Chúa nhật 32 Thường niên năm C - Cuộc sống đời sau (Lc 20,27-38)

Chúa nhật 32 Thường niên năm C - Cuộc sống đời sau (Lc 20,27-38)

Chúa nhật 32 Thường niên năm C - Cuộc sống đời sau (Lc 20,27-38)

Đức Chúa không phải là Thiên Chúa của kẻ chết,
nhưng là Thiên Chúa của kẻ sống.

Bài đọc 1: 2 Mcb 7, 1-2.9-14

Vua vũ trụ sẽ cho chúng tôi sống lại để hưởng sự sống đời đời.

Bài trích sách Ma-ca-bê quyển thứ hai.

1 Hồi ấy, có bảy anh em bị bắt cùng với bà mẹ. Vua An-ti-ô-khô cho lấy roi và gân bò mà đánh họ, để bắt họ ăn thịt heo là thức ăn luật Mô-sê cấm. 2 Thay mặt cho anh em mình, một người lên tiếng nói: “Vua muốn tra hỏi chúng tôi cái gì? Vua muốn biết điều gì? Chúng tôi sẵn sàng thà chết chẳng thà vi phạm luật pháp của cha ông chúng tôi.”

9 Khi sắp trút hơi thở cuối cùng, anh nói: “Vua là một tên hung thần, vua khai trừ chúng tôi ra khỏi cuộc đời hiện tại, nhưng bởi lẽ chúng tôi chết vì Luật pháp của Vua vũ trụ, nên Người sẽ cho chúng tôi sống lại để hưởng sự sống đời đời.”

10 Sau người này, đến lượt người thứ ba bị tra tấn. Vừa được yêu cầu anh liền thè lưỡi, can đảm đưa tay ra, 11 và khẳng khái nói: “Tôi có được lưỡi này, tay này, là do Chúa Trời ban. Nhưng vì luật Chúa Trời, tôi coi khinh những thứ đó, và tôi hy vọng nhờ Chúa Trời, tôi sẽ lấy lại được.” 12 Nhà vua và quần thần phải sửng sốt vì lòng can đảm của người thanh niên đã dám coi thường đau khổ.

13 Người này chết rồi, người ta cũng tra tấn hành hạ người thứ tư như vậy. 14 Khi sắp tắt thở, anh nói như sau: “Thà chết vì tay người đời đang khi dựa vào lời Thiên Chúa hứa mà hy vọng sẽ được Người cho sống lại. Còn vua, vua sẽ không được sống lại để hưởng sự sống đâu.”

 

Đáp ca: Tv 16, 1.4b-6.8 và 15 (Đ. c.15b)

Đ.Lạy Chúa, khi thức giấc,
con được thoả tình chiêm ngưỡng Thánh Nhan.

1Lạy Chúa, xin nghe con giãi bày lẽ phải,
lời con than vãn, xin Ngài để ý;
xin lắng tai nghe tiếng nguyện cầu
thốt ra từ miệng lưỡi chẳng điêu ngoa.

Đ.Lạy Chúa, khi thức giấc,
con được thoả tình chiêm ngưỡng Thánh Nhan.

4bCon tuân giữ mọi lời Chúa dạy,
tránh xa đường lối kẻ bạo tàn,
5dõi vết chân Ngài, con không vấp ngã.6Con kêu lên Ngài, lạy Thiên Chúa, vì Ngài đáp lời con.
Xin lắng tai và nghe tiếng con cầu.

Đ.Lạy Chúa, khi thức giấc,
con được thoả tình chiêm ngưỡng Thánh Nhan.

8Xin giữ gìn con như thể con ngươi,
dưới bóng Ngài, xin thương che chở.
15Về phần con, sống công minh chính trực,
con sẽ được trông thấy mặt Ngài,
khi thức giấc, được thoả tình chiêm ngưỡng Thánh Nhan.

Đ.Lạy Chúa, khi thức giấc,
con được thoả tình chiêm ngưỡng Thánh Nhan.

 

Bài đọc 2: 2 Tx 2, 16 - 3, 5

Xin Chúa cho anh em được vững mạnh, để làm và nói tất cả những gì tốt lành.

Bài trích thư thứ hai của thánh Phao-lô tông đồ gửi tín hữu Thê-xa-lô-ni-ca.

2 16 Thưa anh em, xin chính Chúa chúng ta là Đức Giê-su Ki-tô, và xin Thiên Chúa là Cha chúng ta, Đấng yêu thương chúng ta và đã dùng ân sủng mà ban cho chúng ta niềm an ủi bất diệt và niềm cậy trông tốt đẹp, 17 xin các Ngài an ủi và cho tâm hồn anh em được vững mạnh, để làm và nói tất cả những gì tốt lành.

3 1 Sau cùng, thưa anh em, xin anh em cầu nguyện cho chúng tôi, để lời Chúa được phổ biến mau chóng và được tôn vinh, như đã thấy nơi anh em. 2 Xin cũng cầu nguyện cho chúng tôi được thoát khỏi tay người độc ác xấu xa, bởi vì không phải ai cũng có đức tin. 3 Nhưng Chúa là Đấng trung tín: Người sẽ làm cho anh em được vững mạnh, và bảo vệ anh em khỏi ác thần. 4 Trong Chúa, chúng tôi tin tưởng vào anh em: anh em đang làm và sẽ làm những gì chúng tôi truyền. 5 Xin Chúa hướng dẫn tâm hồn anh em, để anh em biết yêu mến Thiên Chúa và biết chịu đựng như Đức Ki-tô.

 

Tin mừng: Lc 20, 27-38

27 Khi ấy, có mấy người thuộc nhóm Xa-đốc đến gặp Đức Giê-su. Nhóm này chủ trương không có sự sống lại.

28 Mấy người ấy hỏi Đức Giê-su: “Thưa Thầy, ông Mô-sê có viết cho chúng ta điều luật này: Nếu anh hay em của người nào chết đi, đã có vợ mà không có con, thì người ấy phải lấy nàng, để sinh con nối dòng cho anh hay em mình.

29 Vậy nhà kia có bảy anh em trai. Người anh cả lấy vợ, nhưng chưa có con thì đã chết.

30 Người thứ hai, 31 rồi người thứ ba đã lấy người vợ goá ấy. Cứ như vậy, bảy anh em đều chết đi mà không để lại đứa con nào.

32 Cuối cùng, người đàn bà ấy cũng chết.

33 Vậy trong ngày sống lại, người đàn bà ấy sẽ là vợ ai, vì cả bảy đều đã lấy nàng làm vợ?”

34 Đức Giê-su đáp: “Con cái đời này cưới vợ lấy chồng, 35 chứ những ai được xét là đáng hưởng phúc đời sau và sống lại từ cõi chết, thì không cưới vợ cũng chẳng lấy chồng.

36 Quả thật, họ không thể chết nữa, vì được ngang hàng với các thiên thần. Họ là con cái Thiên Chúa, vì là con cái sự sống lại.

37 Còn về vấn đề kẻ chết trỗi dậy, thì chính ông Mô-sê cũng đã cho thấy trong đoạn văn nói về bụi gai, khi ông gọi Đức Chúa là Thiên Chúa của tổ phụ Áp-ra-ham, Thiên Chúa của tổ phụ I-xa-ác, và Thiên Chúa của tổ phụ Gia-cóp.

38 Mà Người không phải là Thiên Chúa của kẻ chết, nhưng là Thiên Chúa của kẻ sống, vì đối với Người, tất cả đều đang sống.”

 

1. Suy niệm (TGM Giuse Nguyễn Năng)

Suy niệm: Ðức Giêsu mạc khải về vấn đề kẻ chết sống lại và cách thức cuộc sống đời sau. Ngài cho thấy cuộc sống ấy không còn giống như ở đời này. Không còn bị lệ thuộc vào không gian và thời gian. Không bị ràng buộc vào những quyến rũ như ở trần gian. Trái lại, cuộc sống của người công chính khi phục sinh sẽ được thần thiêng hóa như đời sống của các Thiên Thần, của Thiên Chúa.

Muốn được sống sự sống ấy trong ngày sau hết, mỗi Kitô hữu cần phải chuẩn bị và sống đời sống ấy ngay từ đời này. Bằng cách sống theo giáo huấn và tinh thần của Ðức Giêsu, thực thi công bình bác ái và không theo những cám dỗ của thế gian.

Cầu nguyện: Lạy Chúa Giêsu, chúng con tin có sự sống lại và có sự sống đời sau. Xin cho chúng con sống niềm tin bằng chính cuộc sống “tốt đạo đẹp đời” của chúng con. Tất cả những công việc, hành động, lời nói, suy nghĩ của chúng con đều quy hướng về mục đích cuối cùng ấy. Như thế, chúng con sẽ được Chúa ban thưởng sự sống vĩnh cửu. Amen.

Ghi nhớ: “Thiên Chúa không phải là Thiên Chúa của kẻ chết, mà là của kẻ sống”.

 

2. Suy niệm (Lm. Carôlô Hồ Bạc Xái)

  1. Dẫn vào Thánh lễ

Anh chị em thân mến
Lời Chúa hôm nay bảo đảm có một cuộc sống đời sau. Đây quả là một niềm hy vọng vui mừng, vì cuộc sống nơi dương thế của chúng ta sẽ không kết thúc bằng ngõ cụt, nhưng đó là một chặng của cuộc hành trình về cõi trường sinh.
Chúng ta hãy cầu xin Chúa giúp chúng ta sống thế nào để sẽ mãi hạnh phúc trong cuộc sống đời sau.

II. Gợi ý sám hối

Chúng ta quá lo cho cuộc sống đời này mà ít lo cho cuộc sống đời sau.

Nhiều khi chúng ta sống buông thả như không có đời sau. Cách sống của chúng ta chưa thuyết phục được người khác rằng chúng ta thực sự tin có đời sau.

III. Lời Chúa

1. Bài đọc I (2 Mcb 7, 1-2. 9-14)

Chuyện kẻ về thời vua Antiochus bắt đạo. Một bà mẹ và 7 người con thà chịu chết chứ không chịu bỏ đạo Chúa.

Trích đoạn này chỉ ghi cái chết của 4 người con đầu. Lời họ nói với vua đều khẳng định Chúa sẽ cho họ hưởng sự sống đời đời.

2. Đáp ca (Tv 16)

Đây là lời cầu nguyện của những vị tử đạo: “Con đã sống công minh chính trực, con sẽ được trông thấy mặt Ngài. Khi thức giấc, con sẽ được thỏa tình chiêm ngưỡng Thánh nhan”

3. Tin Mừng (Lc 20, 27-38)

Mặc dù nhóm Sađốc không tin vào cuộc sống đời sau, nhưng qua lời lẽ của họ, người ta thấy họ có một quan niệm hết sức vật chất về cuộc sống ấy: ở đời sau người ta cũng cưới vợ lấy chồng sinh con và hưởng thụ tất cả những lạc thú như đời này.

Trong câu trả lời, Chúa Giêsu vừa xác nhận có cuộc sống đời sau, vừa cho biết ý nghĩa của cuộc sống ấy:Đời sau người ta sẽ bất tử, do đó không cần lưu truyền nói giống, cho nên cũng không cần cưới vợ lấy chồng.Hạnh phúc duy nhất và cũng là quan tâm duy nhất của người sống đời sau là được ở gần Chúa để phụng thờ Chúa, như các thiên thần vậy.4. Bài đọc II (2 Tx 2, 16--3, 5) (Chủ đề phụ)

Như đã trình bày (Chúa nhựt 31), nhiều tín hữu ở giáo đoàn Thêxalônica nghĩ rằng sắp tận thế nên đâm ra lười biếng không làm việc và sống buông thả. Trong trích đoạn của Chúa nhựt trước, thánh Phaolô đã vạch ra sai lầm của suy nghĩ đó.

Trong trích đoạn hôm nay, Thánh Phaolô nói thêm: dù không biết chắc khi nào tận thế và Chúa lại đến, nhưng các tín hữu phải sống trong niềm hy vọng và mong chờ Chúa đến. Chính niềm hy vọng và sự mong chờ này sẽ là động lực giúp họ sống tốt.

IV. Gợi ý giảng

* 1. Bàn về việc sống lại

Ông Cao Bá Quát là một nhà thơ nổi tiếng trong lịch sử văn học Việt nam. Ông có mấy câu thơ như sau:

“Ba vạn sáu ngàn ngày lá mấy,

Cảnh phù du trông thấy những nực cười.

Thôi công đâu chuốc lấy sự đời

Tiêu khiển một vài chung lếu láo. “

Ông Cao Bá Quát nghĩ rằng đời người vắn vỏi lắm, dài nhất là 3 vạn 6 ngàn ngày, nghĩa là 100 năm, sau đó thì ai cũng chết, mà chết là hết tất cả, cho nên còn sống bao lâu thì hãy lo ăn chơi, hưởng thụ, uống rượu “tiêu khiển một vài chung lếu láo”. Những người không tin có đời sau, không tin có sống lại, thì cũng dễ rơi vào quan niệm sống buông trôi hưởng thụ như 4 câu thơ trên.

Thời Chúa Giêsu, phái Sađốc cũng không tin có sống lại. Họ dựa vào một khoản luật của Môsê để đặt ra một câu chuyện lố bịch chế diễu Chúa Giêsu. Khoản luật đó là: Nếu một người đàn ông có vợ nhưng chưa có con mà bị chết, thì một trong các anh em trai của người chết ấy phải cưới lấy người vợ góa. Khi sinh ra đứa con đầu tiên thì phải coi đứa con đó là con của người đàn ông quá cố. Mục đích của luật này là để cho người quá cố không bị tuyệt tự, nhưng vẫn có con lưu truyền nòi giống cho mình. Phái Sađốc đã căn cứ vào khoản luật này và đặt ra một thí dụ: gia đình kia có 7 anh em trai, người thứ nhất lấy vợ rồi chết mà không có con, người thứ hai lấy người vợ góa đó nhưng cũng chết không con, tới người thứ 3, thứ tư, năm, sáu bảy đều lần lượt lấy người vợ góa đó và cũng đều chết mà không có con. Vậy khi sống lại thì người đàn bà này sẽ là vợ của ai? Ta thấy mục đích của phái Sađốc là mỉa mai cho rằng sống lại là việc phi lý, vì nếu có sống lại thì chẳng lẽ người đàn bà ấy có thể là vợ chung của tập thể 7 anh em kia sao?
Nhưng Chúa Giêsu đã trả lời rất khôn khéo. Ngài vừa chứng minh rằng sống lại là một điều hợp lý, vừa giải thích cho người ta hiểu tình trạng của kẻ sống lại như thế nào.
Trước hết, để chứng minh rằng sống lại là điều hợp lý, Chúa Giêsu lập luận rằng Thiên Chúa là Chúa của kẻ sống, chỉ có kẻ sống mới hưởng được tình thương của Chúa. Nếu chết mà là hết thì đâu còn hưởng được tình thương của Chúa. Do đó Chúa phải cho kẻ chết sống lại để họ có thể hưởng được tình thương Chúa mãi mãi. Lập luận này đối với chúng ta ngày nay thì hơi lạ tai, khó hiểu. Nhưng đối với người Do thái thời đó, vốn rất quen với quan niệm “Thiên Chúa là Chúa của kẻ sống”, thì họ đều dễ hiểu. Tóm lại là Chúa Giêsu khẳng định rằng kẻ chết sẽ được sống lại.
Rồi Chúa Giêsu còn giải thích tình trạng của kẻ sống lại như thế nào: đó là một cuộc sống khác hẳn cuộc sống bây giờ, không còn cưới vợ lấy chồng nữa; cuộc sống ấy rất thánh thiện như “các thiên thần” cuộc sống ấy rất thân mật với Chúa, kẻ lành sống lại được coi là “Con của Chúa”.
Tóm lại, bài Tin Mừng hôm nay thuật lại một cuộc tranh luận về giáo lý giữa phái Sađốc và Chúa Giêsu. Phái Sađốc mỉa mai việc kẻ chết sống lại, còn Chúa Giêsu thì khẳng định tín điều ấy. Chúng ta chẳng cần đi sâu vào chi tiết cuộc tranh luận đó làm chi. Điều cần chúng ta quan tâm hơn là hãy suy nghĩ về niềm tin của mình. Vấn đề thực tế đối với chúng ta là chúng ta tin có sự sống lại Vậy nếu chúng ta tin có sống lại thì bây giờ chúng ta phải sống như thế nào?
Hồi nảy chúng ta đã nghe lại mấy câu thơ của ông Cao bá Quát với chủ trương còn sống bao lâu thì hãy ăn chơi, hưởng thụ cho tối đa, kẻo chết rồi sẽ không còn được hưởng thụ nữa. Đây là quan niệm của những người không tin có sống lại. Vì quan niệm như vậy, cho nên nếu họ có sống buông thả, chạy theo hưởng thụ thì cũng là hợp lý thôi. Thế nhưng có những người có đạo mà cũng sống theo kiểu đó, quan tâm duy nhất của họ là chỉ lo ăn, lo mặc, lo xài, lo mua sắm, lo chơi, lo thỏa mãn những nhu cầu vật chất. Sống kiểu đó là mâu thuẫn với niềm tin của mình.
Hạng người thứ hai không quá duy vật như số người vừa kể trên. Tuy họ mãi mê kiếm tiền và rất coi trọng cuộc sống vật chất, nhưng họ vẫn không quên đời sau. Họ ít đến nhà thờ, ít đọc kinh cầu nguyện, nhưng họ chịu khó bỏ tiền ra để xin lễ, chịu khó bỏ tiền ra để góp phần xây sửa nhà thờ, đóng góp tiền bạc khi có những cuộc quyên góp... Bỏ tiền ra như vậy là họ yên tâm, cho rằng mình đã có bỏ vốn để đầu tư cho đời sau. Có phải đó là niềm tin vào sự sống lại không? Có lẽ cũng là niềm tin, nhưng là tin lệch lạc: hạnh phúc đời sau không phải mua được bằng tiền bạc đâu. Đời này thì có tiền mua tiên cũng được, nhưng đời sau không phải vậy!Thiết nghĩ nếu chúng ta tin rằng có sống lại, thì chúng ta phải thể hiện niềm tin ấy bằng cách sống của mình. Thể hiện thế nào?Trước hết, ta phải biết đánh giá những biến cố xảy ra ở đời này bằng cặp mắt đức tin: người không tin thì rất sợ chết, rất sợ bệnh tật, rất sợ mất mát, rất sợ đau khổ. Họ sợ như vậy là phải, bởi vì họ không biết có đời sau. Chỉ có mỗi đời này mà đời này lại bệnh tật, mất mát, khổ sở và chết nữa thì không sợ sao được. Nhưng người có đạo như chúng ta đã tin có đời sau, đã tin rằng đời này chỉ là tạm, đời sau mới vĩnh viễn, mà cũng sợ như thế tức là mâu thuẫn với niềm tin của mình.Điểm thứ hai để thể hiện niềm tin của mình vào sự sống lại là chúng ta phải biết phân chia thời giờ của ta để quan tâm chăm lo mọi mặt:1. Dành một phần thời giờ để lo làm ăn sinh sống.

2. Dành thêm một phần thời giờ khác để gần gũi với con cái, giáo dục gia đình.

3. Thêm một phần thời giờ nữa để xây dựng những tương quan xã hội.

4. Và chắc chắn cũng phải dành một phần thời giờ để lo việc đạo, đời sau.

Chúng ta phải nhớ nguyên tắc “Gieo gì thì gặt nấy”: nếu chúng ta dành hết thời giờ ở đời này để chỉ lo tiền bạc vật chất thì chúng ta chỉ gặt được tiền bạc vật chất mà thôi; nếu ta không dành thời giờ để xây dựng hạnh phúc gia đình thì sẽ không có gì lạ nếu gia đình ta chẳng hạnh phúc; nếu ta không đầu tư thờ giờ và công khó để lo cho đời sau thì mong gì đời sau ta sẽ được hạnh phúc.

Dưới đây là một câu ngạn ngữ phương Tây cho chúng ta suy nghĩ:

Nếu bạn muốn hạnh phúc một ngày, hãy mua một cái áo mới

Nếu bạn muốn hạnh phúc một tuần, hãy làm thịt một con heo.

Nếu bạn muốn hạnh phúc một năm, hãy cưới vợ lấy chồng.

Nếu bạn muốn hạnh phúc một đời, hãy làm người sống tử tế

Nếu bạn muốn hạnh phúc một muôn đời, hãy làm người có đạo tốt.

* 2. Sống lại

Đoạn Tin Mừng chúng ta vừa nghe đề cập đến vấn đề kẻ chết sống lại. Mỗi khi chúng ta đọc kinh Tin Kính, chúng ta vẫn tuyên xưng “Tôi tin xác loài người ngày sau sống lại”. Chúng ta tuyên xưng như thế và chúng ta tin điều đó dễ dàng. Chứ thực ra vấn đề này không dễ dàng cả vào thời Chúa Giêsu lẫn ở thời nay.

Thời nay có nhiều người chỉ nghĩ đến vật chất: ngay cả Thiên Chúa, linh hồn và đời sau họ còn không tin, huống chi là tin chuyện xác loài người chết rồi mà một ngày kia còn sống lại được. Thời Chúa Giêsu 2000 năm trước đây cũng thế. Vấn đề kẻ chết sống lại là một tín điều không phải do trí óc con người lý luận ra, mà do Thiên Chúa mạc khải dần dần qua dòng thời gian. Ở thời xa xưa, khi mạc khải Chúa chưa tỏ hiện trọn vẹn, người Do thái cũng tin như những dân ngoại: Họ tin rằng sau khi chết, phần linh hồn của con người còn tồn tại, tồn tại trong cõi âm phủ tối tăm không ánh sáng vì thiếu hết mọi hạnh phúc, linh hồn kẻ lành người dữ sau khi chết đều phải rời vào cõi âm phủ buồn thảm đó. Còn phần xác thì tiêu tan ra, không hy vọng gì sống lại được. Mãi đến thời anh em nhà Macabê khởi đầu dành độc lập cho đất nước Do thái, nghĩa là khoảng 100 năm trước Chúa Giáng sinh, mạc khải mới cho biết xác loài người có ngày sẽ sống lại. Chính vì tin tưởng như thế nên vào thời này, như đoạn sách thánh lúc nãy thuật lại, có 7 anh em nhà bị bắt và được dụ dỗ bỏ đạo, 7 anh em sẵn sàng thà chết phần xác mà không bỏ đạo còn hơn là chết luôn phần hồn vì tội chối Chúa, vì họ tin chắc rằng xác thể họ sẽ không chết mãi, nhưng Thiên Chúa sẽ cho sống lại vinh hiển. Tuy đã có mạc khải như thế, nhưng cho tới thời Chúa Giêsu, vẫn có người còn chưa tin theo. Đại biểu của những kẻ không tin này là phái Sađóc. Vì không tin, nên khi nghe Chúa Giêsu giảng về kẻ chết sống lại, họ mỉa mai chế giễu và đến với Chúa đặt ra một câu hỏi lố bịch cốt ý chọc ghẹo Chúa. Họ lý luận: nếu như ông nói người ta sẽ sống lại, thì giả sử một nhà kia có 7 con trai, anh cả lấy vợ rồi chết. Và căn cứ theo luật Môsê thì em kế phải cưới người vợ góa để có con nối dõi tông đường, nhưng em kế cũng chết mà không con, rồi người thứ ba lấy, rồi cũng chết, cứ thế cho đến hết 7 anh em. Vậy khi sống lại thì người đàn bà kia là vợ của ai? Khi hỏi như thế, nhóm Sađóc dĩ nhiên không cần Chúa trả lời rằng người đàn bà đó là vợ của ai cả, nhưng muốn Chúa bị bắt bí và phải thú nhận rằng giáo lý của Ngài về việc kẻ chết sống lại lại là bố bịch và do đó Ngài phải phủ nhận giáo lý đó để đi theo lập trường của họ. Nhưng trong câu trả lời của Chúa Giêsu, Ngài chẳng những giải thích rõ hơn về việc kẻ chết sống lại, mà còn trả lời thẳng về việc ai là chồng của người đàn kia. Đại khái Ngài bảo: vấn đề kẻ chết sống lại là một điều chắc chắc có căn cứ trên sách thánh, bởi Thiên Chúa đã phán Ngài là Chúa của Abraham, Isaac và Giacóp, mà Thiên Chúa không là Chúa của kẻ chết, nhưng là của kẻ sống, cho nên các tổ phụ đó tuy đã lìa đời nhưng vẫn là kẻ sống và xác thể họ sẽ sống lại. Ngài còn cho phái Sađóc biết thêm rằng: sau khi sống lại người ta không còn sống theo những điều kiện của đời này, nghĩa là không còn cưới vợ lấy chồng nữa.

Tất cả đều hướng về Thiên Chúa là nguồn hạnh phúc thật và độc nhất, và là Đấng thoả mãn mọi nhu cầu của con người.

Chúng ta là con cái Chúa đang sống giữa con cái thế gian như một nhóm thiểu số, như hạt muối trong lòng đất, như nhúm men trong thúng bột. Nhiều người sống quanh ta không tin ở đời sau, và đa số không tin việc sống lại. Do chính cuộc sống chúng ta, chúng ta phải làm sao chứng minh cho mọi người về niềm tin của chúng ta:

- Tin rằng xác loài người ngày sau sống lại, chúng ta phải làm sao cho mọi người thấy rằng ngoài những giá trị thuần túy vật chất như tiền bạc, cơm áo, tài sản... còn có những giá trị tinh thần quý báu hơn như thà mất mát một vài tiện ích vật chất chứ không phạm tội để bảo tồn những giá trị thiêng liêng của linh hồn; như không khư khư nhắm mắt chỉ lo cho đời sống vật chất đời này mà quên mất đời sau: như dám quảng đại hy sinh chia xẻ những của cải mình đang có cho những người anh chị em túng thiếu hơn mình...

Một niềm tin chắc chắn và được biểu lộ qua một cuộc sống cụ thể như thế mới làm cho những kẻ không tin không chế nhạo chúng ta và còn có sức lôi kéo họ đi theo niềm tin của chúng ta về việc kẻ chết sống lại.

* 3. Hợp hoan bên Chúa

Trong kho tàng chuyện cổ Tây Phương có câu chuyện Công Chúa Ngủ Trong Rừng, như sau:

Ngày xưa, ở vương quốc hạnh phúc, nhà vua sinh dược một công chúa xinh đẹp tuyệt vời. Lễ rửa tội được tổ chức linh đình, có mặt các bà tiên, mỗi bà tặng công chúa một món quà là một lời chúc tốt đẹp.

Dù không được mời, mụ phù thuỷ ghen tức cũng bay đến, lẩm bẩm câu chúc dữ: “Một ngày kia, cái suốt chỉ sẽ đâm vào tay công chúa và con bé sẽ phải chết!” Nói xong, mụ bay vù qua cửa sổ. Mọi người buồn bã mất vui. May thay, vẫn còn một bà tiên tốt bụng đến trễ. Bà nói: “Ta sẽ làm nhẹ lời nguyền rủa ấy: cô bé sẽ không chết, chỉ ngủ một giấc rất dài cho tới khi một hoàng tử tốt lành, sẽ đến nắm tay kéo dậy và cô sẽ được hạnh phúc mãi mãi”.

Để đề phòng, nhà vua cấm tất cả thần dân không được dùng suốt chỉ. Nhưng một ngày kia, công chúa lên tháp canh trong lâu dài và thấy một bà lão đang khâu vá. Cô xin bà cho khâu thử. Thế là cái suốt chỉ đâm vào tay cô, cô lăn ra chết!

Người ta đặt xác cô giữa lâu đài, nhưng các bà tiên tốt bụng đã khiến mọi người trong lâu đài cùng bất tỉnh cả. Một rừng cây mọc lên che phủ lâu đài. Hoa thơm cỏ lạ bốn mùa đua nở.

Thời gian trôi đi đã ngàn năm, cho đến khi một hoàng tử lịch lãm đi săn ngang qua đó, khám phá ra toà lâu đài. Chàng bước vào ngỡ ngàng trước nàng công chúa xinh đẹp. Hoàng tử đã quì gối cầm tay công chúa, và nàng liền mở mắt chỗi dậy. Thế là hoàng tử rước công chúa về kinh thành, xin vua cha tổ chức lễ cưới linh đình.

Công chúa ngủ trong rừng chính là hình ảnh của người tín hữu an nghỉ trong ơn nghĩa Chúa. Sau một giấc ngủ dài họ được Thái Tử Bình An là chính Chúa Giêsu cầm tay nâng dậy, đưa vào tiệc cưới Nước Trời.

Chúng ta tin rằng con người sinh ra là để được sống mãi. Cái chết chỉ là ngưỡng cửa đưa vào chốn trường sinh. Một người chỉ có một cuộc sống, cuộc sống đời này sẽ quyết định số phận cho cuộc sống đời sau. Việc thiện hôm nay sẽ bảo đảm cho hạnh phúc ngày mai. Đúng như câu hát của nhạc sĩ Hoàng Vân: “Ngày mai, đang bắt đầu từ ngày hôm nay”.

Phái Xa đốc, trái lại, họ không tin có sự sống đời sau, cũng chẳng tin có sự sống lại, nên hôm nay, Chúa Giêsu muốn tiết lộ một vài hình ảnh của đời sau rằng: Đời sau khác hẳn đời này. Người ta “không cưới vợ cũng chẳng lấy chồng” vì con người “không thể chết nữa”, nên đâu cần sinh con để bảo tồn nòi giống, nhưng được “sống ngang hàng với các thiên thần” là ca ngợi, tôn vinh và phụng thờ Thiên Chúa. Họ được thông phần vinh quang Thiên Chúa (Lv 12, 7), được dự phần vào dòng dõi của Người (1 Ga 3, 2). Thánh Phao lô viết: “Việc kẻ chất sống lại cũng vậy. Gieo xuống thì hư nát, mà chỗi dậy thì bất diệt, gieo xuống thì hèn hạ, mà chỗi dậy thì vinh quang; gieo xuống thì yếu đuối, mà chỗi dậy thì mạnh mẽ; gieo xuống là thân thể có sinh khí mà chỗi dậy là thân thể có thần khí (1 Cr 15, 42-44).

Quả thật, con người được Thiên Chúa dựng nên để sống trường sinh, nhưng vì sự đố kỵ của ma quỷ mà cái chết đã nhập vào thế gian. Thánh ý của Thiên Chúa không thể mãi mãi bị ngăn chặn bởi quỷ ma, con người phải tìm lại được quyền bất tử của mình. Đó là sự sống lại của những người Công chính. Lời than thở của thánh Augúttinô đã nói lên nỗi khát khao của con người: “Lạy chúa Chúa đã dựng nên con hướng về Chúa, nên lòng con luôn khắc khoải cho đến khi được nghỉ an trong Chúa”.

Chúa dựng nên con người để hưởng hạnh phúc, nhưng không chỉ là hạnh phúc tạm bợ đời này, mà là hạnh phúc vĩnh hằng đời sau. Sống là một cuộc hành trình tiến về đời sau, về với Đấng hằng đợi chờ và yêu thương ta mãi mãi. Đừng mải mê với những hạnh phúc mau qua, những lạc thú bên đường mà quên cùng đích cuộc đời là phải gặp được Chúa. Có những kẻ sống như thể mình không bao giờ phải chết, họ ung dung hưởng thụ những thú vui trần tục. Họ đã chết ngay khi còn đang sống. Có những kẻ sống như thể chỉ có đời này, tự điển sống của họ không có từ “đời sau”. Họ đang sống mà như đã chết.

Lạy Chúa, chúng con cảm tạ Chúa đã cho chúng con hưởng dùng hương hoa của cuộc sống cùng với bao niềm vui và hạnh phúc. Chúng con chỉ xin Chúa thêm một ân huệ này là cho chúng con được về hợp hoan với Chúa đời đời. Amen. (TP)

* 4. Nghĩ đến sự chết

Càng lớn tuổi, chúng ta càng ý thức rằng cuộc sống này ngắn ngủi chừng nào và mỏng dòn như thế nào. Và mặc dù không muốn, càng ngày chúng ta càng nghĩ nhiều về sự chết.

Việc suy nghĩ về sự chết không nên khiến chúng ta bi quan sợ hãi, trái lại nó phải đem đến cho chúng ta những giá trị tích cực: nhờ nghĩ đến cái chết, chúng ta sẽ yêu quý sự sống hơn; nhờ nghĩ đến cái chết, chúng ta sẽ đón nhận từng ngày sống như một món quà; và khi đón nhận cuộc sống như một món quà của Chúa, chúng ta sẽ sống mà yêu thương Chúa nhiều hơn.

Chết chỉ là một bước đi qua. Tuy nhiên, nhiều người nghe nói thế mà không muốn tin như thế. Thực ra, có gì khó tin lắm đâu? Cuộc đời vốn gồm nhiều bước đi qua:Khi chúng ta sinh ra là chúng ta đi qua từ cuộc sống trong bụng mẹ sang cuộc sống bên ngoài.Khi chúng ta đến trường là chúng ta đi qua từ cuộc sống ở gia đình nhỏ bé sang cuộc sống ở một cộng đồng rộng lớn hơn.Khi lập gia đình là chúng ta đi qua từ cuộc sống một mình sang cuộc sống lứa đôi.Khi đến tuổi hưu dưỡng, chúng ta sẽ đi qua từ cuộc sống làm việc sang cuộc sống nghỉ ngơi.Mỗi một bước đi qua đều dẫn đến một tình trạng vừa giống như chết nhưng đồng thời cũng là một cách sống mới.

Thì ngày chết cũng vậy: đó là một bước đi qua từ cuộc sống đời này sang cuộc sống đời sau.

* 5. Làm chứng cho niềm tin vào cuộc sống đời sau

Bà mẹ và 7 người con trong bài đọc I là những người tin có sự sống đời sau, và họ đã làm chứng cho niềm tin ấy bằng cách dám hy sinh mạng sống đời này.

Chúng ta tuyên xưng có sự sống đời sau thì chúng ta cũng phải làm chứng cho người khác thấy là chúng ta thực sự tin như thế. Người khác mà thấy chúng ta thực sự tin như thế thì có thể họ mới tin theo chúng ta.

Nhưng thế nào là chứng tỏ mình thực sự tin vào cuộc sống đời sau?Là chúng ta dám từ bỏ những thứ mà cuộc sống đời này cần.Là chúng ta không quá sợ khổ và sợ chết.Là trong khi còn sống, chúng ta không chỉ tìm kiếm những giá trị vật chất để bảo đảm cho đời này, mà còn tìm kiếm cách hăng say hơn những giá trị tinh thần và đạo đức là bảo đảm cho cuộc sống đời sau.* 6. Kinh nghiệm cận tử

Mấy năm gần đây, một số bác sĩ người Đức và Mỹ đã rất chú ý đến hiện tượng mà họ gọi là “kinh nghiệm cận tử” (near death experience): nhiều người vì một tai nạn hay một lý do nào đó đã ngất đi trong một thời gian khá dài. Về mặt thể lý, coi như họ đã chết. Nhưng sau đó họ sống lại. Các bác sĩ đã phỏng vấn 1370 người ấy. Trong những điều họ thuật lại, có những điểm mà ai cũng nhất trí, như sau:Cảm nghiệm thứ nhất của những người ấy là thấy mình rời khỏi thân xác của mình, đồng thời cảm thấy nhẹ nhàng dễ chịu sau khi rời khỏi thân xác.Cảm nghiệm thứ hai là thấy mình đi trong một đường hầm rất dài. Sau khi đi hết đường hầm thì tới một vùng ánh sáng và gặp một Đấng tỏa ra ánh sáng. Thứ ánh sáng này sáng hơn mọi thứ ánh sáng họ đã từng thấy ở trần gian nhưng không chói mắt mà lại rất dễ chịu, đến nỗi họ muốn được ở mãi trong ánh sáng đó và bên cạnh Đấng tỏa ánh sáng đó.Cảm nghiệm thứ ba là được Đấng sáng láng ấy cho thấy lại cuộc đời của họ, giống như xem một cuốn phim quay tất cả những lời nói việc làm và suy nghĩ của họ từ hồi có trí khôn cho đến lúc chết. Lúc xem lại cuốn phim cuộc đời ấy, khi thấy một việc xấu thì tự nhiên lòng họ cảm thấy buồn và bứt rứt khó chịu, đồng thời đấng sáng láng ấy đánh giá cho họ biết đó là một việc làm không tốt. Ngược lại khi thấy một việc tốt thì họ cảm thấy vui, dễ chịu và hạnh phúc, đồng thời đấng sáng láng ấy khen thưởng. Những việc tốt là những việc đã làm vì lòng yêu thương, những việc xấu là những việc họ đã làm do động cơ không yêu thương.Được ở trong ánh sáng huyền diệu ấy và ở gần đấng sáng láng ấy, ai cũng cảm thấy vô cùng hạnh phúc nên muốn ở lại mãi, nhưng Đấng ấy bảo: “Bây giờ con chưa được ở lại, vì con còn nhiều việc bổn phận phải làm ở trần gian. Vậy con phải về”. Và khi đó là lúc họ tỉnh lại.Tất cả những người sống lại ấy đều thay đổi cách sống: từ đó trở đi họ không sợ chết nữa; họ không coi trọng việc tìm kiếm danh lợi thú nữa mà chỉ lo chu toàn bổn phận và đối xử với mọi người bằng tình thương.V. Lời nguyện cho mọi người

Chủ tế: Anh chị em thân mến, Chúa Giêsu nói: Chính Thầy là sự sống lại và là sự sống. Ai tin vào Thầy, thì dù đã chết, cũng sẽ được sống. Ai sống và tin vào Thầy, sẽ không bao giờ phải chết. Tin tưởng vài tín điều kẻ chết sống lại, chúng ta cùng dâng lời cầu xin:

1. Hội thánh là hiện thân của Thiên Chúa Tình yêu / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho mọi thành viên trong đại gia đình Hội thánh / biết cố gắng sống trọn vẹn đức bác ái yêu thương / để mọi người nhận biết Chúa qua chính đời sống của mình.

2. Thử thách gian truân dễ làm cho con người mất niềm tin / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho những ai đang gặp khó khăn / buồn phiền trong cuộc sống / biết tìm đến Chúa là Đấng hay an ủi kẻ ưu phiền.

3. Chúa yêu thương hết thảy mọi người / không bao giờ kỳ thị thiên tư / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho các Kitô hữu / biết noi gương Chúa trong cách cư xử của mình.

4. Cuộc sống hôm nay quyết định số phận mai sau của người tín hữu / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho cộng đoàn giáo xứ chúng ta / biết nhiệt thành sống đức tin / để nhờ đó mà được hưởng sự sống đời đời.

Chủ tế: Lạy Chúa Giêsu Kitô, việc Chúa Phục sinh từ cõi chết là một đảm bảo cho cuộc sống đời sau của chúng con. Xin cho chúng con biết tuân giữ trọn vẹn Lề Luật của Chúa, để sau này cùng được chung hưởng vinh phúc trên trời với Chúa là Đấng hằng sống và hiển trị muôn đời.

VI. Trong Thánh Lễ

- Trước kinh Lạy Cha: Thiên Chúa là Cha chúng ta và chúng ta là con của Ngài. Ngài dẫn dắt từng bước chân ta đi trên con đường dương thế này, và cuối cùng Ngài sẽ dẫn chúng ta về nhà Ngài. Với tất cả lòng tin yêu phó thác, chúng ta hãy cầu nguyện với Ngài.

VII. Giải tán

Xin Thiên Chúa thắp lên trong lòng anh chị em niềm hy vọng vào cuộc sống đời sau. Xin cho niềm hy vọng ấy là động cơ giúp anh chị em sống tốt trong từng giây phút của cuộc sống đời này. Lễ xong, chúc anh chị em luôn bình an.

 

3. Suy niệm (Lm. Giuse Đinh Lập Liễm)

CUỘC SỐNG MAI HẬU

A. DẪN NHẬP

Chết là một qui luật phổ biến: mọi người đều phải chết. Người Việt Nam chúng ta tin rằng, trong tình trạng bình thường, cuộc đời của mỗi người phải trải qua 4 giai đoạn: sinh, lão, bệnh, tử. Chết là giai đoạn kết thúc cuộc đời. Nhưng chết rồi sẽ ra sao? Đi về đâu? Hay là đi vào hư vô? Người Việt chúng ta tin rằng chết là trở về cội nguồn vì “Sinh ký tử quy” (Hoài Nam Tử): Sống là gửi, là nhờ, chết mới là về!

Trong thời Đức Giêsu, người ta cũng tin như thế, nhất là với nhóm biệt phái. Nhưng nhóm Sađucêu là những tư tế thiên về chính trị và vật chất thì không tin như thế. Họ không tin có sự sống lại và sự sống đời sau. Do đó họ đã cố bịa ra một câu chuyện kỳ cục, để gài Đức Giêsu vào thế bí và để cho mọi người thấy rằng sống lại là một chuyện lố bịch. Nhưng dựa vào Kinh thánh, Đức Giêsu đã chứng minh cho họ là có sự sống lại và có đời sau; đồng thời cũng cho họ biết là đời sống mai hậu khác với đời sống ở trần gian này, không còn cưới vợ gả chồng nữa, người lành sống lại giống như các thiên thần luôn lo việc phụng thờ và ca ngợi Thiên Chúa trong hạnh phúc vinh quang.

Chúng ta vẫn tuyên xưng niềm tin ấy khi đọc kinh Tin kính: “Tôi tin xác loài người ngày sau sống lại”. Lời thánh Phaolô nhắn gửi cho tín hữu Côrintô càng làm cho chúng ta xác tín: “Nếu chết là hết, thì quả thật chúng ta là những kẻ khốn nạn nhất trong thiên hạ” (x. 1Cr 15, 19). Cuộc sống của chúng ta ở trần gian này là cuộc hành trình đi về nguồn cội là quê trời, nơi mà Đức Giêsu đã nói: “Để con ở đâu thì chúng cũng ở nơi đó với con”. Cuộc sống mai hậu của chúng ta sẽ như thế nào thì tùy thuộc vào cuộc sống hiện tại của chúng ta ở trần gian này vì “gieo giống nào thì gặt giống ấy”.

B. TÌM HIỂU LỜI CHÚA

+ Bài đọc 1: 2Mcb 7, 1-2.9-14

Khi cuộc bách hại khốc liệt xẩy ra vào thế kỷ II thời vua Antiochus, dân Do thái đã có những vị tử đạo. Câu chuyện kể về một bà mẹ với 7 người con thà chịu chết chứ không chịu bỏ đạo Chúa đã chứng tỏ niềm tin ngày càng gia tăng rằng sau khi chết, mỗi người vẫn còn tiếp tục sống. Lần đầu tiên các vị tử đạo của Cựu ước đã khẳng định xác kẻ lành sẽ được phục sinh. Sở dĩ những thanh niên này can đảm chối từ sự sống trần thế, là vì họ tin chắc rằng Thiên Chúa đủ quyền năng để phục sinh họ vĩnh viễn.

Giá trị câu chuyện ở chỗ cho thấy sự phục sinh không là một ý tưởng. Đó là niềm hy vọng cho những ai chịu mất mạng. Hồng ân đáp lại sự dâng hiến. Ai không bao giờ cho sẽ không mong lãnh nhận được điều gì. Tư tưởng này liên kết với Tin mừng hôm nay.

+ Bài đọc 2: 2Tx 2, 16-3, 5

Tiếp theo đoạn thư của Chúa nhật tuần trước, thánh Phaolô khuyên tín hữu Thessalonica hãy kiên tâm bền chí. Khó khăn không thiếu, nhưng phương tiện để vượt qua cũng nhiều, đó là lòng trung tín chân thật dựa trên Lời Chúa và những hướng dẫn của ngài.

Sau đó, ngài xin họ cầu nguyện cho việc truyền giáo của ngài được thành công, dù gặp nhiều chông gai. Ngài phục vụ Lời Chúa và mong Lời Chúa được hoàn thành cũng như được “tôn vinh” nơi lời đáp xin vâng của những người được Lời Chúa kêu gọi.

+ Bài Tin mừng: Lc 20, 27-38

Nhóm Sađucêu thiên về chính trị có quan điểm khác với nhóm biệt phái và luật sĩ. Họ không tin có cuộc sống đời sau. Họ không công nhận điều gì ngoài những điều Thiên Chúa đã mạc khải cho Maisen. Họ bác bỏ sự sống lại và cho rằng đó chỉ là truyền thống hoàn toàn của con người. Họ tưởng rằng cuộc sống mai hậu nếu có thì cũng chỉ như cuộc sống ở đời này, cũng cưới vợ gả chồng, sinh con cái và hưởng thụ tất cả lạc thú như ở đời này. Nên họ đưa ra cho Đức Giêsu một vấn nạn khó giải quyết.

Để trả lời cho họ, Đức Giêsu vừa xác nhận có sự sống đời sau, vừa cho họ biết ý nghĩa về cuộc sống ấy:

- Trong cuộc sống mai hậu, người ta sẽ bất tử, không còn vấn đề truyền sinh, nên không còn cưới vợ gả chồng nữa.

- Trong ngày sống lại, người ta sẽ giống như các thiên thần để hưởng hạnh phúc bên Chúa.

Đức Giêsu cho chúng ta hiểu rằng ngôn ngữ loài người không đủ sức diễn tả tình trạng cụ thể của người được phục sinh. Câu hỏi của nhóm Sađucêu vì thế không đáng phải ghi nhớ.

C. THỰC HÀNH LỜI CHÚA: Cuộc sống mai hậu của chúng ta

I. MỘT VẤN NẠN ĐƯỢC ĐẶT RA

1. Thân thế nhóm Sađucêu

Trong thời Đức Giêsu, có ba nhóm rất có thế lực và chi phối đời sống tôn giáo cũng như xã hội Do thái. Ba nhóm ây là Luật sĩ, Biệt phái và Sađucêu. Nhóm luật sĩ và biệt phái là những người đạo đức chuyên lo việc học hỏi Thánh kinh và giữ luật một cách tỉ mỉ. Họ chuyên lo việc đạo chứ không quan tâm đến chính trị. Tuy thế, họ là những người giả hình và hay chống đối Đức Giêsu. Nhiều lần Ngài đã phải thẳng thắn vạch trần bộ mặt giả dối của họ.

Còn nhóm thứ ba là Sađucêu. Đây là một nhóm tư tế cao cấp trong Do thái giáo. Họ có quyền cả về sinh hoạt tôn giáo và chính trị Do thái từ trước thời Đức Kitô. Họ chỉ chấp nhận Ngũ kinh, coi Maisen là vị tiên tri vĩ đại và hoài nghi các tiên tri khác. Họ không tin linh hồn bất tử và sự sống lại (họ trái ngược và kình địch với nhóm Biệt phái) vì hai lý do: một là họ bảo giáo lý về sự sống đời sau không có trong Thánh kinh (đối với họ chỉ có luật Maisen thôi), hai là họ nghĩ rằng: quyền năng của Thiên Chúa không vượt qua con người.

2. Một cái bẫy được giương ra

Với trí khôn minh mẫn và trào phúng, họ cố làm cho câu chuyện sống lại trở nên lố bịch và buồn cười, họ đã nại đến thế giá ông Maisen mà Đức Giêsu không thể không nhìn nhận (Đnl 23, 5) để bịa ra câu chuyện về sự sống lại.

Theo luật Maisen, luật mà Thánh kinh gọi là luật Levirat (Dt 25, 5-10), khi có người anh em trong gia đình chết mà không có con, người anh em còn sống phải lấy chị dâu hay em dâu goá để gây dòng họ cho anh em mình. Đứa con đầu tiên sinh ra do sự phối ngẫu này được xem như là con đẻ của người anh xấu số, được phép nhân danh người quá cố để tiếp tục sống trong cộng đoàn Israel. Theo phái Sađucêu, việc áp dụng luật như vậy, nhất thiết chứng minh rằng không có sự sống lại. Họ hỏi Đức Giêsu: Nếu một người đàn bà theo luật Levirat lấy liên tiếp 7 anh em mà không có con thì khi sống lại bà là vợ ai?

Thực ra, trong thực tế không có trường hợp nào xẩy ra như vậy; nhưng ở đây chỗ quá đáng của 7 anh em có mục đích cho ta thấy việc sống lại là một việc không thể tin được.

Cái sai lầm của những người Sađucêu đặt ra câu chuyện này là ở chỗ quan niệm có tính cách vật chất về sự sống lại. Họ nghĩ đời sống trần gian này thế nào, thì khi sống lại ở đời sau cũng vậy: Đời này dựng vợ gả chồng thì đời sau cũng chồng nào vợ nấy.

II. MỘT GIẢI ĐÁP ĐƯỢC THỰC HIỆN

Đức Giêsu đã trả lời bằng cách bác bỏ quan niệm sai lầm về sự sống lại mà phái Sađucêu chế giễu. Ngài chứng minh rằng: “Con cái đời này cưới vợ gả chồng”, sự sống tại trần thế có cưới vợ gả chồng, vì lẽ đời sống con người có sinh có tử, và vì có tử nên con người cần phải dựng vợ gả chồng để truyền sinh và nối dõi.

Trong đời sống mai hậu họ không còn cưới vợ gả chồng vì hai lý do: một là vì họ sẽ không thể chết được nữa, và họ được ngang hàng với các thiên thần; hai là vì họ trở nên con cái Thiên Chúa, và là con cái của sự sống lại, nghĩa là được thừa hưởng một thế giới mới và sự sống mới từ nơi Thiên Chúa.

* “Quả thật, họ không thể chết nữa”, vì được ngang hàng với các thiên thần: khi sống đời đời, người ta sẽ không còn lo lắng việc đời nữa, ngoài việc phụng sự và ngợi khen Thiên Chúa, giống như nhiệm vụ của các thiên thần.

* “Họ là con cái Thiên Chúa, vì là con cái sự sống lại”: Kiểu nói của người Sêmít này có nghĩa là một khi được Thiên Chúa nhận là con cái thì họ cũng được thừa hưởng thế giới mới và sự sống mới nhờ việc sống lại (x. Ep 1, 5; Rm 8, 18-21).

Còn nói về việc kẻ chết sống lại thì Đức Giêsu dựa vào Thánh kinh để chứng minh có sự sống lại. Ngài nêu ra một đoạn trong sách Xuất hành mà nhóm Sađucêu công nhận để chứng minh chân lý ấy: khi hiện ra với Maisen trong bụi gai đang cháy, Thiên Chúa đã tự xưng là Thiên Chúa của Abraham, Thiên Chúa của Isaác và Thiên Chúa của Giacóp (x. Xh 3, 6). Mà Thiên Chúa không phải là Thiên Chúa của kẻ chết, nhưng là Thiên Chúa của kẻ sống: Các tổ phụ Abraham, Isaác và Giacóp dù đã qua đời, nhưng câu nói của Thiên Chúa với Maisen có hàm ý là các vị ấy hiện vẫn còn sống. Vì Thiên Chúa là Đấng hằng sống đang điều khiển lịch sử loài người. Ngài không thể là Thiên Chúa của những kẻ chết, mà phải là của những kẻ sống. Con người gồm cả hồn lẫn xác, nên không những linh hồn con người thiêng liêng không bao giờ chết được, mà cả thân xác con người, dù có hoá thành bụi đất, thì nhờ quyền năng của Thiên Chúa Hằng Sống, cũng sẽ được sống lại trong ngày tận thế (x. Ga 11, 23-26).

III. CUỘC SỐNG ĐỜI NÀY VÀ MAI HẬU

1. Chết là một qui luật phổ biến

Có biết bao vĩ nhân thế giới, biết bao anh hùng cái thế đã qua đi mà chỉ còn trong sử sách. Ngay Hoàng đế Tần Thuỷ Hoàng của Trung Hoa xưa đã truyền lệnh cho các thầy thuốc tìm ra thuốc trường sinh cho nhà vua mà đành chịu bó tay. Ông đã chết như mọi người. Kinh nghiệm này đã được Văn Thiên Trường nói lên như một khẳng định:

Nhân sinh tự cổ thùy vô tử

Lưu thủ đan tâm chiếu hãn thanh.

“Nhân sinh tự cổ thùy vô tử”: từ xưa đến nay ai mà không chết? Đúng vậy. Đời người ngắn ngủi lắm. Thi sĩ Cao Bá Quát cũng nói lên kinh nghiệm đó trong mấy vần thơ:

Ba vạn sáu ngàn ngày là mấy,

Cảnh phù du trông thấy cũng nực cười.

Thôi công đâu chuốc lấy sự đời,

Tiêu khiển một vài chung lếu láo.

Thi sĩ nghĩ rằng đời người vắn vỏi lắm, dài nhất là 3 vạn 6 ngàn ngày, nghĩa là 100 năm, sau đó thì ai cũng chết, mà chết là hết tất cả, cho nên còn sống bao lâu thì hãy lo ăn chơi, hưởng thụ, uống rượu “tiêu khiển một vài chung lếu láo”.

2. Nhưng chết là gì?

Có nhiều cách định nghĩa về cái chết nhưng không định nghĩa nào thấy thoả đáng. Chúng ta chỉ biết rằng con người kết thúc cuộc đời này khi linh hồn lìa khỏi xác. Chỉ khi nào linh hồn lìa khỏi xác thì mới là chết thật.

Chết là một sự chuyển đổi chứ không phải là một mất mát, đi vào ngõ cụt hay đi vào hư vô.

Thánh Têrêsa Hài đồng Giêsu trước khi sinh thì đã nói với chị em đang đứng chung quanh: “Em không chết đâu, em đi vào cõi sống”.

Ngay cả những người ngoại giáo từ ngày xưa đã tin như thế, nên Hoài Nam Tử đã nói: “Sinh ký tử qui”: sống là sống gửi, còn chết mới là về. Về đâu? Đi về cội nguồn, đi về một kiếp khác chứ không phải đi vào hư vô. Cũng trong niềm tin đó, thi sĩ Nguyễn Du trong “Đoạn trường tân thanh” đã khẳng định: “Thác là thể phách còn là tinh anh”.

Lời than thở của thánh Augustinô đã nói lên nỗi khát khao của con người được an nghỉ trong Chúa sau khi lìa cõi đời này “Lạy Chúa, Chúa đã dựng nên con hướng về Chúa, nên hồn con luôn khắc khoải cho đến khi được an nghỉ trong Chúa”.

Truyện: Đại tá David Marcus

Đại tá David Marcus bị chết trong trận chiến ở Israel tháng 6 năm 1948. Trong bóp của ông, người ta thấy một tấm thẻ ghi lại những lời thi vị hoá cái chết như sau:

“Tôi đang đứng trên bờ biển. Bên cạnh tôi một con tầu đang trương buồm trắng phất phơ trong gió sớm hướng về đại dương. Con tầu trông thật đẹp và mạnh mẽ. Tôi đứng nhìn theo nó cho đến khi nó chỉ còn là một dải mây trắng nơi trời và nước hoà lẫn với nhau. Lúc đó có người đứng cạnh tôi thốt lên: “Kìa, con tầu biến mất rồi!” – Biến đi đâu? – Biến khỏi tầm mắt tôi, thế thôi! Nó vẫn là cột buồm, là vỏ tầu rộng lớn như lúc nó rời cạnh tôi và cũng vẫn đủ khả năng mang hàng hoá tươi sống đến nơi đã định. Kích thước con tầu chỉ giảm đi trong ánh nhìn của tôi chứ không phải nơi chính nó. Và ngay lúc đó tiếng người cạnh tôi vang lên: “Kìa! Nó biến mất rồi!” thì lại có nhiều tiếng khác ở chân trời đàng kia vang lên đầy hoan hỉ: “Kìa! Nó đến rồi!” Và đó chính là lúc chết (M. Link).

3. Kiếp sống mai hậu

Nhiều người tự nghĩ: nếu cuộc sống chỉ có đời này, và chết là hết, thì liệu những việc tôi đang làm đây có ý nghĩa gì không? Và nói như thánh Phaolô trong thư gửi tín hữu Corintô: “Nếu chết là hết, thì quả thực chúng ta là những kẻ khốn nạn nhất trong cả thiên hạ” (x. Cr 15, 19). Quả thật, nếu không có niềm tin vào sự sống lại, không có niềm tin vào sự phán xét công minh và yêu thương của Thiên Chúa sau khi chết, có lẽ không ai trong chúng ta ngu dại gì mà sống ngay thẳng, thành thật; và cũng chẳng có ai dù đủ kiên trì để chịu đựng những thử thách, bất công, hoặc cũng chẳng ai dại gì mà đi chia sẻ, giúp đỡ người khác nếu điều đó không có lợi cho mình.

Tiền nhân chúng ta tin tưởng: “Hữu công tắc thưởng, hữu tội tắc trừng”: Có công thì được thưởng, có tội thì phải phạt. Điều này rất hợp với tự nhiên, bởi vì kinh nghiệm đã cho thấy nhiều người ngay lành gặp phải rủi ro trong khi những người tội lỗi gặp nhiều may mắn, nếu không có thưởng phạt đời sau, thì sao cho hợp lẽ công bằng?

Mấy năm gần đây, một số bác sĩ người Đức và Mỹ đã rất chú ý đến hiện tượng mà họ gọi là “kinh nghiệm cận tử” (near death experience): nhiều người vì một tai nạn hay một lý do nào đó đã ngất đi trong một thời gian khá dài. Về mặt thể lý, coi như họ đã chết. Nhưng sau đó họ sống lại. Các bác sĩ đã phỏng vấn 1370 người ấy. Trong những điều họ thuật lại, có những điểm mà ai cũng nhất trí, như sau:

- Cuộc sống ở “cõi bên kia” hạnh phúc hơn cuộc sống ở đời này.

- Sau khi “chết đi sống lại”, không ai còn sợ chết nữa, không ai muốn kiếm tiền bạc danh vọng lạc thú gì nữa. Điều duy nhất mà họ quan tâm là sống yêu thương, quảng đại, phục vụ mọi người (Tóm bài của Willie Hoffsuemmer).

Chúng ta chưa ai có kinh nghiệm về cuộc sống mai hậu nên không thể hiểu được và cũng không diễn tả được, nhưng chúng ta hãy tin vào Lời Chúa. Đức Giêsu cho chúng ta biết trật tự, cách tổ chức, sinh hoạt, cách thế hiện hữu trong cuộc sống mai hậu không giống như cuộc sống đời này. Không thể lấy kinh nghiệm hiện hữu của cuộc sống này để áp dụng vào việc suy đoán cách hiện hữu của cuộc sống mai hậu. Đối với cuộc sống mai hậu, con người không hề có một kinh nghiệm nào và cũng không có một từ ngữ nào tương xứng để diễn tả. Thánh Phaolô có nói về sự siêu nghiệm ấy như sau: “Điều mà Thiên Chúa đã dọn sẵn cho những ai mến yêu Người là điều mà mắt chẳng hề thấy, tai chẳng hề nghe, lòng người không hề nghĩ được” (1Cr 2, 9).

Đức Giêsu đã khẳng định: Đời sống của các kẻ sống lại được hiệp thông với Thiên Chúa hằng sống, là đời sống hoàn toàn mới lạ so với đời sống trần gian này. Đời sống đó không có kiểu mẫu nào ở đời này cả. Đó là một cuộc sống không thể nào tưởng tượng ra nổi, một cuộc sống hoàn toàn được biến đổi, một cuộc sống của những người “con Thiên Chúa”, những “người được hưởng ơn phục sinh”: “Họ giống như các thiên thần”.

Truyện: Bác sĩ Paul Nagai

Chết không phải là hết. Paul Nagai, từ sau quả bom nguyên tử ném xuống Nagasaki, đã trở thành con người bất hủ, vì sự tận tuỵ và tấm lòng hy sinh vô bờ bến của ông đối với các nạn nhân.

Chính ông đã để lại mấy dòng tâm sự làm cho ta biết tại sao ông từ vô thần đã trở thành con người có tin tưởng.

“Trong kỳ nghỉ xuân - lời ông - lúc đó tôi học hết năm thứ hai đại học y khoa, mẹ tôi bị trúng phong. Tôi hối hả chạy đến đầu giường mẹ tôi, người chỉ còn một chút hơi thở. Mẹ tôi trừng trừng nhìn tôi, mà thở ra. Cái nhìn cuối cùng của cặp mắt bà mẹ đã sinh ra, đã giáo dục và đã thương tôi đến cùng, cặp mắt này nói cho tôi một cách rõ rệt: dầu sao khi người khuất núi, người vẫn còn luôn luôn ở bên Takashi yêu dấu của bà. Tôi nhìn trong con mắt đó, tôi con người đã không tin có linh hồn và tự nhiên tôi cảm thấy: linh hồn mẹ tôi có; linh hồn mẹ tôi lìa khỏi xác nhưng còn tồn tại mãi mãi”.

Sau đó ông thêm rằng: “Con người tôi đã đổi hẳn, dầu tôi làm hết sức cũng không thể làm cho tôi tin phục rằng cái đã gọi là mẹ tôi đã bị hoàn toàn tiêu diệt… Con mắt tôi lần đầu tiên mở ra nhìn thấy cái thế giới siêu hình” (Văn Quy, Đi về đâu, tr 7-8).

4. Tin vào sự sống lại

Chúng ta rất phấn khởi và đầy tin tưởng khi đọc lời tung hô Alleluia: “Vạn tuế Đức Kitô, Đấng đầu tiên từ cõi chết sống lại. Người vinh hiển quyền năng. Vạn vạn tuế”. Người là đầu thân thể đã sống lại để cho chi thể được sống lại với Người.

Mỗi khi chúng ta đọc kinh Tin kính, chúng ta vẫn tuyên xưng: “Tôi tin xác loài người ngày sau sống lại”. Chúng ta tuyên xưng như thế và chúng ta tin điều đó dễ dàng. Chứ thực ra vấn đề này không dễ dàng cả vào thời Đức Giêsu lẫn ở thời nay.

Người Kitô hữu tin rằng không chỉ có linh hồn tham dự vào cuộc sống mai hậu, mà cả thân xác cũng sẽ sống lại sau khi hư nát một thời gian, để tham dự vào sự sống thần linh và vĩnh cửu đời sau. Thân xác ấy sẽ được biến đổi để phù hợp với cách hiện hữu mới ấy. Niềm tin vào sự sống lại được xây dựng trên nền tảng sự sống lại của Đức Kitô, mà các Tông đồ là những người đã thấy tận mắt, đã sẵn sàng chịu đau khổ và chết để làm chứng. “Chính Đức Giêsu đó, Thiên Chúa đã làm cho sống lại; về điều này, tất cả chúng tôi xin làm chứng” (Cv 2, 32; 10, 41). Đây là một trong những niềm tin căn bản nhất của người Kitô hữu, đến nỗi có thể nói ai không tin vào sự sống lại thì không phải là Kitô hữu.

Tin vào sự sống lại không phải là niềm tin vu vơ, phản khoa học, nhưng ngược lại chính các nhà khoa học thượng thặng lại tin nhận điều đó. Ông Eymieu đã công bố bản thống kê 432 nhà bác học thế kỷ 19 thì có 367 vị tin có Thiên Chúa và sự sống lại. Bác sĩ Dennaert người Đức cho biết trong số 300 nhà bác học lỗi lạc nhất ở 4 thế kỷ vừa qua có 242 vị tin, 38 vị không rõ lập trường, 20 vị không tin và dửng dưng (Văn Quy, Đi về đâu, tr 39).

Truyện: Con bọ nước

Một nhà sản xuất và giám đốc của một hãng phim lớn, ông Cecil B. DeMille vừa có nhiều năng khiếu về nghệ thuật, lại có đời sống nội tâm sâu xa nữa. Ông nhận xét sự chia sẻ của mình với bạn bè như sau:

“Trong khi đi thuyền canô trên hồ Maine, ông chú ý thấy một bầy con bọ nước cánh cứng ngay dưới mặt nước. Một con trong bầy ngoi lên trên mặt nước và từ từ bò lên mạn thuyền canô. Sau cùng, nó phấn đấu leo lên được bên trên thuyền, bám vào thành gỗ và lăn ra chết. DeMille đã quên bẵng đi con bọ nước này cho đến mấy tiếng đồng hồ sau đó ông lại chú ý thấy một con bọ nước khác. Trong ánh mặt trời ấm áp, cái vỏ cứng bên ngoài của nó đã trở nên khô và dòn. Chăm chú theo dõi, ông thấy cái vỏ của nó đã vỡ đôi ra, và từ bên trong nổi ra một hình thức mới, một con chuồn chuồn, cất cánh bay lên không gian với mầu sắc tráng lệ lóng lánh trong ánh mặt trời. Chỉ trong một thoáng, con chuồn chuồn đã bay được xa hơn là con bọ nước bò đi chậm chạp trong nhiều ngày. Nó bay lượn vòng quanh, phóng lên, lao xuống, chập chờn trên mặt nước

DeMille chú ý thấy cái bóng của nó in hình trên mặt hồ. Con bọ ở dưới nước cũng có thể nhìn thấy điều đó, nhưng bây giờ người đồng loại của chúng trước đây đã hiện hữu trong một tình trạng vượt xa sự hiểu biết của chúng. Còn con bọ nước vẫn đang sống trong thế giới nhỏ bé và giới hạn, trong khi người anh chị em bà con của nó đã có được tất cả sự tự do giữa trái đất và bầu trời.

Khi nói với bạn bè của ông điều đã nhìn thấy, DeMille đã kết luận với câu hỏi gợi ý như sau: “Có thể nào Thượng Đế vĩ đại của vũ trụ làm điều đó cho con bọ nước, lại không làm cho con người sao” (Nguyễn Văn Thái, Sống Lời Chúa…, tr 367-368).

5. Chuẩn bị cho cuộc đời mai hậu

Chúa dựng nên con người để hưởng hạnh phúc, nhưng không phải chỉ là hạnh phúc tạm bợ đời này, mà là hạnh phúc vĩnh hằng đời sau. Sống là một cuộc hành trình tiến về đời sau, về với Đấng hằng đợi chờ và yêu thương ta mãi mãi. Đừng mải mê với những hạnh phúc mau qua, những lạc thú bên đường mà quên cùng đích cuộc đời là phải gặp được Chúa. Có những kẻ sống như thể mình không bao giờ phải chết, họ ung dung hưởng thụ những lạc thú trần tục. Họ đã chết ngay khi còn đang sống. Có những kẻ sống như thể chỉ có đời này, tự điển sống của họ không có từ “đời sau”. Họ đang sống mà như đã chết.

Cuộc đời này tuy ngắn ngủi, nhưng lại rất quan trọng: nó ảnh hưởng một cách quyết định đến cách thế hiện hữu của ta trong cuộc sống mai hậu. Một người sống đầy tình người, đầy yêu thương ở đời này chắc chắn tình trạng đời sau sẽ khác hẳn với người đời này sống ích kỷ, chỉ biết nghĩ đến mình.

Đời này là nhân, đời sau là quả: nhân nào sinh quả nấy, cây nào sinh trái nấy, “Cây tốt thì sinh trái tốt, cây xấu thì sinh trái xấu. Cây tốt không thể sinh trái xấu, cũng như cây xấu không thể sinh trái tốt” (Mt 7, 17-18). Người làm tốt sẽ được thưởng, người làm điều xấu sẽ bị phạt như thư Rôma và sách Khải huyền viết: “Thiên Chúa sẽ thưởng phạt mỗi người tuỳ theo việc họ làm” (Rm 2, 6; Kh 2, 23).

Nói đến nguyên tắc “gieo gì thì gặt nấy”, phương Tây có một câu ngạn ngữ rất hay:

Nếu bạn muốn hạnh phúc một ngày, hãy mua một cái áo mới.

Nếu bạn muốn hạnh phúc một tuần, hãy làm thịt một con heo.

Nếu bạn muốn hạnh phúc một năm, hãy cưới vợ lấy chồng.

Nếu bạn muốn hạnh phúc một đời, hãy làm người sống tử tế.

Nếu bạn muốn hạnh phúc muôn đời, hãy làm người có đạo tốt.

Để kết luận, chúng ta tự hỏi: Tôi sẽ chọn cho mình cách sống nào? Sống để chiếm lấy vĩnh cửu hay là chỉ những kẻ chọn lấy đời này và đánh mất đời sau? Đời sau vẫn cứ là huyền nhiệm lớn không thể tả. Chẳng ai biết thiên đàng, hoả ngục như thế nào. Người ta chụp được rất nhiều hình ảnh lạ mắt, nhưng chưa từng có ai lấy được hình ảnh của thiên đàng hay hoả ngục. Vì không thể tìm được chân dung, người tín hữu nói riêng và loài người nói chung, dễ bị cuốn hút vào những cái thấy được của cuộc đời này, bám chặt vào nó đến nỗi có lúc đã trở nên tội lỗi và lún sâu vào tội lỗi.

Chúng ta hãy tâm niệm rằng ‘sống là để chết’. Ta biết mình đang đi về đời sau để gặp Đấng mà mình tin yêu suốt đời. Vì thế, cái chết không làm cho chúng ta bi quan, ngược lại, cái chết dạy ta biết cách sống. Ta hãy sống như sẽ chết, để khi chết, ta trở về nguồn cội đích thật của mình là quê hương vĩnh cửu. Nơi đó Chúa đang chờ để ban hạnh phúc muôn đời cho kẻ đã “xét đáng được dự phần đời sau” là chính chúng ta.

 

4. Suy niệm (Lm. Antôn Nguyễn Cao Siêu, S.J.)

KHÔNG THỂ CHẾT NỮA

Theo sách Luận Ngữ, khi học trò của Khổng Tử là Quý Lộ

hỏi Thầy mình: “Dám xin hỏi Thầy về sự chết.”

Khổng Tử trả lời: “Anh chưa biết về sự sống,

làm sao anh có thể biết về sự chết?”

Câu trả lời của Đức Khổng Tử được coi là rất thực tế.

Trong phận người hữu hạn, ta chưa biết hết về sự sống,

làm sao biết sự chết là điều người sống chưa trải qua.

Đức Khổng Tử tránh trả lời về một điều mà mình không rõ.

Tuy khó mô tả về sự sống sau khi thân xác chết đi,

nhưng phần đông chúng ta tin chết không phải là hết.

Sống là tạm gửi, chết là trở về.

Con người được coi là linh thiêng hơn vạn vật.

Trong các ngôi mộ của những người tiền sử,

ta thấy ở đó có để thức ăn, vũ khí, vật dụng…

Có lẽ họ tin người chết cũng cần những thứ đó cho đời sau.

Một cách nào đó, ngay cả người vô tín cũng tin có đời sau.

được diễn tả qua mọi hình thức tưởng niệm, truy điệu.

Khi con người chết đi, linh hồn thì bất tử,

còn thân xác sẽ bị phân hủy và biến tan.

Có người tin rằng thân xác chẳng thể nào sống lại.

Mọi sự đến từ bụi đất và trở về bụi đất (Gv 3, 20).

Khi thánh Phaolô giảng về sự sống lại của thân xác,

người Hy-lạp ở A-thê-na đã cười nhạo ông (Cv 17, 31-32).

Trong bài Phúc Âm hôm nay,

ta thấy nhóm Xa-đốc cũng không tin thân xác sẽ sống lại.

Nhóm này gồm những người thuộc dòng tộc tư tế.

Họ chỉ coi Bộ Ngũ Thư là Thánh Kinh,

và cho rằng Ngũ Thư chẳng nói gì về việc xác sống lại.

Nhóm Xa-đốc biết Đức Giêsu có niềm tin này,

nên dựa theo luật Lê-vi-ra trong sách Đệ nhị luật (25, 5-10),

họ bịa ra một câu chuyện trớ trêu nhằm bắt bí Ngài.

Theo luật này, một người có vợ, chết đi mà không có con,

thì các anh em của người ấy phải lấy chị ta làm vợ,

để sinh con nối dòng cho người ấy.

Câu chuyện ở đây là: có một góa phụ, vì không sinh con,

nên đã lần lượt lấy thêm sáu người anh em chồng,

vì lấy người nào cũng không có con.

Vậy thử hỏi nếu tin thân xác được sống lại ở đời sau,

thì chị này sẽ là vợ của ai trong số bảy người đàn ông đó.

Chắc nhóm Xa-đốc rất thích thú với câu hỏi của mình.

Họ nghĩ Đức Giêsu sẽ lúng túng và không trả lời được.

Chúng ta phải cảm ơn câu hỏi cắc cớ của họ

vì nhờ đó Đức Giêsu hé lộ cho ta biết về sự sống đời sau.

Ngài cho thấy thân xác sau khi chết và được sống lại

thì ở trong một tình trạng hoàn toàn khác trước.

Sau khi xác được biến đổi cách kỳ diệu,

không còn nhu cầu cưới vợ, lấy chồng hay sinh con.

Con người được bất tử như Thiên Chúa.

Tương quan của người vợ với bảy anh em chồng

vẫn thân thiết như xưa, nhưng lại rất khác xưa.

Chẳng có chuyện lục đục giữa bảy ông với một bà.

Ở đời sau, con người sống như các thiên thần.

Không phải vì họ không có thân xác nữa,

nhưng vì cả con người họ hướng trọn về Thiên Chúa,

trong việc thờ phụng và ca ngợi không ngơi.

Trong Kinh Tin Kính, ta tuyên xưng: “Tôi tin xác sống lại.”

Như thế cả xác và hồn tôi được dựng nên để sống mãi.

Chúa Giêsu là con người đầu tiên vào Nước Trời

với cả thân xác và linh hồn của Ngài nơi trần thế.

Chúng ta được chia sẻ hạnh phúc đó với Ngài

và mong gặp lại mọi người thân yêu trong nơi vĩnh phúc.

LỜI NGUYỆN

Lạy Chúa Giêsu,

Khi ra thăm nghĩa địa,

Khi vào viếng phòng hài cốt,

Con hiểu rằng mình phải có lòng tin lớn lao

Mới dám nghĩ một ngày nào đó

Những thân xác hư hoại này sẽ sống lại.

Con người trở về bụi tro,

Nhưng bụi tro sẽ trở lại làm người,

Vì con người sinh ra là để bất tử như Thiên Chúa.

Lạy Chúa Giêsu,

Trần gian này quá đẹp

Khiến con mải mê, quên mình là lữ khách;

Thiên đàng lại xa xôi, chẳng có chỗ trong con.

Con loay hoay vun quén cho đời sống cá nhân,

Như thể con sẽ sống mãi trên mặt đất.

Xin khơi dậy nơi con

Niềm khát khao những điều cao cả.

Xin đừng để con

Mãn nguyện với những cái tầm thường.

Ước gì Chúa cho con nếm chút vị ngọt của trời cao,

Khi con quên mình

Để sống cho anh em trên mặt đất.

Top