức Giêsu, Đấng từ Thiên Chúa mà đến lại trở về với Thiên Chúa sau khi trải qua cái chết để ban sự sống cho thế gian mới là trung tâm của tất cả diễn từ. "Như thế chúng ta mới nói hết được tầm quan trọng của vấn nạn ở câu 52 ("Làm sao ông này có thể cho chúng ta ăn thịt của ông ta được?"): Thiên Chúa có còn là Thiên Chúa nữa không một khi Người để cho kẻ Người sai đi phải chết?" (L.M. Chauvet, Sđd, trang230).
3. Mặc khải mới của Đức Giêsu về chính mình:
Thay vì nhẹ giọng làm cho người nghe khỏi bị vấp phạm, Đức Giêsu còn lên tiếng mạnh mẽ, quả quyết hơn: "Thật, tôi bảo thật các ông: nếu các ông không ăn thịt và uống máu Con người, các ông không có sự sống nơi mình".
Không chỉ có vấn đề "thịt" mà còn phải "ăn" (nghĩa đen là "nhai" như chúng ta "nhai" bữa ăn Phục Sinh, chúng ta gặp động từ này 8 lần trong những câu này), và phải uống "máu" Ngài.
Để "ở" với Ngài ngay từ bây giờ, để sống sự sống với Ngài đã nhận từ Cha, chúng ta phải nhờ đức tin đón nhận mầu nhiệm sự chết là quà tặng Ngài ban cho ta.
Khi đọc văn bản này, một bản văn rất tương hợp với bài tường thuật về việc Chúa lập Bí Tích Thánh Thể, người Kitô hữu không thể nhận biết đó là lời loan báo về Thánh Thể. Tài liệu thần học chuẩn bị cho Đại hội Thánh Thể Quốc tế tại Lộ Đức viết rằng: "Khi ăn mình mầu nhiệm Chúa, các Kitô hữu "nghiền ngẫm" (nhai lại) biến cố gây vấp phạm là việc Đấng thiên sai bị đóng đinh vì muốn ban sự sống cho thế gian (xem Gioan 6,51), và nên một với Người nơi chính thân thể mình, hầu đời sống hằng ngày được biến đổi nên giống Người". (Jésus Christ, pain rompu pour un monde nouveau", Centurion, 1980, trang 64)
Trong đoạn thư Ephêsô nói trên, sau khi thúc giục các tín hũu sống trong sạch, đoan chính, tránh say sưa dâm đãng, thónh Phaolô khuyên tiếp : "Hãy luôn cảm tạ Thiên Chúa trong mọi sự nhân danh Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta". Một lời khuyên lạ đời nhưng nhiều ý, không thừa cũng không thiếu một chữ gồm ba việc phải làm : Cảm tạ Thiên Chúa - trong mọi sự - nhân danh Đức Giêsu Kitô. (Ephêsô 5,12-20)
CẢM TẠ THIÊN CHÚA
Chúng ta thường xin ơn hơn là cảm tạ. Điều này có hai nguyên nhân: Trước hết, chúng ta chiều theo khuynh hướng qui ngã, chú trọng đến bản thân mình hơn đến Thiên Chúa. Còn lẫn lộn, chưa biết phân biệt các giá trị thấp cao, chưa hiểu Thiên Chúa mới là chính, chúng ta là phụ. Thứ đến, người ra rất dễ quên những lúc hon nạn. Khi cần ơn thì nài van, nhưng lúc đã được ơn rồi thì hết lo, toại nguyện mừng rỡ đến nỗi quên hẳn ơn đó từ ai đến, giống như đứa trẻ được cái kẹo mừng quá quên cả người cho.
Tạ ơn có nghĩa: nhìn nhận mình chẳng có gì, tất cả là bởi Chúa. Chúa chẳng mắc nợ gì mình, còn mình thì nợ Ngài tất cả. Và tất cả các món nợ đó đều không thế đến, không thế trả được. Chỉ có thể xin Chúa xóa nợ. Và Thiên Chúa chẳng bao giờ từ chối.
Tạ ơn Chúa không hạ thấp, trái lại nâng cao chúng ta. Cũng như khi chúng ta cám ơn ai điều gì thì cử chỉ tự nhiên tỏ lộ chúng ta biết cư xử, lịch thiệp, có tư cách. Phẩm giá của chúng ta do đó được nâng cao.
CẢM TẠ TRONG MỌI SỰ
Điều này không phải lúc nào cũng dễ. Tạ ơn lúc được bình an, thành công, may mắn thì không khó lắm. Bởi vì trong các việc thuận lợi, nhận ra lòng nhân lành của Thiên Chúa tương đối dễ. Trong trường hợp đó tạ ơn là điều dễ hiểu. Nhưng còn khi gặp khó khăn, tai họa hoặc thất bại thì sao, có cần t ơn không ? Nhiều người chỉ quen than trách, bất mãn hoặc thất vọng. Ngay trong lúc gặp gian truân cũng vẫn phải tạ ơn. Trên Thập giá Chúa Giêsu vẫn không ngừng tạ ơn Chúa Cha. Và chẳng khi nào lời tạ ơn lại có giá trị cho bằng lúc ấy.
Để có thể tạ ơn Thiên Chúa trong những lúc gặp tai họa cần có hai điều kiện. Trước hết cần xác tín rằng: Thiên Chúa không gây nên sự ác và sự ác không thế vượt ra ngoài quyền năng của Ngài. Thứ đến phải tin chắc rằng: Thiên Chúa thường dùng sự ác để tạo nên sự lành cho chúng ta. Từ sự dữ Thiên Chúa có thể rút ra sự lành và Ngài thường làm như thế. Bởi vậy khi gặp sự dữ thì chúng ta đừng vội kết luận ngay đó là dự dữ. Hãy chờ xem, sự dứ có thể biến thành sự lành một cách bất ngờ. Thiên Chúa có thể đảo ngược mọi sự một cách rất tài tình. Thiên Chúa có thể lấy độc để trị độc. Giuse không bị bán sang Ai Cập thì làm sao sau đó có thể cứu được anh em và cả dòng họ ? Nếu không có Thập giá làm sao có ơn cứu độ ?
Vì thế phải tạ ơn trong mọi lúc, nhất là trong gian nan. Cứ tạ ơn rồi từ trong sự dữ sẽ xuất hiện sự lành. Thánh Phaolô chỉ cho chúng ta một bí quyết để đối phó với bất cứ điều gì có thể xảy đến trong đời chúng ta: Mọi sự đều sinh ích cho người yêu mến Thiên Chúa".
CẢM TẠ NHÂN DANH ĐỨC GIÊSU KITÔ
Tự mình chúng ta không thế nào tạ ơn Thiên Chúa cho xứng và cho đủ. Chỉ mình Chúa Giêsu mới có thể tạ ơn Chúa Cha cách tương xứng vì Ngài là Dấng Thánh và lòng mến của Ngài đối với Chúa Cha là vô tận. Chúa Giêsu tạ ơn thay cho chúng ta. Chúng ta chỉ có một cách tạ ơn duy nhất là hiệp tâm tình tạ ơn của mình với sự cảm tạ của chính Chúa Giêsu,
Chúa Giêsu tạ ơn Chúa Cha bằng chính sự chết và phục sinh của Ngài. Suốt đời Ngài, Ngài tạ ơn Chúa Cha, nhưng tột đỉnh của sự tạ ơn đó là sự hiến tế chính mình trên thập giá
Hôm nay, mỗi ngày, Chúa Giêsu lặp lại lời tạ ơn tuyệt hảo đó trong cử hành Thánh Thế. Thánh lễ là nghi thức tạ ơn long trọng của Chúa Giêsu và của tất cả Thân thế của Ngài trong đó có mỗi người chúng ta. Trong thánh lễ chúng ta cùng tạ ơn với Chúa Giêsu. Tạ ơn hết lòng, để rồi chính cuộc đời chúng ta, lúc vui cũng như lúc buồn, trở thành một lời cảm tạ liên tục.
bài liên quan mới nhất

- Hiệp sống Tin mừng: Chúa nhật Lễ Mình Máu Thánh Chúa năm C
-
Bài giảng trong thánh lễ kỷ niệm 50 năm thụ phong Linh Mục 1975/15-6/2025 - linh mục Tổng Đại diện Ignatio Hồ Văn Xuân -
Hiệp sống Tin mừng: Chúa nhật Chúa Ba Ngôi năm C -
Hiệp sống Tin mừng: Chúa nhật Chúa Thánh Thần hiện xuống -
Hiệp sống Tin mừng: Chúa nhật 7 Phục sinh năm C - Chúa Thăng Thiên -
Hiệp sống Tin mừng: Chúa nhật 6 Phục sinh năm C -
Hiệp sống Tin mừng: Chúa nhật 5 Phục sinh năm C -
Hiệp sống Tin mừng: Chúa nhật 4 Phục sinh năm C -
Hiệp sống Tin mừng: Chúa nhật 3 Phục sinh năm C -
Hiệp sống tin mừng: Chúa nhật 2 Phục sinh
bài liên quan đọc nhiều

- Tâm tình Mùa Chay
-
Hiệp sống Tin mừng: Chúa nhật 13 Thường niên năm B -
Hiệp sống Tin mừng: Chúa nhật 14 Thường niên năm A -
Hiệp sống Tin mừng: Chúa nhật 5 Phục sinh năm C -
Hiệp sống Tin mừng ngày 29/06: thánh Phêrô và thánh Phaolô tông đồ -
Hiệp sống Tin mừng: Chúa nhật 3 mùa Chay năm B -
Hiệp sống Tin mừng ngày 02/11: Cầu cho các đẳng linh hồn -
Hiệp sống Tin mừng: Chúa nhật Chúa Thánh Thần hiện xuống -
Hiệp sống Tin mừng: Chúa nhật 27 Thường niên năm B -
Hiệp sống Tin mừng: Chúa nhật 29 Thường niên năm B