Chúa nhật 28 Thường niên năm C (Lc 17,11-19)

Chúa nhật 28 Thường niên năm C (Lc 17,11-19)

Chúa nhật 28 Thường niên năm C (Lc 17,11-19)

Sao không thấy họ trở lại tôn vinh Thiên Chúa,
mà chỉ có người ngoại bang này?

Bài đọc 1: 2 V 5, 14-17

Ông Na-a-man trở lại gặp người của Thiên Chúa và tuyên xưng Đức Chúa.

Bài trích sách các Vua quyển thứ hai.

14 Thời ấy, ông Na-a-man, tướng chỉ huy quân đội của vua nước A-ram, mắc bệnh phong hủi. Vậy ông xuống dìm mình bảy lần trong sông Gio-đan, theo lời ông Ê-li-sa, người của Thiên Chúa. Da thịt ông lại trở nên như da thịt một trẻ nhỏ. Ông đã được sạch.

15 Cùng với đoàn tuỳ tùng, ông trở lại gặp người của Thiên Chúa. Ông vào, đứng trước mặt ông ấy và nói: “Nay tôi biết rằng: trên khắp mặt đất, không đâu có Thiên Chúa, ngoại trừ ở Ít-ra-en. Bây giờ, xin ngài vui lòng nhận món quà của tôi tớ ngài đây.” 16 Ông Ê-li-sa nói: “Có Đức Chúa hằng sống là Đấng tôi phụng sự, tôi thề sẽ không nhận gì cả.” Ông Na-a-man nài ép ông nhận, nhưng ông vẫn từ chối. 17 Ông Na-a-man nói: “Nếu ngài từ chối, thì xin cho phép tôi tớ ngài đây mang về một số đất vừa sức hai con lừa chở được, vì tôi tớ ngài sẽ không còn dâng lễ toàn thiêu và hy lễ cho thần nào khác ngoài Đức Chúa.”

 

Đáp ca: Tv 97, 1.2-3ab.3cd-4 (Đ. x. c.2)

Đ.Chúa đã mặc khải ơn Người cứu độ trước mặt chư dân.

1Hát lên mừng Chúa một bài ca mới,
vì Người đã thực hiện bao kỳ công.
Người chiến thắng nhờ bàn tay hùng mạnh,

nhờ cánh tay chí thánh của Người.

Đ.Chúa đã mặc khải ơn Người cứu độ trước mặt chư dân.

2Chúa đã biểu dương ơn Người cứu độ,
mặc khải đức công chính của Người trước mặt chư dân;
3abNgười đã nhớ lại ân tình và tín nghĩa
dành cho nhà Ít-ra-en.

Đ.Chúa đã mặc khải ơn Người cứu độ trước mặt chư dân.

3cdToàn cõi đất này đã xem thấy
ơn cứu độ của Thiên Chúa chúng ta.
4Tung hô Chúa, hỡi toàn thể địa cầu,
mừng vui lên, reo hò đàn hát.

Đ.Chúa đã mặc khải ơn Người cứu độ trước mặt chư dân.

 

Bài đọc 2: 2 Tm 2, 8-13

Nếu ta kiên tâm chịu đựng, ta sẽ cùng hiển trị với Đức Ki-tô.

Bài trích thư thứ hai của thánh Phao-lô tông đồ gửi ông Ti-mô-thê.

8 Anh thân mến, anh hãy nhớ đến Đức Giê-su Ki-tô, Đấng đã sống lại từ cõi chết, Đấng xuất thân từ dòng dõi Đa-vít, như tôi vẫn nói trong Tin Mừng tôi loan báo. 9 Vì Tin Mừng ấy, tôi chịu khổ, tôi còn phải mang cả xiềng xích như một tên gian phi. Nhưng lời Thiên Chúa đâu bị xiềng xích! 10 Bởi vậy, tôi cam chịu mọi sự, để mưu ích cho những người Thiên Chúa đã chọn, để họ cũng đạt tới ơn cứu độ trong Đức Ki-tô Giê-su, và được hưởng vinh quang muôn đời.

11 Đây là lời đáng tin cậy:

Nếu ta cùng chết với Người,
ta sẽ cùng sống với Người.

12Nếu ta kiên tâm chịu đựng,
ta sẽ cùng hiển trị với Người.
Nếu ta chối bỏ Người, Người cũng sẽ chối bỏ ta.

13Nếu ta không trung tín,
Người vẫn một lòng trung tín,
vì Người không thể nào chối bỏ chính mình.

 

Tin mừng: Lc 17, 11-19

11 Trên đường lên Giê-ru-sa-lem, Đức Giê-su đi qua biên giới giữa hai miền Sa-ma-ri và Ga-li-lê.

12 Lúc Người vào một làng kia, thì có mười người phong hủi đón gặp Người. Họ dừng lại đằng xa 13 và kêu lớn tiếng: “Lạy thầy Giê-su, xin dủ lòng thương chúng tôi!”

14 Thấy vậy, Đức Giê-su bảo họ: “Hãy đi trình diện với các tư tế.” Đang khi đi thì họ được sạch.

15 Một người trong bọn, thấy mình được khỏi, liền quay trở lại và lớn tiếng tôn vinh Thiên Chúa.

16 Anh ta sấp mình dưới chân Đức Giê-su mà tạ ơn. Anh ta lại là người Sa-ma-ri.

17 Đức Giê-su mới nói: “Không phải cả mười người đều được sạch sao? Thế thì chín người kia đâu?

18 Sao không thấy họ trở lại tôn vinh Thiên Chúa, mà chỉ có người ngoại bang này?”

19 Rồi Người nói với anh ta: “Đứng dậy về đi! Lòng tin của anh đã cứu chữa anh.”

 

1. Suy niệm (TGM Giuse Nguyễn Năng)

Suy niệm: Ðức Giêsu chữa cho mười người phong hủi được lành sạch, nhưng sau khi được lành, thì chỉ có một người trở lại tạ ơn và tôn vinh Thiên Chúa, còn chín người khi thì không.

Chúng ta có bao giờ nhận ra ơn lành Chúa ban và biết cám ơn Ngài không ?

Cầu nguyện: Lạy Chúa, hình ảnh người phong cùi ngoại giáo sau khi được chữa lành đã quay trở lại tôn vinh Thiên Chúa, làm cho chúng con phải suy nghĩ. Chúng con được lãnh nhận biết bao ơn lành của Chúa: được làm con Chúa, được Chúa cứu chuộc, được chăm sóc dưỡng nuôi. Trong khi có biết bao anh chị em chưa được biết Chúa... Vậy mà chúng con đã vô ơn khi chúng con đã coi thường, bỏ phí những ân huệ ấy. Xin Chúa thay đổi con người chúng con, giúp chúng con tn tưởng vào Chúa. Ðể trong mọi hoàn cảnh chúng con nhận ra tình yêu của Chúa và nói lên lời cảm tạ tri ân. Amen.

Ghi nhớ: “Không thấy ai trở lại tôn vinh Thiên Chúa, mà chỉ có người ngoại bang này”.

 

2. Suy niệm (Lm. Carôlô Hồ Bạc Xái)

Phân tích

1. Thái độ của mười người cùi trong đoạn Tin Mừng này: biết phận mình nên khi thấy Chúa Giêsu thì “dừng lại đàng xa” và kêu xin.

2. Khi Chúa Giêsu bảo họ “Hãy đi trình diện với các tư tế, “ Chúa Giêsu vừa thử đức tin của họ vừa mời họ tin tuyệt đối vào Ngài:

- Thử thách đức tin: vì Ngài không chữa bệnh ngay.

- Mời gọi đức tin: nếu họ đi là chứng tỏ họ tin Ngài chữa họ.

3. Chín người cùi Do Thái không trở lại tạ ơn vì họ đã quen được ơn Chúa nên coi đó là việc bình thường. Một người cùi xứ Samari trở lại tạ ơn vì nghĩ rằng mình không xứng đáng được ơn, thế mà lại được.

Suy gẫm

1. Cám ơn là gì? Điểm đáng chú ý là Thánh Luca không ghi lại lời cám ơn của người Samari cho nên chúng ta không biết anh ta đã nói gì. Nhưng Thánh Luca ghi khá tỉ mỉ thái độ của anh ta: anh “thấy mình được khỏi, liền quay trở lại, lớn tiếng tôn vinh Thiên Chúa. Anh ta sấp mình dưới chân Chúa Giêsu mà tạ ơn Ngài.” Thực ra nói cám ơn Chúa thì chúng ta đã nói nhiều. Nhưng lòng biết ơn thực còn xuất phát từ sự nhận thấy tình thương Chúa, thúc đẩy ta quay trở lại với Chúa, thôi thúc ta tôn vinh Chúa và sấp mình thờ lạy Chúa nữa.

2. Hai tiếng “cám ơn” giúp ích rất nhiều chẳng những cho ta mà còn cho người được nghe nó nữa:

- Khi ta cám ơn ai, người đó sẽ hài lòng, và lần sau họ sẽ sẵn sàng giúp ta.

- Nghe ta nói cám ơn, lòng người ta vui, mắt người ta sáng, người ta sẽ làm việc vui vẻ hơn.

Hai tiếng “cám ơn” khi được thốt ra bởi những người lớn hơn thì càng sinh hiệu quả nhiều hơn. Chẳng hạn cha mẹ cám ơn con cái, thầy cô cám ơn học trò, chủ cám ơn công nhâ...

Nhưng tại sao người ta thường cám ơn “người dưng” hơn là cám ơn “người nhà”?

3. Tâm lý chung:

- Ta quen nghĩ đến mình và quên nghĩ tới người, nhất là trong những lúc quá mừng, quá lo (những ngày đại tiệc, dễ quên cám ơn những người phục vụ bếp núc đã vất vả cho buổi lễ của ta).

- Ta dễ vụ lợi, ích kỷ, vô ơn: “Hữu sự vái tứ phương, vô sự đồng hương không mất, “ “Vòng chưa thoát khỏi đã cong đuôi.”

4. Người Á Đông chúng ta có thói quen trọng sự biết ơn: Biết ơn ông bà tổ tiên, Đạo Ông Bà… Nhưng cũng nên đề phòng thái độ biết ơn chỉ dừng lại ở phạm vi công bằng, biết điều, “ơn đền; oán trả”, và đi đến chỗ phải mau lo đền ơn để rũ nợ cho sớm.

5. Một cậu bé ngồi hàng ghế đầu trên xe buýt, thấy một cụ già lên xe, cậu nhường ghế cho cụ. Ông cụ ung dung ngồi xuống, không nói tiếng nào. Cậu bé hỏi:/

- Thưa ông, ông vừa nói gì thế?

- Tôi có nói gì đâu.

- Vậy mà cháu tưởng ông nói “cám ơn” chứ!

6. Các tâm tình tạ ơn gương mẫu: - Magnificat - Benedictus - Nunc dimmittis - Thánh Lễ (Eucharistie).

7. “Một người trong bọn thấy mình được khỏi, liền quay trở lại và lớn tiếng tôn vinh Thiên Chúa” (Lc 17, 15)

Chúa cho con đôi mắt, con nhìn bao kỳ công;

Chúa cho con đôi tai, con nghe đủ âm thanh;

Chúa cho con đôi môi, con hé mở nụ cười;

Chúa cho con hai tay, bưng chén cơm, cầm bút;

Chúa cho con đôi chân, dẫn con khắp nẻo đường;

Chúa cho con khối óc, phân biệt điều thực hư…

Những điều con có đó, tưởng tầm thường nhưng thật vĩ đại, thật cao cả.

Mà đã lần nào con nhớ đến những thứ ấy để cám ơn Chúa.

Chắc đợi đến khi mắt mù, tai điếc, chân què, con mới nhận ra những thứ ấy thật quý giá.

Lạy Chúa, Chúa đã ban cho chúng con nhiều điều. Nhưng xin ban cho chúng con một điều nữa là cho chúng con luôn biết nhận ra những ân huệ Chúa mà không ngừng cảm tạ tri ân. Amen.

 

3. Suy niệm (Lm. Giuse Đinh Lập Liễm)

THỂ HIỆN LÒNG BIẾT ƠN

A. DẪN NHẬP

Người ta hay nói: “Hữu sự vái tứ phương, vô sự đồng hương không mất”. Câu nói ấy có ý chỉ trích thói vô ơn của nhiều người. Theo thói thường, người ta chỉ muốn nhận chứ không muốn cho đi. Nếu nhận được một ân huệ nào của người khác thì dễ quên đối với vị ân nhân, còn khi mình làm ơn cho ai thì nhớ rất dai và muốn người ta phải thể hiện lòng biết ơn đó. Bài Tin mừng hôm nay cho biết Đức Giêsu đã chữa lành cho mười người phong cùi, mà chỉ có một người dân ngoại Samaria trở lại ca tụng hồng ân Thiên Chúa, còn chín người Do thái kia bỏ đi luôn, không nghĩ gì đến hồng ân đã lãnh nhận. Những người này không tỏ lòng biết ơn, vì nghĩ mình là người Do thái nên có quyền đòi hỏi Chúa thi ân. Họ là những người vô ơn.

Người đời thường nói: “Uống nước nhớ nguồn” hay “Ăn quả nhớ kẻ trồng cây”. Biết ơn là một chuyện xem ra rất bình thường, nhưng cũng là một bổn phận mà ít người làm trọn. Ngày nay người ta ít dùng hai tiếng“cám ơn”, người ta rất hà tiện trong việc dùng hai tiếng đó. Ngạn ngữ Pháp có câu: “Lòng biết ơn là trí nhớ của trái tim”, vì con tim cảm nghiệm được điều tốt người khác làm cho mình, nên người biết ơn người khác phải là người đạo đức, có văn hoá, có giáo dục. Vì vậy, chúng ta có thể nói: biết ơn là một việc khó, và thể hiện lòng biết ơn bằng những việc làm cụ thể lại càng khó hơn.

Cuộc đời của chúng ta được đan dệt bằng những hồng ân của Thiên Chúa. Thánh Phaolô nói: “Tất cả là hồng ân”. Thánh Têrêsa Hài đồng Giêsu cũng nói như thế. Đối với người chịu ơn thì phải tỏ lòng biết ơn đối với người làm ơn. Đối với Thiên Chúa, lời cảm tạ của chúng ta không cần thiết, vì nó chẳng thêm gì cho Chúa, nhưng nó lại cần thiết cho chúng ta, vì đem lại lợi ích cho chúng ta. Chúng ta phải có tâm tình tạ ơn Chúa, như ông Naaman đối với tiên tri Elisê và người phong cùi Samaria đối với Chúa. Cách thể hiện lòng biết ơn của chúng ta đối với Chúa không gì tốt hơn là Thánh Thể và Thánh lễ, vì Thánh Thể và Thánh lễ đều là tạ ơn. Đi tham dự Thánh lễ là đi tạ ơn Chúa. Ngoài ra, tinh thần biết ơn ấy còn phải được thể hiện bằng sự chia sẻ với những người khác về tinh thần cũng như vật chất.

B. TÌM HIỂU LỜI CHÚA

+ Bài đọc 1: 2V 5, 14-17

Ông Naaman là tổng tư lệnh quân đội Syria bị mắc bệnh phong cùi. Nghe tin bên Israel có ông Elisê có thể chữa được, nên ông đã đến xin tiên tri Elisê chữa cho ông.

Tiên tri Elisê bảo ông hãy xuống sống Giođan tắm 7 lần thì khỏi. Ông thấy đây là phương pháp quá tầm thường và nước sông ở đây cũng không hơn gì nuớc sông ở xứ sở mình. Lúc đầu ông không chịu, nhưng do một người hầu gái thuyết phục, ông đã đi tắm 7 lần và sau đó ông được khỏi bệnh cùi.

Sau khi khỏi bệnh, ông Naaman muốn tạ ơn tiên tri Elisê, nhưng tiên tri nhất định từ chối, vì ông chỉ muốn quan Naamn cám tạ ơn Thiên Chúa mà thôi.

+ Bài đọc 2: 2Tm 2, 8-13

Lúc đó, thánh Phaolô đang bị giam cầm tại Rôma lần thứ hai. Ngài viết cho Timôthêô những lời di huấn: hãy chịu đau khổ và chết với Đức Kitô để được cùng sống lại và hiển trị với Ngài. Còn riêng với thánh Phaolô, mặc dầu đang chịu khổ sở vì bị giam trong tù, nhưng vẫn ca tụng Thiên Chúa và quyết tâm trung kiên với Ngài.

+ Bài Tin mừng: Lc 17, 11-19

Chúng ta có thể chia bài Tin mừng thành ba đoạn nhỏ:

a) Nhận biết phận mình: Mười người phong cùi đến với Đức Giêsu xin Ngài cứu chữa. Nhận biết phận mình là những người bị xã hội loại bỏ, nên không dám đến gần Đức Giêsu mà chỉ “đứng đàng xa” mà kêu xin.

b. Đức Giêsu thử thách họ: Ngài không chữa cho họ ngay mà chỉ bảo họ: “Hãy đi trình diện với các tư tế”. Nếu có đức tin thì họ sẽ đi ngay và sẽ được khỏi.Trường hợp này họ có đức tin vì đang đi trên đường thì họ được khỏi.

c) Kết quả: Mười người đều được khỏi bệnh: 9 người cùi Do thái không trở lại tạ ơn, vì họ đã quen được ơn Chúa nên coi đó là việc bình thường. Còn người cùi xứ Samaria trở lại tạ ơn, vì nghĩ rằng mình không xứng đáng được ơn, thế mà lại được.

C. THỰC HÀNH LỜI CHÚA: Tâm tình biết ơn

I. CHỮA LÀNH MƯỜI NGƯỜI PHONG CÙI

1. Hoàn cảnh:

Trên đường tiến về Giêrusalem, nơi Đức Giêsu thực hiện công trình cứu độ bằng việc chịu thương khó, chịu chết và sống lại. Thánh Luca thuật lại cho chúng ta một biến cố xẩy ra trong cuộc hành trình lên Giêrusalem, đồng thời cũng là một phép lạ: Chúa chữa lành mười người phong cùi ở biên giới Samaria và Galilêa.

2. Mười người phong cùi xin cứu giúp

Bệnh phong cùi vẫn được giới y học cho là phát sinh từ Ai cập truyền qua Palestine, Ấn độ rồi hai đế quốc La Hy. Sau đó truyền sang Âu châu. Phong cùi là một bệnh nan y nhơ nhớp, người bệnh phải sống cách biệt với người lành và vì thế họ không được ở trong thành, chỉ được sống ở những làng mạc chung quanh thành. Vì thế, trước khi vào Giêrusalem. Đức Giêsu đi qua làng thì gặp mười người phong cùi.

Phong cùi là một bệnh khó trị, ai cũng ghê tởm và run sợ nếu mắc phải bệnh này. Vào thời Đức Giêsu, nó còn khoác vào người bệnh nỗi nhục nhã trong tâm hồn, vì người ta cho rằng họ là những người bị Thiên Chúa phạt. Những người mắc bệnh cùi bị ruồng bỏ. Luật của Maisen thật là hà khắc nhằm tránh dịch bệnh lan truyền: người mắc bệnh phong cùi phải mặc áo rách, xoã tóc, che râu và kêu lên: “Ô uế! Ô uế!”. Không cần phải nói thêm rằng họ đương nhiên bị cấm đến ở những nơi dân cư và hoàn toàn bị đuổi ra khỏi những nơi thờ phượng.

Mười người phong cùi này sống chung với nhau lẫn lộn cả Samaria và Do thái, không còn phân biệt như trong các cộng đồng của họ ở trước. Họ sống vui vẻ hoà hợp. Chính đau khổ đã đưa con người đến tình liên đới nhân loại. Khi họ bị loại ra khỏi xã hội con người, họ đã trở thành một xã hội đầy tình người hơn.

Theo luật Maisen, họ không được đến gần, phải đứng đàng xa mà kêu xin: “Lạy Thầy Giêsu, xin thương xót chúng tôi”. Đức Giêsu không chữa lành họ tức khắc mà chỉ bảo họ hãy đi trình diện với các tư tế. Những người phong cùi phải đến trình diện thầy tư tế, không phải để được khỏi bệnh nhưng để xác nhận là đã khỏi bệnh. Ở đây ra lệnh cho người bệnh đi trình diện khi chưa khỏi bệnh là để thử luyện lòng tin của họ, vì theo luật khi khỏi bệnh mới đi trình diện các thầy tư tế.

3. Đức Giêsu đã chữa lành họ

Để được khỏi bệnh, Đức Giêsu đòi hỏi phải có lòng tin. Những người cùi này đã tỏ bầy lòng tin vào Đức Giêsu, khi họ tuyên xưng Đức Giêsu là Thầy và xin Ngài thương xót, đồng thời họ cũng đã tỏ lòng tin ấy bằng hành động: vâng lời Chúa đi trình diện ngay với các vị tư tế mà không chờ một hành động gì khác để chữa bệnh. Việc này cũng làm cho chúng ta nghĩ đến thử thách lòng tin mà tiên tri Elisê bắt ông Naaman, người gốc Syria phải chịu khi yêu cầu ông này phải tự mình thực hiện một biện pháp… điều này làm ông ta nổi giận. Vì thế, hiệu quả của lòng tin ấy làm họ thấy mình được khỏi bệnh trên đường đi trình diện theo Luật.

4. Lời tạ ơn sau khi được lành

Trong khi đi trình diện, cả mười người đều được lành sạch. Chúng ta nhận thấy trong khi 9 người tiếp tục đi “trình diện với các tư tế”, thì riêng có một người, thay vì vâng lệnh Chúa và Luật dạy, “liền quay trở lại và lớn tiếng tôn vinh Thiên Chúa”. Thật ngạc nhiên, chỉ đến lúc này, lúc mà cách xử sự của anh đã gây ấn tượng tốt nơi chúng ta, thì chúng ta mới biết anh thuộc dòng tộc nào: anh là người Samaria. Đối với anh, tuy đã khỏi bệnh cùi, nhưng vẫn phải mang thân phận của người bị khinh khi vì lạc đạo, nên không có vấn đề đi đến đền thờ… hơn nữa, anh đã gặp Đấng Thiên Sai trên đường, Đấng vừa cứu chữa anh, như rồi đây ta sẽ thấy: chính nơi Đức Giêsu mà ta tôn vinh Thiên Chúa.

Cử chỉ anh làm là một cử chỉ trong phụng vụ, “anh ta sấp mình dưới chân Đức Giêsu mà tạ ơn”. Anh nghĩ chắc hẳn đó là cách tuyên xưng công khai Đức Giêsu là người gần gũi với Thiên Chúa. Roland Meynet chú giải: “Người Samaria vừa khỏi bệnh đã kết hợp Thiên Chúa với Đức Giêsu trong cùng một lời ngợi khen và tạ ơn. Ơn cứu độ vừa đón nhận được anh công bố cho mọi người biết, đó là công trình của Thiên Chúa và của Đức Giêsu. Lòng tin của anh không phân biệt hai Đấng ấy, và anh sấp mình dưới chân Đấng đã làm cho anh nên sạch, như sấp mình dưới chân Đức Chúa” (Fiches dominicales C, tr 328-329).

Chớ thì không phải cả mười người được lành sao?” Đức Giêsu đợi tất cả mọi người đến tôn vinh Thiên Chúa qua trung gian của Ngài. Những người Do thái không tỏ lòng biết ơn, vì nghĩ mình là người Do thái nên có quyền đòi hỏi Chúa thi ân. Ở đây Chúa có ý ám chỉ đến người Do thái, đến riêng các biệt phái, luật sĩ là những người ỷ lại vào danh nghĩa (con cái Israel) dân riêng của Chúa, mà tự phụ kiêu căng, khép kín không tin nhận vào quyền năng của Thiên Chúa nơi Đức Giêsu Kitô. Đang khi ấy chỉ có người dân ngoại là người Samaria đã tỏ bày lòng biết ơn bằng cách trở lại tôn vinh Thiên Chúa.

II. HAI TIẾNG “CÁM ƠN” TRONG ĐỜI THƯỜNG

1. Biết ơn, một chuyện bình thường

Trên bình diện con người thì biết ơn rất ư là chuyện bình thường. Khi chịu ơn ai thì tỏ lòng biết ơn qua một hình thức nào đó hoặc trực tiếp hoặc gián tiếp vì người ta thường nói:

Uống nước nhớ nguồn

Hoặc: Ăn quả nhớ kẻ trồng cây,

Ăn cơm nhớ kẻ đâm, say, giã, sàng.

Thế nên lòng biết ơn thường là “có đi có lại”. Dĩ nhiên cũng có người chỉ muốn cho đi mà không muốn nhận lại, dù chỉ là lời cám ơn. Nhưng quả là hiếm!

Ngày nay, hai tiếng “cám ơn” hình như càng ngày càng thiếu vắng trong cuộc sống hiện nay. Chúng ta ngày hôm nay, ngần ngại khi phải nói tiếng “cám ơn”. Nếu để ý, chúng ta sẽ thấy hai tiếng “cám ơn” hình như bớt dần đi với tuổi tác. Càng lớn tuổi, người ta càng khó nói tiếng “cám ơn”. Nhưng nếu chỉ hai tiếng “cám ơn” mà chúng ta không nói được, thì cho thấy tình trạng luân lý của xã hội đang tuột dốc một cách nguy hiểm.

2. Biết ơn, là trí nhớ của trái tim

Người Pháp có câu ngạn ngữ: “Lòng biết ơn là trí nhớ của trái tim”. Vì con tim cảm nghiệm được điều tốt người khác đã làm cho mình, nên người biết ơn người khác phải là người đạo đức, có văn hoá, và có giáo dục.

Thi sĩ người Anh, Samuel Johnson, đã nói rằng: “Lòng biết ơn là một hoa trái của công trình rèn luyện cao quí, bạn không tìm thấy nó ở những kẻ thô lỗ”.

Còn Chu Văn, tác giả Chuyện Tử Tế thì chia sẻ với chúng ta: “Một tiếng nói cám ơn với tất cả thành thật, một cử chỉ biết ơn đối với những ai đã làm ơn cho chúng ta cách này hay cách khác, một thái độ như thế không những làm cho chúng ta được nên người hơn, mà là thể hiện của một niềm tin sâu sắc nữa. Có lẽ không gì tử tế bằng khi hai tiếng cám ơn luôn được thốt lên với tất cả chân thành và trân trọng”.

Công ai một chút chớ quên,

 Phiền ai một chút để bên cạnh lòng.

Truyện: Anh lính biết ơn

Kurt Emmerich, một bác sĩ giải phẫu trong quân đội của Đức, đã kể câu chuyện sau đây về một kinh nghiệm ông đã trải qua ở biên giới nước Nga. Hàng ngàn thương binh đã được ông giải phẫu tại bệnh viện dã chiến, nhưng chỉ có một trường hợp làm ông không bao giờ quên. Người lính trẻ đó được đưa vào bệnh viện với một khuôn mặt bị vỡ tan nát. Bác sĩ phải làm việc rất nhiều ngày để sửa lại khuôn mặt của anh với tất cả nỗ lực có thể được qua hàng loạt những phẫu thuật cấy và ghép da.

Trong lần giải phẫu cuối cùng, bác sĩ đã phải khâu nối kết toàn thể các phần còn lại với nhau ở khoé miệng của bệnh nhân. Những y tá phụ đã giúp cho anh thương binh ngồi lên. Vì thuốc tê chung quanh miệng bệnh nhân vẫn còn hiệu quả, nên bác sĩ nói với anh: “Bây giờ công việc đã hoàn tất, chúng tôi muốn nghe anh phát biểu một điều gì với môi miệng mới của anh”.

Anh thương binh trẻ từ từ cử động những bắp thịt quanh miệng một cách rất cẩn thận, và rồi với nụ cười mỉm chi đầu tiên của anh, miệng anh uốn theo những chữ “Cám ơn” (Nguyễn Văn Thái, Sống Lời Chúa… năm C, tr 343).

3. Biết ơn là một việc khó

Đừng tưởng việc biết ơn, nhớ ơn, biết nói lời cám ơn là một chuyện dễ dàng, không mấy khó khăn. Nếu nghĩ như thế là lầm vừa chưa biết cám ơn bao giờ, vì qua cách sống của mỗi người và qua thực tế như bài Tin mừng hôm nay trình bầy cho chúng ta thấy rằng: nhận ơn thì ai cũng muốn, còn nhớ ơn lại rất ít người làm hoặc cho ai cái gì người ta nhớ rất dai, còn khi nhận được cái gì thì lại quên mau chóng. Như thế, chỉ những ai có tâm hồn đạo đức, một lòng trí trong sáng mới có thể biết ơn ân nhân của mình cách đúng đắn.

Nếu biết năng dùng hai tiếng “cám ơn” thì nó cũng sẽ giúp người ta rất nhiều:

- Khi ta cám ơn ai, người đó sẽ hài lòng, và lần sau họ sẽ sẵn sàng giúp ta nữa.

- Nghe ta nói cám ơn, lòng người ta vui, mặt người ta sáng, người ta sẽ làm việc vui vẻ hơn.

Hai tiếng “cám ơn” khi được thốt ra bởi những người lớn hơn thì càng sinh hiệu quả nhiều hơn. Chẳng hạn cha mẹ cám ơn con cái, thầy cô cám ơn các em học trò, chủ cám ơn tớ…

Nhưng tại sao người ta cám ơn “người dưng hơn là cám ơn người nhà”? (Frank Mihalic)

4. Làm ơn đừng nhớ, chịu ơn đừng quên

Bài đọc 1 đưa ra cho chúng ta một hình ảnh rất đẹp: Tướng của Syria là Naaman bầy tỏ lòng biết ơn của mình đối với tiên tri Elisê một cách cụ thể bằng lễ vật mà ông tha thiết xin tiên tri nhận cho. Còn Elisê thì kiên quyết từ chối, mặc dù lễ vật ấy chắc chắn sẽ giúp ngài sống đỡ thiếu thốn, và nhất là – theo cách suy nghĩ bình thường của người đời – có thể tạo cho ngài nhiều phương tiện hơn để thi hành sứ mạng của mình.

Cả hai thái độ tốt đẹp trên có thể làm chúng ta suy nghĩ và xét lại thái độ của chúng ta khi chịu ơn ai hoặc làm ơn cho ai. Thông thường người ta có tâm lý hay quên hoặc không nhận ra những điều tốt người khác làm cho mình, nhưng lại dễ nhớ những gì tốt đẹp mình làm được cho người khác. Không những thế, mình còn mong họ nhớ ơn và trả ơn mình. Nếu họ vô tình quên ơn, thì ta buồn phiền, oán trách, thậm chí sẵn sàng lên tiếng chê bai:Những người phụ nghĩa quên công,

Thì đeo trăm cánh hoa hồng chẳng thơm.

Truyện: Không ai cám ơn tôi cả

Cách đây đã lâu, một con tầu bị đắm vì giông bão trong vùng Ngũ Đại Hồ, Hoa Kỳ. Những toán cấp cứu được phái đến giúp đỡ, trong đó có một nhóm sinh viên của trường Northwestern University ở Chicago. Một sinh viên trẻ tuổi, tên là Edward Spencer, đã cứu được 16 người từ con tầu đang bị chìm. Anh làm việc hăng say cho đến khi gần kiệt sức. Khi được phỏng vấn, anh còn lúng túng e ngại vì sợ rằng vẫn chưa làm hết sức mình: “Tôi đã làm việc hết sức chưa? Quý vị có nghĩ rằng tôi đã làm việc hết mình chưa?”

Nhiều năm sau đó, trong buổi họp mặt của các cựu sinh viên, một thuyết trình viên đã nhắc lại hành động anh hùng này. Bỗng nhiên có một người la lớn rằng Edward Spencer đang hiện diện ở đây. Thế là Spencer được mời lên bàn cử toạ. Bây giờ ông đã già, tóc bạc, buớc lên bục đài giữa tiếng hoan hô vỗ tay của khán giả. Thuyết trình viên hỏi ông: “Trong biến cố đó, sự kiện nào đáng ông ghi nhớ nhất?” Ông cụ bèn trả lời: “Chỉ có một điều này làm tôi nhớ mãi, khoảng 16 hay 17 người đã được tôi cứu vớt, không một người nào đã cám ơn tôi cả”.

5. Biết ơn là thái độ sống căn bản

Thái độ biết ơn Thiên Chúa là một thái độ căn bản của các tạo vật và chỉ con người mới ý thức và nói lên được hai tiếng cám ơn. Trong Cựu ước, dân Israel đã dâng các lễ vật đầu mùa để cám ơn Thiên Chúa (Đnl 26, 1-10). Trong Tân ước, một hành động cảm ơn trọn vẹn và xứng đáng nhất là phép Thánh Thể thường được gọi là Lễ Tạ Ơn. Sách Talmud nói: “Một ngày kia khi mọi lời nguyện sẽ im bặt trên môi miệng con người, ngoại trừ kinh nguyện tạ ơn”.

Thánh Bênađô đã nói: “Anh em, tôi xin anh em điều này là hãy xa tránh một nết xấu lớn lao là sự vô ơn. Chớ gì đời ta là một đời sống, một lời cám ơn liên lỉ. Chúng ta đừng cảm ơn suông bằng môi bằng miệng, nhưng bằng các việc làm và bằng chân lý của đời ta: đừng nói cám ơn, nhưng hãy thực hành việc cám ơn. Đó là điều mà Chúa của mọi ơn lành đòi hỏi chúng ta”.

III. THỂ HIỆN TÂM TÌNH BIẾT ƠN.

1. Tất cả đều là hồng ân

Cuộc sống là một chuỗi những ân huệ nối tiếp nhau. Những ân huệ này đan xen với những ân huệ khác. Có những ơn do nơi Thiên Chúa, và cũng có những ơn đến từ con người. Vậy nếu cuộc sống là lãnh nhận thì người ta sẽ như thế nào nếu không hề biết nói hai tiếng “cám ơn”, hoặc chẳng bao giờ bầy tỏ tấm lòng tri ân.

Chúa cho con đôi mắt, con nhìn bao kỳ công,

Chúa cho con đôi tai, con nghe đủ âm thanh,

Chúa cho con đôi môi, con hé mở nụ cười,

Chúa cho con hai tay, bưng chén cơm, cầm bút,

Chúa cho con đôi chân, dẫn con khắp nẻo đường,

Chúa cho con khối óc, phân biệt điều thực hư,

Những điều con có đó, tưởng tầm thường nhưng thật vĩ đại, thật cao cả.

Mà đã lần nào con nhớ đến những thứ ấy để cám ơn Chúa.

Chắc đợi đến khi mắt mù, tai điếc, chân què, con mới nhận ra những thứ ấy thật cao quí.

Lạy Chúa, Chúa đã ban cho chúng con nhiều điều. Nhưng xin ban cho chúng con một điều nữa là cho chúng con biết luôn nhận ra những ân huệ Chúa mà không ngừng cảm tạ tri ân. Amen. (Hosanna).

Truyện: Hồng ân Chúa quá nhiều

Có một người cha trong gia đình đã ghi lại câu chuyện và những ý nghĩ sau đây: Một đêm kia, trong lúc đang đọc báo, tôi nghe đứa con gái bé nhỏ của tôi nói: “Bố ơi, con sẽ đếm sao trên trời có bao nhiêu ngôi sao nhé”. Sau đó, tôi nghe giọng nói êm đềm của con tôi bắt đầu đếm 1, 2, 3, 4… Rồi tôi chăm chú vào việc đọc báo, không để ý đến tiếng con tôi đếm các ngôi sao nữa. Đến khi đọc xong bài báo, tôi chú ý lắng tai và nghe tiếng nó vẫn tiếp tục đếm 123, 124, 125… Đến đây nó bỗng ngừng lại, không đếm nữa, rồi quay sang nói với tôi: “Bố ơi, con không dè trên trời lại có nhiều sao đến thế”. Nghe con gái nhận xét như vậy, tôi chợt nhớ là thỉnh thoảng tôi cũng âm thầm nói với Chúa: “Chúa ơi, để con thử đếm xem con đã nhận lãnh bao nhiêu ơn lành Chúa đã ban”, và càng đếm, trái tim tôi hình như càng cảm thấy thổn thức, không phải vì âu sầu, mà vì bị quá nhiều hồng ân Chúa đè nặng. Rồi tôi cũng thường phải thốt lên như con gái tôi: “Lạy Chúa, con không dè đời con lại có quá nhiều hồng ân của Chúa đến thế” (Phạm Văn Phượng).

2. Có nhiều cách tỏ lòng biết ơn

Tâm tình biết ơn thường được gói ghém trong hai tiếng “Cám ơn”. Cám ơn không những là một bổn phận mà còn là một nhân đức, bởi vì người ta rất hà tiện trong việc cám ơn. Người ta có muôn vàn cách để cám ơn. Có rất nhiều chuyện mà người ta không thể cám ơn bằng tiền bạc được, người ta có thể cám ơn bằng nụ cười, một thoáng quan tâm, một tiếng cám ơn. Những người bán hoa đã viết một biểu ngữ trước quầy hàng của họ thế này: “Hãy diễn tả tâm tình của bạn bằng những bông hoa”. Cũng vậy, chúng ta phải diễn tả tâm tình của mình ra nhờ những cái gì khác hơn là tiền bạc, hoặc cả tiền trà nước, đó là lời cám ơn. Có cả một nghệ thuật bầy tỏ lòng tri ân mà chúng ta phải tập để biết sử dụng hợp thời, đúng lúc và tinh tế khéo léo.

3. Hãy tạ ơn Chúa về mọi sự trong cuộc đời

Về việc thể hiện lòng biết ơn đối với Thiên Chúa. Thiên Chúa không cần những lời cám ơn của chúng ta, nhưng chúng ta cần cám ơn Thiên Chúa. Điều ấy nhắc chúng ta rằng mọi việc mà chúng ta có đều do Thiên Chúa ban cho. Cám ơn Thiên Chúa về điều xẩy đến cho chúng ta là việc dễ dàng. Nhưng chúng ta cố gắng biết ơn về trọn cả cuộc đời mình: điều xấu cũng như điều tốt, những niềm vui và nỗi buồn, những thành công và thất bại. Đó không phải là một việc dễ dàng. Chúng ta chỉ thực sự gọi mình là những người có lòng biết ơn, khi chúng ta có thể nói lời cám ơn về mọi việc đã đưa chúng ta đến giây phút này. Loại tri ân này làm chúng ta có khả năng cải tạo toàn bộ quá khứ của chúng ta và coi nó như là con đường cụ thể trong đó Thiên Chúa dẫn dắt chúng ta đến giây phút này.

4. Cám ơn Chúa trong Thánh lễ

Ngay từ ban đầu khi thành lập Giáo hội, các tín hữu đã qui tụ nhau lại hằng tuần để cử hành tiệc “Thánh Thể” (Cv 2, 42). Chữ Eucharistia – “Thánh Thể” dịch từ tiếng Hy lạp “Eucharistos”, có nghĩa là “Biết ơn – Tạ ơn”. Vì thế ngay từ hồi Giáo hội sơ khai, người Kitô giáo đã ý thức về nhu cầu tạ ơn Thiên Chúa, và họ nhận thức rằng một cách tốt nhất để tạ ơn là việc dâng lễ. Khi mọi người tín hữu thời Giáo hội sơ khai đi dâng lễ, cái ý nghĩ và tâm tình của họ dựa trên cái ý niệm tạ ơn. Thánh lễ, theo tiếng Hy lạp, có nghĩa là tạ ơn. Vậy đi lễ là đi tạ ơn Thiên Chúa.

Trong Thánh lễ, ta dâng lời cảm tạ Thiên Chúa bằng lời tạ ơn và tâm tình biết ơn. Bằng một biểu hiệu tạ ơn và biết ơn, ta dâng lên Thiên Chúa bánh rượu là do kết quả của sức lao công hằng ngày, được trở thành Mình và Máu thánh Chúa do lời truyền phép của linh mục tế lễ. Do đó lễ vật tạ ơn của ta được hiệp nhất với Mình Máu Thánh Chúa Kitô dâng lên Thiên Chúa làm của lễ đền tội, ca tụng và cảm tạ.

Để kết thúc, chúng ta có thể nói rằng Chúa không cần chúng ta phải cảm ơn nhưng lại cần cho chúng ta, bởi vì việc đó có lợi cho chúng ta như kinh Tiền tụng Thánh Thể IV đã nói: “Lạy Chúa là Cha chí thánh, là Thiên Chúa toàn năng hằng hữu, chúng con tạ ơn Chúa mọi nơi mọi lúc, thật là chính đáng, phải đạo và đem lại ơn cứu độ cho chúng con. Tuy Chúa không cần chúng con ca tụng, nhưng việc chúng con cảm tạ Chúa lại là một hồng ân Chúa ban, vì những lời chúng con ca tụng chẳng thêm gì cho Chúa, nhưng đem lại cho chúng con ơn cứu độ, nhờ Đức Kitô, Chúa chúng con…”.

Truyện: Cám ơn

Thi sĩ Lamartine, người Pháp có kể lại một giai thoại như sau: một hôm ông tình cờ đi qua một khu rừng, ông nghe có một âm thanh kỳ lạ: cứ sau một tiếng búa đập vào đá lại vang lên một tiếng cám ơn! Đến gần nơi phát ra âm thanh, thi sĩ mới nhìn thấy một người thợ đá đang miệt mài làm việc. Cứ mỗi lần gõ búa vào phiến đá, ông lại thốt ra hai tiếng “cám ơn”.

Thi sĩ nấn ná đến hỏi chuyện, ngưởi thợ đá mới giải thích: “Tôi tạ ơn Chúa!” Ngạc nhiên về lòng tin của một người mà cuộc sống hẳn phải lam lũ, lầm than hơn nhiều người, thi sĩ bảo:

- Giả như bác được giầu có thì tôi hiểu tại sao bác không ngừng thốt lên hai tiếng “cám ơn”. Đàng này Thiên Chúa chỉ nghĩ đến bác có mỗi một lần duy nhất, đó là lúc Ngài tạo nên bác. Sau đó Ngài ban cho bác có mỗi cái búa này, để rồi không ngó ngàng gì tới bác nữa, thế thì tại sao bác lại mỏi miệng cám ơn Ngài?

- Ông nghĩ rằng Chúa chỉ nghĩ đến tôi có một lần thôi sao?

- Dĩ nhiên – Lamartine thách thức – Chúa chỉ nghĩ đến bác có một lần thôi!

Người thợ đá nghèo, nhưng đầy lòng tin, náo nức thốt lên:

- Tôi nghĩ điều đó không có gì đáng ngạc nhiên cả. Ông hãy nghĩ rằng Thiên Chúa đã đoái thương nghĩ đến một người thợ đá thấp hèn như tôi, và chỉ một lần thôi, vậy không đủ cho tôi cám ơn Ngài sao? Vậy, cám ơn Chúa, cám ơn Chúa!

Nói xong, người thợ đá đã bỏ mặc cho ông thi sĩ đứng đó và tiếp tục điệp khúc quen thuộc của ông: vừa đập đá vừa cám ơn Chúa.

Chúc tụng Chúa đi, hồn tôi hỡi,

Chớ khá quên mọi ân huệ của Người” (Tv 103, 2)

 

4. Suy niệm (Lm. Antôn Nguyễn Cao Siêu, S.J.)

KHÔNG THẤY TRỞ LẠI

Sau khi chữa bệnh hay trừ quỷ cho ai đó,

chẳng khi nào Đức Giêsu đòi một lời cám ơn.

Một người được chữa lành đủ làm Ngài vui rồi.

Người bất toại, nay đi được, ai mà không vui!

Người mù bẩm sinh được thấy, ai mà không thích!

Tuy Phúc Âm ít nói đến chuyện Đức Giêsu vui

sau khi chữa bệnh hay trừ quỷ,

nhưng chúng ta tin Ngài đã nở một nụ cười

khi trao cho bà góa Nain đứa con của bà nay sống lại.

Bài Phúc Âm hôm nay kể chuyện mười người phong

ở với nhau, bên ngoài làng, xa cách với người khác.

Khi Đức Giêsu vào làng, họ chỉ dám đứng thật xa

và cất tiếng: “Lạy Thầy Giêsu, xin thương xót chúng tôi.”

Như thế họ biết tên của Ngài và quyền năng của Ngài.

Họ xin Ngài thương xót thân phận khốn cùng của họ.

Lời đáp của Thầy Giêsu có thể khiến họ ngạc nhiên:

“Các anh hãy đi trình diện các tư tế.”

Một người phong chỉ đi gặp tư tế nếu thấy mình đã khỏi.

Tư tế sẽ kiểm tra và chứng thực anh khỏi bệnh.

Mười người phong này ngạc nhiên vì họ chưa khỏi

mà Thầy lại bảo họ đi trình diện tư tế.

Tuy nhiên, với lòng tin, họ vẫn vâng lời, lên đường.

Đang khi đi thì cả mười người được khỏi.

Phép lạ này thật đặc biệt, vì Thầy Giêsu chẳng làm gì,

cũng chẳng nói một lời nào để chữa bệnh cho họ.

Họ được khỏi chỉ vì đã vâng lời Thầy

và làm điều Thầy bảo, dù không hiểu.

Mười người phong sướng vui khi thấy mình được sạch.

Bấy giờ họ hiểu tại sao Thầy bảo họ đi gặp các tư tế.

Chính vào lúc này cả nhóm đứng trước một câu hỏi:

Có nên trở lại ngay để tạ ơn Thầy Giêsu

hay cứ tiếp tục đi gặp các tư tế như lời Thầy dạy?

Chín người phong muốn tiếp tục hành trình,

chỉ có người phong vùng Samari muốn quay về ngay

để gặp lại Thầy Giêsu, vị ân nhân đã chữa cho mình.

Anh sợ, nếu chậm trễ, Thầy đi mất thì rất tiếc.

Cuộc gặp gỡ riêng tư giữa anh với Thầy thật cảm động.

Bây giờ anh mới dám đến gần Thầy.

Người Do-thái và người Samari không ưa nhau.

Nhưng Thầy Giêsu đã thương anh, dù anh là người Samari.

Anh cũng được chữa lành như chín người phong Do-thái.

Anh thấy Thầy là người của Thiên Chúa.

Có Thiên Chúa đang hiện diện và hoạt động nơi Thầy.

Khi gặp Thầy, anh hồn nhiên cất lời ca ngợi Thiên Chúa.

Đồng thời, anh thấy cần phải quỳ xuống mà tạ ơn Thầy,

vì Thầy là người trực tiếp làm cho anh lành mạnh.

Ca ngợi Thiên Chúa và tạ ơn Thầy Giêsu:

đó là hai hành động chính của người phong Samari.

Khi trở lại gặp Thầy Giêsu, anh ca ngợi Thiên Chúa.

Khi ca ngợi Thiên Chúa, anh thấy cần tạ ơn Thầy Giêsu.

Nơi Thầy, anh gặp được Thiên Chúa vô hình siêu việt.

                                                      

Đôi khi chúng ta giống chín người phong kia,

vì muốn mau gặp tư tế, để sớm về lại với cộng đoàn,

nên bỏ lỡ cuộc hạnh ngộ với Thầy Giêsu.

Gặp Thầy là ơn còn lớn hơn cả ơn khỏi bệnh.

Ơn Chúa vẫn đến với chúng ta mỗi ngày

qua Chúa Giêsu và qua nhịp cầu tha nhân.

Chúng ta vẫn thiếu một chút tri ân

đối với những người cụ thể mà ta chịu ơn mỗi ngày.

Để tạ ơn, phải quay lại, tạm dừng con đường mình đi.

Để tạ ơn, phải biết quý người thi ân.

Mỗi ngày Chúa cho chúng ta vô số ân nhân.

Khi tập nhận ra họ là người của Thiên Chúa sai đến,

chúng ta sẽ gặp được chính Thiên Chúa.

LỜI NGUYỆN

Con tạ ơn Cha vì những ơn Cha ban cho con,

những ơn con thấy được,

và những ơn con không nhận là ơn.

Con biết rằng

con đã nhận được nhiều ơn hơn con tưởng,

biết bao ơn mà con nghĩ là chuyện tự nhiên.

Con thường đau khổ vì những gì

Cha không ban cho con,

và quên rằng đời con được bao bọc bằng ân sủng.

Tạ ơn Cha vì những gì

Cha cương quyết không ban

bởi lẽ điều đó có hại cho con,

hay vì Cha muốn ban cho con một ơn lớn hơn.

Xin cho con vững tin vào tình yêu Cha

dù con không hiểu hết những gì Cha làm cho đời con.

 

5. Suy niệm (song ngữ)

Bài Đọc I: 2 Các Vua 5, 14-17
II: 2 Timôthê 2, 8-13

28st Sunday in Ordinary Time
Reading I: 2 Kings 5:14-17
II: 2 Timothy 2:8-13

Gospel
Luke 17:11-19

11 On the way to Jerusalem he was passing along between Samaria and Galilee.

12 And as he entered a village, he was met by ten lepers, who stood at a distance

13 and lifted up their voices and said, “Jesus, Master, have mercy on us.

14 When he saw them he said to them, “Go and show yourselves to the priests. And as they went they were cleansed.

15 Then one of them, when he saw that he was healed, turned back, praising God with a loud voice;

16 and he fell on his face at Jesus feet, giving him thanks. Now he was a Samaritan.

17 Then said Jesus, “Were not ten cleansed? Where are the nine?

18 Was no one found to return and give praise to God except this foreigner?

19 And he said to him, “Rise and go your way; your faith has made you well.

Phúc Âm
Luca 17, 11-19

11 Trên đường lên Giêrusalem, Chúa Giêsu đi qua biên giới giữa hai miền Samaria và Galilê.

12 Lúc Người vào một làng kia, thì có mười người phong hủi đón gặp Người. Họ dừng lại đằng xa

13 và kêu lớn tiếng: Lạy Thầy Giêsu, xin dủ lòng thương chúng tôi!

14 Thấy vậy, Chúa Giêsu bảo họ: Hãy đi trình diện với các tư tế. Đang khi đi thì họ đã được sạch.

15 Một người trong bọn, thấy mặt được khỏi, liền quay trở lại và lớn tiếng tôn vinh Thiên Chúa.

16 Anh ta sấp mình dưới chân Chúa Giêsu mà tạ ơn.Anh ta lại là người Samari.

17 Chúa Giêsu mới nói: Không phải cả mười người đều được sạch sao? Thế thì chín người kia đâu?

18 Sao không thấy họ trở lại tôn vinh Thiên Chúa, mà chỉ có người ngoại bang này?

19 Rồi Người nói với anh ta: Đứng dậy về đi! Lòng tin của anh đã cứu chữa anh.

Interesting Details

+ (v.12) Persons with skin disease were not clean or holy. Therefore, they were isolated from concourse with the holy people of God in cities and were banned from participation in theTemple worship of God.

+ (v.13) This is the only time in Luke that Jesus Master was addressed by people who were not Jesus disciples.

+ (v.14) Jesus, the Holy one of God that steps across the boundaries separating clean from unclean to restore the unclean person to the nurture of human community.

+ (v.15) Only the Samaritan leper sees and fully understands what has really happened. His seeing leads him to understand not only that he is healed, but that he has found Gods salvation. His return to Jesus amounts to his conversion.

+ (v.17) Only one leper returned. Although he is a foreigner, ” he acknowledges the gift he has received from Jesus. His acknowledgement implies an awareness that God is at the heart of the gift.

+ (v.18) The Samaritan leper praises God for what Jesus has done. What was promised, repeated and has come to fulfillment in Jesus: Gods salvation is for all peoples.

+ (v.19) Jesus cured all ten lepers. Only to the one who returned to give thanks, did he say You faith has saved you? The salvation the leper had gained is clearly more than a physical healing. That is why Jesus wanted the other nine lepers to return, not to show them his disappointment, but because he had more to give them.

Chi Tiết Hay

+ (c.12) Người bị bệnh phong có vết thương nơi mình thì không được sạch sẽ hoặc thánh thiện. Vì thế họ bị tách riêng ra với những người thánh thiện trong các thành phố và bị cấm tham gia việc thờ phượng Thiên Chúa trong đền thánh.

+ (c.13) Đây là trường hợp duy nhất trong Luca mà tước hiệu Lạy Thầy Giêsu được dùng trên miệng những người không phải là môn đệ của Chúa Giêsu.

+ (c.14) Chúa Giêsu là Đấng từ Thiên Chuá đã đi ngang qua ranh giới ngăn cách sự sạch sẽ với sự ô uế để trả laị cho người ô uế đời sống cộng đoàn nhân loại.

+ (c.15) Chỉ có người phong hủi Samaritan mới nhận biết những gì thật sự xảy ra cho mình. Từ đó anh hiểu được không những anh được chữa lành mà anh tìm thấy được sự cứu rỗi của Thiên Chúa. Sự việc anh quay trở laị gặp Chúa Giêsu cho thấy sự hoán cải của anh.

+ (c.17) Chỉ có một người phong hủi quay trở lại. Mặc dầu là một dân ngoại, anh cảm tạ đã nhận được món quà Chúa Giêsu ban cho. Việc đó cho thấy anh đã nhận thức được Thiên Chúa là trung tâm cuả món quà.

+ (c.18) Người phong hủi Samaritan ca ngợi Thiên Chúa qua việc làm của Chúa Giêsu. Những gì đã hứa, đã được lập lại, nay được hoàn thiện nơi Chúa Giêsu: sự cứu rỗi của Thiên Chúa ban cho tất cả mọi dân tộc.

+ (c.19) Chúa đã chữa lành mười người phong hủi. Chỉ duy nhất với người phong hủi trở lại tạ ơn Ngàị mà Chúa nói Lòng tin cuả anh đã cứu chữa anh. Ơn cứu rỗi mà người phong hủi có được rõ ràng hơn hẳn sự chữa lành thân xác của anh. Chúa Giêsu mong muốn chín người phong hủi kia trở lại không phải cho họ thấy sự thất vọng của Ngài, nhưng vì Chúa muốn ban phát thêm cho họ.

One Main Point

Glorifying God is a way to say thanks to Him. Gratitude is itself an act of faith. The salvation the Samaritan leper has gained from his act of faith is clearly more than his physical healing.

Một Điểm Chính

Ca ngợi Thiên Chúa là một cách để nói lên lời tạ ơn Ngài. Lòng biết ơn là một việc làm của đức tin. Sự cứu rỗi mà người phong hủi nhận được rõ ràng có giá trị hơn sự chữa lành thân xác cuả anh.

Reflections

1. The story of the ten lepers raises one question Why the other nine lepers did not return to give thanks and praise to Jesus? Try to search in your heart to come up with an answer.

2. Thanksgiving is a dominant note in Jesus prayers. You can see the joy in the Samaritan leper and the salvation he has gained. Have you experienced the joy and the salvation whenever you say thanks or praises to the Lord?

3. Glorifying God is a way to say thanks to Him. A Marian gratitude filled with wonder The Mighty One has done great things for me and Holy His Name is a good example to follow. How often do you praise God for what He has done for you, including the ones you appreciated and the ones you did not expected to happen?

Suy Niệm

1. Câu chuyện mười người phong hủi gợi lên câu hỏi Taị sao chín người phong hủi kia không quay trở lại cảm tạ và ngợi khen Chúa? Bạn hãy trở về với chính lòng mình để trả lời câu hỏi này.

2. Lòng tạ ơn là điểm nổi bật trong lời cầu nguyện của Chúa Giêsu. Bạn có thể thấy được niềm vui và ơn cứu rỗi mà người phong hủi Samaritan có được. Có khi nào bạn cảm nhận được niềm vui và sự cứu rỗi mỗi khi nói lên lời cảm tạ hoặc ca ngợi Thiên Chúa không?

3. Ca ngợi Thiên Chúa là một cách noí lên lời cảm tạ. Lòng biết ơn của Đức Mẹ thật phi thường, “Đấng toàn năng đã làm cho tôi biết bao điều cao cả. Danh người thật chí thánh chí tôn”, là một gương sáng để noi theo. Bạn có thường ca ngợi Thiên Chúa về những gì Ngài ban cho bạn không, ngay cả những gì bạn ghi ơn và những gì bạn không mong xảy đến cho bạn?

Top