Bài giảng trong thánh lễ kỷ niệm 50 năm thụ phong Linh Mục 1975/15-6/2025 - linh mục Tổng Đại diện Ignatio Hồ Văn Xuân

Bài giảng trong thánh lễ kỷ niệm 50 năm thụ phong Linh Mục 1975/15-6/2025 - linh mục Tổng Đại diện Ignatio Hồ Văn Xuân

Bài giảng trong thánh lễ kỷ niệm
50 năm thụ phong Linh Mục
1975/15-6/2025

 

“Lạy Chúa là Thiên Chúa con thờ,
xin tạ ơn Ngài mãi mãi ngàn thu.”
(Tv 29,13)

Trọng kính quý Đức Hồng Y,  quý Đức Tổng, quý Đức Cha,

Kính thưa quý cha, quý tu sĩ nam nữ, quý thầy thuộc Tổng Giáo phận Sài Gòn, quý ân nhân, thân nhân và bạn hữu thân mến,

Thưa toàn thể cộng đoàn Phụng vụ,

Tôi muốn mượn lời Thánh vịnh 29 để nói lên tâm tình của tôi trong giờ phút linh thiêng này : đó là lòng biết ơn sâu xa đối với Thiên Chúa là Cha giàu lòng thương xót, Đấng đã luôn dẫn tôi đi trên những nẻo đường tôi không bao giờ dám nghĩ tới. Và trong suốt hành trình 78 năm làm con Chúa và 50 năm làm linh mục của Người, Chúa đã không ngừng phù hộ, chở che và ban cho tôi biết bao ơn lành hồn xác, nhờ đó, tôi có thể đứng vững trước mọi thử thách gian truân và có thể dấn thân theo Chúa đến hơi thở cuối cùng.

* Điều duy nhất tôi muốn chia sẻ với cộng đoàn hôm nay là tình thương nhiệm mầu và sự quan phòng kỳ diệu Chúa dành cho tôi hơn 7 thập kỷ qua trong ba giai đoạn : thời thơ ấu, 16 năm tu học tại Chủng Viện Thánh Giu-se Sài Gòn, và 50 năm phục vụ Tổng giáo phận thân yêu.

1. Thời thơ ấu với 2 hình ảnh nổi bật

1.1 Một viên chỉ huy giàu lòng nhân ái

Tôi nghe má tôi kể lại tôi chào đời lúc 2 giờ sáng ngày 23-1-1947, nhằm ngày mồng 2 Tết Đinh Hợi, trong một gia đình nghèo tại xã Vang Quới, huyện Bình Đại, tỉnh Bến Tre, hiện nay thuộc giáo phận Vĩnh Long. Mười ngày sau khi tôi chào đời, vào giữa đêm khuya, có người đập cửa nhà và ra lệnh : “Tất cả mọi người phải ra khỏi nhà ngay lập tức, chúng tôi sẽ đốt nhà !” Má tôi vội bồng tôi ra khỏi nhà, vừa đi vừa run, có bà nội và cô tám của tôi đi kèm hai bên để bảo vệ. Má tôi đặt tôi nằm dưới một gốc xoài. Khi người cầm đuốc đang cháy định châm vào vách lá, thì mọi người bỗng nghe tiếng con nít khóc khét vì một cơn gió thật lạnh thổi qua. Viên chỉ huy giựt mình, ra lệnh cho người thuộc quyền dừng tay. Ông chộp lấy cây đuốc và đi đến chỗ phát ra tiếng khóc thì thấy một bé trai sơ sinh đang khóc ngất vì lạnh. Ông suy nghĩ thật nhanh và nói: “Thằng nhỏ này vô tội, nếu ta đốt nhà, nó sẽ chết, thôi ta rút lui.”

1.2. Một bà tiên xuất hiện giữa đời thường

* Sáng hôm sau, cả nhà bà nội tôi vội tản cư lên Phú Thuận, cách Vang Quới khoảng 7 cây số, nhưng đi mãi đến chiều mới tới nơi, do má tôi còn non ngày tháng, sức khoẻ quá yếu, mới sinh tôi được 10 ngày, nên đi chừng mươi bước là phải dừng lại, đặt tôi nằm xuống chiếu rồi ngồi nghỉ mệt khá lâu mới có thể đi tiếp, không biết bao nhiêu lần như vậy. Và khi cả gia đình tới được Phú Thuận thì trời sắp tối, tất cả mọi chỗ có thể ở được đều chật kín người vì cả làng Vang Quới tản cư lên Phú Thuận để bảo toàn tính mạng. Bà nội tôi dẫn cả nhà đi ra xa ngoài ruộng, thì may mắn được một gia đình tốt bụng cho phép cất tạm cái chòi kế bên “chuồng trâu” của gia đình để má con tôi ở tạm. Trong hoàn cảnh ngặt nghèo như vậy, Chúa gởi một bà tiên đến giúp đỡ, đó là bà vú đỡ đầu của bà nội tôi khi ông bà nội tôi  trở lại đạo mấy chục năm trước tại họ Bà Bèo, Cai Lậy, thuộc tỉnh Tiền Giang, giáo phận Mỹ Tho, mà hiện nay Đức Cha Phê-rô Khảm chịu trách nhiệm chăm sóc. Vào thời điểm năm 1947, bà là Hội trưởng Hội Các Bà Mẹ Công Giáo của họ đạo Phú Thuận. Bà mời tất cả về nhà bà tạm trú và 3 tháng sau, tôi lãnh bí tích Thánh Tẩy tại nhà thờ Phú Thuận, và 6 năm sau, Đức cha Jean Caissaigne đã ban bí tích Thêm Sức cho tôi tại ngôi nhà thờ thân yêu này, vào lễ Mình Máu Chúa Ki-tô, tháng Sáu năm 1953.

* Như vậy, chưa đầy mười lăm ngày đầu đời, Chúa đã hai lần cứu tôi khỏi chết lạnh và chết đói.

2. 16 năm tu học ở Tiểu và Đại Chủng viện thánh Giu-se Sài Gòn

2.1. Có 2 sự kiện ở Tiểu Chủng viện mà tôi không bao giờ quên

* Trước lễ Giáng Sinh năm 1960, tôi hấp hối vì bệnh “néphrose”. Sau khi lãnh bí tích Xức Dầu, tôi rơi vào cơn hôn mê kéo dài đúng một tuần lễ. Trước tình trạng nguy tử đó, Chúa gởi các thiên thần áo trắng và áo nâu đến giúp tôi như các cha giáo Tiểu Chủng Viện nói với tôi : đó là các sơ dòng Thánh Phao-lô thành Chartres chăm sóc tôi tại Clinique Saint Paul do các sơ thành lập và điều hành, các sơ Nhà Kín cầu nguyện cho tôi lúc tôi hấp hối theo lời xin của cha Tô-ma Nguyễn Văn Thạnh, Giám Đốc Tiểu Chủng Viện lúc bấy giờ. Rồi cuối năm học 1960-1961, các cha trong Ban Giám Đốc quyết định trả tôi về gia đình, nghĩa là loại tôi ra khỏi Chủng Viện, vì đau yếu như vậy là dấu chỉ không có ơn gọi làm linh mục. Một lần nữa, cha Tô-ma Thạnh lại cứu tôi. Ngài kể cho các sơ dòng Thánh Phao-lô đang giúp Chủng Viện nghe, và các sơ kể lại để an ủi, khích lệ tôi.
Các sơ nói : “Chúa gởi thánh giá cho con nhiều, Chúa thương con nhiều, đừng nản lòng nghe con.” Khi nghe các cha giáo quyết định như vậy, ngài liền lên tiếng : “Thôi, đừng đuổi nó, tội nghiệp nó, để cho nó một năm nữa, vì nó đau yếu bệnh tật triền miên nhưng rất cố gắng, bằng chứng là kỳ thi lục cá nguyệt vừa rồi, nó đứng hạng 6 trên 49, và tánh tình nó rất tốt.” Một lần nữa, Chúa cứu tôi. Cha Tô-ma Thạnh không ngờ hơn 30 năm sau, tôi thay ngài trong chức vụ Tổng quản lý và noi gương ngài xây dựng một số cơ sở cho Tổng giáo phận, kể cả Văn phòng mới cho Hội đồng Giám mục Việt Nam, và khi ngài qua đời đột ngột tại Toà Tổng, chính tôi đã tổ chức lễ an táng cho ngài.

2.2. Hai sự kiện xảy ra bên Đại Chủng viện cho thấy Chúa thương ban ơn cho tôi thật đúng lúc

* Tháng 4 năm 1975, khi thấy tình hình chuyển biến quá nhanh, Ban Giám đốc Đại Chủng viện thánh Giu-se xin Đức Tổng Giám mục Phao-lô Nguyễn Văn Bình phong chức linh mục cho lớp trên, còn lớp tôi thì chịu chức phó tế vào lúc 8 giờ sáng ngày 15-4-1975 tại nhà thờ Đức Bà. Rồi sau bữa cơm trưa, Chủng Viện giải tán ngay. Vì quyết định đưa ra quá đột ngột, tôi không kịp chuẩn bị gì hết, nên đến tối 14-4-1975, tôi vẫn chưa thể có được y phục phó tế. Sau cùng, dù rất ngại nhưng tôi đành phải mượn y phục phó tế của 1 anh bạn chưa tiến chức lần đó. Rồi 2 tháng sau, Đức Tổng Phaolô Nguyễn Văn Bình quyết định phong chức linh mục cho lớp chúng tôi vào lúc 8 giờ sáng ngày 15-6-1975 tại nhà thờ Đức Bà, nhưng đến trưa ngày 14-6-1975, tôi vẫn chưa có được áo lễ và chén thánh cho ngày tiến chức linh mục. Tôi buồn rầu và lo âu. Tuy nhiên, vào buổi chiều, tôi tiếp gần như cùng lúc bốn nữ tu của hai dòng Mến Thánh Giá Cái Mơn và Chợ Quán : hai dì Mến Thánh Giá Cái Mơn trao cho tôi hai áo alba, một áo lễ màu trắng, một áo lễ màu vàng và cho biết đó là quà của cha Giu-se Thích, cha phó Cái Mơn và của Hội Dòng tặng ; còn hai dì Mến Thánh Giá Chợ Quán trao cho tôi một chén thánh đã qua sử dụng do Bà Bề Trên nhà dòng đi họp bên Rô-ma, xin cho tôi. Đến nay, sau 50 năm linh mục, tôi vẫn sử dụng chén thánh này khi dâng lễ. Nhưng rồi một quyết định bất ngờ của Bề Trên làm đảo lộn tất cả mọi dự tính của anh em lớp tôi : 10 giờ đêm ngày 14-6-1975, chúng tôi được gọi dậy và được thông báo : 3 giờ sáng ngày 15-6-1975, Đức Tổng Phao-lô Nguyễn Văn Bình sẽ phong chức linh mục cho 25 anh em chúng tôi tại nhà nguyện Đại Chủng viện thánh Giu-se. Buổi lễ diễn ra trong âu lo với ba không: không ánh sáng, không âm thanh, không thân nhân, chỉ có một ngọn đèn nhỏ chỗ chủ tế và người xướng kinh cầu, chúng tôi thưa kinh rất nhỏ, không đàn, không hát. Chịu chức linh mục trong một hoàn cảnh đặc biệt như vậy, tất cả chúng tôi đều khóc, và tôi đã chọn câu châm ngôn cho cuộc đời linh mục của mình : “Âm thầm phục vụ trong yêu thương” với lời Chúa trong sách Huấn ca 11,20 làm kim chỉ nam : “Hãy cứ bổn phận của con mà làm cho chu đáo, và chăm lo công việc cho đến già.” Đồng thời, noi gương thánh
Nô-bê-tô, vì trong giao tiếp, người thật hoà nhã : “lớn với người lớn, nhỏ với người nhỏ, thật dễ thương với hết mọi người”. Trong suốt 50 năm linh mục, tôi đã hết sức cố gắng sống triệt để những gì tôi đã chọn.

3. Năm mươi năm phục vụ Tổng giáo phận

* Trong nửa thế kỷ sống đời linh mục, tôi đã làm cha phó 29 năm cho cha An-tôn Phùng Quang Mạnh, cha sở Gia Định (1975-2004); 12 năm làm cha sở Gia Định (2004-2016) khi cha sở An-tôn qua đời; và đến nay là 9 năm làm cha sở Nhà thờ Chính toà Đức Bà Sài Gòn (2016-2025). Tuy nhiên, tôi muốn chia sẻ với cộng đoàn về 2 quãng thời kỳ rất đặc biệt: trước hết là 25 năm phục vụ Hội đồng Giám mục Việt Nam (1990–2014) tại Trung tâm Công giáo, 72/12 Trần Quốc Toản, quận 3, TP.HCM dưới đời hai Đức Cha phó chủ tịch là Phao-lô Huỳnh Đông Các – giám mục giáo phận Quy Nhơn và Giu-se Nguyễn Chí Linh – giám mục giáo phận Thanh Hoá, với 3 nhiệm vụ chính: Thứ nhất, nhập rượu lễ của hãng De Muller, Tarragona, Tây Ban Nha 4 năm 1 lần cho các giáo phận thuộc hai Giáo tỉnh Huế và Sài Gòn. Trong công việc khó khăn này, Chúa gửi đến cho tôi 3 ân nhân: đó là anh chị Minh – Lan, em của Giu-se Đinh Tất Quý và cháu Dân, đã năm lần tận tình giúp đỡ tôi hoàn tất mọi thủ tục cần thiết và chuyển rượu lễ từ cảng Sài Gòn về kho của Trung tâm Công giáo ; thứ hai, lo thủ tục xuất nhập cảnh cho các Đức cha, mua vé máy bay, tiễn các ngài đi họp ở nước ngoài và đón khi các ngài trở về Việt Nam tại sân bay Tân Sơn Nhất; thứ ba, đưa các ngài đi khám chữa bệnh khi các ngài cần. Sau khi hoàn thành việc xây dựng cơ sở mới của Trung tâm Công Giáo, nay là Văn phòng Hội đồng Giám mục Việt Nam, tôi đã xin các đức cha cho tôi được từ chức và rời khỏi nơi mà tôi đã phục vụ suốt 25 năm.

Tiếp đến, là 40 năm phục vụ Tổng giáo phận dưới bốn đời Tổng Giám Mục (1985–2025). Kể từ năm 1990, theo lệnh Đức Tổng Phao-lô Bình tôi làm việc tại 3 nơi : mục vụ giáo xứ tại Gia Định, Chánh Văn phòng và Tổng Quản lý Giáo phận, Giám đốc Trung tâm Công giáo trực thuộc Hội đồng Giám mục Việt Nam.

3.1. 10 năm giúp việc cho Đức Tổng giám mục Phao-lô Nguyễn Văn Bình (1985–1995)

Ngài là vị Tổng giám mục Chính toà tiên khởi của Tổng giáo phận Sài Gòn kể từ khi Toà Thánh thành lập Hàng giáo phẩm tại Việt Nam vào ngày 24-11-1960, là vị đại ân nhân của Tổng giáo phận Sài Gòn, là người kiến tạo hoà bình, xây dựng sự hợp nhất trong cộng đoàn dân Chúa của một Tổng giáo phận thật năng động, thật đa dạng nhưng cũng thật phức tạp, vì là nơi quy tụ người Ki-tô hữu thuộc nhiều vùng miền khác nhau của đất nước cũng như đẩy mạnh việc loan báo Tin Mừng, như châm ngôn ngài đã chọn khi làm Giám mục : “Hãy đi rao giảng” (Euntes docete). Sau 33 năm lèo lái con thuyền giáo phận (1961–1993), ba dấu ấn ngài để lại cho Tổng giáo phận là 81 giáo xứ, cơ sở mới của Tiểu và Đại Chủng viện thánh
Giu-se được xây dựng vào năm 1962 để mừng 100 năm thành lập Chủng viện thánh Giu-se vào năm 1963. Điều tôi đặc biệt ngưỡng mộ nơi ngài là tinh thần làm việc không biết mệt mỏi. Năm 1990, khi bước vào tuổi 80, ngài vẫn ra lệnh cho tôi và cha Giu-se Đinh Tất Quý xây dựng ba công trình dưới sự chỉ huy của cha An-tôn Phùng Quang Mạnh : Nhà Hưu Dưỡng mới Chí Hoà (1990–1992) ; Nhà Khách và
Văn phòng Toà Tổng giám mục (1992–1993). Trong công trình này, ngoài tôi và cha Quý, còn có sự giúp đỡ tận tình của anh Giu-se Đinh Văn Minh là em của ngài ; Nhà Hành Hương tại Bãi Dâu của Toà Tổng giám mục Sài Gòn (2008–2012). Ngoài tôi và cha Quý, còn có sự cộng tác tích cực của cha Giu-se Mai Thanh Tùng, hiện nay là cha sở kiêm hạt trưởng Gia Định, đồng thời cũng là người quản lý Nhà Hành Hương Bãi Dâu của Toà Tổng giám mục Sài Gòn. Đức Tổng Phao-lô Bình cũng gởi một số các cha đi du học ở Paris, Pháp.

3.2. 16 năm giúp việc cho Đức Hồng Y Gio-an Bao-ti-xi-ta Phạm Minh Mẫn (1998–2014)

Ngài tiếp tục gởi một số các cha đi du học ở Pháp, Rô-ma, Hoa Kỳ, lập thêm các đoàn thể,
các giới, củng cố hoạt động Công giáo Tiến Hành, thành lập quỹ tương trợ linh mục. Để mừng kỷ niệm 150 năm thành lập Chủng Viện Thánh Giu-se vào năm 2013, trước đó ngài đã quyết định nâng cấp các dãy nhà cũ Đức Tổng Phao-lô Nguyễn Văn Bình đã cho xây dựng vào năm 1962, và xây thêm một dãy nhà mới trong khuôn viên Đại Chủng Viện Thánh Giu-se, nhằm đáp ứng số chủng sinh ngày càng gia tăng, và cũng để cho linh mục đoàn Tổng Giáo phận Sài Gòn có đủ chỗ ở khi tĩnh tâm. Tuy nhiên, công trình quan trọng nhất ngài để lại cho Tổng giáo phận là Trung tâm Mục vụ - nơi 20 năm qua đã đào tạo hàng ngàn giáo dân thành những tông đồ nhiệt thành trên cánh đồng truyền giáo. Ngài là vị Hồng Y duy nhất của Việt Nam hai lần dự “Cơ mật viện” để bầu hai vị Giáo Hoàng cho Giáo Hội, đó là Đức Thánh Cha Bê-nê-đíc-tô XVI và Đức Thánh Cha Phan-xi-cô.

3.3. Hơn ba năm giúp việc cho Đức Tổng Phao-lô Bùi Văn Đọc trong vai trò Tổng Đại diện

Tuy thời gian ngài phục vụ Tổng giáo phận thật ngắn ngủi, nhưng ngài để lại một dấu ấn sâu đậm khi ra lệnh “đại trùng tu nhà thờ Chính toà Đức Bà Sài Gòn”, một công trình kiến trúc độc đáo của Sài Gòn – Gia Định xưa và giao cho tôi làm Trưởng Ban Trùng tu. Ngày 18-3-2019, tôi đã ký kết hợp đồng với cụ Jozef de Poorter, Chủ tịch Tập đoàn Monument ở Ingelmunster của Bỉ. Đây là một tập đoàn Công giáo có nhiều kinh nghiệm trong việc trùng tu các công trình cổ như Viện bảo tàng, các Toà thị chính, đặc biệt các nhà thờ cổ và rất có uy tín bên Châu Âu. Tập đoàn này chịu trách nhiệm trùng tu nhà thờ Chính toà Đức Bà cho đến khi hoàn thành. Châm ngôn của Tập đoàn này là “Restoring the glory”. Sau 8 năm thi công, đến nay công trình đã đi được nửa đường, nửa đường còn lại sẽ lắm gian nan, sẽ tốn kém hơn vì không chỉ là vấn đề kỹ thuật mà còn là vấn đề mỹ thuật nữa.

* Khi vâng lời Bề Trên thực hiện công việc quá khó khăn này, tôi vô cùng lo lắng, tôi cầu nguyện thật nhiều và Chúa đã thương gởi các ân nhân đến giúp tôi về mặt kỹ thuật : đó là tập đoàn  Monument của Bỉ, anh Mark Jozef Maria Willems - Giám Đốc kỹ thuật của toàn bộ dự án, chị Ngô Phương Thanh - Giám đốc công ty thi công “EurohausHautechnik”, anh Lê Ngô Minh Đức - kỹ sư trưởng và toàn thể anh chị em kỹ sư, chuyên viên, công nhân được đào tạo kỹ lưỡng và hết lòng tận tuỵ với công việc nhà Chúa, dù đa số anh chị em không phải là người có đạo. Tôi cũng không quên cám ơn anh Nguyễn Thiện Đạt, vì cách đây 8 năm, chính anh Đạt đã giúp tôi xin được giấy phép trùng tu Nhà thờ Đức Bà Sàigòn vào ngày 12.04.2017 ; chính anh Đạt cũng xin sổ đỏ cho Toà Tổng, văn phòng Hội Đồng Giám Mục, Đại chủng viện Thánh Giuse và nhà xứ Chánh Toà và nhiều việc khác nữa. Việc này khiến tôi nhớ lại 50  năm trước, khi tôi mới về Gia Định, cũng có những thành viên trong “đại gia đình Họ Gia Định” đã hy sinh thời giờ, sức khoẻ, chấp nhận hiểm nguy giúp tôi làm tròn trách nhiệm Đức Tổng Phao-lô Bình giao cho tôi là phổ biến quyển  “Thần học giáo dân” cho một số giáo phận,  các bài thánh ca cho các giáo xứ. Rồi năm nay, 2025, nhân dịp Kim Khánh Linh Mục của tôi, cũng có thành viên trong đại gia đình Họ Gia Định là chuyên viên về sửa bản in, đã tích cực cộng tác với các sơ dòng Phao-lô Thiện Bản hết lòng giúp đỡ tôi chuẩn bị thật chu đáo những món quà tinh thần mà sau thánh lễ tôi sẽ gởi tặng cho toàn thể cộng đoàn phụng vụ hôm nay. Tưởng cũng cần nói thêm, ngoài sự đóng góp kinh phí của các giáo xứ trong Tổng giáo phận Thành phố, đôi khi vì quá quẫn bách, tôi chia sẻ lo âu của mình với vài ân nhân về việc cạn kiệt tài chính nên không thể tiếp tục việc trùng tu mà chắc phải dừng lại. Các ân nhân đã an ủi và động viên tôi : “Con sẽ đồng hành với cha, sẽ đi với cha tới cùng, Cha sẽ không phải dừng lại đâu.” Vì thế trong cơn khốn khó, tôi vẫn luôn hy vọng vào những tấm lòng vàng trong cộng đoàn dân Chúa.

3.4. Hơn 5 năm giúp việc cho Đức Tổng giám mục Giu-se Nguyễn Năng

* Cả Tổng giáo phận Sài Gòn đau buồn vì sự ra đi đột ngột của Đức cố Tổng Giám Mục Phao-lô Bùi Văn Đọc vào ngày 7-3-2018 tại Rô-ma, thì tin Toà Thánh bổ nhiệm Đức Cha Giu-se Nguyễn Năng từ Phát Diệm về làm Tổng Giám Mục Tổng giáo phận Sài Gòn là một niềm vui to lớn cho tất cả mọi thành phần dân Chúa trong Tổng giáo phận. Có thể nói ngài đã mang đến một luồng gió mới cho mọi sinh hoạt mục vụ của linh mục đoàn, của các giáo xứ, các đoàn thể, các giới qua những lần tĩnh tâm, thường huấn, các thư mục tử mùa vọng, mùa chay, những lần dâng lễ, gặp gỡ, huấn đức cho mọi thành phần dân Chúa. Đặc biệt ngài tiếp tục tạo điều kiện thuận lợi cho việc đại trùng tu nhà thờ Đức Bà bằng cách nâng đỡ, khích lệ Ban Trùng Tu, đồng thời kêu gọi các giáo xứ góp phần vào công việc chung của giáo phận.

Vậy Đức Tổng Giu-se sẽ để lại dấu ấn nào cho Tổng giáo phận Sài Gòn ? Thưa đối với nhà thờ Đức Bà là 2 cây đàn đại phong cầm
(đàn ống) do công ty Klais ở Bonn bên Đức chế tác. Công ty này đã có 125 năm tuổi. Rồi hai cây thánh giá sẽ được đặt trên đỉnh hai tháp kẽm do Tập đoàn Monument thực hiện, hệ thống ánh sáng bên trong và bên ngoài nhà thờ, kể cả chỗ tượng Đức Mẹ Hoà Bình do ông Pietro Palladino, một chuyên gia người Ý cùng với các cộng sự của ông thiết kế và thực hiện. Đây là một chuyên gia hàng đầu thế giới về thiết kế ánh sáng, vì ông đã thiết kế ánh sáng cho nhà thờ Chính toà Milan, Viện bảo tàng Milan và sân bay Malpensa của Milan, ba cửa sổ hoa hồng tuyệt đẹp do Tập đoàn Monument thực hiện, một số kính màu do hãng Loirin, Chartres – Pháp đảm trách, và cuối cùng là Nhà tĩnh dưỡng mới ở Chí Hoà cho các cha không còn làm việc mục vụ nữa.

* Có người hỏi tôi “Cha có gặp nhiều khó khăn trong đời sống tận hiến không ?” Tôi trả lời bất cứ bậc sống nào cũng đều có những khó khăn, những thử thách gian nan. Tôi cũng vậy thôi, trải qua 50 năm trong đời sống linh mục, tôi trải qua biết bao là khó khăn, đau khổ, lắm khi là nước mắt, nhiều lúc phải đương đầu với sóng to gió lớn muốn nhận chìm con thuyền cuộc đời tôi, nhưng tôi vẫn đứng vững được là nhờ “bám chặt vào Chúa, đặt trọn niềm tin vào Người”, tin tưởng vào lời chuyển cầu của Đức Mẹ và thánh cả Giu-se, đồng thời nhớ lời Chúa hứa cho những ai đặt niềm tin vào Người : “Ta sẽ ở cùng con” và lời Chúa nói với thánh Phao-lô: “Ơn Ta vẫn đủ cho con. Hãy vững lòng.”

* Mục tiêu duy nhất của tôi khi làm những việc bề trên giao phó là để cho “Danh Chúa được vinh quang rạng rõ hơn.” (Ad majorem Dei Gloriam)

Kết : Tôi muốn mượn lời nguyện của thánh I-nha-xi-ô Lo-yo-la để kết thúc bài chia sẻ khá dài hôm nay :

Lạy Chúa Giê-su, xin dạy con biết sống quảng đại, biết phụng sự Chúa như Chúa đáng được phụng sự, biết cho đi mà không tính toán, biết chiến đấu mà không sợ thương tích, biết làm việc mà không tìm an nghỉ, biết tận tuỵ phục vụ mà không trông chờ phần thưởng nào khác, ngoài việc biết con đã làm theo thánh ý Chúa. A-men.

Top