Các bài suy niệm Lễ Giáng Sinh

Các bài suy niệm Lễ Giáng Sinh

 

 

 

 

 

 

Các bài suy niệm LỄ GIÁNG SINH - Năm C
Lời Chúa:
Lễ Đêm: Is 9,1-6; Tt 2,11-14; Lc 2,1-14
Lễ Rạng Đông: Is 62,11-12; Tt 3,4-7; Lc 2,15-20
Lễ Ban Ngày: Is 52,7-10; Dt 1,1-6; Ga 1,1-18 hay Ga 1,1-5.9-14

MỤC LỤC
1. Dấn thân
2. Bình an cho loài người Chúa thương
3. Sứ điệp từ hang Bêlem
4. Lễ Giáng Sinh: Lễ Đêm (Lc 2,1-14)
5. Lễ Giáng Sinh: Lễ Rạng Đông (Lc 2,15-20)
6. Lễ Giáng Sinh: Lễ Ban Ngày (Ga 1,1-18)
7. Ngôi Lời là ánh sáng thật
8. Bình an từ trời
9. Niềm vui của thuở ban đầu
10. Chúa đến trong thinh lặng của đêm khuya (Lc 2,1-14)
11. Ánh sáng đã xuất hiện (Lc 2,15-20)
12. Nhường chỗ cho Chúa (Ga 1,1-18)
13. Đêm Thánh
14. Nghèo
15. NOEL - Bình an
16. Đêm giao hòa

 


1. Dấn thân

Trong triết học hiện sinh, có một động từ thường hay được xử dụng, đó là dấn thân. Nhìn theo khía cạnh này, thì Đức Kitô quả là một người đi tiên phong cho chủ thuyết hiện sinh.

Thực vậy, Giáng sinh, hay nói đúng hơn theo ngôn ngữ thần học, nhập thể là gì nếu không phải là việc Con Thiên Chúa dấn thân và sống cuộc đời con người chúng ta.

Đức Kitô đã không xuống thăm trái đất này như là một ông đại sứ của Chúa Cha, đến để công bố những giới luật, những nguyên tắc của cuộc chơi trong kiếp sống làm người. Đến để loan báo phần thưởng cho những người tuân giữ, và hình phạt cho những kẻ chối từ. Một ông đại sứ luôn đứng bên lề cuộc phiêu lưu của nhân loại. Con Thiên Chúa không đến để chỉ cho chúng ta biết phải chơi như thế nào, nhưng Ngài đã nhập cuộc, đã tham dự trò chơi. Ngài đã dấn thân, đã làm người. Và theo ngôn ngữ của thánh Gioan thì Ngài đã hóa thành nhục thể.

Vào thời bấy giờ, người ta không thể nào tin nhận một chân lý như vậy. Đối với họ, thể xác là nguyên nhân sinh ra tội lỗi. Họ chủ trương: Đức Kitô chỉ có cái vóc dáng bên ngoài của con người, chỉ đeo một cái mặt nạ của thể xác. Trong khi đó, thánh Gioan mạnh mẽ chống lại quan niệm này khi công bố: Ngôi Lời đã hóa thành nhục thể, Ngài đã chấp nhận cuộc chơi như lời thánh Phaolô: Chúa đã không nhận của lễ toàn thiêu, đã không ưng chiên bò hy tế, thì nay con đến để làm theo ý Cha. Bốn chữ:thì nay con đến” mang một ý nghĩa sâu xa, muốn nói lên rằng: Ngài đã bước vào cuộc chơi.

Đức Kitô không phải chỉ là một Thiên Chúa, nhưng Ngài còn là một con người, đã sống một cuộc đời như chúng ta. Thánh Phaolô đã viết: Bởi vì con cái có chung máu thịt với nhau, thì phần Ngài, Ngài cũng giống như vậy. Ngài đến không phải để giúp đỡ các thiên thần, nhưng đến để giúp đỡ dòng dõi Abraham. Do đó, trong mọi sự, Ngài đã nên giống anh em mình. Để nên giống chúng ta, Ngài đã mặc lấy những yếu hèn, ngoại trừ tội lỗi. Phận Ngài là phận của một vị Thiên Chúa, nhưng Ngài đã không nghĩ phải dành cho được chức vụ đồng hàng cùng Thiên Chúa. Song Ngài đã hủy mình đi, mặc lấy thân phận tôi đòi, trở nên giống hẳn người ta, đem thân đội lốt người phàm…

Thực vậy, Đức Kitô đã bước vào đời sống thể xác. Thánh Gioan đã nhấn mạnh: Gioan Tiền hô đến không ăn không uống, nhưng Đức Kitô đến, Ngài đã ăn và đã uống. Ngài đã mệt mỏi vì đường xa, vì ánh nắng gay gắt, nên đã ngồi nghỉ bên bờ giếng Giacob. Trên thập giá Ngài đã cảm thấy một cơn khát như xé cổ họng và đã chịu đựng những đớn đau ghê sợ nhất.

Tiếp đến, Ngài đã bước vào đời sống tâm lý. Ngài đã say mê vẻ đẹp thiên nhiên, đã yêu thích sự đơn sơ trong trắng của trẻ thơ. Ngài đã tỏ dấu yêu thương đối với Gioan và Lagiarô, Martha và Mađalêna… Ngài đã buồn, đã khóc. Ngài đã tức giận xua đuổi phường buôn bán ra khỏi đền thờ.

Sau cùng, Ngài đã bước vào đời sống xã hội. Ngài đã nói với người nghèo hèn cũng như kẻ quyền thế, kẻ tội lỗi cũng như người thiếu phụ ngoại tình, bọn Biệt phái giả hình cũng như con cáo già Hêrôđê. Ngài đã sống trong một gia đình cũng như đã sống giữa các môn đệ, Đức Kitô đã muốn là một người như chúng ta. Và đó là một chân lý nền tảng của Kitô giáo.

Thực vậy, Đức Kitô là một con người cụ thể, đã sống vào một thời đại nhất định, đã thuộc về một giai cấp nhất định. Từ đó chúng ta đi tới một kết luận, đó là việc thánh hóa con người không thể nào được thực hiện bên ngoài cuộc sống thường ngày.

Đúng thế, cuộc sống của người Kitô hữu không hệ tại việc đứng bên lề những thực tại trần thế như ăn uống, yêu thương, làm việc, cầu nguyện. Trái lại, chính những công việc tầm thường này đã dệt nên cuộc đời chúng ta. Bởi đó hãy bắt chước Đức Kitô làm những công việc của đời thường này một cách siêu nhiên, bởi vì Ngài đã đến để giúp chúng ta thánh hóa, biến những công việc đời thường này trở nên công nghiệp cho chúng ta.

Chúng ta phải luôn nhớ rằng: Đức Kitô không phải chỉ cứu chuộc chúng ta với tâm hồn của Ngài, mà còn với thân xác của Ngài nữa. Sở dĩ như vậy vì Ngài đã nối kết thân xác Ngài với bản tính Thiên Chúa. Nhờ đó, đã trở nên dụng cụ thực hiện chương trình yêu thương mà Ngài đã từng ươm mơ từ muôn ngàn thuở trước. Với những đau khổ, Ngài đã cứu chuộc chúng ta. Thân xác là như chiếc dây đàn, cho người nghệ sĩ tâm hồn gẩy lên bản tình ca chúc tụng Thiên Chúa.

Để thánh hóa, để đạt tới Nước Trời, chúng ta không cần phải chạy trốn những thực tại trần gian. Nếu một người nào đó hy sinh chỉ vì khinh bỉ thức ăn, vào rừng sống ẩn dật chỉ vì khinh bỉ anh em đồng loại, từ chối hôn nhân chỉ vì khinh bỉ đàn bà, khắc khổ chỉ vì khinh bỉ những niềm vui… thì người ấy đã phạm phải một sai lầm to lớn. Người ấy đã khinh bỉ chính những thụ tạo của Thiên Chúa. Người ấy tưởng mình tiến lại gần Thiên Chúa, nhưng thực sự, người ấy đã xa lìa Ngài.

Sở dĩ các thánh hãm mình, không phải vì khinh bỉ, nhưng vì được thúc đẩy đừng đánh giá quá cao những thực tại trần gian, biết chế ngự và dùng tinh thần vượt lên trên chúng. Thánh Phaolô đã diễn tả: Nơi Ngài, bản tính Thiên Chúa đã ở trong thân xác. Cũng vậy, chúng ta có thể nói về những Kitô hữu: đời sống của họ hệ tại thân xác, bởi vì những hành động của thân xác làm nên cuộc sống họ. Từ đó, chúng ta khám phá ra rằng: Thiên Chúa đã muốn sống bản tính Thiên Chúa một cách nhân loại, để chúng ta có thể sống bản tính nhân loại một cách Thiên Chúa. Hay như các thánh giáo phụ đã nói: Thiên Chúa đã bước xuống phận con người, để con người tiến lên ngôi Thiên Chúa. Ơn thánh chúng ta lãnh nhận ngày chịu phép Rửa tội, được phát triển nhờ các bí tích, sẽ làm cho những công việc đời thường có một giá trị siêu nhiên. Nỗi băn khoăn của chúng ta không phải là chạy trốn thế gian, mà là nhập cuộc, là dấn thân, là làm tất cả những công việc đời thường như Đức Kitô đã làm.

Với Mầu nhiệm Giáng sinh, bản tính Thiên Chúa đã kết hôn với bản tính nhân loại nơi Hài nhi Giêsu, nhờ đó mà Ngài cứu chuộc chúng ta, thì giờ đây, để đời thường của chúng ta có một giá trị, chúng ta hãy quy hướng mọi hành động của thân xác về với Đức Kitô như lời thánh Phaolô: Dù ăn, dù uống, dù làm bất cứ việc gì, anh em hãy làm vì Đức Kitô. Đó là một cách giúp chúng ta thánh hóa bản thân cũng như giúp chúng ta sống mầu nhiệm Giáng sinh giữa lòng cuộc đời.

2. Bình an cho loài người Chúa thương

Đức Maria cùng với thánh Giuse trở về Bêlem, chắc chắn vì luật lệ nhà nước bắt buộc mọi người phải đích thân trình diện tại phòng kiểm kê dân số nơi nguyên quán. Người về Bêlem với tư cách là dòng dõi David, hoặc với tư cách hôn thê của thánh Giuse, mà chính thánh Giuse cũng thuộc dòng dõi ấy. Làm công việc đăng ký này, hai ông bà hoàn thành một kế hoạch của Thiên Chúa sắp đặt biến cố Chúa Giêsu sinh ra ở Bêlem, như các ngôn sứ đã loan báo. Chúng ta để ý đến lối văn sử gia Luca dùng để tường thuật sự kiện Giáng Sinh, bút pháp của thánh chép sử ngắn gọn và trong sáng đáng cho chúng ta khâm phục. Tính chất giản dị lạ lùng ấy thật trái hẳn với óc tưởng tượng ưa vẽ vời bày đặt. Những kẻ nào muốn phá huỷ cái chất huyền hoặc –như họ nói- nằm trong những truyện tích thời Chúa thơ ấu, có lẽ chính óc họ lại chứa đựng ngổn ngang những huyền thoại mà họ dựng lên, cho nên họ không thể nào có được bút pháp trong sáng tươi mát của Phúc Âm. Các nhà thông thái tranh luận để tìm hiểu “thiện chí” được các thiên thần ca ngợi cóphải là thiện chí của con người đối với Thiên Chúa, hay đó là ý định nhân từ của Thiên Chúa đối với con người. Thật ra cả hai định nghĩa bổ túc cho nhau, và sự suy niệm của chúng ta thêm phong phú nhờ hai cách giải thích của bản văn của thánh chép sử.

Chúng ta nêu hai nhận xét:

1) Trước hết, Thiên Chúa hiện diện đối với những bạn hữu nghĩa thiết của Người trong cách an bài cuộc đời.

Thiên Chúa điều khiển lịch sử, sắp đặt các biến cố ngõ hầu cuộc đời mỗi cá nhân dt tự do quyết định nên hay không nên tiến vào con đường Người tiền định và đi tới cùng số phận Người đề nghị. Có lẽ đây là một trong những niềm xác tín vững chắc mà não trạng con người thời nay khó chấp nhận nhất. Kẻ nào tuân theo thánh ý Thiên Chúa xuyên qua cái lẽ huyền vi của những biến cố, dẫu là những biến cố khốc liệt nhất, kẻ ấy tìm được nguồn mạch đích thật của lòng dũng cảm, tin tưởng, an bình, và dấn thân phục vụ hữu ích cho đồng loại. Một nỗ lực khôn ngoan để tìm hiểu thánh ý Thiên Chúa qua sự thăng trầm của của lịch sử và để tuân phục Người sau khi đã suy xét và quyết tâm, nó mở ra cho chúng ta một vận hội may mắn lớn để thực hiện một kế hoạch mà tình yêu của Thiên Chúa đã vạch ra.

2) Nhận xét thứ hai: Các thiên thần loan tin hoà bình.

Tại sao? Thưa: bởi vì Thiên Chúa là Thiên Chúa của hoà bình. Hoà bình trong tương quan lòng nhân từ của Thiên Chúa đối với con người, chính là ân huệ Thiên Chúa đem Con Một Người tặng cho nhân loại. Trong tình trạng xung đột gây ra bởi tội lỗi, Thiên Chúa đi bước trước, Người đưa ra sáng kiến tái lập hoà bình. Làm như vậy vì Thiên Chúa cao cả mà con người lại quá hèn mọn. Hoà bình trong tương quan thành tâm thiện chí của con người đối với Thiên Chúa, là ăn năn sám hối, là nhìn nhận giá trị thật sự của mình, nghĩa là nhìn nhận chính mình nghèo hèn tội lỗi. Đó là tâm tình khiêm hạ, khao khát được đón nhận Đức Giêsu Kitô mà Thiên Chúa ban cho nhân loại, và cũng là vì yêu thương mà cố gắng sống trong trạng thái hoà bình xây dựng giữa thế gian.

3. Sứ điệp từ hang Bêlem

Mỗi khi gió mùa đông bắc thổi, tôi cảm thấy năm tháng qua nhanh. Năm cũ trôi qua, năm mới sắp tới. Trong niềm háo hức đón chào năm mới tôi thường băn khoăn tự hỏi: tôi phải làm gì để năm mới nay trở thành những ngày tháng tươi vui? Làm sao để năm mới này là thời gian hạnh phúc? Làm sao để năm mới này chan chứa hồng ân của Thiên Chúa?

Trong niềm băn khoăn thao thức, tôi đến trước hang đá Bêlem để tìm câu trả lời. Việc Chúa Giêsu giáng trần đã mở ra một kỷ nguyên mới. Để bắt đầu một thời gian mới, không gì bằng đến học theo gương Người, nghe những lời giáo huấn của Người.

Chúa Giêsu bé thơ lặng im không nói, nhưng thái độ của Người trao gửi chúng ta biết bao sứ điệp, giúp định hướng cho những ngày tháng sắp tới.

Sinh ra trong cảnh nghèo hèn, Người muốn gửi đến cho ta sứ điệp tình yêu.

Vì yêu thương con người, Đức Giêsu đã tự nguyện sinh xuống thế làm người. Người đã đồng hành với con người, chia sẻ mọi nỗi vui, nỗi buồn của kiếp người. Tình yêu của Người đặc biệt hướng về những người bé nhỏ, nghèo hèn, yếu đuối, tội lỗi. Những người đầu tiên được mời gọi đến hang đá Bêlem là những mục đồng nghèo nàn, đơn sơ, chất phác. Trong tình hình kinh tế thế giới hiện nay, hố ngăn cách giầu –nghèo ngày càng lớn. Trong cuộc chạy đua kinh tế hiện nay, người nghèo ngày càng bị thua thiệt. Vì thế, sứ điệp tình yêu của Đức Giêsu vẫn là một tín hiệu khẩn cấp cho nhân loại.

Hoá thân làm một trẻ sơ sinh yếu đuối trần trụi, Người mong gửi đến ta sứ điệp hoà bình.

Là Thiên Chúa, Người mang thân phận con người để kết nối đất với trời, để con người được làm hoà với Thiên Chúa. Trở thành anh em của mọi người, Người kêu gọi con người hãy thương yêu nhau vì mọi người là anh em với nhau. Người không mang theo vũ khí, không mang theo quyền lực. Vũ khí của Người là đôi mắt thơ ngạy. Quyền lực của Người là tấm than trẻ thơ non nớt. Hai ngàn năm qua rồi, nhưng sứ điệp ấy vẫn còn mang tính thời sự, vì chiến tranh chưa một ngày vắng bóng trên hành tinh. Ngay tại Bêlem, nơi Chúa sinh ra, năm nay không có Thánh Lễ, vì cuộc chiến giữa Israel và Palestine vẫn còn tiếp diễn.

Nằm trong tấm vải thô đặt trên máng bò lừa, Người muốn gửi đến ta sứ điệp tự do.

Là Thiên Chúa, Người không muốn sinh ra trong gia đình vua chúa giàu sang. Nhưng chọn sinh ra trong gia đình dân dã nghèo hèn. Người không chọn sinh ra tại một nơi đầy đủ tiện nghi. Nhưng chọn sinh ra trong chuồng bò lừa. Tâm hồn Người hoàn toàn tự do, không bị ràng buộc bởi bất cứ nhu cầu vật chất nào. ngày nay chế độ nô lệ đã bị xoá sổ trên toàn thế giới. Nhưng con người đang vướng vào những vòng vây nô lệ mới. Có thứ nô lệ dục vọng. Có thứ nô lệ đam mê. Có thứ nô lệ chức quyền. Có thứ nô lệ danh vọng. Có thứ nô lệ vật chất tiền tài. Có thứ nô lệ sì ke ma tuý. Tất cả những thứ nô lệ mới trói buộc tâm hồn khiến con người mất hết tự do, nhân phẩm. Nhìn vào hang đá Bêlem, sứ điệp tự do của Đức Giêsu như một lời nhắn nhủ ân cần, như một lời mời gọi tha thiết, như một ánh sáng soi đường cho ta bước vào vùng trời tự do của tâm hồn, của nhân phẩm, của con người, của con cái Thiên Chúa.

Năm mới đang mở ra một viễn tượng đầy hứa hẹn nhưng cũng đầy đe doạ. Cơn lốc kinh tế, khoa học kỹ thuật sẽ cuốn đi nhiều giá trị đạo đức, sẽ nhận chìm nhiều kiếp người lầm than. Cơn cám dỗ vật chất sẽ khiến nhiều tâm hồn mất phẩm chất, nhiều con người sẽ đánh mất chính mình. Những xung đột sẽ xô đẩy thế giới vào những cuộc chiến tàn sát.

Hãy đến với Hài Nhi Giêsu nằm trên máng cỏ trong hang đá Bêlem. Người là hiện thân của tình yêu, của hoà bình, của tự do. Nhìn ngắm Người, ta sẽ học được những bài học giải đáp cho những vấn đề của thế giới, của con người, và nhất là của chính bản thân ta. Sống theo gương Người, ta sẽ góp phần xây dựng một thế giới tươi đẹp, không chỉ ấm áp tình người mà còn cao đẹp với những giá trị tinh thần, những phẩm chất đạo đức.
Lạy Chúa Giêsu Hài Đồng, xin thương xót chúng con. Amen.

4. Lễ Giáng Sinh: Lễ Đêm (Lc 2,1-14)

Trước đây hai ngàn năm, có một tin rất lạ lùng, một tin gây chấn động mọi người nghe, tin này không do phát ngôn viên của loài người, nhưng là một thiên sứ, một thiên sứ loan báo trên cánh đồng Bêlem. Tin này liên hệ đến mọi người sống trong cõi trần từ xưa đến nay và mang lại hạnh phúc toàn diện và vĩnh viễn cho con người; nội dung Tin Mừng ấy: “Anh em đừng sợ, này tôi báo cho anh em một Tin Mừng trọng đại, cũng là Tin Mừng cho toàn dân: hôm nay Đấng Cứu Thế đã sinh ra cho anh em trong thành vua Đa vít, Người là Đấng Kitô Đức Chúa”.

Chúa Cứu Thế Giáng Sinh quả thật là một Tin Mừng trọng đại. Trên thế giới và qua quá trình lịch sử, có nhiều tôn giáo khác nhau. Vị giáo chủ nào cũng được những người tin theo ngưỡng mộ sùng kính, tuy nhiên không có vị nào là Đấng Cứu Thế, các vị đều sinh ra làm người, tu luyện đắc đạo, hành đạo, rồi chết như mọi người. Nhân loại cần một Đấng Cứu Thế lạ lùng, nguồn gốc không từ trong nhân loại, sinh tử khác hẳn người phàm. Vì Ngài từ trời Giáng Sinh, sinh hạ bởi Mẹ đồng trinh, ứng nghiệm một lời sấm đã nói bảy trăm năm về trước: “Sự Giáng Sinh của Chúa Cứu Thế Giêsu diễn tiến như sau: cô Maria đã đính hôn với Giuse, vị hôn phu của Maria là người công chính, quyết định kín đáo từ hôn vì không nỡ để nàng bị sỉ nhục công khai. Đang băn khoăn về việc ấy, bỗng thấy một thiên sứ đến báo mộng: này Giuse, con cháu Đa vít, đừng ngại cưới Maria làm vợ, vì cô ấy thụ thai do Thánh Linh. Maria sẽ sinh con trai, sẽ đặt tên là Giêsu, vì chính Người sẽ cứu dân mình khỏi xiềng xích tội lỗi. Việc xảy ra đúng như lời Chúa đã bảo nhà tiên tri loan báo: này, trinh nữ sẽ thụ thai và sinh hạ một con trai đặt tên là Emmanuen, Thiên Chúa ở cùng chúng ta”.

Đó chính là ứng nghiệm về Đức Kitô, về Chúa Giêsu Giáng Sinh tại thành của Đa vít. Từ xưa tới nay, chưa có một ai được ra đời bằng cách Giáng Sinh, và có lời tiên tri được ứng nghiệm như Ngài, vậy nên trong muôn dân không có vị cứu tinh là Đức Kitô là Chúa như Ngài, muôn dân cần phải có Ngài vì thế việc Ngài Giáng Sinh tại thành của Đa vít là một Tin Mừng trọng đại cho tất cả nhân loại.

Lại cũng vì loài người ai cũng phạm tội, cũng đau khổ dưới ách tội lỗi và tự mình vô phương cứu thoát.
  “Từ trời cao, Chúa nhìn xuống loài người,
  xem ai là kẻ có lương tri,
  biết kiếm tìm Thiên Chúa.
  Người người đã lìa xa chính lộ,
  chỉ biết theo nhau làm chuyện suy đồi.
  Chẳng có một ai làm điều thiện,
  dẫu một người cũng không” (Tv 14,2-3).

Ngày nay khoa học kỹ thuật đã tiến bộ hơn trước nhiều, cung cấp cho con người đủ thứ tiện nghị vật chất, nhưng con người vẫn đau khổ, vẫn không được an vui. Vì sao thế, vì đã phạm tội, vì gánh nặng của tội lỗi cứ đè nặng, vì nọc độc của tội lỗi cứ ám ảnh, lương tâm không được bằng yên. Thế gian cũng đã từng áp dụng nhiều phương pháp: cải cách xã hội, đòi hỏi nhân quyền, khắc kỷ tu thân, nhưng các phương pháp ấy vô hiệu lực. Vì tất cả các phương pháp ấy đều không cất khỏi gánh nặng đang đè nặng trên con người. Duy chỉ có Đấng Cứu Thế mới có khả năng cất khỏi sức nặng tội lỗi đè nặng trên con người.

• Vì Ngài chính là “Thiên Chúa ở với loài người”, Giáng Sinh làm người, duy mình Ngài Giáng Sinh làm người, gánh lấy hết tội lỗi, và chết thay cho tội nhân. “Thật chính Ngài đã mang lấy những bệnh tật của chúng ta, đã gánh chịu những đau khổ của chúng ta. Chính Người đã bị đâm vì chúng ta phạm tội, bị nghiền nát vì chúng ta tội lỗi, đã phải mang thương tích để chúng ta được chữa lãnh. Tất cả chúng ta lạc lõng như chiên cừu, lang thang mỗi người một ngả, nhưng Chúa đã đổ trên đầu Người tội lỗi của tất cả chúng ta” (Is 3,4.5).

• Và khi Ngài vừa xuất hiện để được Gioan Tẩy giả giới thiệu: “Đây là Chiên Con Thiên Chúa, Đấng gánh tội trần gian”.Bằng chứng Thiên Chúa yêu thương chúng ta ngay khi chúng ta còn là tội nhân, Đức Kitô đã chết vì chúng ta (Rm 5,6).

• Và chết cũng có nhiều cách, nhưng Đức Kitô lại chết cách đau đớn trên thập giá! Đức Kitô đã tự hiến tế như lễ vật vẹn toàn, máu của Người thanh tẩy lương tâm chúng ta khỏi những việc đưa tới sự chết, để chúng ta xứng đáng phụng thờ Thiên Chúa hằng sống (Dt 9,14).

• Máu của Đức Kitô Con của Người thanh tẩy chúng ta sạch hết mọi tội lỗi (1Ga 1,7).

Suy gẫm về cái chết của Chúa Giêsu, khiến cho lòng chúng ta vô cùng cảm động, vì Người là Con Thiên Chúa vô tội mà Giáng Sinh làm người thay cho chúng ta là tội nhân mà chịu chết, gánh lấy hết tội lỗi, khiến lòng chúng ta tràn ngập mừng vui vì Ngài cất đi gánh nặng tội lỗi đè nặng trên chúng ta.

Đấng Cứu Thế, là Đức Giêsu Kitô đã từ trời Giáng Sinh do Đức Maria tại thành của Đa vít, chịu chết trên thập giá tại đồi Canvê để đền tội thay cho nhân loại, và Ngài cũng đã sống lại, lên trời, ngự bên hữu Thiên Chúa. Bởi sự sống lại và hằng sống mà Ngài có quyền lực siêu nhiên để làm Đấng Cứu Thế cho muôn dân thiên hạ. Nhân loại đang đắm chìm trong tội lỗi, mong muốn được Ngài cứu thoát.

Trước thượng hội đồng, Phaolô tuyên bố: “Ngoài Người ra, không ai đem lại ơn cứu độ, vì dưới gầm trời này không có một danh nào khác đã được ban cho nhân loại, để chúng ta phải nhờ vào danh đó mà được ơn cứu độ”.

Chính vì chỉ có Chúa Giêsu, Đấng nắm giữ quyền lực siêu nhiên, chiến thắng tội lỗi, sự chết và ma quỷ, sống lại từ cõi chết, được “Thiên Chúa đặt làm Đức Chúa và làm Đấng Kitô” (Cv 2,36) và thông ban sự sống đời đời cho những ai đặt niềm tin nơi Ngài để được sống một cuộc sống tự do vui vẻ mà sự Giáng Sinh của Ngài là một Tin Mừng trọng đại.

Tin Mừng về Đấng Cứu Thế, về Đấng Kitô Giáng Sinh mà tôi loan báo hôm nay là Tin Mừng cách đây 2.000 năm thiên sứ đã phát thành tại cánh đồng Bêlem.

5. Lễ Giáng Sinh: Lễ Rạng Đông (Lc 2,15-20)

Điều lạ lùng là đối tượng được Thiên Chúa loan báo Tin Mừng vĩ đại nhất lại là các người chăn chiên. Vào thời ấy giới mục đồng bị những người đạo đức coi khinh. Họ không có đủ khả năng để giữ trọn các chi tiết của bộ luật nghi lễ, họ không thể giữ đúng các nghi thức rửa tay tỉ mỉ và các luật lệ khác. Họ quá bận bịu săn sóc bầy chiên, vì thế giới đạo đức chính thống coi họ rất thấp kém. Sứ điệp của Thiên Chúa trước tiên đã đến với họ là những người đơn sơ nơi đồng ruộng.

Nhưng nhóm mục đồng này có lẽ là những mục đồng đặc biệt. Trong Đền Thờ sáng và chiều đến đều có một con chiên không tỳ vết được dùng làm của lễ dâng lên Thiên Chúa. Để lúc nào cũng sẵn có của lễ vẹn toàn và không tỳ vết ấy, các viên chức cai quản Đền Thờ nuôi riêng những bầy chiên của họ và các bầy chiên này được chăn ở gần Bêlem. Cho nên chúng ta có thể tin là nhóm mục đồng đó đang coi giữ những bầy chiên dành làm của lễ trong Đền Thờ.

Thật ý nghĩa biết bao khi nhóm mục tử coi sóc bầy chiên của Đền Thờ lại là những người được ngắm xem Con Chiên của Thiên Chúa là Đấng gánh lấy tội trần gian.

Kể từ khi nguyên tổ lỗi phạm điều Chúa cấm, và di truyền tội ác cho con cháu, loài người đều bị nhiễm nọc độc tội lỗi, vô phương cứu chữa, qua trung gian của Isaia, Thiên Chúa đưa ra lời kêu gọi: “Nào muôn dân khắp cõi địa cầu, hãy hướng về Ta, thì các ngươi sẽ được cứu độ, vì Ta là Thiên Chúa, chẳng còn Chúa nào khác nữa.” (45,22) và 1500 sau, Gioan đã xác minh lời hứa đó: “Vì Thiên Chúa đã yêu thương thế gian đến nỗi đã ban Con Một của Ngài, hầu cho ai tin vào Con của Người thì khỏi phải chết, nhưng được sống muôn đời” (Ga 3,16).

Nhân loại tội lỗi của chúng ta hôm nay chỉ có một phương pháp độc nhất để thoát khỏi xiềng xích tội lỗi là đến tìm gặp Chúa Giêsu.

Các mục đồng đang sống trong cảnh tối tăm, bị người đời khinh rẻ, nay được vui mừng hớn hở “vừa đi vừa ca tụng Thiên Chúa, về mọi điều đã được mắt thấy tai nghe” sau khi đã gặp được Hài Nhi trong máng cỏ, qua lời giới thiệu của các thiên sứ. Nathanaen được thoát khỏi các thành kiến cổ hủ để sống một đời sống mới tươi đẹp nhờ lời giới thiệu của người bạn Philipphê: “Hãy đến mà xem”.

Qua bốn sách Tin Mừng và suốt dòng lịch sử 20 thế kỷ qua biết bao cuộc đời đã được đổi thay nhờ đến với Chúa Giêsu.

Vậy những ai mà việc Chúa giáng trần đã tác động mạnh mẽ, những người lĩnh hội được ân huệ của Chúa ra đời không phải là những người cao sang quyền quý, tài rộng học cao hay được xã hội trọng vọng… nhưng chỉ là những người đã đến gặp gỡ Chúa Giêsu, và những người có năng lực nói được với mọi người rằng: Hãy đến xem.

Nhưng đến đâu? Có phải đến những cung điện nguy nga nổi tiếng do tay phàm nhân xây dựng? Đến một ngọn núi được dư luận coi là nơi chúc phúc? Đến Đền Thờ Giêrusalem nơi Xứ Thánh? Cũng vì những thành kiến đó, những đầu óc chuộng hình thức đó mà các nhà đạo sĩ đã lạc đường và mất ngôi sao hướng dẫn trong một thời gian khá dài. Chúa Giêsu đã phán dạy: “Nhưng giờ đã đến –và chính là lúc này đây- giờ những người thờ phượng đích thực sẽ thờ phượng Chúa Cha trongThần Khí và sự thật, vì Chúa Cha tìm kiếm những kẻ thờ phượng Người như thế. Thiên Chúa là Thần Khí và những kẻ thờ phượng Ngài phải thờ phượng trong Thần Khí và sự thật” (Ga 4,23-24).

Vậy thì đến đâu? Đến chỗ có Chúa Giêsu. Dầu chỗ ấy là máng cỏ chuồng chiên, là nhà tranh nghèo hèn, điều quan hệ là có Chúa Giêsu ở đó. Một gia đình ở khu ngoại ô Bêtania vẫn nồng ấm yêu thương vì có Chúa Giêsu ở đó hơn là Đền Thờ Giêrusalem nguy nga rực rỡ mà trống rỗng, chỉ chứa đầy những giai tầng trục lợi đầy đủ áo mão oai nghi.

Đến xem gì? Xem ánh đèn rực sáng long lanh, xem ngôi sao đuôi dài lấp lánh, xem cây thông đính đầy kim tuyến… Xem cung thánh tráng lệ chăng? Xem nghi lễ huy hoàng chăng? Xem đoàn người y phục sang trọng chăng? Không đâu, các điều ấy không đem lại gì có thể cứu rỗi ta, không ban cho ta một đời sống thoả lòng dài lâu được. Chỉ có Hài Nhi Giêsu và Ngài là Đấng Emmanuen, Thiên Chúa ở cùng chúng ta.

Bậc đại đức như cụ Simêon xưa, không thoả lòng vì tuổi cao vóc lớn, đạo cả đức dày, mà thỏa lòng vì mắt đã nhìn thấy Hài Nhi Giêsu. Khi được ẵm Hài Nhi Giêsu trong tay, lòng cụ sung sướng tuôn trào: “Muôn lạy Chúa, giờ đây, theo lời Ngài hứa, xin để tôi tớ này được bình an ra đi. Vì chính mắt con được thấy ơn cứu độ Chúa đã dành sẵn cho muôn dân: đó là ánh sáng soi đường cho dân ngoại, là vinh quang của Israel dân Ngài” (Lc 29,32).
Nhóm mục đồng đã rủ nhau đi xem điều thiên sứ đã loan báo, họ đã gặp được Chúa Hài Nhi và trở thành chứng nhân đầu tiên cho Tin Mừng Đấng Cứu Thế.

Lễ Giáng Sinh sẽ không đem lại gì cho bạn nếu bạn không gặp được Chúa Hài Nhi, Ngài luôn là Thiên Chúa-ở-cùng-chúng-ta nhưng nếu người không gặp được Ngài lại chính là bạn?

Gặp được Chúa và rồi loan báo Chúa, đó là việc các người chăn chiên đã làm, họ trở thành chứng nhân đầu tiên của Chúa Giêsu, còn bạn thì sao?

6. Lễ Giáng Sinh: Lễ Ban Ngày (Ga 1,1-18)

“Ngôi Lời là ánh sáng thật, ánh sáng đã đến thế gian và chiếu soi mọi người”

Chữ “rực sáng” xuất hiện trong Phúc Âm Gioan không dưới 21 lần. Theo Gioan Chúa Giêsu là ánh sáng của loài người. Hai lần Chúa Giêsu tự xưng là ánh sáng thế gian, lần thứ nhất sau vụ nhóm Biệt phái và Kinh sư dẫn người phụ nữ phạm tội ngoại tình để gài bẫy Chúa (Ga 8,12). Lần thứ hai sau khi Chúa chữa lành người mù bẩm sinh (Ga 9,5). Ánh sáng ấy đến giữa loài người để họ trở thành con cái của ánh sáng: “Ánh sáng còn ở giữa các ông ít lâu nữa thôi, bao lâu các ông còn có ánh sáng, hãy tin vào ánh sáng để trở nên con cái ánh sáng” (Ga 12,35-36).

Về Chúa Giêsu là ánh sáng, tác giả Gioan đã dùng một chữ đầy ý nghĩa để mô tả. Ông bảo rằng Chúa Giêsu là ánh sáng thật. Trong tiếng Hy lạp có hai từ rất giống nhau. Chữ thứ nhất Alethes có nghĩa là thật, đối lập với chữ giả. Chữ kia là Alethinos nghĩa là có thật, hay đích thật, đối lập với không thật.

Theo tông đồ Gioan, Chúa Giêsu là ánh sáng đích thực, soi sáng cho loài người, trước khi Chúa Giêsu đến, đã có những ánh sáng khác cho loài người noi theo, một số là những tia sáng chớp loé của chân lý, một số là những cái nhìn thoáng mờ về thực tại, một số khác nữa giống như những đốm lửa rơm dẫn loài người vào trong đêm tối rồi bỏ mặc.

Ngày nay điều này vẫn còn xảy ra, vẫn có những tia sáng mù mờ, vẫn còn những tia sáng giả tạo, và loài người vẫn bước theo chúng. Chúa Giêsu chính là ánh sáng đích thực duy nhất, là ánh sáng có thật để dẫn đường cho nhân loại.

Chúa Giêsu đã đem ánh sáng thật đến cho loài người. Sự giáng thế của Chúa Giêsu giống như một vùng ánh sáng chói chang, bắt đầu buổi bình minh. Một nhà du lịch kể lại, có lần ông đến nước Ý, đứng trên ngọn đồi nhìn xuống vịnh Naples, lúc ấy trời tối đen khiến ông chẳng thấy gì cả, nhưng thình lình, một tia chớp loé lên, và mọi sự bỗng được soi dọi rõ ràng đến từng chi tiết. Khi Chúa Giêsu đến thế gian, Ngài như vầng sáng chiếu dọi trong đêm tối.

1. Sự giáng thế của Chúa Giêsu xua tan bóng tối nghi ngờ

Khi Ngài chưa đến, thế gian chỉ suy đoán về Thiên Chúa. Theo người Hy lạp: “Thật khó biết về Thiên Chúa, mà nếu bạn có tìm biết Ngài, thì cũng không thể nói cho ai biết về Ngài”. Với người ngoại đạo, thì Thiên Chúa đang ở trong bóng tối dày đặc không ai thâm nhập được, hoặc Ngài đang ở trong một thứ ánh sáng chói loà không ai tới gần được. Nhưng khi Chúa Giêsu giáng thế, loài người được thấy Thiên Chúa phơi bày cách rõ ràng. Bóng tối, sương mù tan biến, những ngày đoán mò đã qua, người ta không cần phải mơ ước trong sự tối tăm ngu dốt nữa, ánh sáng đã đến.

2. Sự giáng thế của Chúa Giêsu xua tan bóng tối tuyệt vọng

Chúa Giêsu đã đến với một thế gian đang tuyệt vọng. Triết gia Seneca nói: “Loài người ý thức mình bất lực trước những điều cần thiết”. Họ đang trông chờ một bàn tay đưa xuống để nâng đỡ họ lên. “Họ ghét tội nhưng không lìa bỏ nó được”. Loài người bất lực, không thể làm cho mình và thế giới tốt hơn. Nhưng khi Chúa đến không chỉ đem kiến thức mà đem cả quyền năng nữa. Ngài đến không phải chỉ vạch ra con đường đúng cho nhân loại, mà còn giúp họ đi trên con đường đó. Chẳng những Ngài dạy bảo họ, mà còn có mặt trong mọi việc họ không làm nổi để giúp họ thực hiện. Bóng tối của bi quan và tuyệt vọng đã tan biến vĩnh viễn.

3. Sự giáng thế của Chúa Giêsu xua tan bóng tối sự chết

Thế giới thời cổ rất sợ sự chết. Loài người luôn bị trói buộc trong xiềng xích của sự sợ chết. Cách suy nghĩ tốt nhất cho rằng chết là hết, nhưng linh hồn người ta rùng mình trước ý nghĩ đó. Tệ hại nhất khi suy nghĩ chết sẽ bị quỷ thần hành tội, tra tấn nên người ta càng sợ hãi hơn. Nhưng bởi sự nhập thế, đời sống, sự chết và sống lại của Chúa Giêsu, sự chết chỉ là con đường dẫn loài người đến sự sống bao la hơn. Bóng tối của sự chết chỉ là con đường dẫn đến sự sống rộng lớn hơn. Bóng tối của sự chết đã tan biến. Trong truyện của Stevenson, ông mô tả một thanh niên thoát chết một cách lạ lùng trong cuộc đấu kiếm mà chàng nghĩ mình chắc chắn sẽ bị giết, lúc ra về lòng chàng vang lên bài ca “nỗi cay đắng của sự chết đã qua rồi”. Nhờ Chúa Giêsu, nỗi cay đắng của cái chết đã qua đi với mọi người.

Hơn nữa, Chúa Giêsu là ánh sáng đã soi sáng cho mọi người được sinh ra trên đời này. Thế giới thời cổ là một thế giới khép kín, hẹp hòi. Dân Do Thái ghét người ngoài bang và chủ truơng người ngoại bang được dựng nên chỉ để làm nhiên liệu cho lửa hoả ngục. Đúng, một tiên tri cô đơn đã thấy định mệnh của dân Israel sẽ là ánh sáng cho dân ngoại (Is 42,6.49,6) nhưng đó là định mệnh mà dân Israel đã dứt khoát khước từ. Thế giới Hy lạp chẳng bao giờ mơ ước tri thức được dành cho tất cả mọi người. Thế giới La mã khinh dể các dân sắc tộc, xem họ như những loài hạ đẳng, không có pháp luật. Nhưng Chúa Cứu Thế Giêsu đã đến để làm ánh sáng cho mọi người. Chỉ một mình Thiên Chúa là Cha của Chúa Cứu Thế Giêsu mới có tấm lòng lớn đã để chứa toàn thể thế gian.

7. Ngôi Lời là ánh sáng thật

Máng cỏ luôn làm cho chúng ta rúng động, vì đứng trước máng cỏ là đối diện với một Tình Yêu, một Tình Yêu mở ra bao la bát ngát. Cha đã mở ra bằng cách sai Con xuống thế làm người. Con đã mở ra bằng cách vâng phục ý Cha. Thánh Thần đã mở ra bằng cách tác động nơi lòng Đức Trinh Nữ.

Máng cỏ giúp ta gặp được Tình Yêu của Ba Ngôi, Tình Yêu không lùi bước trước sự khép kín của nhân loại. Đến Bêlem, chúng ta bắt gặp một Tình Yêu khiêm tốn. Thiên Chúa đã cúi xuống để tặng trao cho con người. Con Thiên Chúa làm người sinh nơi hang súc vật, không một chút hào quang: Ngài sinh ra trong đêm tối; không một chút quyền lực: Ngài là trẻ thơ khóc oe oe. Đấng siêu việt nay chịu giới hạn bởi thời gian. Đấng Tuyệt Đối lại mang một thân xác hữu hạn.

Tình Yêu khiêm tốn không làm chúng ta bị choáng ngợp. không ban bố một cách cha chú, nhưng biết gõ cửa và chờ đợi. Thiên Chúa giàu sang đã trở nên nghèo để chúng ta được trở nên giàu có (2Cr 8,9).

Hơn hai ngàn năm đã trôi qua kể từ khi Ngôi Lời đặt chân trên trái đất. Ngài đã thắp lên ánh sáng trong bóng đêm. Ngài chính là Ánh Sáng chiếu soi mọi người (Ga 1,9). Tiếc thay nhiều người đã chọn bóng tối, vì bóng tối dễ chịu hơn, đồng lõa hơn (Ga 3,19). Bóng tối ở ngoài tôi và bóng tối ở trong tôi. Ngôi Lời đã đến nhà của Ngài, nhưng người nhà chẳng chịu đón nhận (Ga 1,11).

Đức Giêsu còn phải nhập thể cho đến tận thế.

Truyền giáo là làm cho Ngài được sinh ra ở đây, hôm nay, trong dòng văn hoá truyền thống của dân tộc, trong những biến chuyển của đất nước thời mở cửa, trong thế giới đã bước qua năm 2000.

Sống mầu nhiệm Nhập Thể là trở nên một Maria khác, đón nhận Đức Giêsu vào đời mình, cưu mang Ngài, và sinh Ngài cho thế giới. Cuộc sinh hạ nào cũng bắt trắc và đau đớn. Xin thắp lên một ngọn nến từ Ánh Sáng của Ngôi Lời. Xin gom lại trăm triệu ngọn nến để đẩy lui bóng tối trên mặt đất.

8. Bình an từ trời

Kể từ ngày nguyên tổ chúng ta nổi loạn chống lại Thiên Chúa, bóng tối u buồn của tuyệt vọng ngày càng lan tràn trên mặt đất. Tuy nhiên, giữa cảnh bi thảm ấy, các tiên tri đã thoáng thấy niềm hy vọng về một Đấng Cứu Tinh sẽ xuất hiện, chỉ có Ngài mới có thể tái lập được vinh quang Thiên Chúa và đem lại hoà bình cho con người trên mặt đất này. Và giờ đây Ngài đã đến, hoà bình từ trời đã đến với chúng ta, Con Thiên Chúa đã đi vào thời gian và lịch sử nhân loại tội lỗi này. Ngài đã giáng sinh để đem lại cho nhân loại ơn tái sinh trong ơn thánh.

Chúng ta hãy đến gần máng cỏ với lòng hân hoan yêu mến. Hãy bước theo các mục đồng, các nhà đạo sĩ, và tất cả những ai có tâm hồn khiêm tốn nghèo khó. Đứng bên máng cỏ, chúng ta hãy nhận ra bài học mà Hài Nhi Giêsu muốn dạy chúng ta.

Con Thiên Chúa dấn thân sống kiếp lầm than để chỉ cho chúng ta con đường giải thoát. Được dựng nên trong sự giàu sang của kẻ làm con Thiên Chúa, lẽ ra con người được giàu có mọi mặt, nhưng khi đánh mất vinh quang Thiên Chúa, họ trở nên nghèo hèn, khốn khổ, và rồi từ đó họ trở thành đam mê, ích kỷ, tàn bạo, bóc lột nhau dưới mọi hình thức. Khi mang lấy thân phận làm người, Con Thiên Chúa cho thấy rằng hạnh phúc đích thực của con người không hệ tại giàu sang, quyền thế. Ngài cũng cho người nghèo khổ hiểu rằng họ là những người được Thiên Chúa đặc biệt yêu thương. Họ có thể giàu nếu họ muốn, bởi vì Thiên Chúa là của họ, và họ có thể gặp Ngài ngay trong chính cảnh nghèo của họ. Vì chính Ngài đã đến chia sẻ sự nghèo nàn lầm than của chúng ta.

“Ngài đã đến nơi nhà của Ngài, nhưng người nhà đã không đón nhận Ngài”. Còn những ai khiêm tốn đón nhận Ngài, thì Ngài ban cho họ có quyền làm con Thiên Chúa và làm anh em đích thực với nhau.

Chúa Kitô đã đến để giải thoát chúng ta, không phải bằng vũ lực, nhưng bằng tình thương. Còn gì an vui, hạnh phúc cho bằng tình yêu của một Thiên Chúa. Ngài yêu thương chúng ta và làm cho chúng ta yêu thương nhau. Tình yêu của Ngài thật hấp dẫn. Ai muốn hiểu tình yêu của Ngài hãy đến gần máng cỏ.


9. Niềm vui của thuở ban đầu.

Một Hài Nhi đã sinh ra cho ta, một Người Con được ban tặng cho ta. Vương quyền đặt trên vai Ngài. Người ta gọi Ngài là Sứ Giả Thiên Chúa.

Phụng vụ Thánh lễ hôm nay muốn kéo chú ý của chúng ta về một Hài Nhi, về một Người Con mà Thiên Chúa ban tặng cho nhân loại.

Trong công trình sáng tạo, sau khi tạo dựng vũ trụ, Thiên Chúa đã dựng nên con người giống hình ảnh Ngài, cặp nam nữ đầu tiên của lịch sử nhân loại mang thiên chức làm con Thiên Chúa với sứ mệnh thống trị mọi loài. Nhưng bất hạnh thay, con người vì bất phục đã đánh mất vinh quang làm con và trở thành nô lệ. Và kể từ khi tội nhập vào thế gian, không những con người, mà cả vạn vật đều mong chờ ơn giải thoát qua trung gian một Người Con mà hôm nay Thiên Chúa đã ban cho chúng ta.

“Giêrusalem hỡi! Hãy vui mừng. Sion hỡi! Hãy vui lên, vì này sứ giả của Thiên Chúa đã đến đem bình an cho chúng ta”.

Hài Nhi mà Đức Maria sinh hạ tại Bêlem được vấn tã và đặt nằm trong máng cỏ đó chính là sứ giả hoà bình. Hình dáng bên ngoài có vẻ yếu hèn, nhưng Isaia đã thoáng thấy đó là Vua, là Thiên Chúa ở cùng chúng tôi. Ngài là dấu hiệu cho biết Thiên Chúa đã đến cứu dân Người. Nói khác đi, Ngài là quyền năng của Thiên Chúa cứu độ đem niềm vui đến cho muôn loài.

Hài Nhi ấy chính là Đấng được Thiên Chúa đặt làm thừa kế vạn vật, bởi vì ngay từ khởi nguyên, Ngài vốn đã là Lời Thiên Chúa, hằng ở cùng Thiên Chúa và là chính Thiên Chúa. Toàn thể công trình sáng tạo đều được tác thành nhờ Ngài và trong Ngài. Ngài là ánh sáng huy hoàng, là hình ảnh bản thể của Cha. Ngài là ánh sáng sự sống chiếu soi nhân loại chìm trong bóng tối tội lỗi. “Ngài đã thành xác phàm ở giữa chúng tôi. Chúng tôi đã nhìn thấy vinh quang của Ngài, vinh quang như của Con Một tự nơi Cha, tràn đầy ân sủng và chân lý”. Nếu vinh quang của Hài Nhi sinh ra tại Bêlem là vinh quang của Con Một Thiên Chúa, thì những ai đón nhận và tin vào Ngài, họ cũng được vinh dự làm con Thiên Chúa. Suy nghĩ về điều này, thánh Gioan đã viết trong thư của ngài: “Anh em hãy xem Thiên Chúa yêu thương chúng ta dường nào đến nỗi chúng ta được gọi là con Thiên Chúa, và thực sự là thế”. Chính Chúa Giêsu cũng đã tuyên bố: Thiên Chúa đã yêu thế gian đến nỗi đã thí ban Người Con Một, để những ai tin vào Ngài thì được sống đời đời.

Phải có con mắt của thánh Gioan, phải có con mắt của Chúa Giêsu, người ta mới nhìn thấy giá trị tuyệt hảo của món quà mà Thiên Chúa trao tặng cho nhân loại. Món quà đó trọng hơn sự sống của mọi sinh linh, trọng hơn cả công trình sáng tạo, vì là chính Con Thiên Chúa, Trưởng Tử của mọi loài thọ sinh và là Vua Vũ Trụ.

Con người tự mình chỉ có một giá trị rất tương đối, nhưng khi được liên kết với Đức Kitô, con người bỗng nhiên trở thành giá trị tuyệt đối. “Toàn thể trái đất đã nhìn thấy ơn cứu độ của Thiên Chúa. Hãy hát lên bài ca mới mừng Chúa, vì Ngài đã làm những việc kỳ diệu. Alleluia, Alleluia”. Ngày thánh đã dọi chiếu trên chúng ta. Hỡi các dân, hãy đến thờ lạy Chúa, vì hôm nay, ánh sáng chan hoà đã toả chiếu trên địa cầu, đó là ánh sáng của Con Một Thiên Chúa, để tất cả chúng ta được nhìn thấy và trở nên con Thiên Chúa.

Thiên Chúa đã ban Con của Người cho chúng ta, để từ nay chúng ta có thể trực tiếp đối thoại với Người. Nhờ Chúa Kitô, từ nay chúng ta không còn sống trong sợ hãi nữa, nhưng sống như những người con và có quyền gọi Thiên Chúa là Cha. Chúa Kitô là ân sủng cao quý đã được ban cho chúng ta, dạy chúng ta biết từ bỏ tội lỗi và những ham muốn trần tục để sống đạo hạnh trong khi chờ đến ngày Chúa Kitô sẽ đến trong vinh quang.

Chúa Kitô đã được ban cho chúng ta để nhờ cuộc sống và giáo huấn của Ngài, chúng ta biết phải sống thế nào cho xứng với địa vị con cái Thiên Chúa. Điều đó đòi hỏi chúng ta phải dũ bỏ cuộc sống ích kỷ và tham gia vào mầu nhiệm Thập giá, luôn tìm đẹp lòng Thiên Chúa, để có thể thưa với Chúa như Chúa Kitô trước khi từ giã cõi đời: “Lạy Cha, con đã hoàn tất công việc Cha trao phó, con đã làm vinh danh Cha trên mặt đất, giờ đây, xin Cha tôn vinh con nơi Cha”.

Phụng vụ Giáng sinh giúp củng cố tinh thần nghĩa tử Thiên Chúa trong chúng ta, thúc đẩy chúng ta ngước nhìn lên ánh sáng cứu độ đã chiếu rạng và mỗi ngày trở nên giống Người Con mà Thiên Chúa đã trao ban cho chúng ta. Người Con ấy giờ đây muốn kết hợp mật thiết với chúng ta hơn trong Thánh Thể. Chúng ta hãy tiếp nhận Người với tất cả lòng yêu mến, biết ơn, nhờ đó, mỗi ngày chúng ta trở nên đẹp lòng Thiên Chúa hơn.

10. Chúa đến trong thinh lặng của đêm khuya (Lc 2,1-14)

Mỗi năm chúng ta lại long trọng mừng Lễ Giáng Sinh. Cho dù hoàn cảnh kinh tế khó khăn, chúng ta cũng cố gắng làm cho lễ này có một cái gì đặc biệt: trong trang trí, trong Phụng vụ. Thánh nhạc tại nhà thờ cũng như trong mỗi gia đình. Những cái đó cũng tốt, vì là dịp để chúng ta bộc lộ niềm vui bên trong, niềm vui mà Chúa Giáng Sinh đem đến cho chúng ta.

Nhưng chúng ta đừng để cho những hình thức bên ngoài, những ồn ào nhộn nhịp đó chiếm quá nhiều chỗ trong thời giờ, tâm trí, sức lực của chúng ta, lấn át và làm chúng ta quên đi sâu vào mầu nhiệm của lễ hôm nay: Trước khi trở thành lễ của vui chơi ồn ào, nhộn nhịp, Giáng Sinh là lễ của thinh lặng, thinh lặng của đêm khuya khi Con Thiên Chúa sinh xuống cõi trần. Chúng ta phải thinh lặng suy niệm và cầu nguyện thì mới đi vào sâu được mầu nhiệm và được ơn ích lâu bền, ơn ích sẽ còn lại cả sau khi tiếng hát đã ngưng, đèn nến đã tắt và hang đá máng cỏ đã dẹp đi. Vậy chúng ta hãy thinh lặng nhìn vào hang đá nghèo nàn, nhìn vào trẻ thơ yếu đuối nằm trong máng cỏ mà nhìn nhận đó chính là vị Cứu Tinh Thiên Chúa đã hứa, là chính Ngôi Lời nhập thể, là Con Thiên Chúa sinh xuống giữa loài người để cứu loài người khỏi tội lỗi và đưa về với Thiên Chúa.

Phải, Thiên Chúa đó, Đấng toàn năng sáng tạo muôn loài đó, Đấng làm chủ vận mạng chúng ta đó, Thiên Chúa không còn xa cách chúng ta, không còn chỉ ngó xuống từ trời cao để nhìn xem cuộc đời con người chúng ta đi tới đâu. Trái lại, Thiên Chúa đã làm người, đã nhập cuộc với chúng ta, đã mang lấy thân phận nhân loại, tất cả thân phận đó, kể cả đau khổ, đói khát, mệt nhọc, bị ngược đãi, ghét bỏ và chết một cách ô nhục. Đó chính là mầu nhiệm nhập thể. Chúng ta quá quen thuộc nên nhiều khi chỉ phớt qua, không còn thấy cái nghịch lý, ngược đời, lạ lùng trong đó: Thiên Chúa, Đấng vĩnh cửu, vô thuỷ vô chung, nay lại trở thành một con người hữu hạn mà kết thúc là cái chết. Thiên Chúa, Đấng sống trong hạnh phúc bất diệt, nay lại mang thân phận loài người khổ đau. Thiên Chúa, Đấng uy quyền khôn sánh, nay trở nên bé nhỏ, yếu đuối và lệ thuộc vào các biến động của lịch sử cũng như mọi người khác.

Trước mầu nhiệm lớn lao này, chúng ta phải bỡ ngỡ thán phục và tự hỏi: Tại sao lại có chuyện lạ lùng như vậy?

Câu trả lời chỉ có một: Đó là vì Thiên Chúa yêu thương loài người chúng ta đang đau khổ vì tội lỗi..ng chúng ta như những người lầm lũi đi trong tăm tối, nay được một ánh sáng lớn chiếu soi… (Bđ 1). Vâng, đó chính là tình cảnh của loài người: Vì không vâng phục Thiên Chúa, chúng ta đã sa vào tội lỗi, làm nô lệ cho Satan, đánh mất hạnh phúc. Vì vậy, nhân loại khác nào đi trong tối tăm, khác nào ngồi lầm than trong bóng tối. Thế nhưng, Thiên Chúa vẫn yêu thương muốn cứu vớt, và nhiều lần Ngài đã dùng miệng Ngôn sứ mà nói, nhưng sau cùng Ngài dùng chính Ngôi Lời Nhập Thể để nói lên điều đó: “Ta thương nhân loại”. Như vậy, Thiên Chúa đã nói hết rồi, đã nói lời sau cùng tha thiết nhất, mạnh mẽ nhất, khi Con Một đến trần gian làm người. Do đó, Ngài trình diện cuộc trao đổi kỳ diệu là: Con Thiên Chúa làm người, cho chúng ta, là người, được trở nên con cái Thiên Chúa. Thiên Chúa đã làm người để cho chúng ta thấy đâu là ý nghĩa đầy đủ của kiếp sống loài người: đó là khi con người sống theo đúng vận mạng của mình và tìm được hạnh phúc thật.

Đó là Tin Mừng Lễ Giáng Sinh, Tin Mừng Tình Thương mà đêm nay, trong những ngày này, chúng ta phải tiếp tục suy niệm trong thinh lặng. Đứng trước tình thương đó, chúng ta phải có thái độ nào?

• Trước hết, niềm hân hoan và một lòng biết ơn mãnh liệt vì đã được biết và hưởng nhờ mầu nhiệm Nhập Thể là nguyên do chính yếu của niềm vui hôm nay; những cái khác như vẻ rực rỡ nhộn nhịp của ngày lễ… chỉ là phụ thuộc. Chúng ta phải biết ơn và để cho tình thương của Thiên Chúa tràn ngập chúng ta, chiếm hữu chúng ta, đừng từ chối tình thương ấy; trái lại, đáp ứng cách đơn sơ thật. Khi đó bình an của Thiên Chúa sẽ đến với chúng ta: Bình an dưới thế cho loài người Chúa thương.

• Tiếp đến, chúng ta phải học đòi bắt chước tình thương đó. Như Thiên Chúa, chúng ta phải yêu thương mọi người, chia sẻ tình yêu với mọi người, tha thiết đến hạnh phúc của mọi người. Chúng ta mừng lễ Giáng Sinh mà còn giữ lòng hận thù, giữ lòng ích kỷ, thì thật chưa hiểu gì về Mầu Nhiệm Giáng Sinh. Trái lại, nếu chúng ta sống yêu thương, liên đới, quên mình vì người khác thì đó là chúng ta thấm nhiễm tình thương của Thiên Chúa, và như vậy chúng ta cũng làm chứng cho người khác, nhất là những người chưa biết Thiên Chúa, chưa tin rằng Tình Thương của Chúa đã đến trần gian và có sức đổi mới bộ mặt thế giới.

Trong Thánh Lễ hôm nay, Con Thiên Chúa Nhập Thể hiện diện với chúng ta cách đặc biệt trong Lời của Ngài. Ngài còn hiện diện trong Bánh Thánh để tự hiến cho chúng ta, để biến đổi chúng ta ngày càng trở nên những người con đích thực của Thiên Chúa và được tràn ngập niềm vui của Ngài.

11. Ánh sáng đã xuất hiện (Lc 2,15-20)

Hai em học sinh nói chuyện với nhau, một em hỏi người bạn của mình:

Đố bạn, bạn có biết lễ gì trên thế giới mà hầu hết mọi người đều biết và vui mừng không? Người bạn kia ấp úng trả lời: “Đó là lễ Giáng Sinh của đạo Thiên Chúa mình đấy”.

Niềm tự hào của em bé đó cũng có thể là niềm tự hào thầm kín của mọi người chúng ta. Lễ Giáng Sinh là một lễ được nhiều người biết đến, được nhiều người vui mừng chờ đón như một lễ hội chung của con người trên trái đất nầy. Nhưng bên cạnh những vẻ hào nhoáng vui mừng của ngày lễ, điều mà chúng ta phải tự hỏi, nhất là đối với những người Kitô hữu chúng ta, đó là mấy người trong chúng ta đã hiểu và sống ý nghĩa của mầu nhiệm mà lễ Giáng Sinh muốn bày tỏ.

Lời nguyện, bài đọc 1 và 2 của Lễ Rạng Đông hôm nay đều ca ngợi Đức Kitô là ánh sáng, là vinh quang của Thiên Chúa. Ánh sáng và vinh quang đó đến với con người không có một mục đích nào khác hơn là để dẫn con người ra khỏi bóng tối của sự chết, dẫn tới nguồn ánh sáng chân thật và nguồn hạnh phúc vĩnh cửu.

Nhưng tại sao ánh sáng và vinh quang ấy không được tỏ cho tất cả mọi người, mọi thành phần trong xã hội, mà –như trong Tin Mừng hôm nay- Chúa chỉ tỏ cho những người đơn sơ, bé mọn, nghèo hèn là các mục đồng. Chỉ có những mục đồng nghèo hèn này mới nhận ra Chúa trong thân phận nghèo hèn giống như họ. Còn những người khác, họ đã chờ đón Chúa, nhưng khi Ngài đến thì họ lại không nhận ra và đón tiếp. Thế nhưng, nếu có ai nhân danh chính họ mà đến trong vinh quang trần thế, thì họ sẽ đón tiếp nồng nhiệt (x.Dcr 5,43-44). Con người luôn có một khuyết điểm, họ thường áp đặt lên Thiên Chúa những điều mà họ tưởng là của Thiên Chúa, nhưng thật ra lại chính là của họ. Trong khi luôn mải mê chạy theo những vinh hoa, phú quý thì người ta không thể nào chấp nhận một Đấng Cứu Thế xuất hiện một cách quá tầm thường giữa những người tầm thường. Người ta quan niệm Thiên Chúa là Đấng thánh thiện, cao cả, vinh quang và uy quyền –giống theo kiểu loài người- Cho nên, người ta không thể nào tin nơi con trẻ sinh ra trong chuồng bò kia, con của bác thợ mộc và bà Maria trong xóm nghèo Nagiaret lại có thể là chính Thiên Chúa làm người được. Người ta quên rằng vinh quang trần thế thường làm cho người ta chia rẽ, tranh giành, chém giết nhau. Còn vinh quang và uy quyền của Thiên Chúa không phải để huỷ diệt, để phân rẽ, mà là ánh sáng ban sự sống, là sức mạnh của tình yêu để cải hoá chúng ta.

Thiên Chúa đã làm người. Sự sống và tình thương, ánh sáng và vinh quang của vị Thiên Chúa làm người đó vẫn được tiếp tục ban cho chúng ta. Nhưng chỉ những ai sống khiêm tốn, nghèo khó, sống yêu thương mới có thể nhận biết và đón nhận Ngài.

Đức Giáo Hoàng Gioan XIII kể lại rằng: Một trong những Lễ Giáng Sinh ý nghĩa nhất trong đời Giáo Hoàng của ngài, đó là Lễ Giáng Sinh đầu tiên khi ngài mới được bầu làm Giáo Hoàng. Theo một thông lệ đã có từ lâu đời trong Giáo Hội, vị Giáo Hoàng nào cũng phải tự giam giữa những bức tường của điện Vatican, không được đi lại tự do, đó là một điều vô lý. Ngài cứ suy nghĩ mãi và cuối cùng ra một quyết định khiến các chức sắc thân cận ngài phải sửng sốt: “Vào ngày Lễ Giáng Sinh, tôi muốn đi thăm các trẻ đau yếu tại bệnh viện Chúa Giêsu Hài Đồng –Lễ Giáng Sinh là lễ của nhi đồng thì tại sao môt vị Giáo Hoàng lại không được phép đi thăm các em nhi đồng?”. Thế là vị Giáo Hoàng được mệnh danh là người cha hiền từ, đã phá vỡ thông lệ cố hữu để đến gặp gỡ một cách thân mật với các em nhi đồng. Vừa thấy bóng dáng ngài, các em đã réo gọi ngài bằng tên Gioan như một người bạn thân. Ngài chuyện trò thân mật với các em, ngài ngồi bên cạnh một em bé vừa mới bị thương. Đó là Lễ Giáng Sinh đẹp nhất trong đời của Đức Giáo Hoàng Gioan XIII và cũng là ngày vui nhất đối với các em nhi đồng.

Chúng ta có thể sẽ lên án những người đi trước chúng ta là đã không nhận ra và không tiếp nhận Chúa. Nhưng, mãi mãi chúng ta sẽ chẳng bao giờ được hưởng ánh sáng của mầu nhiệm nhập thể và thông truyền cho người khác như các mục đồng xưa kia và ngày lễ hôm nay sẽ trải qua vô ích, sẽ chỉ là những hình thức trống rỗng bên ngoài, nếu chúng ta chưa mặc lấy cho mình một tâm tình khiêm tốn và yêu thương. Bao lâu chúng ta còn lo mải mê chạy theo những vinh hoa phú quý, những lợi lộc vật chất, những thú vui trần tục, mà quên đi những giá trị tinh thần, bao lâu chúng ta vẫn còn sống một cách ích kỷ chỉ nghĩ đến bản thân mình hoặc khinh miệt những người thấp kém, nhỏ bé hơn mình, mà không kính trọng, sẵn sàng yêu thương, giúp đỡ san sẻ những gì mình có, thì những điều đó chứng tỏ rằng chúng ta chưa nhận ra và chưa đón nhận “Đấng Thiên Chúa làm người”. Vậy hôm nay chúng ta hãy chứng tỏ chúng ta đã gặp và sẵn sàng tiếp nhận Đấng Cứu Thế bằng những hành động cụ thể; tỏ lòng tôn trọng đối với những người bé nhỏ, nghèo hèn thường bị khinh thường, coi rẻ; tỏ tình yêu thương với những người chung quanh chúng ta bằng những lời nói và việc làm. Nhưng không phải chỉ hôm nay, mà mãi mãi như vậy.

12. Nhường chỗ cho Chúa (Ga 1,1-18)

Hôm ấy, vào đêm vọng Giáng Sinh, trong một trường giáo dục trẻ em tàn tật ở Mỹ, người ta cho các trẻ em diễn một hoạt cảnh Giáng Sinh, trước sự hiện diện của phụ huynh và ân nhân. Vở kịch có ba màn. Màn đầu diễn ra ở Nagiaret, với sắc lệnh của Hoàng đế Cêsarê Augustô. Màn hai diễn lại cảnh Thánh Giuse và Mẹ Maria vào quán trọ, bị chủ quán xua đuổi. Màn ba là cảnh hang lừa máng cỏ. Ban giám đốc và các phụ huynh rất lo âu cho các trẻ, sợ chúng diễn xuất vụng về. Nhưng màn đầu diễn tiến khá lắm. Qua màn hai, người ta thấy Giuse và Maria gõ cửa quán trọ. Nhìn Giuse thì nghèo nàn, Maria thì bụng mang dạ chửa, chủ quán đưa tay xua đuổi lia lịa, miệng thao thao:

Không có chỗ, không có chỗ! Hai vợ chồng năn nỉ, với nét mặt âu sầu. Chủ quán hơi lưỡng lự, những rồi cũng đọc hàng chữ ghi trên quán: Không còn chỗ. Cảnh van xin và từ chối lại diễn ra một lần nữa. Và lần này hai ông bà có vẻ tha thiết nài xin. Chủ quán trẻ cũng vẫn đưa tay từ chối. Nhưng vừa bắt đầu mấy tiếng: “Tôi đã nói rằng hết… thì em không tiếp tục nói thêm được nữa. Tay em giựt xuống tấm bảng: Không còn chỗ. Và nghẹn ngào thổn thức trong nước mắt: “Con xin nhường phòng con cho hai ông bà!”.
Trước cảnh bất ngờ đó, giáo viên đạo diễn tỏ ra bực bội, lúng túng và cho ngưng diễn. Nhưng toàn thể khán giả đều cảm xúc ra mặt, vì cái vẻ hồn nhiên trong trắng của em bé tốt bụng. Cử chỉ, ngôn ngữ và cung cách của em nói cho mọi người hay ý nghĩa thực sự của Lễ Giáng Sinh.

Tất cả mọi người chúng ta, cách nầy hay cách khác, đang đóng vai người chủ quán. Chúng ta dang rộng tay đón tiếp kẻ này, vung tay xua đuổi kẻ khác. Chúng ta hãy tự vấn lương tam để hỏi mình: Tôi có phải là người chủ quán ngày xưa, đã xua đuổi Thánh Giuse và Mẹ Maria trong đêm tịch mịch cô đơn không? Hay tôi là đứa bé tàn tật đóng vai chủ quán trong vở kịch hôm ấy? “Con xin nhường phòng con cho hai ông bà”. Có lẽ chúng ta cũng treo một tấm bảng: Không rảnh, bận việc, tức là bằng những hành động thiếu tế nhị, những cử chỉ thiếu mềm mại, những giọng nói thiếu dịu dàng, làm cho người khác hiểu rằng: Ta không muốn bị quấy rầy, ta bận rộn quá hay mệt nhọc quá. Nếu chúng ta là những người chỉ ân cần đến những kẻ giàu có, những vị chức quyền, thì ta coi chừng, có khi chúng ta đã quay lưng cho Thánh Giuse và Mẹ Maria, và vô hình chung, chúng ta cũng trở lưng cho cả Đức Giêsu. Vị Cứu Chúa đang nương náu trong cung lòng Mẹ. Vâng, ở đời có những hạng người giả điếc làm ngơ, không lay chuyển trước những van xin của người khác. Nhưng có kẻ lại tự nghĩ rằng mình luôn dành một chỗ cho người khác. Ước gì khi nghe đọc lại Lời Chúa: “Bà Maria bọc con trẻ trong khăn vải và đặt nằm trong máng cỏ”, mỗi người chúng ta quyết tâm sẽ không bao giờ xua đuổi Chúa ra khỏi cõi lòng chúng ta, khỏi gia đình chúng ta.

Hơn nữa, Lễ Giáng Sinh là lễ đoàn tụ gia đình. Mỗi người cũng sẽ nói với cha mẹ: Thưa ba, thưa má, đây lòng con, ba má có một chỗ trong đó. Thưa anh, thưa chị, thưa chú bác cô dì, nếu có lần nào cháu đã ơ hờ lạnh nhạt, thì giờ đây, xin nhớ rằng, vẫn còn có chỗ nào trong lòng cháu cho quý vị. Ngoài ra, Lễ Giáng Sinh là lễ tha thứ và hoà giải. Chúng ta hãy nói với những người thù ghét chúng ta, những người không thông cảm với chúng ta rằng: “Xin hãy tha thứ những lầm lỗi của tôi, vì lòng tôi vẫn còn chỗ dành cho các bạn”.

Người ta kể rằng: Mẹ Têrêsa thành Calcutta, đã giúp trên nửa triệu người nghèo khổ đói rách, giúp họ hồi phục nhân phẩm, vì bà đã luôn luôn dành trong lòng mình một chỗ riêng cho họ.

Lễ Giáng Sinh còn là một lễ san sẻ. Vì thế mà các nước đã hấp thụ nền văn minh Kitô giáo có truyền thống chúc mừng nhau qua những thiệp Giáng Sinh, gởi cho nhau những món quà mang đầy ý nghĩa, tổ chức những buổi liên hoan, chia sẻ tấm bánh, ly rượu… Thánh Gioan đã nói: “Ngôi Lời –Con Thiên Chúa đã đến trong nhà Ngài mà người nhà đã không tiếp nhận Ngài”. Còn đối với những ai tiếp nhận Ngài thì được trở thành Con Thiên Chúa và sẽ nhận thấy vinh quang của Thiên Chúa.

Những người trong thành Bêlem năm xưa vì tham tiền tài, của cải, danh vọng; họ đã thiếu vắng tình thương, không nhận ra nỗi thống khổ của những người khách lỡ đường, đã xua đuổi anh chị em, và đó cũng chính là xua đuổi chính Con Thiên Chúa, Đấng Cứu Độ.

Thế nên, trong vui ngày Chúa Giáng Sinh, khi đứng trước máng cỏ, khi chiêm ngưỡng Hài Nhi mới sinh, với ánh sáng của niềm tin vào Lời Chúa, chúng ta cần khám phá ra tình yêu thương bao la của Thiên Chúa đối với con người. Vì yêu thương nhân loại, Thiên Chúa vĩ đại đến nơi cô thế, trở nên bé nhỏ để chúng ta có thể đổi mới cuộc đời, trở nên chứng nhân ánh sáng Tin Mừng của Chúa cho tha nhân, để khắp cùng bờ cõi trái đất sẽ nhìn thấy ơn cứu độ của Thiên Chúa và cho niềm vui của chúng ta hôm nay nên trọn vẹn.

Qua sự im lặng, người Mẹ trẻ đã cho thấy sự hân hoan được diễn tả trong bài Thánh ca ngợi khen của Mẹ nay nhường chỗ cho một sự suy niệm đầy an bình, và việc các mục đồng trở về với đời sống thường nhật quen thuộc giúp chúng ta nhận ra được là việc khám phá ra Chúa không có nghĩa là phải có sự thay đổi hoàn cảnh bên ngoài, nhưng là sự biến đổi sâu xa trong lòng.

Vì thế, trong cảnh trí này, nổi bật một sự mâu thuẫn:

Chúa Giêsu bị che dấu nay lại tỏ hiện, bị hạ xuống, nhưng rồi được tôn vinh; trao cho hai tạo vật yếu đuối săn sóc, nhưng được các thiên thần canh giữ; yếu hèn thực đó, nhưng lại là vị cứu tinh nhân loại. Hoàn toàn là người trong mọi sự, nhưng rạng ngời ánh quang của Thiên Chúa.

Trình thuật Kinh thánh nhấn mạnh trên sự mâu thuẫn này là giới thần thiêng đã đi sâu vào sự thấp hèn của nhân loại, nhưng qua đó lại chiếu ngời lên để tôn vinh Thiên Chúa.

13. Đêm Thánh

Vì sao gọi lễ cử hành hôm nay là “Đêm Thánh”? Nói cho ngay, về lịch sử, ta không có cơ sở nào để khẳng định rằng Hài Nhi Giêsu đã chào đời vào ban đêm. Đành rằng chúng ta có bản trình thuật kể chuyện các mục đồng canh giữ súc vật trong đêm tối và họ nghe sứ điệp từ trời báo tin về cuộc sinh hạ của Đấng Cứu Thế, nhưng tự nó, bản trình thuật ấy cũng không phải là bằng chứng cho phép ta kết luận rằng Đức Giêsu đã sinh ra vào ban đêm. Thế nhưng, truyền thống Kitô giáo vẫn luôn cho rằng cuộc chào đời hồng phúc này của Đấng Cứu Thế đã diễn ra trong một đêm tối. Người Đức thậm chí hội nhập niềm xác tín ấy vào chính tên gọi của lễ mừng: Weih-nacht (Đêm Thánh). Vì sao?

• Đêm tối, đối với con người, vẫn có hai khía cạnh. Nó mang một ý nghĩa kép, một ý nghĩa “hàm hồ”- cũng như hầu hết mọi yếu tố khác trong cuộc đời này. Đêm tối gợi lên một cái gì thâm u, huyền bí, là thời gian mà không ai có thể làm việc- như Đức Giêsu nói đến trong Thánh Kinh. Đêm tối được cảm nhận gần như là sự chết. Đêm tối là bất định, bất quyết và hiểm nguy. Đêm tối là trùng khơi mịt mù. Vì thế, trong cảnh vực tôn giáo, đêm tối mang đầy ý nghĩa biểu tượng. Trong Thánh Kinh, đêm tối tượng trưng cho thời gian bất tín và tội lỗi, thời gian Chúa đến thăm và phán xét. Vì thế, Kitô hữu phải là con cái của ban ngày, họ phải chiếu sáng như những vì sao trong bóng đêm – để không bị bất ngờ bởi vị thẩm phán đến thình lình như kẻ trộm giữa đêm khuya. Chúng ta phải tỉnh thức, chúng ta không được ngủ say, chúng ta phải trỗi dậy và bước đi như thể đang bước đi giữa ánh sáng ban ngày.

• Nhưng trong cảm nhận của con người, cũng được hàm chứa trong Thánh Kinh, đêm tối còn có một khía cạnh khác nữa. Đêm tối là lúc thinh lặng và rút lấy sức mạnh. Đó là lúc chỉ còn mình với mình, sẵn sàng đợi chờ và cho phép mọi sự triển nở, lớn lên. Chính vào lúc nửa đêm mà người ta nghe tiếng kêu: “Kìa chàng rể đến!”. Đêm tối trong Thánh Kinh còn là thời gian của những giấc mơ hướng vọng trời cao. Đêm tối là thời gian thoát ly khỏi những ràng buộc của nhịp sống ban ngày, nên đó là thời gian cầu nguyện – vì thế, Đức Giêsu đã trải qua những đêm trắng cầu nguyện cùng Cha. Đêm tối được nhìn nhận như công trình của Thiên Chúa – và tác giả Thánh vịnh có thể thốt lên: “Ngày là của Chúa, đêm cũng là của Chúa…” (Tv 74,16). Daniel (3,71) kêu gọi đến bóng đêm chúc tụng Thiên Chúa – và theo tác giả Thánh vịnh, “đêm này kể lại với đêm kia” sứ điệp về vinh quang Thiên Chúa (19,3), cũng như trời xanh mênh mông nhắc cho ta về sự vĩ đại của Ngài.

Tại sao chúng ta có thể cảm nhận về đêm tối theo những chiều hướng khác nhau như thế? Chúng ta kinh nghiệm đêm tối như một sự bắt đầu, như một cái gì đó vẫn còn bất định, nhưng cái đến sau đêm tối thì hết sức rõ ràng: đó là một bình minh rực rỡ! Tuy nhiên, sự bắt đầu và những khả năng ẩn chứa trong sự bắt đầu ấy thường rất bấp bênh - như một lời hứa nghe thật hay nhưng chưa được thực hiện, như một triển vọng to lớn nhưng chưa hiện thực, như một kế hoạch tuyệt vời nhưng chưa được triển khai… Tất cả đều còn đó ý nghĩa hàm hồ: vừa đầy hứa hẹn lại vừa đầy đe doạ, dự phóng sẵn đó rồi mà mục tiêu còn quá xa xôi và không chắc sẽ có ngày hoàn tất… Nhưng nếu có một đêm tối mà cái khởi điểm vô định lại mang sẵn trong mình nó sự chắc chắn hoàn thành, nếu có một đêm tối mang sẵn trong mình nó mối bảo đảm khải thắng, nếu có một đêm tối mở ra lời hứa song đồng thời cũng là lời hứa được lấp đầy … thì đêm ấy hẳn phải là Đêm Thánh. Đêm! Vì chỉ mới khởi đầu thôi. Đêm Thánh! Vì đây là một khởi đầu hồng phúc và tất thắng. Với một đêm như thế, chúng ta phải thốt lên: Ôi, Đêm Thiêng! Đêm Thánh! Như bài ca nào đó đã trở thành bất hủ: “Đêm Thánh vô cùng. Giây phút tưng bừng…”.

Không phải tình cờ mà vào thế kỷ thứ tư, lễ này được đặt vào đúng thời điểm mà thiên nhiên – cách riêng mặt trời – bắt đầu lại chu kỳ của nó. Thời ấy, người ta gán sự bắt đầu của “Mặt Trời Công Chính” (danh hiệu của Đấng Cứu Độ chúng ta theo sấm ngôn) cho ngày natalis solis invicti của dân ngoại, tức lễ mừng sinh nhật “thần mặt trời bất khuất”.

Một gán ghép vô cùng chính xác! Vì đây là phút giờ thánh thiêng. Đức tin cho các Kitô hữu biết rằng: Đây là sự khởi đầu. Thiên Chúa, từ ánh sáng chói lọi ‘khủng khiếp’ của Ngài, đã đến với chúng ta – thật lặng lẽ, thật êm dịu. Ngài đó, Thiên Chúa đó, đã âm thầm bước vào cõi dương trần khốn khổ của chúng ta. Ngài đã làm người, và Ngài bắt đầu một kiếp người y như chúng ta: rất bé nhỏ, rất mong manh, yếu ớt, bất lực. Ngài là tương lai vô cùng thăm thẳm mà chúng ta không bao giờ có thể tự mình vươn tới được – bởi vì, trên con đường gập ghềnh của cuộc sống mình, ta càng sấn đến, chân trời ấy càng lùi xa. Nhưng chính Ngài đã đến với ta, đã đến ở giữa ta – vì nếu chẳng vậy, ta sẽ không bao giờ có thể đến được với Ngài.

Ngài đồng hành với chúng ta trên con đường chúng ta đi về với Ngài – nhờ đó, con đường chúng ta đi chắc chắn có một đích điểm hồng phúc. Kỳ thực, đích điểm ấy đã hoá nên khởi điểm của chúng ta rồi. Thiên Chúa đã ở bên ta. Lời ân phúc vĩnh cửu của Ngài đã ở giữa chúng ta. Lời ấy gieo bước hành trình với ta, cảm nghiệm niềm vui nỗi buồn của ta, sống cuộc sống và chết cái chết của ta. Ngài đã cứu chuộc ta, bằng con đường san sẻ chính số phận của ta. Ngài lấy khởi điểm của ta làm khởi điểm của Ngài. Ngài bước đi trên con đường định mệnh của ta và – qua đó – mở định mệnh ấy ra tới tầm vô hạn của Thiên Chúa. Và bởi vì Ngài dứt khoát chấp nhận chúng ta, bởi vì Ngôi Lời Thiên Chúa sẽ không bao giờ ngừng là người, nên khởi điểm này – của ta và của Ngài – là khởi điểm của những lời hứa không thể xóa nhoà, và sự bắt đầu lặng lẽ của Ngài trong đêm tối ấy đã làm cho nó trở thành Đêm Thánh Thiêng!

Cử hành Giáng Sinh là cử hành mầu nhiệm Đêm Thánh ấy. Con tim chúng ta phải lắng đọng, thanh thoát, và phải mở rộng ra như quả tim của một trẻ thơ chưa hề biết khép lại trước bất cứ khả tính nào của hiện hữu mình, nhưng hoàn toàn sẵn sàng đón nhận tất cả…

Chúng ta phải dám ôm lấy sự yên lặng thâm u này vào tận đáy hồn mình bằng cách không chạy trốn vào công việc làm ăn, vào những cuộc chè chén hay những câu chuyện gẫu lê thê mà ta dùng để tránh né chính mình và tránh né mầu nhiệm phủ xuống trên mình (bởi vì – do lạ lẫm – chúng ta đâm ra hoảng sợ trước mầu nhiệm của tình yêu vô hạn ấy). Đêm Thánh là đêm mà cả cuộc sống của chúng ta cũng trở thành thánh thiêng; chúng ta không được phép xúc phạm đến Đêm Thánh bằng những cuộc vui quá đỗi trần tục. Tính cách chân tình, giản dị, hồn nhiên – vốn hoàn toàn phù hợp với Lễ này – cũng phải giữ cho được sự trong suốt trước mầu nhiệm khôn tả, mầu nhiệm làm cho người ta thân tình sâu xa với nhau và trao cho họ lời hứa xuân xanh mãi mãi.

Lễ Giáng Sinh phải được cử hành như nó đáng được cử hành, nếu không, nó sẽ tha hoá thành một lễ hội thuần tuý trần tục. Trong thinh lặng của Đêm Thánh cô tịch này và trong lòng dạt dào cảm mến, chúng ta chấp nhận rút vào trong đáy lòng mình tất cả những con người, những sự vật, những loay hoay căng thẳng vốn thường dễ che khuất không cho ta nhìn cái vô cùng – chỉ khi ấy chúng ta mới có thể cử hành Lễ Giáng Sinh đúng nghĩa. Đôi khi, ít nhất là trong một khoảnh khắc ngắn ngủi nào đó, người ta dập tắt những ánh sáng trần tục vốn che khuất không cho phép mình nhìn thấy sao trời, và người ta đặt mình trước sự hiện diện kỳ diệu khôn tả của Thiên Chúa, sự hiện diện “lên lời” bằng chính cái thinh lặng của nó, và ta chỉ có thể ‘nghe’ được nếu biết lắng nghe. Chúng ta hãy cảm nhận như khi một mình bước đi dưới bầu trời đêm đông đầy sao; Chúng ta vẫn nghe bịn rịn nhớ nhung hơi ấm của người thân và của tất cả những gì quen thuộc dưới mái nhà mình, nhưng phía trên đầu chúng ta là bầu trời, và trong sự yên ắng ấy của màn đêm (sự yên ắng mà vào những lúc khác có thể làm cho chúng ta kinh sợ), chúng ta bắt gặp sự hiện diện lặng lẽ của mầu nhiệm vô cùng: mầu nhiệm hiện hữu của mình, mầu nhiệm vừa đầy ắp tình yêu cứu độ vừa lớn lao khôn dò.

Giáng Sinh là Đêm Thánh! Cái tương lai vô cùng đã đi vào trong thời gian của chúng ta rồi. Ánh sáng chói loà của nó vẫn còn tràn ngập chúng ta. Và ta nghĩ chắc hẳn Chúa đã ra đời vào một đêm tối! Dù gì đi nữa thì đó cũng là đêm, một đêm hồng phúc, một đêm ngập tràn hơi ấm và ánh sáng, một đêm rất tuyệt diệu và rất thực – bởi không gì chắc chắn bằng ngày vĩnh cửu mà đêm này cưu mang trong mình nó. Tuy nhiên, đêm này chỉ là Đêm Thanh, Đêm Thánh cho chúng ta nếu chúng ta đón nhận sự yên lặng thánh của đêm này vào trong trái tim mình, nếu trái tim chúng ta thức tỉnh.

Sự yên lặng và cô tịch ấy nào quá gay go! Cái khó, nếu có, là cái khó chung của mọi điều cao cả: nó vừa thật đơn giản vừa rất lớn lao! Không khó, vì dĩ nhiên cái cô tịch vốn nằm sẵn trong ta. Trong trái tim ta vốn có một vùng sâu kín của riêng mình, một vùng mà không ai có thể dò dẫm tới ngoại trừ Thiên Chúa. Nơi sâu thẳm ấy thực có đó. Vấn đề là chúng ta ngu ngơ sợ hãi và tránh né nó – ta sợ, vì không ai và không gì quen thuộc trên đời này có thể đi theo mình nếu mình bước chân vào vùng đất ấy! Nào, đừng sợ nữa, hãy lặng lẽ bước vào và đóng cửa lại phía sau mình. Hãy lắng nghe giai điệu vô ngôn vang lên trong yên ắng của màn đêm cô tịch.

Ở đó, linh hồn ta tấu lên với Thiên Chúa khúc ca trầm lắng nhất và nồng nàn nhất. Và ta tin chắc rằng Ngài đang nghe mình rất rõ. Vì khúc ca ấy không còn phải kiếm tìm đến một Thiên Chúa trên trùng khơi thăm thẳm chẳng thể nào dò tới được. Chúa đã giáng sinh rồi, Ngôi Lời đã trở thành xác phàm, nên Ngài đang ở ngay đây – và lời nói thầm thì nhất trong đáy lòng ta, lời nói tỏ tình, sẽ được Ngài lắng nghe rất rõ. Và những ai đã bước vào trong cõi cô tịch của lòng mình như thế, ngay cả dù tối tăm thăm thẳm, nhất định sẽ nghe được tiếng thầm thì yêu thương của Ngài. Nào, đừng sợ đêm tối nữa, và hãy lắng hồn xuống. Nếu không, chúng ta sẽ chẳng nghe gì. Vì tiếng nói cuối cùng chỉ cất lên trong sự yên lặng của đêm tối – đêm tối đời ta – qua sự xuất hiện hồng phúc của Ngôi Lời. Ngài đã đến rồi đây.
  Đêm Thánh vô cùng…
  Giây phút tưng bừng…

14. Nghèo

Nhìn vào cảnh đơn sơ, tiều tụy của hang đá, tôi muốn chia sẻ một vài ý nghĩ đơn sơ về sự nghèo khó.

Sống trong cuộc đời, nỗi bận tâm day dứt nhất của nhiều người, đó là kiếm tiền. Chúng ta tính toán, chúng ta đôn đáo chạy ngược, chạy xuôi, chúng ta sẵn sàng chịu đựng mọi vất vả miễn sao tìm cho được nhiều tiền lắm bạc. Nào là những giọt mồ hôi đổ xuống trên ruộng đồng cho cây lúa kết trái. Nào là những thùng nước đè nặng đôi vai gầy, tưới cho thửa hoa mầu được xanh tươi. Nào là những tiếng máy nổ chát chúa trong bầu khí nóng bức của xưởng thợ…Chúng ta vui vẻ chấp nhận để tìm kiếm những đồng tiền mà dường như mỗi lúc một trở nên khan hiếm.

Sở dĩ như vậy là vì ai cũng hiểu rõ những giá trị của đồng tiền. Phải, tiền bạc sẽ thỏa mãn những nhu cầu cần thiết:
  - Có tiền mua tiên cũng được.
Tiền bạc tạo nên công lý:
  - Nén bạc đâm toạc tờ giấy.
  - Miệng nhà giàu có gang có thép.

Tiền bạc làm ra tình nghĩa:Thấy người sang bắt quàng làm họ. Bần cư chung thị vô nhân vấn, phú tại sơn lâm hữu khách tầm. Nghèo mà ở giữa chợ cũng chẳng ai hỏi. Còn giầu mà ở tận rừng núi cũng vẫn có người tìm đến.

Chính vì thế, chúng ta thường cầu chúc cho nhau tiền rừng bạc biển, đồng thời nai lưng ra để thực hiện cả ước vọng làm giầu. Cho dù đồng tiền có thế nào chăng nữa, thì chúng ta cũng vẫn cứ chất cho đầy túi:
  Hôi tanh chẳng thú vị gì,
  Thế mà cũng lắm kẻ vì người yêu.
  Hay như người ta thường nói: Tiền là tiên là phật, là sức bật của tuổi già, là cái đà của danh vọng, là cái lọng để che thân, là cán cân của công lý.

Trái lại, nghèo túng quả là một tai họa cần phải lẩn tránh, là một cái gì đáng nguyền rủa. Tối hôm qua, tôi đứng nói chuyện với một anh bạn trẻ, tôi hỏi:
  - Thế nào, sắp sửa vợ con gì chưa? Bao giờ thì cho thiên hạ ăn cỗ đấy?
Anh mỉm cười trả lời:
  - Nghèo rớt mùng tơi như con thì ai thèm mà lấy.

Mặc dù tôi biết đó chỉ là một câu nói vui, nhưng cũng phản ảnh được phần nào sự thật. Trước hết, nghèo túng dễ làm cho người ta tạm quên cái nhân phẩm, để rồi chỉ biết giải quyết cho cái bao tử mà thôi, như tục ngữ đã bảo:
  - Có thực mới vực được đạo.
  - Bần cùng sinh đạo tặc.
  - Đói ăn vụng, túng làm càn.

Nghèo túng còn giết chết những mộng ước cuộc đời và gieo vào tâm hồn chúng ta nỗi mặc cảm tự ti và thua sút. Vì căn nhà xiêu vẹo, chúng ta ngại không dám mời bạn bè tới chơi. Vì không có tiền, con em chúng ta đành phải bỏ dở việc học hành, cái khó bó cái khôn là vậy.

Và sau cùng, sự nghèo túng còn hủy diệt tình yêu, phá đổ hạnh phúc. Tôi có quen một gia đình. Thời gian đầu, ông chồng đi làm. Lương tháng hậu hĩnh. Bà vợ tươi cười và bầu khí trong gia đình rất thuận hòa và đầm ấm. Nhưng rồi sau đó, ông chồng bị thất nghiệp. Tiền bạc cạn dần. Từ đó, những xào xáo, cãi vã xảy ra cũng chỉ vì chuyện thiếu hụt tiền bạc. Ấy là chúng ta chưa nói đến những hoàn cảnh vì đồng tiền mà vợ chồng phải rã gánh, anh đường anh, tôi đi đường tôi, còn con cái thì lâm vào cảnh nheo nhóc.

Ngay như bè bạn cũng vậy. Tiền bạc nhiều khi đã trở nên cái thước để đo tình nghĩa:
  Khi vui thì vỗ tay vào,
  Đến khi hoạn nạn thì nào thấy ai.

Đức cha Bùi Tuần đã viết:
- Nghèo đói sinh ra lo buồn. Lo buồn này kéo theo lo buồn khác, như một chiếc móc xích của một sợi dây dài, xiết chặt vào cuộc đời chúng ta. Nghèo đói như là một ngõ cụt, không một ai muốn bước chân vào đó, mà nếu có trót dại, có lầm lỡ bước vào thì rồi cũng cố thoát cho ra…

Thế mà nhìn vào hang đá Bêlem, chúng ta lại thấy Chúa đã chọn cảnh nghèo đói, đã mang thân phận của một kẻ túng thiếu. Bộ Chúa không biết hay sao: nghèo túng vừa vất vả nhọc nhằn, vừa đắng cay chua xót, vừa bị khinh miệt coi thường, vừa bị thiệt thòi đủ thứ. Vậy thì tại sao Chúa lại chọn cảnh nghèo túng như thế? Tại sao Chúa lại dại như vậy?

Nếu suy nghĩ, chúng ta sẽ thấy rằng:
  Chỉ có Chúa là Đấng thánh thiện, là Đấng khôn ngoan, là Đấng yêu thương vô cùng mới dám dại như vậy. Việc Chúa chọn thân phận nghèo hèn, chính là một niềm an ủi lớn lao cho chúng ta.

Trước hết, với cuộc sống nghèo hèn, Chúa đã tích cực chia sẻ cuộc đời túng thiếu của chúng ta, bằng cách sống với người nghèo, sống trong cảnh nghèo, sống như người nghèo và sống cho người nghèo. Nhìn vào hang đá Bêlem, chúng ta nhận ra: Chúa còn nghèo hơn cả chúng ta, nhưng nhờ đó, chúng ta cảm thấy Chúa thật gần gũi với chúng ta, như một người bạn, như một người thân. Và chúng ta sẽ không còn cô đơn, sẽ không còn buồn tủi. Hơn nữa, qua máng cỏ Bêlem, Chúa còn dạy cho chúng ta biết giá trị cao quý của đau khổ.

Thực vậy, nếu Chúa đã dùng đau khổ để cứu chuộc nhân loại, thì chúng ta cũng không thể đi con đường nào khác, ngoài con đường khổ đau. Cuộc đời chúng ta sẽ không thiếu vắng đau khổ, chỉ cần chúng ta biết chấp nhận, biết chịu đựng những đau khổ ấy với tâm tình mến Chúa. Và tình mến sẽ là như một cây đũa thần, biến những đau khổ tầm thường nhất trở thành những sợi chỉ vàng dệt nên tấm vải cuộc đời chúng ta, làm cho cuộc đời ấy có một giá trị to lớn trước mặt Chúa. Và như thế, những khổ đau nhỏ bé nhất cũng sẽ trở thành con đường dẫn chúng ta vào cõi sống vĩnh hằng.

Nghèo túng không thể nào kéo dài hơn cuộc sống trần gian. Nó chỉ là tạm thời, rồi sẽ qua đi. Nó không còn là nơi bất hạnh, nếu chúng ta biến nó thành phương tiện để làm giầu về phương diện thiêng liêng, nếu chúng ta xử dụng nó như chiếc chìa khóa để mở cửa thiên đàng. Và đó cũng chính là bài học mà Hài Nhi Giêsu nơi máng cỏ Bêlem đem lại cho chúng ta.

15. NOEL - Bình an

Một trong những điều mà chúng ta luôn liên kết với lễ Giáng sinh, đó là sự bình an. Khi Đức Giêsu sinh ra, các thiên sứ hát rằng “Vinh danh Thiên Chúa trên các tầng trời, bình an dưới thế cho người Chúa thương”. Đây là một câu, trong số những lời nói đầy yêu thương nhất ở Tin Mừng. Bạn có thể nói rằng những lời nói này tóm tắt cả Tin Mừng.

Vào ngày lễ vọng Giáng sinh năm 1914, những quân lính Đức và Anh đối đầu với nhau, tại các hào chứa đầy bùn lầy và chuột cống. Tại các hào của quân Anh, những lá thư và tấm thiệp được gửi đến từ gia đình, và anh em binh lính khá vui vẻ. Đến nửa đêm, một số người trong bọn họ bắt đầu ca hát. Thế rồi đột nhiên, một người lính gác la lên một cách đầy phấn khích: “Anh em hãy lắng nghe đi!”. Họ lắng nghe, và nhận thấy những quân lính Đức cũng đang ca hát. Một lúc sau, hai người lính can đảm, do mỗi phe cử một người, đến gặp nhau tại bãi đất trống. Thêm nhiều quân lính khác đi theo họ. Theo quan điểm quân đội, điều này không có ý nghĩa gì cả. Với tư cách là những người lính, người ta cho rằng họ đến đánh nhau. Đột nhiên ngừng lại và trở nên bạn bè không tạo nên ý nghĩa. Nhưng trong đêm hôm đó, có sức mạnh còn lớn lao hơn cả quân đội tại nơi chiến trường.

Khi ngày lễ Giáng sinh bắt đầu ló rạng, với gương mặt tươi cười, các binh lính đi dạo chung quanh vùng Đất Không Người. Người ta không nhìn thấy một dấu vết nào của sự hận thù. Họ trao đổi với nhau lương thực, đồ kỷ niệm và thuốc lá. Khoảng giữa trưa, khi tình thân thiện đang gia tăng, thì bắt đầu có một trận đấu bóng đá giữa hai phe. Nhưng trận đấu này không kéo dài lâu. Tin này đã lan tới tai các vị tướng, và họ ban bố những mệnh lệnh gay gắt phải chấm dứt tất cả mọi chuyện. Các sĩ quan dồn binh lính trở lại vào hào. Tất cả mọi chuyện đều kết thúc. Trong đêm lễ Giáng Sinh, cuộc giao chiến bắt đầu trở lại.

Nếu điều này không chứng tỏ một điều khác, thì nó chứng tỏ được sức mạnh của lễ Giáng Sinh. Nhưng bình an không chỉ là sự vắng bóng của chiến tranh hoặc chia rẽ. Đây còn là một điều sâu xa hơn và phong phú hơn. So với peace của tiếng Anh tiếng Do thái chỉ sự bình an – shalom – chuyển tải một ý nghĩa phong phú hơn. Từ này chuyển tải một ý nghĩa về sự trọn vẹn, một tình trạng hoàn toàn hạnh phúc.

Thành phần chủ yếu của bình an là sự công chính. Như vậy, ở đây có sự công chính, thì tại đó có bình an đích thực. Do đó, không thể có bình an đối với kẻ quỷ quyệt. Bình an không đơn giản chỉ là sự hài hòa. Đây là sự hạnh phúc trọn vẹn. Bình an vẫn có thể tồn tại trong một thế giới rối loạn, và thậm chí ngay cả giữa những vấn đề không giải quyết được. Đây là một điều gì đó quá sâu xa, đến nỗi nó không lệ thuộc vào những hoàn cảnh bên ngoài.

Bình an là trạng thái yên tĩnh nội tâm, và cho thấy rõ mối tương quan thực sự với Thiên Chúa và với người khác. Theo ý nghĩa đầy đủ này, nếu chỉ bằng nỗ lực của con người, thì không thể tạo ra được sự bình an. Đây là một ân sủng của Thiên Chúa. Đây là một món quà tặng của ngày lễ Giáng Sinh. Thiên Chúa đến với chúng ta trong sự bình an, và Người mong muốn chúng ta tiếp cận với nhau. Bình an là ân sủng mà Thiên Chúa ban cho chúng ta; quà tặng của chúng ta đối với Thiên Chúa chính là đem bình an đến cho nhau.

Bình an là sự kết hợp với Thiên Chúa. Trong ngày lễ Giáng Sinh, dường như Thiên Chúa rất gần gũi với chúng ta, và rất yêu thương chúng ta. Xin Người giúp chúng ta cảm mến được sự bình an, vượt quá tất cả sự hiểu biết, mà chỉ một mình Người có thể ban, và thế giới này không thể đem đến được. Đó là sự bình an mà không ai có thể tước đoạt khỏi chúng ta.

Mình yêu quê hương, trong khi mà quê hương đang đau khổ, đang tuột dốc xuống bờ vực thẳm, với bao nhiêu người bị bắt bớ, bị đàn áp một cách bất công, ta vẫn thản nhiên như người ngoài cuộc, chỉ biết hưởng thụ cuộc sống an vui mà may mắn đã dành cho ta?

Cầu nguyện
Lạy Cha, Cha đã cho Đức Giêsu nhập thể thành người để chia sẻ thân phận làm người với chúng con: cũng đau khổ, cũng nghèo khó, cũng đói cũng khát như chúng con. Qua sự nhập thể ấy, xin cho con nhận ra tình thương vô biên của Cha và sự cần thiết của những đau khổ trong đời sống của con. Con tin rằng Cha yêu thương con vô cùng và khôn ngoan vô biên, không bao giờ để con phải chịu đựng đau khổ một cách vô lý và không cần thiết. Con biết rằng hễ Cha để đau khổ xảy đến với con, ắt nhiên đau khổ ấy phải có ích lợi cho con, dù con không hiểu được ích lợi thế nào. Xin cho con biết chấp nhận đau khổ như Đức Giêsu, đồng thời biết yêu thương và cảm thông với đau khổ của mọi người chung quanh con. Amen.

16. Đêm giao hòa

Có một chuyện ngắn, mang tựa đề là “Người khách cuối cùng”, tôi xin được tóm tắt như sau:

Thôn ấp Bêlem còn chìn trong bóng tối. Hài nhi Giêsu còn thiếp ngủ trong máng cỏ. Bỗng cửa chuồng bò mở ra. Một bà lão xuất hiện. Thân hình gầy guộc. Nước da nhăn nheo. Áo quần rách rưới. Maria nhìn bà lão bằng cặp mắt canh chừng, lo âu và thoáng một chút sợ hãi. Bà lão tiến lên, tiến lên nữa, đến tận máng cỏ. Rất may là Hài nhi Giêsu vẫn còn ngủ yên. Nhưng rồi bất ngờ, đôi mắt Hài nhi Giêsu khẽ mở và nhìn bà lão. Maria càng ngạc nhiên hơn nữa khi thấy cặp mắt của bà lão giống hệt cặp mắt của Hài nhi Giêsu, vì cả hai cùng sáng lên một tia hy vọng. Bà lão nghiêng mình trên máng cỏ. Bàn tay thọc sâu vào trong túi. Dường như bà lão lấy ra một vật gì đó, rồi đặt xuống bên cạnh Hài nhi Giêsu. Maria thắc mắc không hiểu là vật gì.

Yên lặng một lúc, bà lão đứng lên và cất bước. Như có một sức mạnh thần bí thúc đảy, bà lão bước đi nhanh nhẹn. Lưng không còn còng xuống và nét mặt lấy lại được vẻ tươi trẻ. Bà lão mất hút trên khoảng đồi xa xa. Bấy giờ, ngọn gió không còn lạnh cóng vì hừng đông đã ló dạng. Maria lại gần bên máng cỏ xem bà lão đã để lại vật gì. Maria vô cùng ngạc nhiên và kêu lên:
  - Ôi, một quả táo vàng.

Bà lão ấy là hình ảnh tượng trưng cho Evà, đã trao lại cho Hài nhi Giêsu quả táo của tội lỗi đầu tiên. Và giờ đây, Hài nhi Giêsu đang cầm trên tay như cầm một trái cầu nhỏ, cho một thế giới mới xuất hiện.

Bà lão ấy còn là hình ảnh tượng trưng cho toàn thể nhân loại chúng ta. Thực vậy, tội nguyên tổ đã ảnh hưởng trên chúng ta, khiến chúng ta phải cúi đầu lãnh nhận bản án của đau khổ và chết chóc. Tội nguyên tổ là như chiếc móc xích đầu tiên, kéo theo tội lỗi của toàn thể nhân loại: Từ tội của Cain, tội của ngọn tháp Babel cho đến tội của mỗi người chúng ta, đã làm cho sợi dây xích ấy kéo dài ra tưởng như vô tận, biến con người trở thành thù địch với Thiên Chúa và với nhau. Tội nguyên tổ là như một trái phá, đã giật sập cây cầu cảm thông, nối liền trời với đất, nối liền Thiên Chúa với nhân loại.

Một khi cây cầu đã gẫy đổ, thì chỉ còn là vực thẳm ngăn cách, tự sức riêng, con người không thể nào vượt qua để tìm về gặp gỡ. Một khi cây cầu đã gẫy đổ, thì chỉ còn là giông tố và xáo trộn, tự sức riêng, con người không thể đem lại một nền hòa bình và ổn định. Một khi cây cầu đã gẫy đổ, thì chỉ còn là thất vọng và đắng cay, tự sức riêng, con người không thể thắp lên cho mình niềm hy vọng giải thoát và cứu độ. Con người sinh ra là để kéo lê một kiếp sống đọa đày và sẽ kết thúc bằng cái chết.

Thế nhưng, Thiên Chúa đã lên đường tìm kiếm. Và đêm hôm nay, bàn tay Ngài đã nắm chặt lấy bàn tay nhân loại, cho tình yêu mở hội đâm bông và kéo chúng ta khỏi hố sâu tội lỗi, khỏi vực thẳm diệt vong. Ngôi Lời đã nhập thể. Thiên Chúa đã ở cùng chúng ta.

Hài nhi Giêsu đã hòa giải nhân loại với Thiên Chúa, đã nối lại nhịp cầu cảm thông giữa trời và đất, đã thắp lên cho chúng ta niềm hy vọng. Hài nhi Giêsu là Adong mới, đã gánh lấy tội lỗi chúng ta, nhờ đó chúng ta được tha thứ, được thoát khỏi bản án của tử thần. Hài nhi Giêsu đã chiến thắng sự chết, để con người phải chết của chúng ta được sống muôn đời. Hài nhi Giêsu đã đem lại cho chúng ta nguồn sống mới, khiến chúng ta lấy lại được vẻ đẹp nguyên thủy, chưa từng bị hoen ố bởi tội lỗi, để từ nay chúng ta trở nên con cái Thiên Chúa. Hài nhi Giêsu đã mở đầu cho một kỷ nguyên mới, kỷ nguyên của vui mừng và hy vọng, kỷ nguyên của ơn sủng và tình thương. Hài nhi Giêsu là một nhà cách mạng chuyên chính nhất, bởi vì Ngài đã xóa sạch mọi dấu vết của tội lỗi, đã khai sinh một triều đại mới trong công bằng và tự do, cũng như đã xây dựng một con người mới trong yêu thương và tôn trọng lẫn nhau.

Mặt đất này không còn là hoang mạc cằn cỗi, nhưng đã trở thành thửa vườn xanh tươi của Thiên Chúa. Xã hội này không còn là một địa ngục, trong đó người với người là như chó sói của nhau, nhưng đã thực sự trở nên một thiên đàng vì có Thiên Chúa ở cùng.

Hãy cảm tạ tình thương tuyệt vời của Thiên Chúa, đồng thời hãy cộng tác với Ngài trong việc biến đổi bộ mặt thế giới, để mỗi ngày một trở nên tốt đẹp hơn.

Top